You are on page 1of 11

MỤC LỤC

Trang
LỜI NÓI ĐẦU
1. Chương I: LÝ LUẬN CỦA TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN VỀ CON NGƯỜI
1.1. Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh học và mặt xã hội
1.1.1. Con người là một thực thể sinh học
1.1.2. Con người là một thực thể xã hội
1.2. Con người là sản phẩm của lịch sử và của chính bản thân con người
1.3. Con người vừa là chủ thể của lịch sử, vừa là sản phẩm của lịch sử
1.4. Bản chất con người là tổng hòa các quan hệ xã hội
2. Chương II: VAI TRÒ CỦA CON NGƯỜI TRONG CÔNG CUỘC CÔNG
NGHIỆP HÓA – HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC
2.1. Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa
2.2. Vai trò của nguồn lực con người
2.2.1. Vai trò chủ động của con người
2.2.2. Vai trò bị động của con người
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
LỜI NÓI ĐẦU
Triết học là một lĩnh vực nghiên cứu về những vấn đề cơ bản và chung nhất của con
người, xã hội và thế giới. Trong quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước, triết
học có vai trò quan trọng trong việc giải quyết những vấn đề lý luận và thực tiễn liên
quan đến con người, như bản chất, vai trò, mục tiêu và phương tiện của con người trong
sự phát triển xã hội.
Theo quan điểm của triết học Mác-Lênin, con người là một thực thể thống nhất giữa mặt
sinh học và mặt xã hội, là chủ thể của lịch sử, mục tiêu của sự phát triển xã hội, và bản
chất con người là tổng hoà của các quan hệ xã hội. Chủ nghĩa xã hội là sự phát triển toàn
diện của con người, là sự nghiệp của toàn dân và của cả hệ thống chính trị. Để xây dựng
con người xã hội chủ nghĩa, cần phải xây dựng tư tưởng đạo đức và lối sống, phát triển sự
nghiệp giáo dục và đào tạo, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, và
xây dựng môi trường văn hóa.
Thực tiễn ngày nay càng khẳng định tính đúng đắn trong quan niệm của Mác về vai trò
không gì thay thế được của con người trong tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại, của
xã hội loài người. Bản thân sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá mà chúng ta đang
từng bước thực hiện với những thành công bước đầu của nó cũng ngày càng đòi hỏi mỗi
chúng ta phải nhận thức sâu sắc “những giá trị lớn lao và ý nghĩa quyết định của nhân tố
con người”, thấy rõ vai trò của con người trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội trên
thực tế và trong quan niệm của mỗi chúng ta, con người ngày càng thể hiện rõ vai trò là
“chủ thể của mọi sáng tạo, mọi nguồn của cải vật chất và văn hoá, mọi nền văn minh của
các quốc gia”. Bởi vậy để đẩy nhanh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
theo định hướng XHCN, chúng ta không thể không phát triển con người Việt Nam, nâng
cao đội ngũ những người lao động nước ta lên một tầm cao chất lượng mới. Nhận định
này đã được khẳng định trong nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của
Đảng: “Nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt
Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá”. Nhận
định này tiếp tục được khẳng định và có bước phát triển mới ở Đại hội IX và nhiều Nghị
quyết quan trọng của Trung ương. Một lần nữa ta có thể khẳng định tính cấp thiết và ý
nghĩa quan trọng của việc nghiên cứu đề tài này. Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá
ở nước ta được tiến hành như thế nào, quy mô và nhịp độ của nó ra sao, điều đó một phần
tuỳ thuộc vào sự đóng góp của triết học. Qua đó em chọn đề tài "Vai trò của con người
trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước"
1. Chương I: LÝ LUẬN CỦA TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN VỀ CON NGƯỜI
1.1. Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh học và mặt xã hội
Theo C.Mác, con người là một sinh vật có tính xã hội ở trình độ phát triển cao nhất
của giới tự nhiên và của lịch sử xã hội, là chủ thể của lịch sử, sáng tạo nên tất cả các
thành tựu của văn minh và văn hóa.
1.1.1. Con người là một thực thể sinh học
Con người là một thực thể sinh vật, là sản phẩm của giới tự nhiên, là một động vật xã
hội. Không chỉ là một thực thể sinh học, mà con người cũng còn là một bộ phận của
giới tự nhiên. “Giới tự nhiên...là thân thể vô cơ của con người... đời sống thể xác và
tinh thần của con người gắn liền với giới tự nhiên”. Con người còn phải phục tùng các
quy luật của giới tự nhiên, các quy luật sinh học như di truyền, tiến hóa sinh học và
các quá trình sinh học. Con người có thể biến đổi giới tự nhiên và chính bản thân
mình, dựa trên các quy luật khách quan. Đây chính là điểm khác biệt đặc biệt, rất
quan trọng giữa con người và các thực thể sinh học khác. Về mặt thể xác, con người
sống bằng những sản phẩm tự nhiên, dù là dưới hình thức thực phẩm, nhiên liệu, áo
quần, nhà ở...Bằng hoạt động thực tiễn con người trở thành một bộ phận của giới tự
nhiên có quan hệ và thống nhất với giới tự nhiên, bởi giới tự nhiên là “thân thể vô cơ
của con người”. Vì thế con người phải dựa vào, gắn bó và hòa hợp với giới tự nhiên
mới có thể tồn tại và phát triển.
Không phải đặc tính sinh học, bản năng sinh học, sự sinh tồn thể xác là cái duy nhất
tạo nên bản chất của con người, mà con người còn là một thực thể xã hội.
1.1.2. Con người là một thực thể xã hội
Con người là một thực thể xã hội có các hoạt động xã hội, quan trọng nhất là lao
động sản xuất. “Người là giống vật duy nhất có thể bằng lao động mà thoát khỏi
trạng thái thuần túy là loài vật”. Nhờ có lao động sản xuất mà con người về mặt sinh
học có thể trở thành thực thể xã hội, thành chủ thể của“lịch sử có tính tự nhiên”, có lý
tính, có “bản năng xã hội”. Lao động đã góp phần cải tạo bản năng sinh học của con
người, làm cho con người trở thành con người đúng nghĩa của nó. Tính xã hội của
con người chỉ có trong “xã hội loài người”, con người không thể tách khỏi xã hội và
đó là điểm cơ bản làm cho con người khác với con vật. Thông qua lao động mà nảy
sinh mối quan hệ giữa con người với nhau cùng nhiều quan hệ xã hội khác. Cũng nhờ
có lao động và giao tiếp xã hội mà ngôn ngữ xuất hiện và phát triển. Ngôn ngữ và tư
duy của con người thể hiện tập trung và nổi trội tính xã hội của con người, là một
trong những biểu hiện rõ nhất phương diện con người là một thực thể xã hội.
Khi xem xét con người, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác -Lênin, không thể tách
rời hai phương diện sinh học và xã hội của con người thành những phương diện biệt
lập, duy nhất, quyết định phương diện kia.
CÁCH 1 HÀNG
1.2. Con người là sản phẩm của lịch sử và của chính bản thân con người
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác -Lênin phê phán quan niệm của Phoiơbắc đã
xem xét con người tách khỏi điều kiện lịch sử cụ thể và hoạt động thực tiễn của họ,
xem xét con người chỉ như là đối tượng cảm tính, trừu tượng, không có hoạt động
thực tiễn. Phoiơbắc đã không nhìn thấy những quan hệ hiện thực, sống động giữa
người với người trong đời sống xã hội, đặc biệt là trong sản xuất. Do vậy, ông đã
tuyệt đối hóa tình yêu giữa người với người. Hơn thế nữa, đó cũng không phải là tình
yêu hiện thực mà là tình yêu đã được ông lý tưởng hóa. Phê phán quan niệm sai lầm
của Phoiơbắc và của các nhà tư tưởng khác về con người, kế thừa các quan niệm tiến
bộ trong lịch sử tư tưởng nhân loại và dựa vào những thành tựu của khoa học, chủ
nghĩa Mác khẳng định con người vừa là sản phẩm của sự phát triển lâu dài của giới tự
nhiên, vừa là sản phẩm của lịch sử xã hội loài người và của chính bản thân con người.
Mác đã khẳng định trong tác phẩm Hệ tư tưởng Đức rằng, tiền đề của lý luận duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử của các ông là những con người hiện thực đang hoạt
động, lao động sản xuất và làm ra lịch sử của chính mình, làm cho họ trở thành những
con người như đang tồn tại.Cần lưu ý rằng con người là sản phẩm của lịch sửvà của
bản thân con người, nhưng con người, khác với con vật, không thụ động để lịch sử
làm mình thay đổi, mà con người còn là chủ thể của lịch sử.
CÁCH 1 HÀNG
1.3. Con người vừa là chủ thể của lịch sử, vừa là sản phẩm của lịch sử
Con người vừa là sản phẩm của lịch sử tự nhiên và lịch sử xã hội, nhưng đồng thời,
lại là chủ thể của lịch sử bởi lao động và sáng tạo là thuộc tính xã hội tối cao của con
người. Con người tồn tại và phát triển luôn luôn ở trong một hệ thống môi trường xác
định. Đó là toàn bộ điều kiện tự nhiên và xã hội, cả điều kiện vật chất lẫn tinh thần, có
quan hệ trực tiếp hoặc gián tiếp đến đời sống của con người và xã hội.
Một mặt, con người là một bộ phận của giới tự nhiên, để tồn tại và phát triển phải
quan hệ với giới tự nhiên, phải phụ thuộc vào giới tự nhiên, thu nhận và sử dụng các
nguồn lực của tự nhiên để cải biến chúng cho phù hợp với nhu cầu của chính mình.
Mặt khác, là một bộ phận của tự nhiên, con người cũng phải tuân theo các quy luật
của tự nhiên. Nó vừa tiếp nhận, thích nghi, hòa nhịp với giới tự nhiên, nhưng cũng
bằng cách đó cải biến giới tự nhiên để thích ứng và biến đổi chính mình.Con người
cũng tồn tại trong môi trường xã hội. Chính nhờ môi trường xã hội mà con người trở
thành một thực thể xã hội và mang bản chất xã hội.
CÁCH 1 HÀNG
1.4. Bản chất con người là tổng hòa các quan hệ xã hội
Trong sinh hoạt xã hội, khi hoạt động ở những điều kiện lịch sử nhất định con người
có quan hệ với nhau để tồn tại và phát triển. “Trong tính hiện thực của nó, bản chất
của con người là tổng hòa các quan hệ xã hội”. Các quan hệ xã hội tạo nên bản chất
của con người, nhưng không phải sự kết hợp giản đơn hoặc là tổng cộng chúng lại với
nhau mà là sự tổng hòa chúng; mỗi quan hệ xã hội có vị trí, vai trò khác nhau, có tác
động qua lại, không tách rời nhau. Các quan hệ xã hội có nhiều loại: Quan hệ quá
khứ, quan hệ hiện tại, quan hệ vật chất, quan hệ tinh thần, quan hệ trực tiếp, gián tiếp,
tất nhiên hoặc ngẫu nhiên, bản chất hoặc hiện tượng,...Tất cả chúng đều góp phần
hình thành lên bản chất con người. Các quan hệ xã hội khi đã hình thành thì có vai trò
chi phối và quyết định các phương diện khác của đời sống con người khiến cho con
người không còn thuần túy là một động vật mà là một động vật xã hội. Con người
“bẩm sinh đã là sinh vật có tính xã hội”. Khía cạnh thực thể sinh vật là tiền đề trên đó
thực thể xã hội tồn tại, phát triển và chi phối.

2. Chương II: VAI TRÒ CỦA CON NGƯỜI TRONG CÔNG CUỘC CÔNG
NGHIỆP HÓA – HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC
2.1. Công nghiệp hóa – hiện đại hóa
CNH – HĐH là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất kinh
doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội, từ sử dụng sức lao động thủ công là chính
sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động với công nghệ, phương tiện, phương
pháp tiên tiến hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ không ngừng
của khoa học – công nghệ, nhằm tạo ra năng suất lao động xã hội cao.
CNH – HĐH là quá trình xây dựng và phát triển đại công nghiệp, trong đó ngành
công nhiệp nặng chiếm một vị trí làm then chốt, bên cạnh ưu tiên phát triển ngành
nông nhiệp, lâm nghiệp nhằm cung cấp lương thực, thực phẩm cho số dân ngày càng
gia tăng. Tích cực áp dụng sản xuất, chế biến nông lâm thủy sản nhằm đẩy mạnh tốc
độ trang bị khoa học kỹ thuật và nâng cao năng suất lao động. Sự thành công của quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đòi hỏi ngoài môi trường chính trị ổn định, phải
có các nguồn lực cần thiết như: nguồn lực con người, vốn, tài nguyên thiên nhiên, cơ
sở vật chất kỹ thuật, vị trí địa lý, nguồn lực nước ngoài. Các nguồn lực này có quan hệ
chặt chẽ vơi nhau, cùng tham gia vào quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhưng
mức độ tác động và vai trò của chúng đối với toàn bộ quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa không giống nhau, trong đó nguồn lực con người là yếu tố quyết định. Bởi vì
nguồn nhân lực sẽ quyết định đúng đắn phương hướng, nội dung, bước đi, biện pháp
CNH, HĐH.
CÁCH 1 HÀNG
2.2. Vai trò của con người trong CNH - HĐH
Vai trò con người được chứng minh trong lịch sử phát triển nền kinh tế của các nước
tư bản chủ nghĩa. Điển hình như các nước Nhật Bản, Mỹ,.. nhiều nhà kinh doanh hàng
đầu đã rất chú trọng đến việc áp dụng kỹ thuật máy móc để thay thế sức lao động của
con người. Nhưng để đi đến thành công trong việc áp dụng những thành tựu đó thì
nhân tố con người vẫn giữ một vai trò quyết định.
Thực tế đã chứng minh, trong công cuộc đổi mới đất nước, chỉ có con người – yếu tố
quan trọng nhất trong lực lượng sản xuất của xã hội mới là nhân tố chính, là nguồn
lực mang tính quyết định sự thành công hay thất bại. Nhưng con người cũng là mục
tiêu, là cái đích của sự phát triển, sự đổi mới này. Hay nói cách khác, công cuộc đổi
mới đất nước mà cụ thể là CNH, HĐH là do con người, phụ thuộc vào con người và
vì con người.
2.2.1. Vai trò chủ động của con người
Khi cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghiệp hiện đại phát triển mạnh mẽ,
lao động trí tuệ ngày càng gia tăng và trở thành xu thế phổ biến của nhân loại. Khi
công nghiệp hóa gắn liền với hiện đại hóa mà thực chất hiện đại hóa lực lượng sản
xuất với cách tiếp cận như vậy vai trò quyết định nguồn lực của con người được biểu
hiện ở những điểm như sau:
Thứ nhất, các nguồn lực khác như vốn, tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý... tự nó chỉ
tồn tại dưới dạng tiềm năng. Chúng chỉ phát huy tác dụng và có ý nghĩa tích cực xã
hội khi được kết hợp với nguồn lực con người thông qua hoạt động có ý thức của con
người. Bởi lẽ, con người là nguồn lực duy nhất biết tư duy, có trí tuệ và có ý chí, biết
“lợi dụng” các nguồn lực khác, gắn chúng kết lại với nhau, tạo thành một sức mạnh
tổng hợp, cùng tác động vào quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Các nguồn lực
khác là những khách thể chịu sự cải tạo, khai thác của con người, hết thảy chúng đều
phục vụ cho nhu cầu, lợi ích của con người, nếu con người biết cách tác động và chi
phối. Vì thế trong các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất, người lao động là yếu tố
quan trọng nhất, là “lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn nhân loại”.
Chẳng hạn như vốn cũng là một nguồn lực để tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá
nhưng vốn chỉ trở thành nguồn lực quan trọng và cấp thiết của sự phát triển khi nó
nằm trong tay những người biết sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả cao. Tương tự
như vậy, sự giàu có về tài nguyên thiên nhiên và những ưu thế về vị trí địa lý cũng sẽ
mất ý nghĩa nếu chủ nhân của nó không có năng lực khai thác. Xét đến cùng nếu thiếu
sự hiện diện của trí tuệ và lao động của con người thì mọi nguồn lực đều trở nên vô
nghĩa thậm chí khái niệm “nguồn lực” cũng không còn lý do gì để tồn tại
Thứ hai, các nguồn lực khác là hữu hạn, có thể bị khai thác cạn kiệt, trong khi đó
nguồn lực con người lại là vô tận. Nó không chỉ tái sinh và tự sản sinh về mặt sinh
học mà còn tự đổi mới không ngừng, phát triển về chất trong con người xã hội, nếu
biết chăm lo, bồi dưỡng và khai thác hợp lý. Đó là cơ sở làm cho năng lực nhận thức
và hoạt động thực tiễn của con người phát triển như một quá trình vô tận xét trên bình
diện cộng đồng nhân loại. Nhờ vậy con người đã từng bước làm chủ tự nhiên, sáng
tạo, khám phá ra nhiều nguồn tài nguyên mới, nhiều công cụ sản xuất có hiệu quả
hơn, đưa xã hội chuyển qua các nền văn minh từ thấp đến cao.
Thứ ba, trí tuệ con người có sức mạnh vô cùng to lớn một khi nó được vật thể hoá, trở
thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Dự báo vĩ đại này của C.MáC đã và đang trở thành
hiện thực. Sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học-kỹ thuật và công
nghệ hiện đại đang dẫn nền kinh tế của các nước công nghiệp phát triển vận động đến
nền kinh tế của trí tuệ. Giờ đây sức mạnh của trí tuệ đã đạt đến mức mà nhờ nó con
người có thể sáng tạo ra những người máy “bắt chước” hay “phỏng theo” những đặc
tính trí tuệ của chính con người. Rõ ràng là bằng những kỹ thuật công nghệ hiện đại
do chính bàn tay khối óc con người làm ra mà ngày nay nhân loại đang chứng kiến
những biến đổi thần kỳ trong lịch sử phát triển của mình.
Thứ tư, kinh nghiệm của nhiều nước và thực tiễn của chĩnh nước ta cho thấy sự thành
công của công nghiệp hoá, hiện đại hoá phụ thuộc chủ yếu vào việc hoạch định đường
lối, chính sách cũng như tổ chức thực hiện, nghĩa là phụ thuộc vào năng lực nhận thức
và hoạt động thực tiễn của con người. Đối với những nền kinh tế nông nghiệp chưa
công nghiệp hoá thì mặt số lượng của nguồn nhân lực có tầm quan trọng đặc biệt vì
nó qui định quy mô của thị trường. Nhưng khi tiến hành công nghiệp hoá thì mặt chất
lượng, cơ cấu và cơ chế sử dụng nguồn nhân lực lại quan trọng hơn. Cơ cấu lao động
cần cho quá trình công nghiệp hoá phải bao gồm: các chính khách, các nhà hoạch
định chính sách, các học giả, các nhà kinh doanh, các nhà kỹ thuật và công nghệ, các
công nhân lành nghề... không có các chính khách, các học giả tài ba thì khó có thể có
được những chiến lược, chính sách phát triển đúng đắn; không có các nhà kinh doanh
lỗi lạc thì cũng sẽ không có người sử dụng một cách có hiệu quả các nguồn vốn, nhân
lực, công nghệ. Sự thiếu vắng hay kém cỏi của một trong các bộ phận cấu thành nhân
lực trên đây sẽ có hại cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá không ngừng nâng cao vai trò của nhân tố con người
trong nền sản xuất và đặc biệt trong nền sản xuất lớn hiện đại, kỹ thuật cao. Chỉ trên
cơ sở thực hiện tốt công nghiệp hoá, hiện đại hoá mới có khả năng thực hiện và quan
tâm đầy đủ đến sự phát triển tự do và toàn diện nhân tố con người.
Con người trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất, phân phối, sử dụng các sản phẩm
và dịch vụ công nghiệp, cung cấp sức lao động, kiến thức, kỹ năng, sáng tạo và khả
năng giải quyết vấn đề trong công cuộc CNH – HĐH. CNH – HĐH là quá trình cải
biến xã hội sâu sắc ở nước ta đòi hỏi phải có một ý chí lớn, tư tưởng lớn,.. Cho nên nó
đòi hỏi con người Việt Nam phải quyết tâm vượt qua khó khăn thử thách, chiến thắng
nghèo nàn, lạc hậu để xây dựng đất nước thành công. Do vậy, khi đề cập quan điểm
về vai trò của con người, Đảng Cộng Sản Việt Nam nhấn mạnh: “Lấy việc phát huy
nguồn lực con người làm nhân tố cho sự phát triển nhanh và bền vững” ở nước ta.
2.2.2. Vai trò bị động của con người
Con người bị ảnh hưởng bởi quá trình CNH, HĐH. Trong điều kiện nền kinh tế thị
trường con người không chỉ nhận được sự tích cực mà còn có những tác động tiêu cực
của nó như những thách thức, nguy cơ,.. Vì vậy trong mỗi con người phải xem xét
con người chủ thể với những phẩm chất nghề nghiệp chuyên môn trong hoàn cảnh cụ
thể của họ.
CNH, HĐH là quá trình biến đổi căn bản và sâu sắc toàn bộ đời sống xã hội, nó đòi
hỏi vật chất cao với người “chủ thể”, ở đây chỉ sự cần cù, nhiệt tình quyết tâm cách
mạng chưa đủ mà điều quan trọng hơn là trí tuệ khoa học, ý chí chiến thắng, tính năng
động luôn thích ứng với hoàn cảnh, ý thức kỷ luật, bản lĩnh lãnh đạo, nghệ thuật quản
lý,...
CNH, HĐH không ngừng nâng cao vai trò của nhân tố con người trong nền sản xuất
và đặc biệt trong nền sản xuất lớn hiện đại, kỹ thuật cao. Chỉ trên cơ sở thực hiện tốt
CNH, HĐH mới có khả năng thực hiện và quan tâm đầy đủ đến sự phát triển tự do và
toàn diện con người.
Quá trình CNH, HĐH đem lại nhiều cơ hội, thúc đẩy chuyên môn trong lao động,
giúp con người phát triển toàn diện hơn. Bên cạnh đó, công nghiệp hóa còn tạo ra
những nguy cơ, rủi ro mà con người phải tìm ra vấn đề và giải pháp để giải quyết nó.
Con người là người phải thích nghi, hòa nhập, giải quyết, phòng ngừa, khắc phục,
phát huy,..những tác động của công cuộc CNH, HĐH.
Để đối phó với những tác động của công nghiệp hóa và hiện đại hóa, con người buộc
phải linh hoạt thích nghi, không ngừng học hỏi và phát triển thêm kỹ năng mới. Đồng
thời, cần nỗ lực tìm kiếm và giải quyết những vấn đề môi trường và xã hội, thông qua
các giải pháp bền vững và công bằng. Sự chủ động trong việc phòng ngừa và khắc
phục những vấn đề phức tạp sẽ là chìa khóa để con người vượt qua thách thức, đương
đầu với khó khăn và tận dụng tối đa cơ hội mà công nghiệp hóa và hiện đại hóa mang
lại.
2.3. Nhiệm vụ của Nhà nước trong việc phát huy vai trò của con người trong
CNH HĐH
Để phát huy vai trò của con người đáp ứng yêu cầu công cuộc CNH HĐH đất nước
thì Nhà nước ta phải thực hiện những nhiệm vụ cấp bách sau:
Một là, căn cứ vào yêu cầu phát triển của các ngành và các vùng lãnh thổ, cần tổ chức
bố trí lại lực lượng lao động một cách hợp lý trên phạm vi cả nước theo hướng đổi
mới công nghệ, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo ra những ngành kinh tế mũi nhọn.
Hai là, cần trả lương đúng và đủ cho người lao động, trong đó chú ý đến đội ngũ cán
bộ khoa học. Cần nhấn mạnh rằng, bản thân tiền lương không đơn giản chỉ là việc trả
công, mà nó còn tái sản xuất ra sức lao động ( nhiều hay ít), kích thích những phẩm
chất (tích cực hay tiêu cực) của người lao động.
Ba là, tiến hành đào tạo bồi dưỡng lại lực lượng lao động hiện có và đào tạo lực lượng
mới theo chuyên ngành nhất định. Trong đó, bảo đảm sự cân đối và đồng bộ giữa lao
động phổ thông, lao động kỹ thuật và lao động khoa học.
Bốn là, tiến hành một cách thường xuyên đồng bộ hoạt động giáo dục đối với người
lao động về các mặt: chính trị-tư tưởng, lợi ích, ý thức pháp luật, trách nhiệm công
dân, truyền thống. Trong điều kiện hiện nay, chỉ quan tâm đến lợi ích vật chất mà
không thực hiện công tác giáo dục thì sẽ dẫn đến sai lầm, tại hại, làm hư hỏng con
người, thậm chí cả một thế hệ người. C.Mác đã từng nhắc nhở chúng ta, trong phát
triển kinh tế phải gắn “sự nghiệp giải phóng con người với cuộc đấu tranh chống lại
biểu hiện thực tiễn cực đoan của sự tha hóa con người”(7). Không nghi ngờ gì rằng,
mặt trái của nền kinh tế thị trường đã và đang tác động đến từng cá nhân, từng gia
đình và mỗi tập thể của chúng ta. Trong xã hội hiện nay, có tình trạng một số người
có kinh tế khá, thậm chí là giàu có nhưng vẫn tham ô, móc ngoặc, ăn cắp, buôn lậu.
Trái lại, một số người nghèo, thậm chí rất nghèo nhưng không chịu lao động chân
chính, chuyên dùng thủ đoạn lừa bip, ăn cắp... Bên cạnh đó, còn một lớp người
(thường là trẻ tuổi) không chịu học hành, làm việc, chỉ lo ăn chơi và từ đây dẫn đến
tội phạm.
Năm là, phải nâng cao thể lực cho thanh niên. Mặc dù đây là một vấn đề đòi hỏi phải
có thời gian để giải quyết trên cơ sở nâng cao dần mức sống của nhân dân về vật chất
cũng như về tinh thần. Trước mắt, cần tập trung giải quyết cho được các mục tiêu của
chương trình chăm sóc, bảo vệ trẻ em trong các năm tới, đầu tư nâng cao chất lượng
của chương trình giáo dục thể chất và y tế học đường; đẩy mạnh phong trào rèn luyện
thân thể trong thanh thiếu niên, tạo điều kiện cho Đoàn thanh niên duy trì phong trào “
khoẻ vì ngày mai lập nghiệp”, “khoẻ để bảo vệ Tổ quốc”. Thực hiện những nhiệm vụ
trên đây có nghĩa là về cơ bản nhà nước ta đã hoàn thành cuộc “ cách mạng con người
”, biến con người Việt Nam thành nguồn lực quyết định đưa sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước đi đến thành công.

KẾT LUẬN
Trong triết học, các nhà nghiên cứu đã có những định nghĩa riêng cũng như phân tích
được nguồn gốc của con người. Chủ nghĩa Mác - Lênin đã nói rằng con người chính là
con người là một sinh vật có tính xã hội ở trình độ phát triển cao nhất của giới tự nhiên và
của lịch sử xã hội, là chủ thể của lịch sử, sáng tạo nên tất cả các thành tựu của văn minh
và văn hóa. Bản chất của con người chính là tổng hòa các quan hệ của xã hội. Với số
lượng gần 100 triệu con người cùng đang sinh sống trên dải đất hình chữ S mang tên Việt
Nam. Đảng và Nhà nước ta đã nhận thức rõ được tầm quan trọng của con người trong
công cuộc phát triển đất nước. Vậy nên để đưa ra con đường phát triển đúng đắn, Đảng
và Nhà nước ta dựa trên Chủ nghĩa Mác - Lênin để có nhận thức đúng đắn cũng như xác
định được con đường phù hợp giúp đất nước phát triển. Và cuối cùng cũng thống nhất
được rằng: Việt Nam ta là một nước xã hội chủ nghĩa đang phát triển, cần tiến hành Công
nghiệp hóa - Hiện đại hóa đất nước để quá độ lên Chủ nghĩa xã hội.
Thực tiễn ngày nay càng khẳng định tính đúng đắn trong quan niệm của Mác về vai trò
không gì thay thế được của con người trong tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại, của
xã hội loài người. Bản thân sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá mà chúng ta đang
từng bước thực hiện với những thành công bước đầu của nó cũng ngày càng đòi hỏi mỗi
chúng ta phải nhận thức sâu sắc “những giá trị lớn lao và ý nghĩa quyết định của nhân tố
con người”, thấy rõ vai trò của con người trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội trên
thực tế và trong quan niệm của mỗi chúng ta, con người ngày càng thể hiện rõ vai trò là
“chủ thể của mọi sáng tạo, mọi nguồn của cải vật chất và văn hoá, mọi nền văn minh của
các quốc gia”. Bởi vậy để đẩy nhanh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
theo định hướng XHCN, chúng ta không thể không phát triển con người Việt Nam, nâng
cao đội ngũ những người lao động nước ta lên một tầm cao chất lượng mới. Em tin rằng
với con đường mà Đảng và Nhà nước ta đã chọn, trong tương lai gần, Việt Nam sẽ ngày
càng phát triển và trở thành một đất nước Chủ nghĩa xã hội như kế hoạch đã đặt ra. Là
một công dân của đất nước, bản thân mỗi chúng ta nên trân trọng và biết ơn những điều
đất nước đã đem lại, nâng cao bản thân để góp phần vào công cuộc xây dựng đất nước
ngày càng giàu mạnh hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. GIÁO TRÌNH KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC-LÊNIN, Bộ Giáo dục và Đào tạo,
Nhà xuất bản CHÍNH TRỊ QUỐC GIA, HÀ NỘI, 2003
2. GIÁO TRÌNH KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC-LENIN, Bộ Giáo dục và Đào tạo,
NXB CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT, HÀ NỘI, 2021
3. Bài giảng Triết học Mác-Lênin, T.S Phạm Hoài Phương, Buôn Ma Thuột, 2022
4. https://cuuduongthancong.com/atc/927/de-cuong-triet-hoc-mac-lenin---khai-niem-
con-ng%C2%ADuoi-va-ban-chat-con-nguoi
5. http://www.tctph.gov.vn/modules.php?name=Noisan&id=169
6. https://luanvan.co/luan-van/tieu-luan-vai-tro-cua-con-nguoi-trong-qua-trinh-cong-
nghiep-hoa-hien-dai-hoa-dat-nuoc-46181/
7. https://tai-lieu.com/tai-lieu/vai-tro-cua-con-nguoi-trong-cong-cuoc-cong-nghiep-
hoa-hien-dai-hoa-dat-nuoc-26564/
8. https://hotrovietluanvan.com/tieu-luan-ly-luan-cua-chu-nghia-mac-ve-con-nguoi/
9. https://dichvuvietluanvan.com/ke-toan/
10. https://vietnamhoinhap.vn/vi/phat-trien-nguon-nhan-luc-chat-luong-cao-phuc-vu-
su-nghiep-cnh-hdh-dat-nuoc-den-nam-2030-tam-nhin-2045-38946.htm
11. https://archive.org/details/cnx-org-col10856/page/n16/mode/1up

You might also like