Professional Documents
Culture Documents
Tóm lại: Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh học và mặt xã hội.
Mặt sinh học là tiền đề, cơ sở tất yếu tự nhiên của con người, mặt xã hội là yếu tố quy
định sự khác biệt giữa con người với thế giới loài vật.
1.2. Bản chất con người
“Bản chất con người là tổng hòa của các quan hệ xã hội. ”
Bản chất con người luôn được hình thành và thể hiện ở những con người hiện thực, cụ
thể trong những điều kiện lịch sử cụ thể. Các quan hệ xã hội tạo nên bản chất con
người nhưng không phải sự kết hợp đơn giản hoặc là tổng hợp chúng lại với nhau mà
là sự tổng hòa chúng, mỗi quan hệ xã hội có vai trò, vị trí khác nhau, tác động qua lại
không tách rời nhau.
Con người là sự kết hợp giữa mặt tự nhiên và mặt xã hội nên Mác nhiều lần đã so sánh
con người với con vật, so sánh con người với những con vật có bản năng gần giống
với con người... Và để tìm ra sự khác biệt đó. Mác đã chỉ ra sự khác biệt ở nhiều chỗ
như chỉ có con người làm ra tư liệu sinh hoạt của mình, con người biến đổi tự nhiên
theo quy luật của tự nhiên, con người là thước đo của vạn vật, con người sản xuất ra
công cụ sản xuất... Luận điểm xem con người là sinh vật biết chế tạo ra công cụ sản
xuất được xem là luận điểm tiêu biểu của chủ nghĩa Mác về con người.
Luận đề trên khẳng định rằng, không có con người trừu tượng, thoát ly mọi điều kiện,
hoàn cảnh lịch sử xã hội. Con người luôn luôn cụ thể, xác định, sống trong một điều
kiện lịch sử cụ thể nhất định, một thời đại nhất định. Trong điều kiện lịch sử đó, bằng
hoạt động thực tiễn của mình, con người tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần để
tồn tại và phát triển cả thể lực và tư duy trí tuệ. Điều cần lưu ý là luận đề trên khẳng
định bản chất xã hội không có nghĩa là phủ nhận mặt tự nhiên trong đời sống con
người. Song, ở con người, mặt tự nhiên tồn tại trong sự thống nhất với mặt xã hội;
ngay cả việc thực hiện những nhu cầu sinh vật ở con người cũng đã mang tính xã hội.
Quan niệm bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội mới giúp cho chúng
ta nhận thức đúng đắn, tránh khỏi cách hiểu thô thiển về mặt tự nhiên, cái sinh vật ở
con người.
Con người là chủ thể lịch sử, sáng tạo và lịch sử. Trong Cách Mạng Xã Hội Chủ
Nghĩa con người là yếu tố quyết định vừa là điểm xuất phát vừa là mục đích của một
chính sách kinh tế - xã hội xây dựng xã hội chủ nghĩa là xây dựng xã hội chủ nghĩa là
xây dựng một xã hội mà ở đó có đủ những điều kiện vật chất và tinh thần.
2. Ý nghĩa của triết học Mác-Lênin
2.1. Về lý luận
Về lý luận: quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin về con người và bản chất con
người là cơ sở phương pháp luận cho mọi hoạt động của con người, biểu hiện:
+ Trong nhận thức, đánh giá con người thì cần phải xem xét cả phương diện bản
tính tự nhiên lẫn phương diện bản tính xã hội, song trong đó, phải coi trọng hơn việc
xem xét con người từ phương diện bản tính xã hội. Mặt khác, trong việc xây dựng thái
độ sống vừa phải biết tính đến nhu cầu sinh học song cần coi trọng rèn luyện phẩm
chất xã hội, tránh rơi vào thái độ sống chạy theo nhu cầu bản năng tầm thường.
+ Vì bản chất con người là tổng các quan hệ xã hội, nên cần chú trọng trong việc
xây dựng môi trường xã hội tốt đẹp, với những quan hệ xã hội tốt đẹp để có thể xây
dựng, phát triển được những con người tốt đẹp, hoàn thiện. Đồng thời, trong hoạt
động nhận thức và thực tiễn phải luôn chú ý giải quyết đúng đắn mối quan hệ xã hội-
cá nhân, tránh khuynh hướng đề cao quá mức cá nhân hoặc xã hội.
2.2. Dẫn chứng sự tiếp thu của chủ tịch Hồ Chí Minh và sự phát triển đường
lối của Đảng nhớ vận dụng quan điểm này
Đảng ta đã quán triệt và vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin về con
người và bản chất con người cũng như tư tưởng Hồ Chí Minh về con người trong lãnh
đạo đất nước, đặc biệt là trong thời kỳ đổi mới đất nước.
* Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo và phát triển lý luận về con người
phù hợp với điều kiện lịch sử xã hội Việt Nam hiện đại. Tư tưởng Hồ Chí Minh về con
người bao hàm nhiều nội dung khác nhau, trong đó có các nội dung cơ bản là:
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng nhân dân lao động, giải phóng giai cấp,
giải phóng dân tộc: giải phóng nhân dân lao động gắn liền với giải phóng giai cấp, giải
phóng dân tộc, bởi ở Việt Nam quyền lợi của nhân dân lao động thống nhất với quyền
lợi của giai cấp và dân tộc.
Bằng hoạt động thực tiễn và tư duy lý luận, Hồ Chí Minh đã giải quyết một cách
cơ bản vấn đề dân tộc, giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người
trong thời đại đế quốc chủ nghĩa.
+ Về mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong phong trào giải
phóng dân tộc:
Người khẳng định: Vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp có quan hệ chặt chẽ với
nhau. Giải phóng dân tộc là vấn đề trên hết, trước hết. Độc lập dân tộc mà chưa giành
được thì vấn đề giai cấp cũng không giải quyết được. Giải phóng dân tộc tạo tiền đề
để giải phóng giai cấp.
+ Về cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng con người:
Mục tiêu của cách mạng giải phóng dân tộc trước hết là phải giành lại nền độc
lập cho Tổ quốc. Cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa và phụ thuộc
muốn thắng lợi phải đi theo con đường cách mạng vô sản. Cách mạng giải phóng dân
tộc trong thời đại mới phải do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Cách mạng giải phóng dân tộc
ở các nước thuộc địa và phụ thuộc phải được tiến hành chủ động, sáng tạo và có khả
năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc. Lực lượng của cách mạng
giải phóng dân tộc là sức mạnh của toàn dân tộc. Cách mạng là sự nghiệp của dân
chúng bị áp bức, bao gồm lực lượng của cả dân tộc. Trong lực lượng toàn dân tộc, Hồ
Chí Minh hết sức nhấn mạnh vai trò động lực cách mạng của công nhân và nông dân,
lực lượng nòng cốt trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc.