You are on page 1of 12

TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIAO THÔNG VẬN TẢI TP.

HỒ CHÍ MINH
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN

ĐỀ TÀI : Vấn đề biện chứng giữa cá nhân và xã hội trong triết học
Mác - Lênin và ý nghĩa của nó đối với cuộc sống và việc học tập
của sinh viên hiện nay

Trần Hoàng - 2151270054 - 010100510531

Giảng viên hướng dẫn : ThS. Trần Thị Phương

Thành phố Hồ Chí Minh - 2022


MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU...............................................................................................3
NỘI DUNG.......................................................................................................4
CHƯƠNG 1 : CON NGƯỜI TRONG TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN..............4
1.1 BẢN CHẤT CON NGƯỜI..................................................................4
1.2 MỐI QUAN HỆ GIỮA CÁ NHÂN VÀ XÃ HỘI...............................7
CHƯƠNG 2 : Ý NGHĨA CỦA NÓ ĐỐI VỚI CUỘC SỐNG VÀ VIỆC
HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN HIỆN NAY....................................................9
2.1 ĐỐI VỚI CUỘC SỐNG.......................................................................9
2.2 ĐỐI VỚI VIỆC HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN NGÀY NAY............10
KẾT LUẬN.....................................................................................................11
TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................................12
PHẦN MỞ ĐẦU

Chúng ta đang sống trong thời đại của nền kinh tế tri thức và tất cả con
người đều cần được giáo dục và rèn luyện các kỹ năng. Phát triển phẩm chất
đạo đức và ý thức làm việc tốt hơn để đáp ứng nhu cầu thay đổi nhanh chóng
của khoa học và công nghệ.

Con người và nguồn lực con người hiện nay là yếu tố quan trọng nhất, có
ý nghĩa quyết định, nhanh chóng, hiệu quả của chúng ta đối với sự nghiệp đổi
mới dân giàu, nước mạnh, hướng tới xã hội công bằng, dân chủ, văn minh,
xây dựng một nền kinh tế được coi là phát triển bền vững . Đây là yếu tố hết
sức cấp thiết và kịp thời trong việc đáp ứng nhu cầu nhân tài và nhân tài của
đất nước ta, đặc biệt là của thế giới nói chung.

Chúng ta khẳng định con người là mục tiêu, động lực của sự phát triển
kinh tế - xã hội và phải là con người có tri thức và đạo đức. Từ đây, mỗi
người dần trở về đúng vị trí là người tạo ra giá trị, bao gồm cả giá trị tinh thần
và vật chất, cho bản thân và xã hội. Vì vậy, vấn đề mấu chốt là cần thực hiện
chiến lược giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực để phát triển nguồn nhân lực
một cách toàn diện về thể chất và tinh thần. Công việc của giáo dục và đào
tạo là đưa con người tiếp cận với những đặc trưng văn hóa của con người Việt
Nam và những giá trị đáp ứng nhu cầu mới, thực hiện công cuộc đổi mới của
đất nước ta, và xu thế phát triển kinh tế của nền kinh tế thế giới.

Vì vậy đề tài “Vấn đề biện chứng giữa cá nhân và xã hội trong triết học
Mác -Lênin và ý nghĩa của nó đối với cuộc sống và việc học tập của sinh viên
hiện nay” là một đề tài vô cùng hữu ích để học viên có thể nắm rõ được mối
quan hệ giữa cá nhân và xã hội cùng với đó là ý nghĩa của nó đối với cuộc
sống và việc học tập của sinh viên hiện nay .
NỘI DUNG

CHƯƠNG 1 : CON NGƯỜI TRONG TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN

1.1 BẢN CHẤT CON NGƯỜI

Bất kỳ lý thuyết nào về con người cũng không tránh khỏi một vấn đề đã
nảy sinh trong lịch sử; Con người là gì? Bản chất con người là gì? Quan điểm
duy tâm quy bản chất con người vào lĩnh vực ý thức tư tưởng, tình cảm, đạo
đức, hoặc coi bản chất con người là một cái gì đó được định sẵn từ các lực
lượng siêu nhiên.
Một số luồng triết học khác giải thích bản chất con người về điểm chung
của tất cả các sinh vật trên Trái đất. Thuộc tính này là tài sản tự nhiên, là
mong muốn phát triển các nhu cầu và chủng tộc liên quan đến việc duy trì cơ
thể. Hoặc tìm kiếm nhân loại gắn liền với một cá nhân duy nhất, i. H. Người
đàn ông bị tách khỏi mối quan hệ xã hội thực tế của mình. Đặc điểm siêu hình
của những quan điểm về bản chất con người này thể hiện ở chỗ, tồn tại có bản
chất trừu tượng, tự nhiên làm giảm nó, tách nó ra khỏi xã hội và trở thành bất
biến.
Với chủ nghĩa duy vật triệt để và phương pháp biện chứng, Mác và
Ph.Ăngghen đã tạo ra bước ngoặt trong nhận thức về bản chất con người. Họ
đến từ những con người thực tế, những con người thực tế, những con người
cải tạo thế giới và thông qua các hoạt động vật chất của con người. Nó là một
động vật xã hội với tất cả nội dung văn hóa và lịch sử của nó. Như vậy, họ
không xem xét bản chất con người một cách cô lập, phiến diện mà liên hệ nó
với tự nhiên, xã hội và con người. Con người sống phụ thuộc vào thiên nhiên
như tất cả các sinh vật sống khác. Nhưng lý do tại sao con người trở thành
con người là vì anh ta không chỉ sống dựa vào tự nhiên, và anh ta là người
đầu tiên đã chứng minh rằng sự biến đổi từ vượn thành người được thực hiện
thông qua công việc. Quá trình con người cải tạo thiên nhiên cũng là quá trình
con người trở thành con người. Ph.Ăngghen cho rằng “công việc tạo ra con
người theo nghĩa này”.
Khác với tự nhiên, xã hội không thể tồn tại trước con người mà sinh ra
con người, xã hội cũng như con người, xã hội không trừu tượng và bất biến,
mỗi hình thái kinh tế xã hội chỉ phù hợp với một phương thức sản xuất cụ thể.
Sự phát triển của phương thức sản xuất là lực lượng sản xuất bao gồm con
người và tư liệu lao động. Vì vậy, không gì khác ngoài con người, cùng với
những công cụ họ làm ra, quyết định sự thay đổi của xã hội. Do đó, cũng như
xã hội coi con người là con người, con người cũng coi con người là xã hội.
Trong khi phê phán quan điểm của Ph.Ăngghen, xuất phát từ những cá
nhân biệt lập, C.Mác đã đưa ra luận điểm nổi tiếng về bản chất con người:
“Bản chất con người không phải là cái trừu tượng vốn có trong cá nhân.
Trong thực tế của nó, bản chất con người là tổng thể các quan hệ xã hội ". Lập
luận trên chỉ ra những luận điểm cơ bản sau: - Khi nói bản chất con người là
tổng thể các quan hệ xã hội thì cũng có nghĩa là tất cả các quan hệ xã hội đều
góp phần làm hình thành bản chất con người mà nhân tố quyết định nhất là
quan hệ sản xuất, quan hệ khác do quan hệ này trực tiếp hoặc gián tiếp quy
định. Mỗi hình thái kinh tế - xã hội có một kiểu quan hệ sản xuất nhất định
giữ vai trò thống trị, là kiểu quan hệ sản xuất cuối cùng tạo nên bản chất của
con người trong giai đoạn lịch sử này.
Ở đây,cái chung của loài người tồn tại và được biểu hiện qua cái cụ thể
(hình thái xã hội, giai cấp) và cái riêng (cá thể). Vì vậy, khi bàn về bản chất
chung của con người, không thể bỏ qua bản chất của các giai cấp có giai cấp
khác nhau. Ngược lại, khi nói về bản chất của các giai cấp khác nhau, chúng
ta không được quên bản chất chung của con người. Tuy nhiên, việc rút gọn
bản chất con người chỉ còn bản chất giai cấp và giải thích trực tiếp mọi hoạt
động của con người từ đây là sự xuyên tạc quan điểm thực tế của chủ nghĩa
Mác về bản chất con người. Đây là mối quan hệ không thể tách rời của hệ
thống cấp bậc tự nhiên của con người.
Các mối quan hệ xã hội được xem xét không chỉ trong mối quan hệ
trong từng hình thái xã hội cụ thể, mà còn là quan hệ xã hội nói chung được
thể hiện xuyên suốt trong từng chế độ, thời đại cụ thể. Các mối quan hệ xã hội
xảy ra theo chiều ngang (hiện đại) và lịch sử. Các mối quan hệ xã hội xác
định con người bao gồm cả các mối quan hệ xã hội hiện tại và truyền thống.
Bởi vì trong lịch sử của mình, loài người buộc phải kế thừa những di sản của
thế hệ anh đi trước. Trong lĩnh vực văn hóa tinh thần, có truyền thống cổ vũ
mọi người đứng lên, nhưng cũng có truyền thống “vùi dập cuộc đời”. Vì vậy,
khi nhìn vào bản chất con người, không thể tách rời hiện tại và quá khứ.
Bản chất không phải là duy nhất, nó là phần chủ đạo của toàn bộ cái cụ
thể, phong phú và đa dạng. Bản chất và vẻ ngoài của con người là khác nhau.
Thật là sai lầm khi không hiểu bản chất chung của con người, hoặc giảm bớt
tất cả bản chất tự nhiên của con người. Bản chất của một con người cụ thể là
tổng thể các mối quan hệ xã hội “duy nhất” của người đó và xác định những
nét cơ bản quyết định mọi hành vi của người đó. Và tất cả những hành động
của người này bộc lộ ra bên ngoài đều là những hiện tượng bộc lộ bản chất
của họ. Biểu hiện của con người theo con đường quanh co, trực tiếp nhưng
thường là gián tiếp, qua hàng loạt mâu thuẫn giữa cá nhân và xã hội, giữa
kinh nghiệm và nhận thức khoa học, giữa lợi ích trước mắt và lâu dài. Giữa
bản năng sinh học và hoạt động có ý thức, giữa di truyền tự nhiên và văn hóa
xã hội ... Trong sự phát triển mâu thuẫn này, tự nhiên nổi lên khuynh hướng
chung và xét đến cùng là quy luật của con người.
Con người là sinh vật và xã hội. Thông qua hoạt động thực tiễn, con
người cải tạo đời sống xã hội, đồng thời cải tạo chính mình. Điều đó cũng có
nghĩa là con người duy trì tính cách xã hội của mình thông qua các hoạt động
thực tiễn. Vì vậy, bản chất con người là hiện thực chứ không phải là trừu
tượng, mang tính lịch sử hơn là tự nhiên, không phải là duy nhất của mỗi cá
nhân, và là tổng hòa của tất cả các mối quan hệ xã hội. Đây là phát hiện của
Marx có giá trị to lớn đối với con người.

1.2 MỐI QUAN HỆ GIỮA CÁ NHÂN VÀ XÃ HỘI

Con người tồn tại thông qua các cá thể, mỗi cá thể là một chỉnh thể duy
nhất, được cấu tạo bởi một hệ thống các đặc điểm riêng, không lặp lại, khác
với các cá thể khác về cơ chế, tâm lý, trình độ ... Xã hội luôn được tạo thành
từ các cá thể . Những cá nhân này sống và làm việc trong các cộng đồng và
nhóm xã hội khác nhau do điều kiện lịch sử. Trong mối quan hệ với loài, tức
là trong xã hội, cá thể xuất hiện như sau:
-Cá nhân là phương thức tồn tại của loài “người”. Nói chung con người
không tồn tại, nói chung con người có những sinh vật tình cảm. cá nhân là
một cá thể riêng biệt, một thành viên của cộng đồng xã hội, và một chỉnh thể
gắn liền với cá nhân.
- Cá nhân chỉ được hình thành và phát triển trong các mối quan hệ xã
hội. Tuy nhiên, sự thay đổi xã hội trong lịch sử của một cá nhân là một hiện
tượng lịch sử. Mỗi thời kỳ lịch sử có một “kiểu xã hội cá biệt” định hướng
cho thế giới quan và phương pháp luận hoạt động của con người trong thời kỳ
lịch sử cụ thể đó.
Khi cá thể là khái niệm để phân biệt giữa cá thể và loài, tức là những
khác biệt thể hiện từ bên ngoài đối với mỗi cá thể thì cá thể là khái niệm chỉ
sự khác biệt giữa các yếu tố bên ngoài tách rời khỏi toàn bộ hoạt động sống
của cá thể. Nhân cách là nội dung, tình trạng, bản chất và khuynh hướng bên
trong của mỗi cá nhân. Đó là thế giới của cái “tôi” được tạo ra bởi những
hành động kết hợp các yếu tố vật chất và xã hội. Mỗi người “dấn thân” vào
cuộc sống, tiếp thu những giá trị văn hóa của xã hội, truyền đạt chúng trong
nội bộ, thực hiện so sánh, chắt lọc, tự đánh giá và quá trình tạo dựng thế giới
của chính mình. Đây là một quá trình kép, xã hội hóa cá nhân và cá nhân hóa
xã hội, ở đó cá thể xã hội và tính cá nhân của cá nhân được tích hợp. Mỗi
người có cá tính riêng, tự nhận thức, quản lý cuộc sống của mình và khả năng
lựa chọn chức năng, niềm vui và trách nhiệm đối với các hoạt động cụ thể của
xã hội.
Nếu không có một phương hướng triết học rõ ràng giải quyết các mối
quan hệ cá nhân và xã hội, các vấn đề cá nhân và nhân cách không thể được
giải quyết một cách khoa học. Mối quan hệ này dần dần bị phá vỡ bởi quần
thể cơ bản. Nó tạo thành một bộ phận rất quan trọng của cơ thể xã hội hoàn
chỉnh. Các cá thể có tính cá thể phù hợp với tổng thể như một phần của tổng
thể và thể hiện bản sắc của họ thông qua các hoạt động của tổng thể, nhưng
không “hòa trộn” vào tổng thể. Đây là mối quan hệ biện chứng với mâu thuẫn
cá nhân và tập thể. Tùy theo tính chất và khả năng giải quyết các mâu thuẫn
mà mối quan hệ này có thể được duy trì hoặc giải quyết.
Mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội là mối quan hệ biện chứng tác động
lẫn nhau, trong đó xã hội có vai trò quan trọng. Cơ sở của mối quan hệ này là
mối quan hệ lãi suất. Thực chất của tổ chức trật tự xã hội là điều phối các mối
quan hệ lợi ích để thân chủ phát huy tối đa khả năng của mình trong các quá
trình kinh tế, xã hội và tạo điều kiện cho quá trình phát triển ở mức cao nhất.
Xã hội là điều kiện, môi trường và cách thức thực hiện lợi ích của cá nhân. Cá
nhân không chỉ là sản phẩm của xã hội, mà còn là chủ thể của quá trình phát
triển xã hội, của sản xuất và các hoạt động xã hội khác. Với tư cách là chủ thể
lịch sử, cá nhân không hành động riêng lẻ mà là một bộ phận của nhóm xã hội
(gia đình, giai cấp, đất nước, nhân dân). Loài người là cộng đồng lớn nhất,
trong đó các cá nhân đóng vai trò là chủ thể lịch sử. Cá nhân chỉ được hình
thành và phát triển trong phạm vi xã hội và tập thể. Các tác động đến cá nhân
và xã hội có những hình thức cụ thể tùy thuộc vào mức độ của các chế độ xã
hội và nền văn minh khác nhau.
Lịch sử phát triển của loài người là lịch sử của những cuộc đấu tranh tự
do leo thang. Trong xã hội chống giai cấp, quyền tự do của một người được
thực hiện bằng cách cướp đi quyền tự do của người khác. Các quyền tự do cá
nhân của giai cấp thống trị được đảm bảo bằng cách tước bỏ quyền tự do của
họ. Vì vậy, cuộc đấu tranh giữa giai cấp công nhân và quần chúng nhân dân là
quá trình giành tự do của họ bị giai cấp thống trị cướp đoạt. Quyền tự do của
con người không tách khỏi trình độ chinh phục tự nhiên của con người, mà
tách khỏi các điều kiện xã hội.
Chỉ thông qua chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, con người mới có
thể thực sự tự do. Ở đây, tất cả các vấn đề năng suất, quan hệ kinh tế, hệ
thống chính trị, đấu tranh giai cấp đều được thực hiện vì lợi ích của con
người, phát huy tối đa năng suất lao động của con người. Trước đây, C. Mác
và Ph.Ăngghen chỉ ra rằng nền sản xuất tư bản chủ nghĩa đã phát triển những
mối quan hệ phổ biến và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa con người với nhau, và
“sản xuất vật chất đã như thế thì sản xuất tinh thần cũng không kém như thế”.
Chủ nghĩa tư bản hiện đại đẩy nhanh quá trình này, nhưng cốt lõi của nó
vẫn là sự mở rộng mối quan hệ giữa bóc lột người với người khác và chế độ
nô lệ. Nó đã tạo ra một số quốc gia tư bản giàu có và tiên tiến, nhưng nó cũng
khiến châu Phi chết đói, làm cho châu Á trở nên nghèo nàn, và châu Mỹ
Latinh phải vay nợ rất nhiều.
Chủ nghĩa xã hội thực hiện quá trình quốc tế hoá đời sống con người, để
các dân tộc tiếp cận nhanh chóng với các giá trị tiến bộ của nhân loại, con
người phát triển nhân cách phong phú, các quan hệ phi nhân bản trong cuộc
sống của con người sẽ được đấu tranh cuộc đấu tranh của. Đây là một dấu ấn
của chủ nghĩa nhân văn xã hội chủ nghĩa trong mối quan hệ giữa cá nhân và
xã hội.

CHƯƠNG 2 : Ý NGHĨA CỦA NÓ ĐỐI VỚI CUỘC SỐNG VÀ VIỆC


HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN HIỆN NAY
2.1 ĐỐI VỚI CUỘC SỐNG

Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và cả dưới chủ nghĩa xã hội,
mâu thuẫn giữa cá nhân và xã hội vẫn tồn tại. Vì vậy, để giải quyết đúng đắn
mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội, cần tránh hai thái độ cực đoan: thứ nhất,
chỉ thấy cá nhân mà không thấy xã hội, đưa cá nhân vào đối lập với xã hội,
chỉ chú trọng lợi ích cá nhân, bất chấp lợi ích xã hội. . Hai là, chỉ nhìn xã hội
mà không thấy cá nhân, nhân danh lợi ích xã hội mà không coi lợi ích cá nhân
... Hai thái độ cực đoan trên là lực cản đối với sự phát triển của xã hội nói
chung, đối với sự phát triển của mỗi thành viên nói riêng.
Nước ta hiện nay đang có nền kinh tế thị trường. Ngoài tác dụng tích
cực là thúc đẩy phát triển năng suất, nâng cao năng suất lao động, tạo điều
kiện xã hội nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của cá nhân ngày càng đa
dạng, hình thức và của cải, đồng thời làm tăng tính năng động, tự tin của cá
nhân và tạo ra điều kiện để phát triển nhân cách, vì quan tâm nhiều hơn đến
lợi ích của cá nhân. Tuy nhiên, cơ chế thị trường cũng dẫn đến xu hướng tuyệt
đối hóa lợi ích cá nhân, lợi ích trực tiếp dẫn đến phân chia thu nhập trong xã
hội, do đó mâu thuẫn giữa lợi ích cá nhân với lợi ích cá nhân, mâu thuẫn giữa
cá nhân với nhóm, dẫn đến mâu thuẫn giữa cá nhân với xã hội. Nếu không
được giải quyết nhanh chóng, những mâu thuẫn này có tác động tiêu cực đặc
biệt đến sự hình thành nhân cách và xã hội nói chung. Vì vậy, cần phát huy
lợi nhuận đồng thời hạn chế những khuyết điểm của kinh tế thị trường, phát
huy vai trò của nhân tố con người, tìm mọi cách tạo điều kiện để thực hiện
chiến lược con người của kinh tế thị trường. Theo tinh thần nghị quyết Đại
hội IX, Đảng ta đã chỉ rõ: Chúng ta nuôi dạy con người Việt Nam có lòng yêu
nước, yêu chủ nghĩa xã hội, độc lập dân tộc, có trách nhiệm cao trong công
việc và phẩm chất nghề nghiệp. Tôn trọng nghi thức công nghiệp, ý thức và
lòng biết ơn cộng đồng, có nếp sống văn hóa và xây dựng mối quan hệ hài
hòa với gia đình, cộng đồng và xã hội.
2.2 ĐỐI VỚI VIỆC HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN NGÀY NAY

Mối liên hệ biện chứng giữa cá nhân và xã hội có ý nghĩa rất quan trọng
đối với việc dạy học sinh. Giúp cho học sinh nhận thức được tầm quan trọng
của việc học để từ đó để nâng cao vai trò của mỗi người trong nhóm, phát
triển khả năng làm việc nhóm hiệu quả để đạt được kết quả tốt nhất. Ngoài ra
còn giúp mở rộng thêm nhiều mối quan hệ tốt đẹp với mọi người, tạo tiền đề
cho sự phát triển của sinh viên sau này. Giáo dục học đường luôn là ưu tiên
hàng đầu của đất nước và góp phần vào công cuộc xây dựng và phát triển đất
nước. Vì thế vấn đề biện chứng giữa cá nhân và xã hội là một vấn đề có tầm
quan trọng lớn trong giáo dục học đường và trong việc phát triển xây dựng
đất nước.

KẾT LUẬN

Ngày nay, với cuộc cách mạng công nghệ hiện đại, người ta càng cho
rằng phát triển con người là yếu tố quyết định mọi sự phát triển. Đặc biệt
quan tâm đến vai trò của trí tuệ đối với sự phát triển con người và theo đó là
vai trò của giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực. Đối với sự nghiệp đổi mới
của đất nước, chúng ta coi yếu tố con người là yếu tố quyết định, chuyển đổi
trí tuệ và sức lực, kỹ năng và công nghệ, ý thức và tâm hồn của con người từ
dân tộc, khoa học, nông nghiệp sang xã hội công nghiệp xã hội chủ nghĩa.
được nhận ra. Chiến thắng vĩ đại của những người đã ghi tên mình vào lịch
sử, cuối cùng là chiến thắng của chính người Việt Nam, và bài học vẫn còn
được áp dụng cho đến ngày nay. Với đường lối giáo dục và đào tạo khoa học,
chính xác của Đảng, trí tuệ và phẩm chất của con người Việt Nam, chúng ta
sẽ thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
TÀI LIỆU THAM KHẢO

+Nguyễn Ngọc Anh (11/5/2021) Mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội? Ý


nghĩa phương pháp luận trong phát huy vai trò của nhân tố con người đối với
sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay? < https://toptailieu.com/moi-quan-he-
giua-ca-nhan-va-xa-hoi-y-nghia-phuong-phap-luan-trong-phat-huy-vai-tro-
cua-nhan-to-con-nguoi-doi-voi-su-nghiep-doi-moi-dat-nuoc-hien-nay/> [ngày
truy cập 18/1/2021]
+8910x.com (31-05-2020) Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa cá nhân và
xã hội <https://8910x.com/ca-nhan-va-xa-hoi/> [ngày truy cập 18/1/2021]
+Thanh Thảo (12/11/2011) Mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội
<https://tailieu.vn/doc/moi-quan-he-giua-ca-nhan-va-xa-hoi-967568.html >
[ngày truy cập 18/1/2021]

You might also like