You are on page 1of 15

T

rường Đại học Kinh tế Quốc dân


Khoa Du lịch và Khách sạn

BÀI TẬP LỚN

TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN

Tên đề tài: Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội và sự vận dụng của Đảng ta ở
Việt Nam hiện nay

Họ và tên: Đỗ Nguyễn Huy Hoàng

Mã sinh viên : 11201583

Khóa: 62

Lớp học phần: Triết học Mác – Lênin_(120)_34


Mục lục
1. Vấn đề lý luận về học thuyết kinh tế -xã hội . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .1
1.1. Xã hội – Bộ phận đặc thù của tự nhiên . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 1
1.2. Sản xuất vật chất – cơ sở sự tồn tại và phát triển của xã hội . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .1
1.3. Biện chứng của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .2
1.4. Biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 4
1.5. Sự phát triển các HT KTXH là một quá trình lịch sử - tự nhiên . . . . . . . . . . . . . . . . . 6

2. Quá trình vận dụng học thuyết HT KT-XH của Đảng ta ở Việt Nam . . . . . . . . . . . 8

3. Kết luận . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 10

4. Danh mục tham khảo . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 11


Lời mở đầu
Học thuyết về hình thái kinh tế - xã hội của C. Mác ra đời dựa trên cơ sở quan
điểm duy vật biện chứng về xã hội. Lần đầu tiên C. Mác đã chỉ ra những luận
chứng khoa học về sự phát triển tự nhiên của xã hội, tính logic khách quan của quá
trình tiến hóa xã hội, đồng thời cũng chỉ ra được nguồn gốc, động lực bên trong,
nội tại của sự phát triển xã hội, chỉ ra bản chất của từng chế độ xã hội. Qua đó giúp
chúng ta có phương pháp khoa học để nghiên cứu sự phát triển của lịch sử xã hội.
Bằng những phân tích, đánh giá khoa học và cách mạng dựa trên quan điểm duy
vật lịch sử, chủ nghĩa Mác đã cho thấy quá trình hình thành và phát triển của xã hội
loài người dựa trên cơ sở sản xuất vật chất, đồng thời cũng đưa ra quan điểm rằng
lịch sử loài người tất yếu trải qua các hình thái kinh tế xã hội:
Cộng sản nguyên thủy => Chiếm hữu nô lệ => Phong kiến => Tư bản chủ nghĩa
=> Cộng sản chủ nghĩa
Học thuyết Mác về hình thái kinh tế - xã hội là cơ sở thế giới quan và là căn cứ
khoa học cho cách mạng xã hội chủ nghĩa trên thế giới nói chung và tại Việt Nam
nói riêng. Tuy nhiên, trước sự phát triển mạnh mẽ của KHKT, đặc biệt là sự phát
triển của nền kinh tế tri thức và sự sụp đổ của cái nôi XHCN ở Liên Xô và Đông
Âu làm cho các thế lực thù địch tiếp tục đẩy mạnh tấn công vào chủ nghĩa Mác.
Trước những khó khan trên, nước ta vẫn kiên trì khẳng định con đường phát triển
đất nước là xây dựng chủ nghĩa xã hội, vận dụng học thuyết hình thái Kinh tế - Xã
hội và quá độ lên CNXH. Để làm rõ những luận điểm trên, em đã lựa chọn và
nghiên cứu đề tài: Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội và sự vận dụng của Đảng ta
ở Việt Nam hiện nay.
Nội dung
1. Vấn đề lý luận về học thuyết kinh tế -xã hội
1.1 Xã hội – Bộ phận đặc thù của tự nhiên
Tự nhiên là toàn bộ thế giới vật chất vô tận. Quá trình phát triển của tự nhiên đã sản
sinh ra sự sống và theo quy luật tiến hóa, trong những điều kiện nhất định, con người đã
xuất hiện từ động vật. Sự hình thành con người gắn liền với sự hình thành các quan hệ
giữa người với người, quá trình chuyển biến từ động vật thành người cũng là quá trình
chuyển biến từ cộng đồng mang tính bầy đàn, hành động theo bản năng thành 1 cộng
đồng mới khác hẳn về chất, ta gọi đó chính là xã hội. Vậy xã hội chính là biểu hiện tổng
số những mối liên hệ và những quan hệ của các cá nhân, còn được hiểu là sản phẩm của
sự tác động qua lại giữa con người với nhau. Vì thế, tự nhiên vừa là nguồn gốc của sự
xuất hiện xã hội, lại vừa là môi trường tồn tại và phát triển của xã hội.
Bởi là một bộ phận đặc thù của tự nhiên, xã hội vừa phải tuân theo quy luật tự nhiên,
vừa phải tuân theo những quy luật chỉ có đối với xã hội. Cũng vì thế mà quy luật xã hội
có những đặc điểm gần giống quy luật tự nhiên. Trước tiên là tính khách quan trong xã
hội cũng như tự nhiên, không hề bị ảnh hưởng, phụ thuộc vào ý thức con người. Tiếp đó,
quy luật xã hội cũng có đặc trưng của quy luật nói chung, đó là tính tất yếu và tính phổ
biến. Tuy nhiên, điều này lại được thể hiện khác nhau tùy thuộc vào phạm vi và cấp độ
của các mối quan hệ xã hội khác nhau. Một đặc điểm nữa của quy luật xã hội là để nhận
thức được nó cần có phương pháp khái quát hóa vì trừu tượng hóa rất cao. Bởi vì, sự biểu
hiện và tác động của quy luật xã hội thường diễn ra trong một khoảng thời gian vô cùng
dài, do đó không thể dùng thực nghiệm để kiểm tra như những quy luật của tự nhiên, cũng
không thể nào dung lối suy diễn logic một cách đơn thuần.

1.2 Sản xuất vật chất – cơ sở sự tồn tại và phát triển của xã hội
Như chúng ta đều thấy, để có thể tồn tại và phát triển, con người cần phải tiến hành sản
xuất, hay còn nói đó chính là đặc trưng cơ bản cần có của con người và xã hội loài người.
Sản xuất có nghĩa là hoạt động không ngừng tạo ra các giá trị vật chất và tinh thần, nhằm
phục vụ cho những nhu cầu về tồn tại hay phát triển của con người. Sản xuất trong xã hội
có thể được chia thành 3 phương diện không tách rời nhau là: sản xuất tinh thần, sản xuất
vật chất và sản xuất ra chính con người. Trong đó thì sản xuất vật chất đóng vai trò tối
quan trọng là cơ sở của sự tồn tại và phát triển của xã hội, quyết định toàn bộ sự vận động
và phát triển của đời sống xã hội.

1
Vậy sản xuất vật chất là gì? Sản xuất vật chất ở đây chính là quá trình con người sử
dụng công cụ lao động tác động vào tự nhiên, khai thác hoặc cải biến các dạng vật chất
của tự nhiên nhằm tạo ra của cải vật chất thoả mãn nhu cầu tồn tại và phát triển của con
người. Sản xuất vật chất luôn luôn có ba đặc trưng vô cùng cơ bản không tách rời và bổ
sung lẫn nhau. Đầu tiên là sản xuất vật chất luôn có tính mục đích nhằm tạo ra những tư
liệu sinh hoạt cho bản thân con người. Thật vậy, trên thế giới này quả thực không hề có
bất kì một hoạt động sản xuất ra vật chất mà không có mục đích, như việc làm ra bàn để
làm việc, hay làm ra ghế để ngồi, nghỉ với một tư thế thoải mái, ... Đặc trưng tiếp theo đó
là sản xuất lao động luôn gắn liền với với việc chế tạo và sử dụng công cụ lao động.
Trong khi sản xuất ra vật chất, con người không ngừng tạo ra những công cụ lao động
mới để quá trình sản xuất đơn giản và diễn ra nhanh hơn, đồng thời sử dụng chúng một
cách khoa học để nâng cao hiệu quả trong việc sản xuất. Ví dụ như việc cày cuốc thời xa
xưa, con người vẫn còn sử dụng sức mình để làm việc nặng nhọc nhưng sau khoảng thời
gian dài trong lịch sử, con người đã biết dùng con trâu thay mình làm rồi đến thời hiện
đại, con người chế tạo ra máy móc để tiết kiệm chi phí và hiệu quả nhanh hơn nhiều lần.
Cuối cùng đó là sản xuất vật chất gắn với việc biến đổi, cải tạo tự nhiên và xã hội. Sự biến
đổi ở đây có thể diễn ra theo cả hai chiều hướng tốt và xấu. Ví dụ như việc xây dựng khu
công nghiệp ở một vùng quê nào đó, trước khi xây thì ở đó sạch sẽ, không khí trong lành
nhưng lại có nhiều người không có việc làm, nhưng sau khi xây thì tuy số người có việc
làm tăng lên rõ rệt nhưng chất lượng không khí, môi trường giảm rõ rệt làm ảnh hưởng,
thay đổi cuộc sống người dân theo hướng xấu đi.
Quá trình sản xuất vật chất thì luôn có ba yếu tố cơ bản hợp thành: Sức lao động, đối
tượng lao động, tư liệu lao động. Sản xuất vật chất chính là nền tảng làm phát sinh, phát
triển những mối quan hệ xã hội của con người. Cũng chính là cơ sở cho sự tiến bộ của của
xã hội loài người. Ngoài ra, Sản xuất vật chất còn giữ vai trò là nhân tố quyết định sự sinh
tồn và phát triển của con người và xã hội.
Tóm lại, trong quá trình sản xuất vật chất, con người không ngừng làm biến đổi tự nhiên,
biến đổi xã hội, đồng thời làm biến đổi cả bản thân mình. Sản xuất vật chất không ngừng
phát triển. Sự phát triển của sản xuất vật chất quyết định sự biến đổi, phát triển các mặt
của đời sống xã hội, quyết định phát triển xã hội từ thấp đến cao. Chính vì vậy, phải tìm
cơ sở sâu xa của các hiện tượng xã hội ở trong nền sản xuất vật chất của xã hội.

1.3 Biện chứng của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
Trong mỗi một giai đoạn lịch sử thì con người sản xuất vật chất theo một cách thức khác
nhau, tức là cách sinh sống, cách sản xuất của riêng thời kì đó. Từ đó ta có thể định nghĩa
2
được phương thức sản xuất chính là cách thức con người thực hiện quá trinh sản xuất vật
chất ở những giai đoạn lịch sử nhất định. Phương thức sản xuất lúc nào cũng là sự thống
nhất giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Trong đó thì lực lượng sản xuất thể hiện
nội dung vật chất của quá trình sản xuất thông qua mối quan hệ giữa con người và tự
nhiên, còn quan hệ sản xuất thể hiện hình thức xã hội của phương thức sản xuất thông qua
mối quan hệ giữa người với người.
Lực lượng sản xuất là sự kết hợp của người lao động và tư liệu sản xuất để tạo ra sức sản
xuất và năng lực thực tiễn làm biến đổi các đối tượng vật chất của tự nhiên theo nhu cầu
con người. Bộ phận đầu tiên của LLSX đó là người lao động, vậy người lao động ở đây là
chỉ những người có đặc điểm như thế nào? Đó là những người có trình độ, tri thức, có kĩ
năng lao động, kinh nghiệm lao động và sự sáng tạo trong quá trinh sản xuất. Bộ phận thứ
hai của LLSX đó là tư liệu sản xuất, là điều kiện vật chất cần thiết để tổ chức sản xuất,
được chia ra thành tư liệu lao động và đối tượng lao động. Trước tiên là đối tượng lao
động, thì đối tượng lao động là những thứ mà lao động của con người tác động lên nhằm
thay đổi chúng phù hợp với mục đích của con người. Đối tượng lao động có thể là tự
nhiên sẵn có như đất được con người bới lên để cấy hoặc là được con người tạo ra, làm ra,
chế biến ra dựa trên nguyên liệu sẵn có như miếng kim loại để chế tạo điện thoại phải
được qua chế biến từ quặng mới thành cục sắt. Bên cạnh đối tượng lao động chính là tư
liệu lao động, ở đây được hiểu theo nghĩa là những yếu tố vật chất của sản xuất mà con
người dựa vào đó để tác động lên đối tượng lao động nhằm biến đổi đối tượng lao động
thành sản phẩm đáp ứng nhu cầu bản thân. Và tư liệu lao động cũng được chia ra thành
phương tiện lao động như hệ thống bình chứa hay hệ thống kết cấu hạ tầng sản xuất và
công cụ lao động như cuốc, rìu, ... Sự phát triển của lực lượng sản xuất thì được thể hiện
qua 2 phương diện đó là tính chất và trình độ. Tính chất trong LLSX thì có thể là tính chất
cá nhân hay tính chất xã hội trong việc sử dụng tư liệu sản xuất. Và ngày nay thì tính xã
hội trong LLSX ngày càng cao. Còn về phương diện trình độ thì LLSX có thể thể hiện
trong nhiều khía cạnh khác nhau như trình độ của công cụ lao động, trình độ tổ chức lao
động xã hội, trình độ ứng dụng khoa học vào sản xuất, trình độ kinh nghiệm và kĩ năng
của người lao động, trình độ phân công lao động xã hội. Một điều tối quan trọng khi nhắc
đến lực lượng sản xuất, ta phải biết được rằng, máy móc trong thời đại ngày nay đã và
đang đóng vai trò là lực lượng sản xuất trực tiếp. Bởi chúng đã trở thành nguyên nhân mọi
biến đổi trong LLSX và rút ngắn khoảng cách từ phát minh, sáng chế đến ứng dụng vào
sản xuất, làm cho năng suất lao động, của cải xã hội tăng nhanh. Không chỉ vậy, khoa học
còn kịp thời giải quyết những mâu thuẫn, yêu cầu sản xuất đặt ra và thâm nhập vào các

3
yếu tố, trở thành mắt khâu bên trong quá trình sản xuất cùng với đó kích thích sự phát
triển năng lực làm chủ sản xuất của con người.
Quan hệ sản xuất được hiểu là những quan hệ kinh tế, vật chất giữa người với người
trong quá trình sản xuất. Có 3 mối quan hệ chính trong QHSX đó là : Quan hệ giữa người
với người về việc sở hữu đối với tư liệu sản xuất, Quan hệ giữa người với người trong tổ
chức và quản lí sản xuất, Quan hệ giữa người với người trong phân phối sản phẩm.
Những mối quan hệ này có sự liên kết hữu cơ với nhau, tức là nó ảnh hưởng và chi phối
lẫn nhau và trong đó quan hệ sở hữu giữ vai trò quyết định.
Và trong chủ nghĩa Mác đã khẳng định, LLSX và QHSX có mối quan hệ biện chứng với
nhau. Trong đó thì LLSX quyết định QHSX còn QHSX thì tác động ngược lại LLSX nhờ
tính độc lập tương đối. LLSX quyết định QHSX ở 3 khía cạnh: LLSX nào thì QHSX đấy,
khi mà LLSX thay đổi thì sớm muộn gì QHSX cũng sẽ thay đổi theo, nội dung của QHSX
chính là do LLSX quy định. QHSX tác động trở lại LLSX theo 2 chiều hướng, nếu mà
QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX thì sẽ tạo đà cho LLSX phát triển, còn
ngược lại nếu QHSX không phù hợp sẽ làm cản trở sự phát triển của LLSX. Sự phù hợp ở
đây được hiểu theo những khía cạnh sau: Sự kết hợp đúng đắn giữa các yếu tố cấu thành
lực lượng sản xuất, Sự kết hợp đúng đắn giữa các yếu tố cầu thành quan hệ sản xuất, Sự
kết hợp đúng đắn giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất, Tạo điều kiện tối ưu sử
dụng và kết hợp giữa lao động và TLSX, Tạo điều kiện hợp lý cho người lao động sáng
tạo trong sản xuất và hưởng thụ thành quả vật chất, tinh thần của lao động. Con người giữ
vai trò chủ thể nhận thức giải quyết mâu thuẫn, thiết lập sự phù hợp. Trong xã hội có đối
kháng giai cấp: Mâu thuẫn LLSX và QHSX đuợc biểu hiện về mặt xã hội là mâu thuẫn
giai cấp; được giải quyết thông qua đấu tranh giai cấp mà đỉnh cao là cách mạng xã hội.
Tóm lại, quy luật QHSX phù hợp với trình độ của LLSX là quy luật quyết định sự vận
động, phát triển nội tại của bản thân phương thức sản xuất và là quy luật phổ biến tác
động tới toàn bộ tiến trình lịch sử nhân loại. Từ đó ta có thể rút ra rằng muốn phát triển
kinh tế phải phát triển lực lượng sản xuất trước, muốn xóa bỏ quan hệ sản xuất cũ, xây
dựng quan hệ sản xuất mới phải xuất phát từ trình độ của lực lượng sản xuất. Ở Việt Nam
xây dựng kinh tế thị trường nhiều thành phần, xác định công nghiệp hóa, hiện đại hóa là
nhiệm vụ trọng tâm để phát triển lực lượng sản xuất.

1.4 Biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng


Quan hệ sản xuất được hình thành một cách khách quan trong quá trình sản xuất tạo
thành quan hệ vật chất của xã hội. Trên cơ sở quan hệ sản xuất hình thành nên cac quan
hệ về chính trị và tinh thần của xã hội. Hai mặt đó của đời sống xã hội được khái quát
4
thành cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của xã hội. Như C.Mác đã viết: “Toàn bộ
những quan hệ sản xuất ấy hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội, tức là cái cơ sở hiện thực
trên đó dựng lên một kiến trúc thượng tầng pháp lý và chính trị và những hình thái ý thức
xã hội nhất định tương ứng với cơ sở hiện thực đó”.
Trước hết là về cơ sở hạ tầng, cơ sở hạ tầng là toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành
cơ cấu kinh tế của một xã hội nhất định. Cơ sở hạ tầng được hình thành một cách khách
quan trong quá trình sản xuất của xã hội và là toàn bộ các quan hệ sản xuất tồn tại trên
thực tế mà trong quá trình vận động của nó hợp thành cơ cấu kinh tế hiện thực. Nó bao
gồm quan hệ sản xuất tàn dư – tức quan hệ sản xuất của xã hội cũ, quan hệ sản xuất thống
trị - giữ vai trò chủ đạo, quyết định xu hướng chung và quan hệ sản xuất mầm mống –
quan hệ sản xuất của xã hội tương lai. Như vậy, xét trong nội bộ phương thức sản xuất thì
quan hệ sản xuất là hình thức phát triển của LLSX, nhưng xét trong tổng thể các quan hệ
xã hội thì các quan hệ sản xuất hợp thành cơ sở kinh tế của xã hội, tức là cơ sở hiện thực,
trên đó hình thành nên kiến trúc thượng tầng tương ứng.
Kiến trúc thượng tầng hay Thượng tầng kiến trúc là một khái niệm trong chủ nghĩa duy
vật lịch sử của Marx và Ph.Ăng-ghen đưa ra dùng để mô tả toàn bộ hệ thống kết cấu
các hình thái ý thức xã hội cùng với các thiết chế chính trị-xã hội tương ứng, được hình
thành trên một cơ sở hạ tầng nhất định. Theo đó, kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những
quan điểm chính trị, pháp quyền, triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật, …cùng với
những thiết chế xã hội tương ứng như nhà nước, đảng phái, giáo hội, các đoàn thể xã hội,
… Kiến trúc thượng tầng bao gồm những quan điểm tư tưởng và các thiết chế tương ứng.
Quan điểm tư tưởng trong KTTT gồm có Chính trị, Pháp quyền, Đạo đức, Triết học còn
thiết chế gồm có Nhà nước, Đảng phái và Giáo hội. Mỗi yếu tố của KTTT có đặc điểm
riêng, có quy luật vận động phát triển riêng, nhưng chúng liên hệ với nhau, tác động qua
lại lẫn nhau và đều hình thành trên cơ sở hạ tầng. Song, mỗi yếu tố khác nhau có quan hệ
khác nhau đối với cơ sở hạ tầng. Có những yếu tố như Chính trị, Pháp luật thì có quan hệ
trực tiếp với CSHT còn những yếu tố như Triết học, Tôn giáo chỉ quan hệ gián tiếp với
nó. Trong xã hội có giai cấp, kiến trúc thượng tầng mang tính giai cấp, trong đó, nhà nước
có vai trò đặc biệt quan trọng. Nó tiêu biểu cho chế độ chính trị của một xã hội nhất định.
Nhờ có nhà nước, giai cấp thống trị mới thực hiện được sự thống trị của mình về tất cả
các mặt của đời sống xã hội.
CSHT và KTTT là hai mặt của đời sống xã hội, chúng thống nhất biện chứng với nhau,
trong đó CSHT đóng vai trò quyết định đối với KTTT. Vậy tại sao lại có vai trò quyết
định? Bởi từ quan hệ vật chất quyết định quan hệ tinh thần, từ tính tất yếu kinh tế xét đến

5
cùng quyết định tính tất yếu chính trị xã hội mà trong đó quan hệ vật chất và tính tất yếu
trong kinh tế chính là CSHT còn quan hệ tinh thần và tính tất yếu trong chính trị - xã hội
là KTTT. Hơn nữa vai trò ấy còn thể hiện ở chỗ, CSHT nào thì KTTT đó, QHSX nào là
thống trị thì nó sẽ tạo ra một KTTT như thế ấy, giai cấp nào mà thống trị trong xã hội thì
toàn bộ tư tưởng của giai cấp đó sẽ là tư tưởng thống trị trong xã hội. Không chỉ vậy,
CSHT quyết định KTTT thông qua việc khi mà CSHT cũ mất đi để CSHT mới ra đời thì
sớm hay muộn KTTT cũ cũng mất đi để nhường chỗ cho KTTT mới. Cuối cùng là vai trò
tất yếu của CSHT đó chính là nội dung của KTTT đều là do CSHT quy định.
Tuy vậy, bởi sự vật hiện tượng trong thế giới khách quan đều có sự vận động qua lại lẫn
nhau nên KTTT cũng tác động ngược trở lại CSHT. Toàn bộ KTTT, cũng như các yếu tố
cấu thành nó đều có tính độc lập tương đối trong quá trình vận động phát triển và tác động
một cách mạnh mẽ đối với CSHT. Tất cả yếu tố cấu thành KTTT đều có tác động đến
CSHT. Tuy nhiên, mỗi yếu tố khác nhau có vai trò khác nhau, có cách thức tác động khác
nhau. Trong xã hội có giai cấp, nhà nước là yếu tố có tác động mạnh nhất đối với CSHT
vì đó là bộ máy bạo lực tập trung của giai cấp thống trị về kinh tế. Các yếu tố khác của
KTTT như triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật cũng đều tác động đến CSHT nhưng
chúng đều bị nhà nước, pháp luật chi phối. Sự tác động ngược trở lại ấy thể hiện qua việc
củng cố, hoàn thiện và bảo vệ CSHT sinh ra nó, thực chất là bảo vệ lợi ích kinh tế của giai
cấp thống trị, xoá bỏ tàn dư CSHT cũ, cùng với đó định hướng, tổ chức, xây dựng chế độ
kinh tế. Sự tác động của KTTT đối với CSHT xảy ra theo 2 chiều hướng. Nếu KTTT tác
động phù hợp với các quy luật kinh tế khách quan thì nó là động lực mạnh mẽ thúc đẩy
kinh tế phát triển, còn nếu tác động ngược lại, nó sẽ kìm hãm phát triển kinh tế, kìm hãm
phát triển xã hội. Trong đó thì KTTTchính trị có vai trò lớn nhất do phản ánh trực tiếp
CSHT, là biểu hiện tập trung của kinh tế.
Quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa CSHT và KTTT đã giúp con người nhận thức
đúng đắn mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị. Hơn nữa đối với riêng Việt Nam, quy luật
ấy giúp Đảng ta xác định chủ trương đổi mới: đổi mới toàn diện trong mọi lĩnh vực trong
đó lấy đổi mới chính trị làm trọng tâm đồng thời đổi mới các lĩnh vực khác.

1.5 Sự phát triển các HT KTXH là một quá trình lịch sử - tự nhiên
Giữa các mặt trong đời sống xã hội thống nhất biện chứng với nhau tạo thành xã hội cụ
thể tồn tại trong từng giai đoạn lịch sử nhất định. Các xã hội cụ thể đó được chủ nghĩa duy
vật lịch sử khái quát phạm trù hình thái kinh tế - xã hội. Vậy hình thái kinh tế - xã hội là
gì? Đó là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử, dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn
lịch sử nhất định, với một kiểu QHSX đặc trưng cho xã hội đó, phù hợp với một trình độ
6
nhất định của LLSX và với một KTTT tương ứng được xây dựng trên kiểu QHSX đó.
Hình thái kinh tế xã hội là một hệ thống hoàn chỉnh, có cấu trúc phức tạp, trong đó có các
mặt cơ bản là LLSX, QHSX và KTTT. Mỗi mặt của hình thái kinh tế xã hội có vị trí riêng
và tác động qua lại lẫn nhau, thống nhất với nhau. Trong đó LLSX là nền tảng vật chất kĩ
thuật của mỗi hình thái kinh tế xã hội vì vậy HTKTXH khác nhau có LLSX khác nhau.
Suy đến cùng, sự phát triển của LLSX quyết định sự hình thành, phát triển và thay thế lẫn
nhau của các HTKTXH. Các QHSX tạo thành CSHT của xã hội và quyết định tất cả mọi
quan hệ xã hội khác. Mỗi HTKTXH có một kiểu QHSX đặc trưng cho nó. QHSX là tiêu
chuẩn khách quan để phân biệt các chế độ xã hội. KTTT được hình thành và phát triển
phù hợp với CSHT, nhưng nó lại là công cụ để bảo vệ, duy trì và phát triển CSHT đã sinh
ra nó. Ngoài các mặt cơ bản ấy, các HTKTXH còn có quan hệ về gia đình, dân tộc và các
quan hệ xã hội khác. Các quan hệ đó đều gắn bó chặt chẽ với quan hệ sản xuất, biến đổi
cùng với sự biến đổi của QHSX.
Có 3 lí do chính để chứng minh rằng, HT KTXH là một quá trình lịch sử tự nhiên. Thứ
nhất đó là sự vận động và phát triển của xã hội tuân theo các quy luật khách quan chứ
không hề phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người. Đó là chính những quy luật ở
bên trong cấu trúc hình thành nên HT KTXH. Tiếp theo là nguồn gốc của mọi sự vận
động và phát triển của xã hội đều có nguyên nhân trực tiếp hay gián tiếp từ sự phát triển
của LLSX xã hội. Cuối cùng đó là quá trình phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội
còn chịu sự tác động của các nhân tố chủ quan khác nên Xu hướng chung của các HTKT
– XH là sự phát triển từ thấp lên cao. Nhưng sự phát triển đó được diễn ra bằng nhiều
cách: có thể là phát triển theo một cách tuần tự từ trước đến sau, nhưng cũng có thể là

phát triển một cách nhảy vọt. Lựa chọn con đường phát triển như thế nào cho phù hợp là
do phải xét tới điều kiện lịch sử của mỗi quốc gia khác nhau (nhân tố khách quan và chủ
quan). Như vậy, quá trình lịch sử - tự nhiên của sự phát triển xã hội chẳng những diễn ra
bằng con đường phát triển tuần tự, mà còn bao hàm cả sự bỏ qua, trong những điều kiện
nhất định, một hoặc một vài hình thái kinh tế xã hội nhất định.
Kể từ khi học thuyết HT KTXH của Mác ra đời đến nay, loài người đã có những bước
phát triển hết sức to lớn về mọi mặt, nhưng học thuyết đó vẫn là phương pháp thực sự
khoa học để nhận thức một cách đúng đắn về đời sống xã hội. Đương nhiên, học thuyết
đó không bao giờ có tham vọng giải thích tất cả, mà chỉ có ý muốn vạch ra một phương
pháp duy nhất khoa học để giải thích lịch sử. Gần đây, có những quan điểm đi đến phủ
nhận học thuyết HT KTXH và cho rằng phải thay thế bằng cách tiếp cận văn minh. Cách
tiếp cận này phân chia lịch sử phát triển nhân loại thành văn minh nông nghiệp, văn minh
7
công nghiệp, văn minh hậu công nghiệp. Thực chất đây là phân chia dựa vào trình độ phát
triển kinh tế, dựa vào trình độ khoa học và công nghệ. Rõ ràng, cách tiếp cận này không
thể thay thế được học thuyết HT KTXH, nó không thể vạch ra mối quan hệ giữa các mặt
trong đời sống xã hội và các quy luật vận động, phát triển của xã hội từ thấp đến cao.

2. Quá trình vận dụng học thuyết HT KT-XH của Đảng ta ở Việt Nam
Sau khi xây dựng học thuyết hình thái kinh tế - xã hội, C. Mác đã vận dụng học thuyết
ấy vào phân tích xã hội tư bản, vạch ra các quy luật vận động, phát triển của xã hội đó, và
đi đến dự báo về sự ra đời của hình thái kinh tế - xã hội cao hơn, hình thái cộng sản chủ
nghĩa, mà giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội. Ông đã từng khẳng định: “Chủ nghĩa cộng
sản là một phong trào hiện thực nhằm thủ tiêu trạng thái hiện tồn”. Theo Ăngghen, các
nước lạc hậu, tiền tư bản chủ nghĩa đều có thể đi lên chủ nghĩa xã bằng những con đường
phát triển bỏ qua tư bản chủ nghĩa. Muốn làm được điều đó thì cách mạng vô sản phải
thành công, nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản đã tiến hành cách
mạng giành được chính quyền từ tay giai cấp thống trị và các nước đó đã giành được sự
giúp đỡ từ các nước phương Tây. Quan điểm này đã được trình bày rõ trong tác phẩm:
“Bàn về xã hội ở Nga”. Hơn thế nữa, lý luận của chủ nghĩa Mác về hình thái kinh tế - xã
hội đã khẳng định: các quốc gia, dân tộc có thể phát triển tuần tự theo những bước quá độ
của các hình thái kinh tế - xã hội nối tiếp nhau từ cộng sản nguyên thủy đến cộng sản chủ
nghĩa, song căn cứ vào điều kiện lịch sự cụ thể mà các quốc gia có thể bỏ qua một hay
một vài hình thái kinh tế - xã hội. Còn theo Lênin, có 2 hình thức quá độ; quá độ trực tiếp
và quá độ gián tiếp. Lê-nin cho rằng những nước mà chủ nghĩa tư bản đã phát triển thì có
thể đi lên chủ nghĩa xã hội bằng quá độ trực tiếp. Ngược lại, những nước lạc hậu có thể đi
lên chủ nghĩa xã hội bằng quá độ gián tiếp. Thực chất đó là sự bỏ qua tư bản chủ nghĩa
tiến thẳng lên con đường xã hội chủ nghĩa.
Việc lựa chọn con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là
một tất yếu lịch sử Nước ta là nước lạc hậu về kinh tế lại bị đế quốc thực dân thống trị
một thời gian dài, cơ sở vật chất kỹ thuật còn nghèo và lạc hậu. Đảng ta khẳng định sau
khi Việt Nam tiến hành công cuộc cách màng xã hội chủ nghĩa, xây dựng chủ nghĩa xã
hội từ một nước tiến từ bản chủ nghĩa bỏ qua chủ nghĩa tư bản sự lựa chọn trên 2 căn cứ
sau đây. Một là, chỉ có CNXH mới giải phóng được nhân dân lao động thoát khỏi áp bức,
bóc lột bất công đem lại cuộc sống ấm lo hạnh phúc cho nhân dân Hai là, thắng lợi của
cuộc cách mạng thắng lợi Nga năm 1971 đã mở ra một thời đại mới, tạo khả năng thực
hiện cho các dân tộc lạc hậu tiến lên con đường CNXH. Sự lựa chọn ấy không mâu thuẫn
với quá trình phát triển lịch sử tự nhiên của XHCN, không mâu thuẫn với hình thái kinh tế
xã hội củ chủ nghĩa Mác Lê-nin. Trong điều kiện cụ thể sự lựa chọn ấy chính là sự lựa
chọn con đường rút ngắn bỏ qua chế độ TBCN. Con đường CNXH cho phép chúng ta có
thể phát triển nhanh lực lượng sản xuất theo hướng ngày càng hiện đại, giải quyết có hiệu
8
quả các vấn đề xã hội phát triển xã hội theo chiều hướng tiến bộ vừa có thể tránh cho xã
hội và nhân dân lao động phải trả giá cho các vấn đề của xã hội tư bản mà trước hết là chế
độ người bóc lột người, là quan hệ bất bình đẳng người với người. Từ tất cả những lí do
trên, nước ta đã lựa chọn con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa. Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong điều kiện hết sức khó khăn, thử thách.
Dân số trên 80% sống bằng nông nghiệp, cơ sở vật chất kinh tế của chủ nghĩa xã hội hầu
như không có. Vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, Đảng
ta khẳng định: độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội không tách rời nhau. Viêc Đảng ta
luôn kiên định con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội là phù hợp với quy luật tiến hóa của
lịch sử, xu hướng của thời đại và điều kiện cụ thể của đất nước. Xã hội mà nhân dân ta
quyết tâm xây dựng là một xã hội của dân, do dân, vì dân, có một nền kinh tế phát triển
dựa trên lực lượng sản xuất tiến bộ và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, có nền văn hóa
đậm đà bản sắc dân tộc, con người được giải phóng, hưởng cuộc sống hạnh phúc, phát
triển về mọi mặt, các dân tộc anh em chung sống hòa bình, đoàn kết và hợp tác, hữu nghị
với nhân dân các nước trên thế giới. Bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa nghĩa là bỏ qua quan
hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng của tư bản chủ nghĩa nhưng tiếp thu những thành tựu
đạt được dưới chế độ tư bản, nhất là khoa học công nghệ để phát triển nhanh lực lượng
sản xuất và nền kinh tế hiện đại.
Nhiệm vụ trong thời kì quá độ Hiện nay nước ta vẫn đang ở trong giai đoạn quá độ lên
xã hội chủ nghĩa. Do vậy, điều kiện và hoàn cảnh đó đã đặt ra cho chúng ta những nhiệm
vụ hết sức khó khăn. Thứ nhất, một nhiệm vụ chiến lược và lâu dài của đất nước là xây
dựng và phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong quá
trình xây dựng xã hội ở nước ta “Đảng và nhà nước chủ trương thực hiện nhất quán và lâu
dài chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có
sự quản kí của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Hiện nay, tất cả các nước
đều phải xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường. Nhưng trong mỗi chế độ khác
nhau thì nền kinh tế thị trường được sử dụng với những mục đích khác nhau. Ở các nước
chủ nghĩa tư bản, đó là nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Còn ở nước ta, đó là nền
kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa vừa phù hợp với xu thế phát triển chung của nhân loại, vừa phù
hợp với yêu cầu phát triển của lực lượng sản xuất ở nước ta, với yêu cầu của quá trình xây
dựng nền kinh tê độc lập, tự chủ kết hợp với chủ động hội nhập kinh tế thế giới. Điều này
đã được Đảng ta khẳng định: “Mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa là phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất – kĩ
thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân”. Thứ hai, thực hiện công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước để xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật cho nền sản xuất lớn hiện
đại. Nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế phổ biến là sản xuất nhỏ, lao
động thủ công là phổ biến. Cái thiếu thốn nhất của nước ta là một nền đại công nghiệp.
Do vậy, chúng ta phải tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Công nghiệp hóa, hiện đại
9
hóa ở nước ta nhằm xây dựng và thiết lập cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội.
Đó là nhiệm vụ trọng tâm trong suốt thời kì quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng ta đã chỉ rõ: Con đường công nghiệp hóa,
hiện đại hóa của nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian, vừa có tuần tự vừa có nhảy vọt.
Phát huy những lợi thế của đất nước, tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ khoa học
công nghệ tiên tiến, tưng bước phát triển kinh tế tri thức. Phát huy nguồn lực trí tuệ và sức
mạnh tinh thần của người Việt Nam, coi phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công
nghệ là nền tảng và động lực của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tóm lại sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta chỉ thực sự thành công khi thực hiện thắng
lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Thứ ba, chúng ta cần kết hợp chặt
chẽ giữa phát triến kinh tế với chính trị và các mặt khác của đời sống xã hội. Gắn liền với
phát triến kinh tế, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh
công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phải không ngừng đổi mới hệ thống chính trị,
nâng cao vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa, nâng cao vai trò của các tổ chức quần chúng, phát huy sức mạnh đại đoàn
kết toàn dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đi đôi với phát triển kinh tế,
phải phát triển văn hóa, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc nhằm
không ngừng nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân; phát triển giáo dục và đào tạo
nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài; giải quyết tốt các vấn đề
xã hội. thực hiện công bằng xã hội tiến tới thực hiện mục tiêu: “dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh”.

3. KẾT LUẬN
Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội là một học thuyết khoa học. Trong điều kiện hiện
nay nó vẫn còn giữ nguyên giá trị. Nó đưa ra một phương pháp hữu hiệu để phân tích các
hiện tượng trong cuộc sống xã hội để từ đó vạch ra phương hướng và giải pháp đúng đắn
cho hoạt động thực tiễn. Những thành tựu mà công cuộc đổi mới mang lại đã chứng minh
cho sự đúng đắn của quy luật phát triển trong việc dụng hình thái kinh tế - xã hội. Xây
dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa tạo nên sự biến đổi về chất của xã
hội trong tất cả các lĩnh vực là sự nghiệp khó khăn và lâu dài. Do vậy phải trải qua một
thời kì quá độ lâu dài vời nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội. Lí
luận về hình thái kinh tế - xã hội đã chỉ ra con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là một tất
yếu khách quan và chính nó đã đề ra những hướng đi đúng đắn. Từ đó chỉ ró những giải
pháp đưa đất nước ta phát triển lên một tầm cao mới. Lý luận hình thái kinh tế xã hội
cũng là phương pháp luận khoa học để ta phân tích công cuộc xây dựng đất nước hiện
nay, luận chứng được tất yếu của định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Phân tích
đúng nguyên nhân của tình hình khủng hoảng kinh tế xã hội và chỉ ra được: Đổi mới theo
định hướng của xã hội vừa phù hợp với xu hướng phát triển thời đại vừa phù hợp với điều
kiện cụ thể của Việt Nam. Như vậy có thể khẳng định rằng: Lý luận hình thái kinh tế xã
10
hội vẫn giữ nguyên giá trị khoa học và đúng thời đại của nó. Nó là phương pháp luận thực
sự khoa học để phân tích thời đại cũng như của công cuộc xây dựng đất nước hiện đại ở
Việt Nam.

4. Danh mục tài liệu tham khảo


1. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình Triết học Mác Lênin, NXB. CTQG

2. C. Mác và Ph. Ăngghen toàn tập, NXB Chính trị quốc gia

3. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, NXB Chính trị quốc gia

4. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình Kinh tế chính trị Mác – Lênin, NXB.CTQG

11

You might also like