You are on page 1of 26

Câu 1: Sản xuất vật chất là gì?

Phân tích vai trò của sản xuất vật chất đối với sự tồn tại và phát triển của xã
hội?
A. Định nghĩa
Cách 1:
-Các nhà triết học duy tâm giải thích nguyên nhân, động lực phát triển của xã hội là từ ý thức tư tưởng của con người
hay là lực lượng siêu nhiên nào đó. Các nhà duy vật trước Mác cũng giải thích một cách duy tâm về sự phát triển của
xã hội.
-Riêng Mác thì cho rằng sản xuất là hoạt động đặc trưng riêng có của con người và của xã hội loài người đó là cái để
phân biệt sự khác nhau cơ bản giữa xã hội loài người với loài vật, đó là quá trình hoạt động có mục đích và không
ngừng sáng tạo của con người. Sự sản xuất xã hội bao gồm: Sản xuất vật chất, sản xuất tinh thần và sản xuất ra chính
bản thân con người. Ba quá trình này không tách rời nhau trong đó sản xuất vật chất giữ vai trò là cơ sở của sự tồn tại
và phát triển xã hội và xét đến cùng, quyết định đến cùng toàn bộ sự vận động đời sống xã hội.
→Từ đó ta đi đến định nghĩa: Sản xuất vật chất là quá trình con người sử dụng công cụ lao động tác động trực tiếp
hoặc gián tiếp vào tự nhiên, cải biến các dạng vật chất của tự nhiên để tạo ra của cải vật chất xã hội nhằm thỏa
mãn nhu cầu tồn tại và phát triển của con người.
Cách 2:
-Sản xuất: hoạt động không ngừng sáng tạo ra các giá trị vật chất và tinh thần nhằm mục đích thỏa mãn nhu cầu tồn tại
và phát triển của con người.
-Sự sản xuất xã hội: sản xuất và tái sản xuất ra đời sống hiện thực, bao gồm 3 phương diện không tách rời nhau đó là:
● Sản xuất vật chất: quá trình mà trong đó con người sử dụng công cụ lao động tác động trực tiếp hoặc
gián tiếp vào tự nhiên, cải biến các dạng vật chất của giới tự nhiên để tạo ra của cải xã hội nhằm thỏa
mãn nhu cầu tồn tại và phát triển của con người.
● Sản xuất tinh thần: sáng tạo ra các giá trị tinh thần nhằm thỏa mãn nhu cầu tồn tại, phát triển của con
người, xã hội
● Sản xuất ra bản thân con người:
○ Phạm vi cá nhân, gia đình: sự sinh đẻ, nuôi dạy con cái để duy trì nòi giống
○ Phạm vi xã hội: sự tăng trưởng dân số, phát triển con người với tư cách là thực thể sinh học –
xã hội
→Sản xuất vật chất là cơ sở của sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người, quyết định toàn bộ sự vận động,
phát triển của đời sống xã hội.

B. Vai trò
Theo quan điểm duy vật lịch sử, sản xuất vật chất giữ vai trò là nhân tố quyết định sự sinh tồn, phát triển của con người
và xã hội loài người, là hoạt động nền tảng làm phát sinh phát triển những mối quan hệ của con người. Nó chính là cơ
sở của sự hình thành, biến đổi và phát triển của xã hội loài người.
- Khác với các quan điểm duy tâm về lịch sử, C.Mác đã xuất phát từ “ Con người hiện thực” và đi đến kết luận rằng :
“... tiền đề đầu tiên của mọi sự tồn tại của con người và do đó là tiền đề của mọi lịch sử đó là: người ta phải có khả
năng sống đã rồi mới có thể làm ra lịch sử, nhưng muốn sống được thì trước hết cần phải có thức ăn, thức uống, nhà ở,
quần áo và một vài thứ khác nữa. Như vậy, hành vi lịch sử đầu tiên là việc sản xuất ra những tư liệu để thỏa mãn những
nhu cầu ấy, việc sản xuất ra bản thân đời sống vật chất…”. Cũng vì vậy, có thể khẳng định: con người với tư cách
“Người” được bắt đầu bằng tự phân biệt với súc vật ngay khi con người bắt đầu sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của
mình.

1
- Trong quá trình sản xuất vật chất, con người không ngừng làm biến đổi tự nhiên, biến đổi xã hội, đồng thời làm biến
đổi bản thân mình. Sản xuất vật chất không ngừng phát triển. Sự phát triển của sản xuất vật chất quyết định sự biến đổi,
phát triển các mặt của đời sống xã hội, quyết định phát triển xã hội từ thấp đến cao. Như vậy, sự vận động phát triển
của toàn bộ đời sống xã hội, suy đến cùng có nguyên nhân từ tình trạng phát triển của nền sản xuất xã hội. Do đó, để
giải thích và giải quyết đúng đắn các vấn đề của đời sống xã hội thì cần phải tìm nguyên nhân cuối cùng của nó từ tình
trạng phát triển của nền sản xuất vật chất của xã hội đó, mà căn bản là từ trình độ phát triển phương thức sản xuất của
nó. Sản xuất vật chất không những là cơ sở cho mọi sự sinh tồn của xã hội mà còn là cơ sở để hình thành nên tất cả các
hình thức quan hệ xã hội khác như nhà nước, pháp quyền, đạo đức, nghệ thuật,… Theo C.Mác “ việc sản xuất ra những
tư liệu sinh hoạt vật chất trực tiếp và chính, mỗi một giai đoạn phát triển kinh tế nhất định của một dân tộc hay một
thời đại tạo ra một cơ sở, từ đó mà người ta phát triển các thể chế nhà nước, các quan điểm pháp quyền, nghệ thuật, và
thậm chí cả những quan niệm tôn giáo của con người ta”.
- Sản xuất vật chất còn là cơ sở cho sự tiến bộ xã hội, không phải lúc nào sản xuất cũng ở trong trình độ cũ mà nói
chung là không ngừng tiến lên từ thấp đến cao, mỗi khi sản xuất đến giai đoạn mới cách thức sản xuất cũng thay đổi
theo, kỹ thuật được cải tiến, năng suất lao động được nâng cao các quan hệ sản xuất đều biến đổi theo. Như chúng ta đã
biết: trong quá trình tồn tại và phát triển của xã hội loài người, con người luôn phải nỗ lực sản xuất để tạo ra của cải vật
chất để phục vụ cuộc sống và thúc đẩy sự phát triển trong xã hội.
- Từ thời nguyên thủy đến nay con người đã trải qua rất nhiều hình thức lao động từ thô sơ lạc hậu nhưng qua quá trình
biến đổi trong xã hội đến ngày nay con người đã sáng tạo ra được nhiều hình thức lao động hết sức tinh xảo và hiện
đại. Ở tất cả các hình thức lao động mà con người đã tạo ra đó cũng chỉ nhằm mục đích biến đổi tự nhiên để tạo ra
những sản phẩm xã hội phục vụ cho nhu cầu chính yếu cho họ và nhằm thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Trong quá
trình phát triển, loài người đã vượt qua nhiều nấc thang lịch sử, cơ sở của việc chuyển từ nấc thang lịch sử này sang nấc
thang lịch sử khác, rồi cơ sở của tiến bộ xã hội là gì?
C.Mác và Ăngghen đã có một phát minh vĩ đại đó là: “sản xuất vật chất là cơ sở cho sự phát triển của xã hội loài
người” vì: Muốn sống trước hết con người phải có thức ăn, nhà ở và những của cải vật chất khác.
- Những tư liệu sinh hoạt cho con người không có sẵn trong tự nhiên mà chúng được tạo ra thông qua lao động của con
người. Vì vậy sản xuất vật chất là cơ sở của tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Việc chuyển từ nấc thang này
sang nấc thang khác của sự phát triển ấy trước hết gắn liền với sự phát triển của quá trình sản xuất.
-Kết luận trên đây có ý nghĩa to lớn động viên sự hình thành giai cấp vô sản nói chung và kinh tế chính trị của giai cấp
vô sản nói riêng. Ngày nay ý nghĩa của các nhân tố xã hội và tinh thần ngày càng được đề cao trong xã hội. Lĩnh vực
không sản xuất vật chất phát triển nhanh chóng nhưng vai trò của sản xuất vật chất quyết định sự tồn tại và phát triển
của xã hội vẫn còn nguyên giá trị. Một dân tộc, một đất nước sẽ bị diệt vong không phải trong một năm mà chỉ trong
vòng một tuần nếu ngừng sản xuất.
-Sản xuất vật chất không chỉ tạo ra sản phẩm xã hội cần thiết phục vụ cho nhu cầu của con người mà nó còn tạo ra sản
phẩm thặng dư. Sản phẩm cần thiết dùng để duy trì khả năng lao động và đào tạo thế hệ lao động mới để thay thế
những người mất khả năng lao động, rồi dùng để bù đắp những chi phí về ăn, mặc, ở, để thỏa mãn các nhu cầu về văn
hóa, xã hội và các nhu cầu kinh tế khác.
-Sản phẩm thặng dư là kết quả và cũng là nguồn gốc của tiến bộ xã hội, là điều kiện quyết định để nâng cao mức sống
của nhân dân và mở rộng khả năng phát triển của kinh tế xã hội trong tương lai. Nó bắt nguồn từ trình độ của năng suất
lao động tăng lên với quy cách là một quy luật kinh tế chung cho các xã hội có trình độ sản xuất phát triển nhất định.
-Qua sự phân tích trên ta có thể kết luận rằng: Sản xuất vật chất có vai trò hết sức quan trọng. Nó có thể tạo ra tư liệu
sản xuất, tạo ra các mặt các quan hệ xã hội, rồi nó có thể cải biến tự nhiên - xã hội - bản thân con người và cuối cùng
nó quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội.
→Tóm lại, dù được xét trong toàn bộ lịch sử của sự hình thành và phát triển của xã hội loài người hay trong giai
đoạn lịch sử cụ thể thì sản xuất vật chất vẫn luôn đóng vai trò là cơ sở, là nền tảng của sự tồn tại và phát triển của
xã hội.

Câu 2: Trong kết cấu của lực lượng sản xuất yếu tố nào giữ vai trò quyết định nhất? Tại sao?
A. Định nghĩa:
2
Lực lượng sản xuất là sự kết hợp giữa người lao động với tư liệu sản xuất, tạo ra sức sản xuất và năng lực thực tiễn làm
biến đổi các đối tượng vật chất của giới tự nhiên theo nhu cầu nhất định của con người và xã hội.
Về cấu trúc, lực lượng sản xuất được xem xét trên cả hai mặt, đó là mặt kinh tế - kỹ thuật (tư liệu sản xuất) và mặt kinh
tế - xã hội (người lao động). Lực lượng sản xuất chính là sự kết hợp giữa “lao động sống” với “lao động vật hóa” tạo ra
sức sản xuất, là toàn bộ những năng lực thực tiễn dùng trong sản xuất của xã hội ở các thời kỳ nhất định.
Như vậy, lực lượng sản xuất là một hệ thống gồm các yếu tố (người lao động và tư liệu sản xuất) cùng mối quan hệ
(phương thức kết hợp), tạo ra thuộc tính đặc biệt (sức sản xuất) để cải biến giới tự nhiên, sáng tạo ra của cải vật chất
theo mục đích của con người. Đây là sự thể hiện năng lực thực tiễn cơ bản nhất - năng lực hoạt động sản xuất vật
chất của con người.

B. Vì sao?
Trong lực lượng sản xuất, người lao động là nhân tố hàng đầu giữ vai trò quyết định, bởi vì người lao động là chủ thể
sáng tạo và sử dụng công cụ lao động. Suy đến cùng, các tư liệu sản xuất chỉ là sản phẩm lao động của con người, đồng
thời giá trị và hiệu quả thực tế của các tư liệu sản xuất phụ thuộc và trình độ sử dụng của người lao động. Hơn nữa,
trong quá trình sản xuất, nếu như công cụ lao động bị hao phí và di chuyển dần giá trị vào sản phẩm, thi do bản chất
sáng tạo của mình, trong quá trình lao động người lao động không chỉ sáng tạo ra giá trị đủ bù đắp hao phí lao động,
mà còn sáng tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị bỏ ra ban đầu. Người lao động là nguồn gốc của mọi sáng tạo trong sản
xuất vật chất, nguồn gốc của sự phát triển sản xuất. Bên cạnh đó, người lao động là chủ thể của quá trình sản xuất,
quyết định tới mục đích, nhiệm vụ, phương hướng, quy mô, năng suất, hiệu quả... của quá trình sản xuất. Cùng với quá
trình lao động sản xuất, kinh nghiệm và kỹ năng lao động của con người ngày càng tăng lên, đặc biệt là hàm lượng trí
tuệ, do đó làm cho họ trở thành yếu tố quyết định của lực lượng sản xuất.

Câu 3: Trong kết cấu của lực lượng sản xuất, yếu tố nào đông nhất, cách mạng nhất? Tại sao?
Trong kết cấu của lực lượng sản xuất, yếu tố đông nhất, cách mạng nhất là công cụ lao động. Công cụ lao động giữ vai
trò quyết định trong tư liệu sản xuất cũng như lực lượng sản xuất vì công cụ lao động nhân sức mạnh của con người
trong quá trình chinh phục giới tự nhiên. Công cụ lao động càng phát triển cao thì kỹ năng lao động của con người
càng cao, nên trình độ phát triển của sản xuất đều do trình độ phát triển của công cụ lao động quyết định. Sự phát triển
công cụ sản xuất là thước đo trình độ chinh phục tự nhiên của con người, là tiêu chuẩn phân biệt các thời đại kinh tế
với nhau.

Câu 4: Tại sao khoa học là lực lượng sản xuất trực tiếp của xã hội hiện nay? Cho ví dụ?
A. Lý giải:
Ngày nay, khoa học công nghệ ngày càng trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp và trở thành yếu tố trực tiếp của lực
lượng sản xuất.
-Bằng những nghiên cứu khoa học, C. Mác đã đưa ra một phán đoán: “Sự phát triển của tư bản cố định là chỉ số cho
thấy tri thức xã hội phổ biến (wissen knowledge) đã chuyển hóa đến mức độ nào thành lực lượng sản xuất trực tiếp, do
đó nó cũng là chỉ số cho thấy những điều kiện của chính quá trình sống của xã hội đã phục tùng đến một mức độ nào
sự kiểm soát của trí tuệ phổ biến và đã được cải tạo đến mức độ nào cho phù hợp với quá trình ấy; những lực lượng sản
xuất xã hội đã được tạo ra đến mức độ nào cho phù hợp với quá trình ấy; những lực lượng sản xuất xã hội đã được tạo
ra đến mức độ nào không những dưới hình thức tri thức, mà cả như là những cơ quan thực hành xã hội trực tiếp, những
cơ quan trực tiếp của quá trình sống hiện thực”
-Theo luận điểm nói trên của C. Mác, tri thức khoa học đã làm cho tư bản cố định như nhà xưởng, máy móc được dùng
trong sản xuất chuyển hóa đến một mức độ nhất định nào đó thì trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Nói cách khác,
tri thức khoa học được ứng dụng, được vật hóa thành máy móc, thành công cụ sản xuất và được người lao động sử
dụng trong quá trình sản xuất, do đó, nó trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp

3
-Khoa học đi vào hợp lý hoá quá trình tổ chức, quản lý sản xuất, nâng cao năng suất lao động. Những thành tựu của
cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã tạo ra bước phát triển nhảy vọt của đời sống xã hội nói chung và lực lượng
sản xuất nói riêng, làm biến đổi to lớn trong sản xuất tạo ra những ngành sản xuất mới, hiện đại; những lĩnh vực kĩ
thuật mũi nhọn; những phương pháp sản xuất mới… đặc biệt là sự tác động trực tiếp của công nghệ số, công nghệ in
3D, Big Data, kết nối vạn vật với Internet vạn vật, điện toán đám mây, robot tự động,... đã tạo nên sự bùng nổ trong
mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội, chuyển hóa toàn bộ thế giới thực thành thế giới số với tốc độ rất nhanh, quy
mô rất lớn, tích hợp nhiều lĩnh vực, tương tác đa chiều.
-Khoa học không phải là yếu tố lý thuyết đứng ngoài quá trình sản xuất vật chất, mà trở thành mặt bên trong của hệ
thống sản xuất vật chất. Tri thức khoa học được vật hóa, kết tinh, thâm nhập vào các yếu tố của lực lượng sản xuất
nhanh và hiệu quả như ngày nay. Những phát minh, sáng chế của khoa học trong thời gian ngắn biến thành kỹ thuật,
công nghệ, công cụ mới, tạo ra những vật liệu không có sẵn trong tự nhiên.

B. Ví dụ
-Những năm qua, việc ứng dụng khoa học công nghệ vào các hoạt động giáo dục để cải tiến phương pháp, hình
thức và công cụ giảng dạy, học tập đã được phát triển khá rộng rãi. Điều này đã được thể hiện rõ nét nhất trong
thời gian chuyển việc dạy và học trực tiếp sang dạy và học trực tuyến do ảnh hưởng của dịch Covid-19. Trên cơ sở
khai thác tối đa các ứng dụng KHCN, đặc biệt là các phần mềm dạy học trực tuyến, như: Microsoft Teams, Zoom,
Google Classroom,... đã giúp giáo viên và học sinh đều tham gia một cách dễ dàng vào lớp học được mở trên hệ thống
thông qua máy tính, máy tính bảng, điện thoại thông minh có kết nối internet. Trong quá trình giảng dạy đó, giáo viên
có thể lựa chọn cho mình công cụ soạn bài điện tử, công cụ tạo bài kiểm tra … để trực tiếp giảng dạy cho học sinh hoặc
giao bài tập, lưu trữ bài giảng, tài liệu học tập dưới nhiều định dạng khác nhau, như: word, PDF, video… Những ứng
dụng này tạo thuận lợi cho giáo viên cả về việc tổ chức, quản lý lớp học cũng như đánh giá chất lượng học tập của học
sinh.
-Một ví dụ khác của việc khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp là trong quá trình giáo dục và đào tạo
kết hợp với khoa học, những người lao động mới đã được tạo ra. Họ là những lao động trí tuệ sáng tạo, vừa có tri
thức chuyên sâu và có hiểu biết rộng. Là một sinh viên ngành truyền thông, bản thân em cũng cần có sự hiểu biết và
vận dụng khoa học trong việc học tập hiện tại cũng như trong công việc sau này. Trong quá trình học, bản thân em
cũng như nhiều bạn học khác trong ngành đã được tiếp cận với công nghệ AI (trí tuệ nhân tạo) nhằm hỗ trợ việc tìm
kiếm thông tin. Chúng em coi AI như một công cụ đồng hành trong việc tự học nhưng không phụ thuộc vào nó. Từ
những thông tin thu thập từ AI, em đã có thể tự tư duy ra các ý tưởng sáng tạo riêng của mình cũng như triển khai các ý
tưởng đó. Cụ thể, ở học phần Tin học (Kỹ thuật công nghệ truyền thông), chúng em đã nhận được đề bài thiết kế bộ
nhận diện thương hiệu và quay video quảng bá du lịch Hà Nội. Với đề bài này, chúng em đã phần nào được tiếp cận
với công việc tương lai của mình trong ngành truyền thông là thiết kế và quay dựng. Đầu tiên, với AI, chúng em đã
nghiên cứu tìm hiểu và lựa chọn tệp khách hàng, nhu cầu của họ để xác định mô hình dự án của mình. Sau đó, chúng
em sử dụng Pinterest - công cụ khám phá trực quan - để tìm các hình ảnh và ý tưởng liên quan rồi dùng các phần mềm
Adobe Illustrator và Photoshop để thiết kế như những gì đã học ở trên lớp. Đối với việc quay dựng, máy ảnh và Adobe
Premiere - phần mềm chỉnh sửa video - được sử dụng.

Câu 5: Vì sao nói đấu tranh giai cấp là một trong những động lực phát triển của xã hội có giai cấp? Liên hệ thực
tiễn đấu tranh giai cấp trong thời kì quá độ nên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay
A. Đấu tranh giai cấp là gì:
Khái niệm đấu tranh giai cấp được V.I.Lênin định nghĩa một cách khoa học như sau: “Đấu tranh giai cấp là đấu tranh
của một bộ phận nhân dân này chống một bộ phận khác, cuộc đấu tranh của quần chúng bị tước các quyền, bị áp bức
và lao động, chống bọn đặc quyền đặc lợi, bọn áp bức và ăn bám, cuộc đấu tranh của những người công nhân làm thuê
hay những người vô sản chống những người hữu sản hay giai cấp tư sản” .
Cần hiểu đấu tranh giai cấp qua định nghĩa này như thế nào ?

4
-Một là, cũng như giai cấp trong định nghĩa giai cấp của V.I.Lênin, đấu tranh giai cấp không phải là xung đột cá nhân
hay xung đột của các nhóm nhỏ, mà là đấu tranh trên qui mô rộng lớn của xã hội (đặc trưng về lượng).
-Hai là, đấu tranh giai cấp có nguyên nhân xã hội từ xung đột về lợi ích, trước hết là lợi ích kinh tế giữa các giai cấp
đối kháng – dù cho các thành viên của các giai cấp nhận thức được hay không. Xét đến cùng, cội nguồn vật chất của
đấu tranh giai cấp là mâu thuẫn ngày càng sâu sắc và chín muồi giữa lực lượng sản xuất mới đòi được giải phóng với
quan hệ sản xuất lỗi thời. →Như vậy, nếu đặc trưng bản chất của giai cấp (được phân tích từ định nghĩa của V.I.Lênin)
vốn mang tính vật chất – khách quan, thì đấu tranh giai cấp qua định nghĩa vừa được phân tích cũng mang tính vật chất
– khách quan một cách tương ứng. Nói vắn tắt: đấu tranh giai cấp là biểu hiện tất yếu về mặt xã hội của mâu thuẫn
trong lòng phương thức sản xuất.
-Ba là, trong định nghĩa đấu tranh giai cấp, V.I.Lênin không quên nhấn mạnh cuộc đấu tranh giữa giai cấp vô sản với
giai cấp tư sản như là cuộc đấu tranh cao nhất, điển hình nhất và cũng là cuối cùng của lịch sử đấu tranh giai cấp. Các
cuộc đấu tranh giai cấp trước kia từ thời chiếm hữu nô lệ tới thời phong kiến là kém điển hình, vì thường diễn ra dưới
hình thức đẳng cấp hơn là giai cấp.
-Bốn là, trong những bối cảnh lịch sử nhất định, có thể có đối kháng về lợi ích giữa các giai cấp, các tập đoàn bóc lột -
thống trị, nhưng chúng vẫn có thể dễ dàng cấu kết với nhau để đàn áp cuộc đấu tranh chính nghĩa của quần chúng lao
động và các dân tộc bị áp bức.
-Năm là, cần lưu ý liên minh giai cấp là vấn đề đặc biệt quan trọng trong đấu tranh giai cấp, là một hình thức tập hợp
lực lượng thêm bạn, bớt thù trong đấu tranh giai cấp, đặc biệt khi mà đấu tranh giai cấp phát triển tới giai đoạn quyết
định: nó có thể và cần phải lôi cuốn ngày càng đông đảo các giai cấp, tầng lớp vào bên này hay bên kia trận tuyến. Có
liên minh tạm thời giữa các giai cấp hay tầng lớp có lợi ích căn bản đối lập nhau. Có liên minh lâu dài giữa các giai cấp
hay tầng lớp có lợi ích căn bản phù hợp nhau. Liên minh giai cấp cùng với liên minh dân tộc có thể diễn ra từ quy mô
trong nước tới quốc tế để hình thành nên các tầng mặt trận thống nhất dân tộc, khu vực và toàn thế giới. Đương nhiên,
không phải vì vậy mà ảo tưởng rằng đấu tranh giai cấp bị xóa nhòa trong các liên minh hay trong các mặt trận. Xưa
nay, không một liên minh hay mặt trận nào khiến cho các giai cấp khác nhau tự nguyện vứt bỏ lợi ích cơ bản sống còn
của mình.

B. Đấu tranh giai cấp là động lực phát triển chủ yếu của xã hội có giai cấp.
CNDV lịch sử khẳng định động lực phát triển chân chính và chủ yếu nhất của lịch sử xã hội có giai cấp là đấu tranh
cách mạng của các giai cấp bị áp bức, bị bóc lột chống lại các giai cấp thống trị, áp bức, bóc lột. Cùng với thời gian,
cuộc đấu tranh này sẽ phát triển tới đỉnh cao là các cuộc cách mạng xã hội. Kết cục vật chất của những biến cố lịch sử
phi thường này là sự chiến thắng của các quan hệ sản xuất mới đối với các quan hệ sản xuất cũ, giải phóng và phát triển
vượt bậc lực lượng sản xuất nói riêng, thúc đẩy tiến bộ xã hội nói chung trên mọi mặt của đời sống xã hội.

Vai trò động lực của đấu tranh giai cấp không chỉ thể hiện rõ nhất qua các cuộc cách mạng xã hội long trời lở đất,
mà còn được triết học Mác-Lênin nhìn nhận dưới một loạt các khía cạnh dưới đây:
-Thứ nhất, đấu tranh giai cấp còn là động lực phát triển xã hội trong thời bình. C.Mác nêu ví dụ điển hình ở nước Anh,
rằng “… kể từ 1925 (nổ ra khủng hoảng “thừa” đầu tiên trong lịch sử phát triển TBCN – chú thích của chúng tôi), sự
phát sinh và sử dụng máy móc chỉ là do kết quả của đấu tranh của các chủ xí nghiệp và công nhân” . Xét đến cùng thì
điều đó vẫn đúng đối với cả cách mạng khoa – công nghệ trong điều kiện của CNTB hiện đại ngày nay.
-Thứ hai, các cải cách xã hội tiến bộ nhất định mà các giai cấp thống trị lỗi thời thực hiện không phải là “ban ơn”, mà
chính là kết quả đấu tranh bền bỉ của quần chúng lao động cùng với các lực lượng tiến bộ trong nước và trên thế giới.
-Thứ ba, đấu tranh giai cấp đặc biệt để lại những dấu ấn sâu sắc trong lĩnh vực tinh thần tinh tế và nhạy cảm của đời
sống xã hội là lĩnh vực văn hóa – nghệ thuật, và cũng là động lực mạnh mẽ của lĩnh vực này.
-Thứ tư, đấu tranh giai cấp chẳng những có tác động cải tạo xã hội, xóa bỏ các lực lượng lỗi thời và phản động, mà còn
cải tạo chính bản thân các giai cấp cách mạng.
-Thứ năm, đấu tranh giai cấp không phải là động lực duy nhất của xã hội có giai cấp, nhưng là động lực mạnh mẽ nhất
và trực tiếp nhất của xã hội có giai cấp. Các cuộc đấu tranh khác như đấu tranh dân tộc, đấu tranh tôn giáo… như nhận
xét của Ăngghen – đều phản ánh ít nhiều đấu tranh giai cấp.
5
C. Liên hệ thực tiễn đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam hiện nay:
Khái quát chung về tính chất của đấu tranh giai cấp ở Việt Nam hiện nay trong thời kỳ quá độ:
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt nam hiện nay đấu tranh giai cấp là tất yếu, tính tất yếu của nó do
chính đặc điểm kinh tế - xã hội của thời kỳ quá độ quy định.-Mục tiêu cuối cùng của cuộc đấu tranh giai cấp của giai
cấp vô sản là xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội chưa hoàn thành.
Quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là quá độ gián tiếp từ một xã hội thuộc địa, nửa phong kiến với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất còn thấp, tiến lên xã hội chủ nghĩa bỏ qua chế độ tư bản. Trong thời kỳ này còn cơ sở kinh
tế để nảy sinh giai cấp bóc lột và mâu thuẫn giai cấp vẫn tồn tại. Với đặc điểm nền kinh tế sản xuất nhỏ là phổ biến và
bản thân trong quá trình phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường đòi hỏi tất
yếu phải đấu tranh chống lại khuynh hướng tự phát đi lên chủ nghĩa tư bản, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trên
các lĩnh vực phát triển của đất nước.
Những khó khăn, thách thức phải đối mặt trong đấu tranh giai cấp trong thời kì quá độ lên xhcn ở Việt Nam hiện
nay:

-Hiện nay, các thế lực phản động trong nước đang bằng nhiều âm mưu và thủ đoạn chống phá sự nghiệp cách mạng của
đất nước. Chúng đang ra sức tập hợp lực lượng, lôi kéo các phần tử bất mãn với chế độ, lợi dụng chiêu bài dân chủ,
nhân quyền, dân tộc, tôn giáo… để chống phá sự nghiệp cách mạng. Để thực hiện các mưu đồ phản động đó, chúng
đang tìm mọi cách câu kết với chủ nghĩa đế quốc, ráo riết thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình” hòng xóa bỏ vai trò
lãnh đạo của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
-Bên cạnh đó trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay, những tàn dư về tư tưởng, tâm lý lạc hậu
nảy sinh chính trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, đó là những tiêu cực do mặt trái của nền kinh tế thị trường
sinh ra. Tất cả những yếu tố và tàn dư lạc hậu đó không tự động mất đi, mà chỉ có thể thông qua cuộc đấu tranh giai
cấp mới loại bỏ được nó.
Cuộc đấu tranh giai cấp ở Việt Nam hiện nay đang diễn ra gay go, phức tạp trên tất cả lĩnh vực của đời sống xã
hội.Cuộc đấu tranh giai cấp ở Việt Nam trong thời kỳ mới:
● Chính vì những lý do đó, cuộc đấu tranh giai cấp ở Việt Nam hiện nay đang diễn ra trong điều kiện mới với những
thuận lợi rất cơ bản song cũng có không ít các khó khăn.
○ Cùng với những biến đổi to lớn về kinh tế - xã hội, cơ cấu xã hội – giai cấp, địa vị của các giai cấp
trong xã hội ta có biến đổi căn bản, tạo ra so sánh lực lượng có lợi cho sự nghiệp cách mạng. Giai cấp
công nhân Việt Nam trở thành giai cấp lãnh đạo sự nghiệp cách mạng và có sự phát triển mạnh mẽ về
cả số lượng và chất lượng.
○ Khối liên minh giai cấp mới công nhân – nông dân – trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt
Nam được củng cố vững chắc và trở thành nền tảng của chế độ xã hội mới.
○ Dù bối cảnh quốc tế hiện nay phức tạp, song vai trò lãnh đạo của Đảng vẫn được giữ vững và tăng
cường. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam tiếp tục được củng cố, hoàn thiện và trở
thành công cụ chính trị mạnh mẽ trong cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản và nhân dân lao
động.
○ Sự nghiệp đổi mới đất nước hơn 30 năm qua đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử,
tạo ra thế và lực mới cho đất nước tiếp tục phát triển. Những thành quả của sự nghiệp cách mạng và
các tiền đề kinh tế - vật chất đã tạo dựng được là cơ sở để thực hiện thắng lợi mục tiêu của cuộc cách
mạng xã hội chủ nghĩa
○ Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, xu hướng toàn cầu hóa, hội nhập và hợp tác quốc tế,
khu vực phát triển đang tạo ra cho cách mạng Việt Nam cả thời cơ, vận hội và cả các thách thức trên
con đường phát triển của mình
● Bên cạnh những điều kiện thuận lợi cơ bản trên, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, cách mạng Việt Nam
còn gặp không ít, thời cơ và thách thức đan xen nhau.

6
○ Các thế lực thù địch vẫn tiếp tục thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”, gây bạo loạn lật đổ, sử dụng
các chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền” hòng làm thay đổi chế độ chính trị ở Việt Nam.
○ Ngoài ra sự khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội chủ nghĩa trên thế giới cũng tác động không nhỏ đến
cuộc đấu tranh giai cấp ở Việt Nam hiện nay.
→Bởi vậy xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một nhiệm vụ trong đại, phức tạp và lâu dài cần sự
góp sức của toàn xã hội.

Câu 6: Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng? Đảng Cộng Sản Việt Nam
đã vận dụng mối quan hệ này như thế nào trong thời kỳ đổi mới
A. Mối quan hệ biện chứng CSHT & KTTT
Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là một quy luật cơ bản của sự vận động, phát triển
lịch sử xã hội. Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là hai mặt cơ bản của xã hội gắn bó hữu cơ, có quan hệ biện
chứng, trong đó cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng, còn kiến trúc thượng tầng tác động trở lại to lớn, mạnh
mẽ đối với cơ sở hạ tầng. Thực chất là sự hình thành, vận động và phát triển của các quan điểm tư tưởng cùng với
những thể chế chính trị - xã hội tương ứng xét đến cùng phụ thuộc vào quá trình sản xuất và tái sản xuất các quan
hệ kinh tế.

B. Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng
-Chủ nghĩa duy vật lịch sử khẳng định cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng, bởi vì, quan hệ vật chất quyết
định quan hệ tinh thần; tính tất yếu kinh tế xét đến cùng quyết định tính tất yếu chính trị - xã hội.
-Trong đời sống hiện thực của xã hội, kiến trúc thượng tầng luôn được biểu hiện ra một cách phong phú, phức tạp và
đôi khi dường như không trực tiếp gắn với cơ sở hạ tầng. Nhưng đó chỉ là những biểu hiện bề ngoài, còn trong thực tế
tất cả những hiện tượng của kiến trúc thượng tầng đều có nguyên nhân sâu xa trong những điều kiện kinh tế - vật chất
của xã hội. Bất kỳ một hiện tượng nào thuộc kiến trúc thượng tầng, như chính trị, pháp luật, đảng phái, triết học, đạo
đức, v.v. đều không thể giải thích được từ chính bản thân nó mà tất cả xét đến cùng phụ thuộc vào cơ sở hạ tầng, do cơ
sở hạ tầng quyết định.
→Vì vậy, vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng thể hiện trước hết ở chỗ, cơ sở hạ tầng với
tư cách là cơ cấu kinh tế hiện thực của xã hội sẽ quyết định kiểu kiến trúc thượng tầng của xã hội ấy . Cơ sở hạ tầng
không chỉ sản sinh ra một kiểu kiến trúc thượng tầng tương ứng - tức là quyết định nguồn gốc, mà còn quyết định đến
cơ cấu, tính chất và sự vận động, phát triển của kiến trúc thượng tầng.
+Nếu cơ sở hạ tầng có đối kháng hay không đối kháng, thì kiến trúc thượng tầng của nó cũng có tính chất như vậy.
Trong xã hội có đối kháng giai cấp, giai cấp nào chiếm địa vị thống trị về kinh tế thì cũng chiếm địa vị thống trị trong
đời sống chính trị, tinh thần của xã hội; mâu thuẫn trong lĩnh vực kinh tế quyết định tính chất mâu thuẫn trong lĩnh vực
tư tưởng của xã hội. Bởi vậy, cơ sở hạ tầng như thế nào thì cơ cấu, tính chất của kiến trúc thượng tầng là như thế ấy.
+Những biến đổi căn bản của cơ sở hạ tầng sớm hay muộn sẽ dẫn đến sự biến đổi căn bản trong kiến trúc thượng tầng.
Sự biến đổi đó diễn ra trong từng hình thái kinh tế - xã hội, cũng như khi chuyển từ một hình thái kinh tế - xã hội này
sang một hình thái kinh tế - xã hội khác. C. Mác khẳng định: “Cơ sở kinh tế thay đổi thì toàn bộ cái kiến trúc thượng
tầng đồ sộ cũng bị đảo lộn ít nhiều nhanh chóng”[2]. Nguyên nhân của những biến đổi đó xét cho cùng là do sự phát
triển của lực lượng sản xuất. Tuy nhiên, sự phát triển của lực lượng sản xuất chỉ trực tiếp gây ra sự biến đổi của cơ sở
hạ tầng và đến lượt nó, sự biến đổi của cơ sở hạ tầng làm cho kiến trúc thượng tầng biến đổi một cách căn bản. Sự biến
đổi của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng diễn ra rất phức tạp trong quá trình chuyển từ một hình thái kinh tế - xã
hội lỗi thời sang một hình thái kinh tế - xã hội mới, tiến bộ hơn. Trong xã hội có đối kháng giai cấp, sự biến đổi đó tất
yếu phải thông qua đấu tranh giai cấp và cách mạng xã hội.
→Sự thay đổi của cơ sở hạ tầng đưa tới sự thay đổi của kiến trúc thượng tầng . Nhưng sự thay đổi của kiến trúc
thượng tầng diễn ra rất phức tạp, có những bộ phận của kiến trúc thượng tầng thay đổi nhanh chóng cùng với sự thay
đổi của cơ sở hạ tầng như chính trị, luật pháp, v.v.; có những nhân tố riêng lẻ của kiến trúc thượng tầng thay đổi chậm
hơn như tôn giáo, nghệ thuật, v.v.. Cũng có những nhân tố nào đó của kiến trúc thượng tầng cũ vẫn được kế thừa để
xây dựng kiến trúc thượng tầng mới.
7
C. Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng
-Kiến trúc thượng tầng là sự phản ánh cơ sở hạ tầng, do cơ sở hạ tầng quyết định nhưng có sự tác động trở lại to lớn đối
với kiến trúc thượng tầng. Bởi vì kiến trúc thượng tầng có tính độc lập tương đối so với cơ sở hạ tầng. Lĩnh vực ý thức,
tinh thần khi ra đời, tồn tại thì có quy luật vận động nội tại của nó. Vai trò của kiến trúc thượng tầng chính là vai trò
tích cực, tự giác của ý thức, tư tưởng. Vai trò của kiến trúc thượng tầng còn do sức mạnh vật chất của bộ máy tổ chức -
thể chế luôn có tác động một cách mạnh mẽ trở lại cơ sở hạ tầng. Ph. Ăngghen khẳng định: “Quan điểm tư tưởng, đến
lượt mình, nó tác động trở lại đến cơ sở hạ tầng kinh tế và có thể biến đổi cơ sở hạ tầng ấy trong những giới hạn nhất
định”
-Kiến trúc thượng tầng củng cố, hoàn thiện và bảo vệ cơ sở hạ tầng sinh ra nó; ngăn chặn cơ sở hạ tầng mới, đấu tranh
xóa bỏ tàn dư cơ sở hạ tầng cũ; định hướng, tổ chức, xây dựng chế độ kinh tế của kiến trúc thượng tầng. Thực chất vai
trò kiến trúc thượng tầng là vai trò bảo vệ duy trì, củng cố lợi ích kinh tế của giai cấp thống trị xã hội. Mặt khác, kiến
trúc thượng tầng trong các xã hội có giai cấp còn đảm bảo sự thống trị về chính trị và tư tưởng của giai cấp giữ địa vị
thống trị về kinh tế. Nếu giai cấp thống trị không xác lập được sự thống trị về chính trị và tư tưởng, cơ sở kinh tế của
nó không thể đứng vững được.
-Tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng diễn ra theo hai chiều hướng. Kiến trúc thượng tầng tác động
cùng chiều với sự phát triển của cơ sở hạ tầng sẽ thúc đẩy cơ sở hạ tầng phát triển và nếu tác động ngược chiều với sự
phát triển của cơ sở hạ tầng, của cơ cấu kinh tế nó sẽ kìm hãm sự phát triển của cơ sở hạ tầng, của kinh tế. Nghĩa là, khi
kiến trúc thượng tầng phản ánh đúng tính tất yếu kinh tế, các quy luật kinh tế khách quan sẽ thúc đẩy kinh tế phát triển.
Và ngược lại, khi kiến trúc thượng tầng không phản ánh đúng tính tất yếu kinh tế, các quy luật kinh tế khách quan sẽ
kìm hãm sự phát triển của kinh tế và đời sống xã hội.
-Trong các bộ phận của kiến trúc thượng tầng thì kiến trúc thượng tầng về chính trị có vai trò quan trọng nhất, trong đó
nhà nước có vai trò tác động to lớn đối với cơ sở hạ tầng. Nhà nước là tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị, không
chỉ dựa trên hệ tư tưởng, mà còn dựa trên những hình thức nhất định của sự kiểm soát xã hội. Nhà nước sử dụng sức
mạnh của bạo lực để tăng cường sức mạnh kinh tế của giai cấp thống trị và củng cố vững chắc địa vị của quan hệ sản
xuất thống trị. Với ý nghĩa đó Ph. Ăngghen khẳng định: “Bạo lực (tức là quyền lực nhà nước) - cũng là một sức mạnh
kinh tế”[4]. Và chỉ rõ, tác động ngược lại của quyền lực nhà nước đối với sự phát triển kinh tế theo hai chiều hướng cơ
bản, nếu tác động cùng hướng với sự phát triển kinh tế sẽ thúc đẩy kinh tế phát triển nhanh hơn; nếu tác động ngược lại
hướng phát triển kinh tế sẽ kìm hãm sự phát triển của kinh tế; và nó có thể ngăn cản một vài hướng phát triển nào đấy
của nền kinh tế, thúc đẩy sự phát triển đó theo những hướng khác - trong trường hợp này theo Ph. Ăngghen, rốt cuộc
nó cũng dẫn đến một trong hai trường hợp trên.
-Tuy nhiên, trong thực tiễn của đời sống xã hội, không phải chỉ có quyền lực nhà nước mới có sự tác động to lớn
đến cơ sở hạ tầng, mà các bộ phận khác của kiến trúc thượng tầng như triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật,...
cũng đều tác động mạnh mẽ đến cơ sở hạ tầng bằng những hình thức khác nhau, với các cơ chế khác nhau. Ph.
Ăngghen viết: “Sự phát triển của chính trị, pháp luật, triết học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, v.v. đều dựa trên cơ sở sự
phát triển kinh tế. Nhưng tất cả chúng cũng có ảnh hưởng lẫn nhau và ảnh hưởng đến cơ sở kinh tế”[5]. Song thường
thường những sự tác động đó phải thông qua nhà nước, pháp luật, các thể chế tương ứng và chỉ qua đó chúng mới phát
huy được hiệu lực đối với cơ sở hạ tầng, cũng như đối với toàn xã hội.

8
-Sự vận động của quy luật này dưới chủ nghĩa xã hội có những đặc điểm riêng. Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
xã hội chủ nghĩa không hình thành tự phát trong lòng xã hội cũ. Để xác lập cơ sở hạ tầng xã hội chủ nghĩa thì đòi hỏi
tất yếu là phải xóa bỏ cơ sở hạ tầng cũ thông qua cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Sự thiết lập kiến trúc thượng tầng
chính trị xã hội chủ nghĩa là tiền đề cho sự hình thành, phát triển của cơ sở hạ tầng xã hội chủ nghĩa. Kiến trúc thượng
tầng xã hội chủ nghĩa có mầm mống nảy sinh ngay từ cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản và quần chúng lao động nhằm
chống lại giai cấp thống trị bóc lột, lật đổ trật tự xã hội cũ. Song, sự hình thành và vai trò của nó được phát huy một
cách đầy đủ, chủ yếu từ khi giai cấp vô sản giành được chính quyền. Kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa chỉ có thể
được củng cố, phát triển dựa trên cơ sở hạ tầng xã hội chủ nghĩa và trong chính sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Bởi vậy, xây dựng và hoàn thiện kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa phải xuất phát từ những đòi hỏi khách quan
của sự phát triển kinh tế - xã hội. Đồng thời, phải tích cực, chủ động đấu tranh khắc phục mọi tàn dư tư tưởng lạc hậu
của xã hội cũ và đánh bại mọi âm mưu chống phá của các thế lực thù địch.
-Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, việc xây dựng cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng xã hội chủ
nghĩa phải được tiến hành từng bước với những hình thức, quy mô thích hợp. Cơ sở hạ tầng còn mang tính chất
quá độ với một kết cấu kinh tế nhiều thành phần đan xen nhau của nhiều loại hình kinh tế - xã hội. Vì vậy, phát triển
kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa là vấn đề có tính quy luật để phát triển cơ sở hạ tầng xã hội
chủ nghĩa. Đồng thời, phải biết phát huy cao độ vai trò của kiến trúc thượng tầng trong phát triển kinh tế và xây dựng
chủ nghĩa xã hội. Để xây dựng cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa cần phải tránh khuynh hướng
chủ quan duy ý chí, nôn nóng bất chấp các quy luật khách quan.
-Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa khi đã phát triển một cách đầy đủ và hoàn thiện sẽ có bản
chất ưu việt, tốt đẹp nhất trong lịch sử. Cơ sở hạ tầng xã hội chủ nghĩa không còn mâu thuẫn đối kháng, trong kết cấu
kinh tế không bao hàm sự đối lập về lợi ích căn bản. Đặc trưng của kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa là sự nhất trí
về chính trị và tinh thần trong toàn xã hội. Tính ưu việt của kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa được biểu hiện ở hệ
tư tưởng của giai cấp công nhân, là hệ tư tưởng tiến bộ và cách mạng nhất trong lịch sử. Nó còn được biểu hiện ở vai
trò của nhà nước và pháp luật xã hội chủ nghĩa; ở sự phát triển các hình thái ý thức xã hội một cách phong phú, đa dạng
chứa đựng đầy đủ các giá trị của chủ nghĩa xã hội.

D. Sự vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của Đảng Cộng sản Việt
Nam ở nước ta hiện nay.
Dưới chủ nghĩa xã hội hoàn chỉnh, cơ sở hạ tầng và kiến thức thượng tầng thuần nhất và thống nhất. Vì cơ sở hạ tầng
xã hội chủ nghĩa không có tính chất đối kháng, không bao hàm những lợi ích kinh tế đối lập nhau. Hình thức sở hữu
bao trùm là sở hữu toàn dân và tập thể, hợp tác tương trợ nhau trong quá trình sản xuất, phân phối sản phẩm theo lao
động, không còn chế độ bóc lột.
-Thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc và triệt để, là một giai
đoạn lịch sử chuyển tiếp nó.Bởi vì, cơ sở hạ tầng mang tính chất quá độ với một kết cấu kinh tế nhiều thành phần đan
xen của nhiều loại hình kinh tế xã hội khác nhau. Còn kiến trúc thượng tầng có sự đối kháng về tư tưởng và có sự đấu
tranh giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản trên lĩnh vực tư tưởng văn hoá.
-Bởi vậy công cuộc cải cách kinh tế và đổi mới thể chế chính trị là một quá trình mang tính cách mạng lâu dài. Cơ sở
hạ tầng thời kỳ quá độ ở nước ta bao gồm các thành phần kinh tế như: kinh tế nhà nước, kinh tế hợp tác, kinh tế tư bản
nhà nước, kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân, cùng các kiểu quan hệ sản xuất gắn liền với hình thức sở hữu khác
nhau, thậm chí đối lập nhau cùng tồn tại trong một cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất
-Kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa phản ánh cơ sở hạ tầng của xã hội chủ nghĩa, vì vậy mà có sự thống trị về
chính trị và tinh thần Nhà nước phải thực hiện biện pháp kinh tế có vai trò quan trọng nhằm từng bước xã hội hoá nền
sản xuất với hình thức và bước đi thích hợp theo hướng như : kinh tế quốc doanh được củng cố và phát triển vươn lên
giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tập thể dưới hình thức thu hút phần lớn những người sản xuất nhỏ trong các ngành nghề,
các hình thức xí nghiệp , công ty cổ phần phát triển mạnh, kinh tế tư nhân và gia đình phát huy được mọi tiềm năng để
phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở kinh tế hợp lý. Các thành phần đó vừa khác nhau về vai trò, chức năng,
tính chất, vừa thống nhất với nhau trong một cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất mà còn cạnh tranh nhau, liên kết và bổ
xung cho nhau.
9
-Để định hướng xã hội chủ nghĩa đối với các thành phần kinh tế này, nhà nước phải sử dụng tổng thể các biện pháp
kinh tế hành chính và giáo dục, trong dó thì biện pháp kinh tế là quan trọng nhất nhằm từng bước xã hội hóa nền sản
xuất với hình thức và thích hợp theo hướng kinh tế quốc doanh được củng cố và phát triển vươn lên giữ vai trò chủ
đạo, kinh tế tập thể dưới hình thức thu hút phần lớn những người sản xuất nhỏ trong các ngành nghề, các hình thức xí
nghiệp, công ty cổ phần phát triển mạnh, kinh tế tư nhân và gia đình phát huy được mọi tiềm năng để phát triển lực
lượng sản xuất, xây dựng kinh tế hợp lý.
-Về kiến trúc thượng tầng, Đảng ta khẳng định: Lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam
cho mọi hành động của toàn Đảng, toàn dân ta. Nội dung cốt lõi của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là
tư tưởng về sự giải phóng con người khỏi chế độ bóc lột thoát khỏi nỗi nhục của mình là đi làm thuê bị đánh đập,
lương ít.Trong cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ghi rõ : ”xây dựng nhà nước
xã hội chủ nghĩa , nhà nước của dân, do dân và vì dân, liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp
trí thức làm nền tảng, do Đảng cộng sản lãnh đạo”.

E. Kết luận:
Những thành tựu mà Đảng Cộng sản Việt Nam đã đem lại một lần nữa chứng minh một sự đúng đắn của mối quan
hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Không thể nào có được một đất nước mà cơ sở hạ
tầng phát triển song kiến trúc thượng tầng, ngược lại không có sự phát triển thích ứng với cơ sở hạ tầng và cũng như
không có được một kiến trúc thượng tầng được coi là hoàn hảo mà lại đứng trên một cơ sở hạ tầng lạc hậu thấp kém, ta
không thể coi đó như là một sự phát triển bình thường mà là một sự phát triển sai lệch què cụt. Mỗi chúng ta tự hào về
công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo. Song chúng ta hiểu rõ rằng vẫn còn nhiều thiếu sót mà chưa
giải quyết hết được. Đó là những tác động tiêu cực của chủ nghĩa quan liêu, của chế độ quan liêu bao cấp đã xâm nhập
vào tổ chức bộ máy và hoạt động của nhà nước trong một thời gian dài. Đặc quyền, đặc lợi, tham nhũng ở một bộ phận
không nhỏ cán bộ, nhân viên… gây nên những tổn thất nặng nề về kinh tế và văn hoá, ảnh hưởng xấu về chính trị, tinh
thần và đạo đức trong xã hội ta. Cho dù đâu đó vẫn còn những thiếu sót mà chúng ta chưa làm được, song chúng ta tin
rằng sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Nhà Nước ta mà nền tảng của nó là chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh chúng ta sẽ thành công. Bởi chúng ta có niềm tin và biết vận dụng linh hoạt đúng đắn quy luật phát triển của xã
hội mà Mác – Lênin là những người tiên phong vạch ra con đường đi theo nhân loại

Câu 7: Hình thái kinh tế - xã hội là gì? Tại sao nói sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá
trình lịch sử - tự nhiên?
A. Định nghĩa
-Hình thái kinh tế - xã hội là một phạm trù cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử dùng để chỉ xã hội ở từng nấc thang
lịch sử nhất định với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó, phù hợp với một trình độ nhất định của lực
lượng sản xuất và một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất ấy.
-Phạm trù hình thái kinh tế - xã hội, bao gồm ba yếu tố cơ bản, phổ biến: Lực lượng sản xuất: quan hệ sản xuất (cơ sở
hạ tầng); kiến trúc thượng tầng.
+Lực lượng sản xuất là nền tảng vật chất của xã hội, tiêu chuẩn khách quan để phân biệt các thời đại kinh tế khác nhau,
yếu tố xét đến cùng quyết định sự vận động, phát triển của hình thái kinh tế - xã hội.
+Quan hệ sản xuất là quan hệ khách quan, cơ bản, chi phối và quyết định mọi quan hệ xã hội, đồng thời là tiêu chuẩn
quan trọng nhất để phân biệt bản chất các chế độ xã hội khác nhau.
+Kiến trúc thượng tầng là sự thể hiện các mối quan hệ giữa người với người trong lĩnh vực tinh thần, tiêu biểu cho bộ
mặt tinh thần của đời sống xã hội.

B. Sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên
-Tiến trình lịch sử xã hội loài người là kết quả của sự thống nhất giữa logic và lịch sử. Xu hướng cơ bản, xu hướng
chung của sự vận động, phát triển lịch sử loài người là do sự chi phối của quy luật khách quan, xét đến cùng là sự phát
triển của lực lượng sản xuất. Logic của toàn bộ tiến trình lịch sử loài người là sự kế tiếp nhau của các hình thái kinh tế -
xã hội từ thấp đến cao. Đó là con đường tất yếu của tiến bộ lịch sử.
10
-Sự thống nhất giữa logic và lịch sử trong tiến trình lịch sử - tự nhiên của xã hội loài người bao hàm cả sự phát triển
tuần tự đối với lịch sử phát triển toàn thế giới và sự phát triển “bỏ qua” một hay vài hình thái kinh tế - xã hội đối với
một số quốc gia, dân tộc cụ thể.
-Sự phát triển phong phú, nhiều vẻ, đa dạng, phức tạp của các hình thái kinh tế - xã hội cụ thể của các giai đoạn xã hội,
các quốc gia, dân tộc cụ thể. Bao gồm cả những bước quanh co, thậm chí những bước thụt lùi lớn, khả năng rút ngắn,
bỏ qua những giai đoạn phát triển lịch sử nhất định.
Thực tiễn lịch sử đã chứng minh toàn bộ lịch sử xã hội loài người phát triển tuần tự qua tất cả các giai đoạn của các
hình thái kinh tế - xã hội đã có. Nhưng do đặc điểm về lịch sử, về không gian, thời gian, về sự tác động của nhân tố
khách quan và nhân tố chủ quan, có những quốc gia phát triển tuần tự, nhưng có những quốc gia phát triển bỏ qua một
hay vài hình thái kinh tế - xã hội nào đó.
-Hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa ra đời là tất yếu khách quan của lịch sử xã hội. Phát triển là xu hướng tất
yếu, cơ bản của lịch sử xã hội loài người. Chủ nghĩa tư bản không phải là nấc thang phát triển cuối cùng của xã hội loài
người. Chính những mâu thuẫn cơ bản trong lòng xã hội tư bản đã quyết định sự vận động phát triển của xã hội loài
người.
→Những tiền đề vật chất cho sự vận động phát triển xã hội đã xuất hiện ngay trong lòng xã hội tư bản. Đó là lực
lượng sản xuất hiện đại với tính chất xã hội hóa cao và giai cấp vô sản tiên tiến, cách mạng, đã phát triển cả về số
lượng và chất lượng.

Câu 8: Phân tích các đặc trưng cơ bản trong định nghĩa về giai cấp của Lênin

Trước C.Mác, các sử gia tư tưởng tiến bộ Pháp (Chie, Ghidô, Minhê…) đã thừa nhận sự tồn tại của các giai cấp cùng
với đấu tranh giai cấp. Hầu hết các học giả tư sản ngày nay cũng không bác bỏ sự tồn tại của các giai cấp. Nhưng trả
lời câu hỏi giai cấp là gì? thì các lý thuyết xã hội phi Mácxít chỉ đưa ra những định nghĩa mơ hồ, thiếu căn cứ khoa
học. Chẳng hạn, giai cấp là tập hợp những người “cùng chức năng xã hội”, hoặc “cùng một lối sống”, “cùng mức
sống”, “cùng một địa vị và uy tín xã hội”v.v.. Các lý thuyết đó đều tránh đụng tới các đặc trưng cơ bản của giai cấp,
đặc biệt là vấn đề sở hữu tư liệu sản xuất.
A. Khái niệm:
-Khái niệm giai cấp được Lênin định nghĩa một cách toàn diện và sâu sắc trong tác phẩm “Sáng kiến vĩ đại” như sau:
“Người ta gọi là giai cấp, những tập đoàn người to lớn khác nhau về địa vị của họ trong một hệ thống sản xuất xã hội
nhất định trong lịch sử, khác nhau về quan hệ của họ (thường thường các quan hệ này được pháp luật quy định và thừa
nhận) đối với các tư liệu sản xuất, về vai trò của họ trong tổ chức lao động xã hội, và như vậy là khác nhau về cách
thức hưởng thụ và về phần của cải ít hoặc nhiều mà họ được hưởng. Giai cấp là những tập đoàn người, mà tập đoàn
này có thể chiếm đoạt lao động của tập đoàn khác, do chỗ các tập đoàn đó có địa vị khác nhau trong một chế độ kinh tế
xã hội nhất định”.
-Khái niệm giai cấp vốn hết sức phức tạp, do đó, định nghĩa giai cấp của Lênin cũng phức tạp một cách tương ứng cả
về nội dung lẫn hình thức cấu trúc của định nghĩa. Cách tiếp cận truyền thống định nghĩa này (bằng cách liệt kê 4 sự
khác nhau với tư cách là bốn đặc trưng của giai cấp ở mệnh đề thứ nhất) là không thỏa đáng, là chưa lột tả được cả
chiều rộng lẫn chiều sâu của tư duy V.I.Lênin trong định nghĩa mang tính kinh điển này.
-Phân tích thấu đáo định nghĩa này của V.I.Lênin, chúng ta cần lưu ý một loạt khía cạnh phương pháp luận như sau:
Thứ nhất, cần phân biệt đặc trưng về lượng với các đặc trưng về chất của giai cấp; Thứ hai, cần phân biệt đặc trưng
tổng quát với các đặc trưng từng mặt quan hệ sản xuất ở mệnh đề thứ nhất; Thứ ba, cần phân biệt các đặc trưng về chất
ở mệnh đề thứ nhất với mệnh đề thứ hai; Thứ tư, cần lưu ý cả hai đặc trưng về trình độ ý thức của giai cấp.

B. Phân tích kỹ ta thấy:

+Trước khi đề cập tới các đặc trưng về chất của giai cấp, ở cả hai mệnh đề, V.I.Lênin đều lưu ý trước tiên đặc trưng về
lượng của giai cấp với tư cách là “những tập đoàn người”, “tập đoàn người to lớn” dù đó là giai cấp thiểu số hay đa số
trong dân cư. Điều đó chứng tỏ vấn đề giai cấp cũng như vấn đề đấu tranh giai cấp là vấn đề lớn lao của đời sống xã
hội, chứ không phải vấn đề của những nhóm nhỏ hay cá nhân.

11
+Ở mệnh đề thứ nhất, chủ ý của V.I.Lênin tiếp cận vấn đề giai cấp trước hết từ lĩnh vực sản xuất kinh tế – đúng như tư
tưởng cơ bản thứ nhất của C.Mác về giai cấp đã dạy: “Sự tồn tại của các giai cấp chỉ gắn liền với những giai đoạn phát
triển lịch sử nhất định của sản xuất” .
-Theo đó, đặc trưng tổng quát về chất của giai cấp là sự “khác nhau về địa vị của họ trong một hệ thống sản xuất xã hội
nhất định trong lịch sử”, hoặc là thống trị, hoặc là bị trị (đương nhiên có thể có bộ phận nào đó đóng vai trò trung gian)
trong kinh tế. Khái quát này của Lênin, thứ nhất, bác bỏ mọi cách giải thích duy tâm về giai cấp từ các nguồn gốc phi
kinh tế; thứ hai, chỉ ra tính lịch sử cụ thể của giai cấp ở những điều kiện lịch sử cụ thể; thứ ba, đòi hỏi xem xét giai cấp
trong tính chỉnh thể phức tạp vốn có của “một hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử”.
-Mặt khác, V.I.Lênin đã đi sâu cụ thể hóa đặc trưng tổng quát nói trên của giai cấp thành ba đặc trưng tương ứng với ba
mặt cấu thành các quan hệ sản xuất. Đó là ba sự khác nhau: về quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất; về quan hệ tổ
chức lao động xã hội; và về quan hệ phân phối. Hiển nhiên là sự khác nhau về quan hệ sở hữu tự nó có vai trò quyết
định bản chất đối với hai mối quan hệ còn lại, cũng như quyết định cả địa vị các giai cấp trong một hệ thống sản xuất
xã hội nói chung. Trong mệnh đề thứ nhất này, V.I.Lênin còn có hai lưu ý vừa tinh tế vừa sâu sắc đối với vấn đề sở hữu
và phân phối.
+Thứ nhất, như Lênin vạch rõ, quan hệ sở hữu “thường được pháp luật quy định và công nhận”. Điều đó chứng tỏ rằng
các quan hệ giai cấp không tách rời quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng (kinh tế) với kiến thức thượng tầng (chính
trị – pháp lý), bác bỏ mọi luận điệu cho rằng chính trị, nhà nước, pháp quyền “vô tư” đối với sở hữu khác nhau của mọi
giai cấp.
+Thứ hai, trước khi nói tới sự khác nhau về “phần của cải xã hội ít hoặc nhiều” trong quan hệ phân phối, Lênin đã lưu
ý đến sự “khác nhau về cách thức hưởng thụ” của các giai cấp. Ai cũng biết cách thức hưởng thụ của giai cấp bóc lột
thống trị xưa nay là hết sức xa hoa, lãng phí, thậm chí không tính nổi bằng tiền mà bằng bao xương máu của người lao
động (ví dụ các kim tự tháp, các lăng tẩm của vua chúa).
Với mức độ khái quát sâu nhất và rộng nhất có thể có ở mệnh đề thứ hai, Lênin chỉ nêu hai đặc trưng cơ bản của
giai cấp có quan hệ qua lại chặt chẽ với nhau: Một là, “tập đoàn này có thể tước đoạt lao động của tập đoàn
khác”; Hai là, “các tập đoàn đó có địa vị khác nhau trong một chế độ kinh tế xã hội nhất định”.
-Ở mệnh đề ngắn gọn và vô cùng súc tích này, Lênin đã thâu tóm cái bản chất sâu xa nhất, cốt lõi nhất, và cũng là phản
nhân văn nhất của các quan hệ giai cấp đối kháng xưa nay - đó là vấn đề “chiếm đoạt lao động”. Chính chiếm đoạt lao
động là đặc trưng bao trùm và chi phối tất cả các đặc trưng khác của giai cấp ở cả hai mệnh đề, và sâu xa hơn, nó cắt
nghĩa cả nguồn gốc của giai cấp và của đấu tranh giai cấp. Hơn nữa, không phải đặc trưng nào ở mệnh đề thứ nhất về
giai cấp cũng đồng nghĩa với xung đột, với đối kháng. Nhưng chừng nào và ở đâu còn chiếm đoạt lao động thì tất còn
xung đột, còn đối kháng. Trong xã hội phân chia giai cấp, thực chất của quan hệ giai cấp là quan hệ xung đột đối
kháng. Nếu hiểu khác đi là mơ hồ về giai cấp. Triết lý nổi tiếng của C.Mác và Ph.Ăngghen “tước đoạt kẻ đi tước đoạt”
không chỉ đúng với quy luật phủ định của phủ định chi phối toàn bộ chu kỳ phát triển trọn vẹn của lịch sử loài người
(sở hữu xã hội – sở hữu tư nhân – sở hữu xã hội trên hình thức cao hơn), mà còn hợp với cả đạo lý sống cơ bản nhất
của loài người.
-Ở đặc trưng còn lại của giai cấp trong mệnh đề thứ hai, V.I.Lênin đã gắn liền đặc trưng chiếm đoạt lao động không
phải với “hệ thống sản xuất xã hội” (như định nghĩa thứ nhất) mà với cả “chế độ kinh tế xã hội” – nghĩa là với toàn bộ
tòa nhà xã hội, cơ thể xã hội. Vì rằng, với nhiều lý do khác nhau, có những bộ phận xã hội chiếm đoạt lao động không
phải do quan hệ sở hữu trong sản xuất kinh tế, mà do lợi dụng trực tiếp địa vị chính trị – xã hội. Đặc quyền đặc lợi của
tầng lớp quý tộc dưới chính thể quân chủ – lập hiến là một ví dụ. Nạn hối lộ – tham nhũng xưa nay trong bộ máy nhà
nước cũng là một ví dụ.
+ Ngoài các đặc trưng của giai cấp vốn mang tính vật chất được khái quát trong hai mệnh đề trên, Lênin còn nhiều lần
nói tới đặc trưng về trình độ ý thức của giai cấp: Một “giai cấp tự nó” hay “tự phát” là chưa ý thức được lợi ích căn bản
sống còn của mình. Còn một “giai cấp cho mình” hay “tự giác” là giai cấp đã trưởng thành tới mức ý thức được lợi ích
căn bản – sống còn của mình. Chẳng hạn, trong quá trình đấu tranh chống phong kiến, giai cấp tư sản đã từng trải qua
hai trình độ ý thức như vậy. Và đến lượt mình, trong quá trình đấu tranh chống CNTB và xây dựng CNXH, CNCS, giai
cấp vô sản cũng không thể không trải qua hai trình độ tự phát và tự giác như vậy.

12
→Tóm lại, phân tích kỹ định nghĩa giai cấp của Lênin, chúng ta hiểu ra rằng quan hệ giai cấp thực chất và trước
hết là những quan hệ sản xuất, là “những quan hệ cơ bản, ban đầu, quyết định” – như C.Mác tổng kết – đối với tất
cả các quan hệ xã hội khác. Đương nhiên, không vì thế mà có thể giản đơn quy tất cả các quan hệ xã hội khác vào
quan hệ giai cấp.

Câu 9: Phân tích nguồn gốc, bản chất, đặc trưng và chức năng cơ bản của Nhà nước.
Nhà nước là một hiện tượng xã hội, tồn tại trong các xã hội có giai cấp và đấu tranh giai cấp. Do nhận
thức, lợi ích giai cấp khác nhau, phương pháp tiếp cận khác nhau nên trong lịch sử tư tưởng nhân loại đã có nhiều cách
hiểu khác nhau về nhà nước xoay quanh những vấn đề cơ bản như: nguồn gốc, bản chất, chức năng của nhà nước, các
kiểu và hình thức nhà nước... Quan điểm về nhà nước trong lịch sử được các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin
kế thừa, bổ sung và phát triển đã đạt được giá trị khoa học.
A. Nguồn gốc
-Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, nhà nước là một phạm trù lịch sử, chỉ ra đời và tồn tại trong một giai đoạn
phát triển nhất định của xã hội và sẽ mất đi khi những cơ sở cho sự tồn tại và phát triển của nó không còn nữa.
-Trong thời kỳ nguyên thủy, kinh tế còn thấp kém, xã hội tồn tại theo chế độ tự quản với cộng đồng thị tộc, bộ lạc, nên
chưa có cơ quan quyền lực của giai cấp, duy trì sự thống trị của giai cấp, đối lập với nhân dân. Tuy nhiên, vào giai
đoạn cuối của xã hội cộng sản nguyên thủy, trong xã hội xuất hiện chế độ tư hữu, sự bất bình đẳng và phân hóa giai
cấp: thống trị và bị trị. Sự phân chia giai cấp dẫn đến quan hệ áp bức bóc lột, nền dân chủ công xã trở thành nền độc
tài; từ đó dẫn đến những mâu thuẫn giai cấp gay gắt, các cuộc đấu tranh nổi dậy của giai cấp bị trị diễn ra thường
xuyên. Do đó, nhà nước ra đời như một phương thức để giai cấp thống trị bảo vệ địa vị và quyền lợi của mình, giai cấp
thống trị sử dụng công cụ bạo lực để đàn áp các cuộc đấu tranh của giai cấp bị trị. Nhà nước đầu tiên trong lịch sử là
nhà nước chiếm hữu nô lệ. Tiếp đó là nhà nước phong kiến, nhà nước tư sản.
-Nhà nước ra đời đáp ứng yêu cầu duy trì trật tự và thống trị xã hội của giai cấp thống trị, để cho cuộc đấu tranh giai
cấp không đi đến tiêu diệt lẫn nhau và tiêu diệt luôn cả xã hội. Có thể khẳng định nguyên nhân sâu xa của sự xuất
hiện nhà nước là do sự phát triển của lực lượng sản xuất dẫn đến sự dư thừa tương đối của cải, từ đó xuất hiện chế
độ tư hữu về tư liệu sản xuất và của cải; còn nguyên nhân trực tiếp là do mâu thuẫn giai cấp gay gắt không thể
điều hòa được.
→Như vậy, sự ra đời của nhà nước là một tất yếu khách quan để làm cho mâu thuẫn giai cấp diễn ra trong vòng “trật
tự”, có thể duy trì chế độ kinh tế - xã hội và giai cấp thống trị mới.

B. Bản chất
Theo quan điểm của Triết học Mác-Lênin, bản chất nhà nước có hai thuộc tính: bản chất giai cấp và bản chất
xã hội.
● Bản chất giai cấp
-Bản chất nhà nước là bộ máy trấn áp đặc biệt, là công cụ bạo lực của một giai cấp này đối với giai cấp khác và đối với
toàn xã hội. Nhờ có bộ máy nhà nước, giai cấp thống trị (chiếm thiểu số) duy trì được sự áp bức, bóc lột của mình đối
với giai cấp bị trị (chiếm đa số). Sự thống trị giai cấp, xét về nội dung, thể hiện ở ba mặt: kinh tế, chính trị và tư tưởng.
+Quyền lực về kinh tế: Giai cấp thống trị nắm trong tay quyền sở hữu về tư liệu sản xuất của xã hội nên của cải của xã
hội làm ra họ có quyền phân phối, định đoạt, bắt các giai cấp khác lệ thuộc vào giai cấp mình về kinh tế.
+Quyền lực về chính trị: Nhờ có nhà nước, giai cấp thống trị về kinh tế trở thành giai cấp thống trị về chính trị. Ý chí
của giai cấp thống trị được hợp pháp hóa thành ý chí của nhà nước, buộc các giai cấp khác phải tuân theo. Giai cấp
thống trị sử dụng bộ máy nhà nước để trấn áp các giai cấp khác.
+Quyền lực về tư tưởng: Quyền lực về tư tưởng được tạo ra từ quyền lực về kinh tế và quyền lực về chính trị. Bất kỳ
một nhà nước nào cũng tạo cho mình một hệ thống tư tưởng phục vụ cho giai cấp cầm quyền. Giai cấp thống trị thông
qua nhà nước để xây dựng hệ tư tưởng của giai cấp mình thành hệ tư tưởng thống trị trong xã hội.
● Bản chất xã hội:

13
-Nhà nước ra đời và tồn tại trong xã hội với cơ cấu bao gồm giai cấp thống trị và các giai cấp, tầng lớp dân cư khác.
Bản thân giai cấp thống trị cũng chỉ tồn tại trong mối quan hệ với các giai cấp, tầng lớp dân cư khác. Do vậy, nhà nước
ngoài tính chất là công cụ duy trì sự thống trị và bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị, còn là một tổ chức quyền lực
công (hay tổ chức công quyền), là phương thức bảo đảm lợi ích chung của toàn xã hội. Nhà nước không chỉ phục vụ lợi
ích cho giai cấp thống trị mà trong chừng mực nhất định còn phải giải quyết những vấn đề nảy sinh từ trong đời sống
xã hội, thực hiện chức năng quản lý toàn xã hội, đảm bảo trật tự chung, sự ổn định để xã hội phát triển.
-Từ sự phân tích nguồn gốc, bản chất của nhà nước có thể định nghĩa về nhà nước như sau: Nhà nước là một tổ chức
đặc biệt của quyền lực chính trị, có bộ máy chuyên làm nhiệm vụ cưỡng chế và thực hiện các chức năng quản lý đặc
biệt nhằm duy trì trật tự xã hội, thực hiện mục đích bảo vệ địa vị của giai cấp thống trị trong xã hội.
1. Đặc trưng cơ bản
Nhà nước có năm đặc trưng cơ bản:
-Nhà nước phân chia và quản lý dân cư theo đơn vị hành chính lãnh thổ nhất định. Nhà nước thiết lập quyền lực
trên các đơn vị hành chính lãnh thổ, quản lý dân cư theo đơn vị hành chính lãnh thổ mà không phụ thuộc vào huyết
thống, giới tính, tôn giáo…
-Nhà nước thiết lập quyền lực công để quản lý xã hội và nắm quyền thống trị thông qua việc thành lập bộ máy
chuyên làm nhiệm vụ quản lý nhà nước và bộ máy chuyên thực hiện cưỡng chế (quân đội, nhà tù, cảnh sát…) để duy
trì địa vị của giai cấp thống trị. Còn các tổ chức khác trong xã hội như tổ chức nghiệp đoàn, công đoàn, phụ nữ, đoàn
thanh niên,… không có quyền lực này.
-Nhà nước có chủ quyền quốc gia. Chủ quyền quốc gia thể hiện ở quyền tối cao của quốc gia trong phạm vi lãnh thổ
của mình. Nhà nước tự quyết định về chính sách đối nội và đối ngoại, không phụ thuộc vào lực lượng bên ngoài.
-Nhà nước ban hành pháp luật và thực hiện quản lý buộc các thành viên trong xã hội phải tuân theo và bảo đảm thực
hiện bằng sức mạnh cưỡng chế. Thông qua pháp luật, ý chí của giai cấp thống trị trở thành ý chí của nhà nước, buộc
mọi chủ thể phải tuân theo. Trong xã hội, chỉ có nhà nước mới có quyền ban hành luật và áp dụng pháp luật.
-Nhà nước quy định và thực hiện thu thuế dưới hình thức bắt buộc. Thu thuế là một nguồn tài chính quan trọng cho
nhà nước, đóng góp vào nguồn kinh phí để thực hiện các chính sách và dự án công cộng. Nhà nước có quyền thiết lập
các quy định liên quan đến thuế, xác định mức thuế, quyền lợi thuế, thu thập thuế từ cá nhân, tổ chức và các hoạt động
kinh tế.
→Năm đặc trưng trên nhằm phân biệt nhà nước với các tổ chức chính trị - xã hội khác (đảng phái chính trị, hiệp
hội…), đồng thời cũng là để phân biệt với các hình thức tổ chức cộng đồng người trong xã hội công xã nguyên
thủy. Qua đó cho thấy vị trí, vai trò đặc biệt của nhà nước trong hệ thống chính trị mà các tổ chức khác không có.

C. Chức năng
Chức năng của nhà nước là những phương diện hoạt động chủ yếu của nhà nước nhằm để thực hiện
những nhiệm vụ cơ bản của nhà nước. Chức năng của nhà nước được xác định xuất phát từ bản chất của nhà nước,
do cơ sở kinh tế và cơ cấu giai cấp của xã hội quyết định.
-Theo tính chất của quyền lực nhà nước có: chức năng thống trị chính trị của giai cấp (bạo lực trấn áp) và chức năng
xã hội (tổ chức xây dựng)
+Chức năng thống trị chính trị của giai cấp là chức năng nhà nước làm công cụ chuyên chính của một giai cấp nhằm
bảo vệ sự thống trị giai cấp đó đối với toàn thể xã hội. Nhà nước sử dụng bộ máy quyền lực từ trung ương đến cơ sở
duy trì trật tự xã hội, đàn áp sự phản kháng của lực lượng chống đối thông qua hệ thống chính sách và pháp luật.
+Chức năng xã hội của nhà nước là chức năng nhà nước thực hiện sự quản lý những hoạt động chung vì sự tồn tại của
xã hội, thỏa mãn một số nhu cầu chung của cộng đồng dân cư nằm dưới sự quản lý của nhà nước.
→Trong hai chức năng trên, chức năng thống trị chính trị của giai cấp là cơ bản nhất có vai trò chi phối chức
năng xã hội và chỉ thực hiện được thông qua chức năng xã hội.
-Theo phạm vi tác động của quyền lực có: chức năng đối nội và chức năng đối ngoại.
+Chức năng đối nội là những phương diện, những mặt hoạt động chủ yếu của nhà nước trong nội bộ đất nước, thường
giới hạn trong lãnh thổ quốc gia như giữ vững an ninh chính trị, đảm bảo an toàn xã hội, bảo vệ trật tự pháp luật, quyền
và lợi ích hợp pháp của giai cấp cầm quyền ; tổ chức và quản lý nền kinh tế, văn hóa, giáo dục, khoa học công nghệ…
14
+Chức năng đối ngoại là những phương diện, những mặt hoạt động chủ yếu thể hiện vai trò của nhà nước trong quan
hệ với các nhà nước, vùng lãnh thổ và các dân tộc trên thế giới. Trong xã hội hiện đại, chính sách đối ngoại được các
quốc gia xem trọng, xem đó như là điều kiện cho sự phát triển của mình. Các nhà nước không chỉ thiết lập quan hệ với
nhau mà còn với các tổ chức quốc tế, tổ chức phi chính phủ,...
→Hai chức năng này có mối quan hệ mật thiết với nhau, thực hiện tốt chức năng đối nội sẽ tạo thuận lợi cho thực
hiện chức năng đối ngoại và ngược lại.

Câu 10: Cách mạng xã hội là gì? Phân tích vai trò của cách mạng xã hội đối với sự phát triển của xã hội?
A. Định nghĩa:
Nguồn gốc của cách mạng xã hội
-Cách mạng xã hội là một hiện tượng lịch sử, có nguồn gốc sâu xa từ mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất tiến bộ đòi hỏi
được giải phóng, phát triển với quan hệ sản xuất đã lỗi thời, lạc hậu, đang là trở ngại cho sự phát triển của lực lượng
sản xuất.
-Trong Lời tựa tác phẩm Góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị, C. Mác viết: "Từ chỗ là những hình thức phát triển
của lực lượng sản xuất, những quan hệ ấy trở thành những xiềng xích của các lực lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu thời
đại một cuộc cách mạng xã hội"'. Mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất biểu hiện dưới dạng xã hội là
mâu thuẫn giữa giai cấp bị trị, đại diện cho lực lượng sản xuất mới, tiến bộ với giai cấp thống trị, đại diện cho quan hệ
sản xuất đã lạc hậu so với sự phát triển của trình độ lực lượng sản xuất. Khi mâu thuẫn đó trở nên gay gắt, quyết liệt,
đòi hỏi phải được giải quyết, thì sẽ nổ ra cách mạng xã hội.
(-Khi cách mạng xã hội nổ ra thì chế độ xã hội cũ bị xóa bỏ. C. Mác cho rằng: "mỗi một cuộc cách mạng đều phá hủy
xã hội cũ, và vì thế nó mang tính chất xã hội. Mỗi cuộc cách mạng đều lật đổ chính quyền cũ, và bởi vậy nó có tính
cách chính trị".
→Như vậy, trong xã hội có giai cấp, đấu tranh giai cấp là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến cách mạng xã hội. Trong lịch
sử xã hội có hai cuộc cách mạng xã hội mang tính điển hình, có quy mô rộng lớn và tính chất triệt để, đó là cách mạng
tư sản và cách mạng vô sản.
Tuy nhiên, trong lịch sử nhân loại không phải chỉ trong xã hội có giai cấp và đấu tranh giai cấp môi có cách mạng xã
hội. Theo Ph. Ăngghen, trong xã hội cộng sản nguyên thủy cũng đã diễn ra cách mạng xã hội. Sự chuyển biến từ hình
thái kinh tế - xã hội cộng sản nguyên thủy sang hình thái kinh tế - xã hội chiếm hữu nô lệ là một bước phát triển nhảy
vọt làm thay đổi về chất mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Đó là một cuộc cách mạng xã hội thật sự, thậm chí, theo Ph.
Ăngghen, sự thay thế chế độ mẫu quyền bằng chế độ phụ quyền cũng là một cuộc cách mạng -"một trong những cuộc
cách mạng triệt để nhất mà nhân loại đã trải qua")
Bản chất của cách mạng xã hội
-Cách mạng là khái niệm chỉ sự thay đổi căn bản về chất của một sự vật, hiện tượng nào đó trong thế giới. Từ đó có thể
hiểu, cách mạng xã hội là sự thay đổi căn bản về chất toàn bộ các lĩnh vực của đời sống xã hội. Theo học thuyết hình
thái kinh - tế xã hội của C. Mác thì cách mạng xã hội là sự thay đổi có tính chất căn bản về chất của một hình thái kinh
tế - xã hội, là bước chuyển từ một hình thái kinh tế - xã hội này lên một hình thái kinh tế - xã hội mới tiến bộ hơn.
-Theo nghĩa hẹp, cách mạng xã hội là đỉnh cao của đấu tranh giai cấp, là cuộc đầu tranh lật đổ chính quyền, thiết lập
một chính quyền mới tiến bộ hơn.
-Cách mạng xã hội khác với tiến hóa xã hội. Nếu cách mạng xã hội được thực hiện là do bước nhảy đột biến, làm thay
đổi về chất, thay đổi toàn bộ đời sống xã hội thì tiến hóa xã hội là sự thay đổi dần dần, thay đổi từng bộ phận, từng yếu
tố, từng lĩnh vực của đời sống xã hội. Giữa cách mạng xã hội và tiến hóa xã hội có mối liên hệ hữu cơ với nhau trong
sự phát triển của xã hội. Tiến hóa xã hội tạo ra tiền đề cho cách mạng xã hội. Cách mạng xã hội là cơ sở để tiếp tục có
những tiến hóa xã hội trong giai đoạn phát triển sau của xã hội.
-Cách mạng xã hội có sự khác nhau với cải cách xã hội.
+Cải cách xã hội chỉ tạo nên những thay đổi bộ phận, lĩnh vực riêng lẻ của đời sống xã hội. Cải cách xã hội là kết quả
đấu tranh của các lực lượng xã hội tiến bộ. Nhiều khi cải cách xã hội là bộ phận hợp thành của cách mạng xã hội.

15
+Khi các cuộc cải cách xã hội được thực hiện thành công ở những mức độ khác nhau, chúng đều tạo ra sự phát triển xã
hội theo hướng tiến bộ. Không phải cuộc cải cách xã hội nào cũng được thực hiện, do nhiều lý do chủ quan hoặc khách
quan.
+Cũng cần chú ý rằng: "khái niệm cải cách đối lập với khái niệm cách mạng; nếu quên sự đối lập đó, quên cái ranh giới
phân biệt hai khái niệm đó, thì sẽ luôn luôn mắc những sai lầm hết sức nghiêm trọng trong tất cả những lập luận về vấn
đề lịch sử. Nhưng sự đối lập đó không phải là tuyệt đối, cái ranh giới đó không phải là cứng nhắc, đó là một ranh giới
sinh động, linh hoạt mà ta phải biết xác định theo từng trường hợp cụ thể".
+Trong phong trào công nhân quốc tế đã từng có khuynh hướng tả khuynh, khi chỉ coi trọng cách mạng xã hội mà coi
thường cải cách xã hội và khuynh hướng hữu khuynh, chỉ coi trọng cải cách xã hội, sợ cách mạng xã hội nổ ra sẽ có
nhiều tổn thất. Hai khuynh hướng này đều bị
V.I. Lênin phê phán, xem đó là chủ nghĩa xét lại hoặc là chủ nghĩa cơ hội trong phong trào công nhân thế giới.
+V.I. Lênin kịch liệt phê phán chủ nghĩa cải lương - một trào lưu chính trị phản động ở châu Âu khá thịnh hành vào
cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX. Chủ nghĩa cải lương chủ trương từ bỏ đấu tranh giai cấp và cách mạng xã hội, tuyệt
đối hóa việc giành chính quyền bằng đấu tranh nghị trường.
-Cách mạng xã hội cũng khác với đảo chính. Đảo chính là phương thức tiến hành của một nhóm người với mục đích
giành chính quyền, song không làm thay đổi căn bản chế độ xã hội. Đảo chính không phải là phong trào cách mạng. Nó
thường được thực hiện bằng bạo lực,
Lật đổ của các phe, nhóm có khuynh hướng chính trị đối lập với chính quyền đương thời. Đảo chính chỉ có ý nghĩa
cách mạng khi nó thực sự là một bộ phận của phong trào cách mạng.

B. Vai trò
Các cuộc cách mạng xã hội có vai trò to lớn trong đời sống xã hội. Chỉ có cách mạng xã hội mới thay thế
được quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới, tiến bộ, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, mới thay thế
được hình thái kinh tế – xã hội cũ bằng hình thái kinh tế – xã hội mới cao hơn. Cách mạng xã hội là bước chuyển vĩ
đại trong đời sống xã hội về kinh tế – chính trị – văn hoá – tư tưởng. Trong thời kỳ cách mạng xã hội, năng lực sáng
tạo của quần chúng nhân dân được phát huy một cách cao độ như C.Mác coi cách mạng xã hội là “đầu tàu” của lịch sử.
-Lịch sử xã hội loài người đã trải qua các quá trình chuyển biến cách mạng xã hội: Thứ nhất, từ cộng đồng nguyên thuỷ
lên chế độ chiếm hữu nô lệ; Thứ hai, từ chế độ chiếm hữu nô lệ lên chế độ phong kiến; Thứ ba, từ chế độ phong kiến
lên chế độ tư bản chủ nghĩa; Thứ tư, từ chế độ tư bản chủ nghĩa lên chế độ xã hội chủ nghĩa. Và lịch sử càng tiến lên
thì đặc trưng và vai trò của cách mạng xã hội càng trở nên đầy đủ và rõ rệt hơn.
-Cách mạng vô sản là cuộc cách mạng do giai cấp vô sản lãnh đạo, thực hiện mục đích cao cả là giải phóng giai cấp vô
sản và quần chúng lao động khác. Đó cũng là sự giải phóng con người nói chung khỏi sự bóc lột, áp bức và bất công.
Tất cả các cuộc cách mạng trước chỉ là sự thay thế hình thức người bóc lột người. Cách mạng vô sản có mục đích cuối
cùng là xóa bỏ mọi hình thức người bóc lột người, xây dựng một xã hội không còn giai cấp. Đó là sự chuyển biến sâu
sắc nhất trong lịch sử phát triển nhân loại. Vì vậy, khác với các cuộc cách mạng trước, đối với cách mạng vô sản, việc
giành được chính quyền mới chỉ là bước mở đầu cho quá trình biến đổi cách mạng toàn bộ đời sống xã hội; cách mạng
vô sản không thể không dẫn đến sự chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản. Song, nếu như nền chuyên chính do
các cuộc cách mạng trước tạo ra chỉ có thể bị thủ tiêu bằng cách mạng, thì chuyên chính vô sản chỉ là bước quá độ để
đi tới xóa bỏ giai cấp và chuyên chính giai cấp

C. Liên hệ:

16
-Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng thành công những bài học, giá trị lý luận của Cách
mạng Tháng Mười và những chỉ dẫn của V. I. Lê-nin để hoàn thành giải phóng dân tộc, hoàn thành trọn vẹn cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân và chuyển lên cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc từ năm 1954 và trên cả nước từ năm
1975. Trong lãnh đạo cách mạng xã hội chủ nghĩa, Đảng đã khắc phục bệnh chủ quan, nóng vội, duy ý chí, giáo điều
khi học tập kinh nghiệm nước ngoài. Với tư duy mới, Đảng đã nhận thức đúng đắn hơn những luận điểm của V. I. Lê-
nin về thời đại cách mạng xã hội chủ nghĩa, vận dụng đúng đắn những đặc trưng và quy luật của thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội vào thực tiễn Việt Nam để đề ra đường lối đổi mới và Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội.

-Thực tiễn cách mạng xã hội chủ nghĩa, nhất là công cuộc đổi mới đã làm cho nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ngày càng sáng tỏ hơn. Sáng tỏ hơn về mục tiêu và mô hình xã hội xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam với 8 đặc trưng mà Cương lĩnh bổ sung, phát triển tại Đại hội XI của Đảng (tháng 1-2011) đã
xác định. Mô hình đó đã thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội chủ nghĩa mà Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây
dựng; thể hiện rõ cơ sở kinh tế và kiến trúc thượng tầng, quyền làm chủ của nhân dân, lực lượng sản xuất hiện đại và
quan hệ sản xuất tiến bộ; quyền sống và điều kiện phát triển con người; những vấn đề về văn hóa, xã hội và quan hệ
quốc tế. Mô hình đó là sự phát triển hoàn chỉnh khi chủ nghĩa xã hội đã được xây dựng về cơ bản. Thực tiễn cũng làm
sáng tỏ hơn những vấn đề về quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Bước phát triển quá độ đó về kinh tế là phát triển
nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng
xã hội chủ nghĩa, nhiều chế độ sở hữu và nhiều loại thị trường khác nhau. Về chính trị là tăng cường vai trò lãnh đạo,
cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam; xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân, do Đảng Cộng sản lãnh đạo; thực hiện tốt hơn dân chủ xã hội chủ nghĩa. Về xã hội, củng cố đại đoàn
kết toàn dân tộc, tăng cường liên minh vững chắc giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức,
thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước đi và chính sách thích hợp. Về văn hóa, xây dựng nền văn hóa Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người Việt Nam trong thời kỳ mới. Thời kỳ quá độ ở Việt Nam
cũng được nhận thức là một thời kỳ dài và phải trải qua nhiều chặng đường với hình thức, bước đi khác nhau.
-Quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hoàn toàn có khả năng bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa: bỏ qua việc xác lập
kiến trúc thượng tầng và quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa và có thể kế thừa nhiều thành quả của nhân loại đã được tạo
ra dưới chủ nghĩa tư bản, nhất là khoa học, công nghệ. Trong thời đại ngày nay, mỗi quốc gia, dân tộc có quyền lựa
chọn con đường phát triển riêng của mình nhưng vẫn có thể tham gia chủ động, tích cực và có trách nhiệm vào quá
trình hội nhập quốc tế. Trên cơ sở học thuyết lý luận về chủ nghĩa xã hội và quá độ lên chủ nghĩa xã hội mà chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đã tổng kết, đồng thời, từ những kinh nghiệm và thành quả thực tiễn của công
cuộc đổi mới, Đảng và nhân dân ta luôn vững tin vào con đường xã hội chủ nghĩa - con đường tất yếu của lịch sử mà
Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn ngay từ năm 1930.

Câu 11: Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội? Đảng Cộng Sản Việt Nam đã
vận dụng mối quan hệ này như thế nào trong thời kỳ đổi mới
A. Khái niệm và các yếu tố cơ bản của tồn tại xã hội
Khái niệm tồn tại xã hội
-Khái niệm: Tồn tại xã hội là khái niệm dùng để chỉ đời sống vật chất và những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội.
Trong các quan hệ xã hội vật chất ấy thì quan hệ giữa con người với giới tự nhiên và quan hệ giữa con người với con
người là những quan hệ cơ bản nhất.
-Khi định nghĩa tồn tại xã hội, cần chú ý tới hoạt động sống của con người trong sản xuất và tiêu dùng của cải, nhưng
cũng không được quên những quan hệ vật chất trong quá trình sản xuất và trong đời sống thực tiễn, thực tế của con
người.
Các yếu tố cơ bản của tồn tại xã hội
-Tồn tại xã hội bao gồm các yếu tố cơ bản là phương thức sản xuất vật chất, điều kiện tự nhiên, hoàn cảnh địa lý, dân
số và mật độ dân số, v.v., trong đó phương thức sản xuất vật chất là yếu tố cơ bản nhất.

17
-Các yếu tố đó tồn tại trong mối quan hệ thống nhất biện chứng, tác động lẫn nhau tạo thành điều kiện sinh tồn và phát
triển của xã hội, trong đó, phương thức sản xuất là yếu tố cơ bản nhất. Ngoài ra, cần phải thấy được tầm quan trọng của
các quan hệ vật chất: Cộng đồng quốc tế, giai cấp, dân tộc, gia đình,... trong thời đại ngày nay. C.Mác đã khắc phục
triệt để chủ nghĩa duy tâm, xây dựng quan điểm duy vật lịch sử về mối quan hệ giữa tồn tại xã hội, ý thức xã hội, về vai
trò quyết định của tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội.
B. Khái niệm và kết cấu của ý thức xã hội
.Khái niệm ý thức xã hội
Ý thức xã hội là mặt tinh thần của đời sống xã hội bao gồm tình cảm, phong tục, truyền thống, quan điểm, tư tưởng,…
nảy sinh từ tồn tại xã hội và phản ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn phát triển nhất định.
Kết cấu của ý thức xã hội
- Ý thức xã hội thông thường và ý thức lý luận:
+Ý thức xã hội thông thường hay ý thức thường ngày là những tri thức, những quan niệm của con người hình thành
một cách trực tiếp trong các hoạt động trực tiếp hằng ngày nhưng chưa được hệ thống hóa, chưa được tổng hợp và khái
quát hóa.
+Ý thức lý luận hay ý thức khoa học là những tư tưởng, những quan điểm được tổng hợp, được hệ thống hóa và khái
quát hóa thành các học thuyết xã hội dưới dạng các khái niệm, các phạm trù và các quy luật.
- Tâm lý xã hội và hệ tư tưởng:
+Tâm lý xã hội là ý thức xã hội thể hiện trong ý thức cá nhân. Tâm lý xã hội bao gồm toàn bộ tư tưởng, tình cảm, tâm
trạng, thói quen, nếp sống, nếp nghĩ, phong tục, tập quán, ước muốn, v.v. của một người, một tập đoàn người, một bộ
phận xã hội hay của toàn thể xã hội hình thành dưới tác động trực tiếp của cuộc sống hằng ngày của họ và phản ánh
cuộc sống đó.
+Hệ tư tưởng là giai đoạn phát triển cao hơn của ý thức xã hội, là sự nhận thức lý luận về tồn tại xã hội. Hệ tư tưởng có
khả năng đi sâu vào bản chất của mọi mối quan hệ xã hội; là kết quả của sự tổng kết, sự khái quát hóa các kinh nghiệm
xã hội để hình thành nên những quan điểm, những tư tưởng về chính trị, pháp luật, triết học, đạo đức, nghệ thuật, tôn
giáo, v.v.. Hệ tư tưởng có 2 loại: khoa học và phản khoa học.
Tính giai cấp của ý thức xã hội
-Trong những xã hội có giai cấp thì các giai cấp khác nhau có điều kiện vật chất khác nhau, có lợi ích và địa vị xã hội
khác nhau thì ý thức xã hội của các giai cấp đó cũng khác nhau.
-Tính giai cấp của ý thức xã hội biểu hiện cả ở tâm lý xã hội lẫn ở hệ tư tưởng. Nếu ở trình độ tâm lý xã hội mỗi giai
cấp xã hội đều có tình cảm, tâm trạng, thói quen, thiện cảm hay ác cảm riêng thì ở trình độ hệ tư tưởng tính giai cấp thể
hiện rõ rệt và sâu sắc hơn nhiều.
-Giai cấp nào là lực lượng vật chất thống trị trong xã hội thì cũng là lực lượng tinh thần thống trị trong xã hội. Giai cấp
nào chi phối những tư liệu sản xuất vật chất thì cũng chi phối luôn cả những tư liệu sản xuất tinh thần.
Các hình thái ý thức xã hội
* Ý thức chính trị
Ý thức chính trị là một hình thái ý thức xã hội, nó phản ánh các quan hệ chính trị, kinh tế, xã hội giữa các giai cấp, các
dân tộc và các quốc gia cũng như thái độ của các giai cấp đối với quyền lực nhà nước
* Ý thức pháp quyền
Ý thức pháp quyền là toàn bộ những tư tưởng, quan điểm của một giai cấp về bản chất và vai trò của pháp luật, về
quyền, trách nhiệm và nghĩa vụ của nhà nước, của các tổ chức xã hội và của công dân, về tính hợp pháp và không hợp
pháp của hành vi con người trong xã hội. Ý thức pháp quyền ra đời trong xã hội có giai cấp và nhà nước, vì vậy nó
cũng mang tính giai cấp, có quan hệ chặt chẽ với ý thức chính trị.
* Ý thức đạo đức
Ý thức đạo đức là toàn bộ những quan niệm về thiện, ác, tốt, xấu, lương tâm, trách nhiệm, nghĩa vụ, công bằng, hạnh
phúc, v.v. và về những quy tắc đánh giá, những chuẩn mực điều chỉnh hành vi cùng cách ứng xử giữa các cá nhân với
với nhau và giữa các cá nhân với xã hội. .

18
* Ý thức nghệ thuật hay ý thức thẩm mỹ.
-Ý thức nghệ thuật, hay ý thức thẩm mỹ, hình thành rất sớm từ trước khi xã hội có sự phân chia giai cấp, cùng với sự ra
đời của các hình thái nghệ thuật.
-Giống như các hình thái ý thức xã hội khác, ý thức thẩm mỹ phản ánh tồn tại xã hội. Tuy nhiên, nếu khoa học và triết
học phản ánh thế giới bằng khái niệm, bằng phạm trù và quy luật, thì nghệ thuật phản ánh thế giới bằng hình tượng
nghệ thuật. Hình tượng nghệ thuật là sự nhận thức, sự lĩnh hội cái chung trong cái riêng; là sự nhận thức cái bản chất
trong các hiện tượng, cái phổ biến trong cái cá biệt nhưng mang tính điển hình.
* Ý thức tôn giáo
Tôn giáo có trước triết học; nó là một hình thái ý thức xã hội trực tiếp thể hiện thế giới quan của con người, tôn giáo là
sự phản ánh hư ảo sức mạnh của giới tự nhiên bên ngoài lẫn các quan hệ xã hội vào đầu óc con người. Những sức
mạnh của tự nhiên và các lực lượng xã hội hiện thực được thần bí hóa chính là nguồn gốc thật sự của tôn giáo. Sự sợ
hãi trước sức mạnh của tự nhiên, sự bất lực trước các thế lực xã hội đã tạo ra thần linh.
* Ý thức khoa học
Khoa học là sự khái quát cao nhất của thực tiễn, là phương thức nắm bắt tất cả các hiện tượng của hiện thực, cung cấp
những tri thức chân thực về bản chất các hiện tượng, các quá trình, các quy luật của tự nhiên và của xã hội.
* Ý thức triết học
Hình thức đặc biệt và cao nhất của tri thức cũng như của ý thức xã hội là triết học. Với tư cách là một hình thái ý thức
xã hội, triết học nói chung và nhất là triết học duy vật biện chứng, có sứ mệnh trở thành thế giới quan, là cơ sở và hạt
nhân của thế giới quan chính là tri thức. Chính thế giới quan đó giúp con người trả lời cho các câu hỏi được nhân loại
từ xưa đến nay thường xuyên đặt ra cho mình. Chẳng hạn thế giới xung quanh ta là gì? Thế giới ấy có điểm bắt đầu và
điểm kết thúc hay không? Sức mạnh nào chi phối sự tồn tại và sự biến đổi đó? Con người là gì và sinh ra từ đâu và có
quan hệ như thế nào với thế giới ấy? Cuộc sống của con người có ý nghĩa gì? Con người có vị trí nào trong thế giới đó?
v.v.
Như vậy, thế giới quan triết học bao hàm trong nó cả nhân sinh quan. Trong thời đại hiện nay, thế giới
quan khoa học chân chính nhất chính là thế giới quan triết học duy vật biện chứng.

B. Mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội
Vai trò quyết định của tồn tại xã hội với ý thức xã hội
-Công lao to lớn C. Mác và Ph.Ăngghen là phát triển chủ nghĩa duy vật đến đỉnh cao,
xây dựng quan điểm duy vật về lịch sử và lần đầu tiên giải quyết một cách khoa học vấn đề sự hình thành và phát triển
của ý thức xã hội. Các ông đã chứng minh rằng: Đời sống tinh thần của xã hội hình thành và phát triển trên cơ sở của
đời sống vật chất, rằng không thể tìm nguồn gốc của tư tưởng, tâm lý xã hội trong bản thân nó, nghĩa là không thể tìm
trong đầu óc con người mà phải tìm trong hiện thực vật chất. Sự biến đổi của một thời đại nào đó sẽ không thể giải
thích được nếu chỉ căn cứ vào ý thức của thời đại ấy. Trái lại, phải giả thích ý thức ấy bằng những mâu thuẫn của đời
sống vật chất, bằng sự xung đột giữa các lực lượng sản xuất xã hội và những quan hệ sản xuất xã hội.
-Những luận điểm trên đây đã bác bỏ quan niệm sai lầm của chủ nghĩa duy tâm muốn đi tìm nguồn gốc của ý thức tư
tưởng trong bản thân ý thức tư tưởng, xem tinh thần, tư tưởng là nguồn gốc của mọi hiện tượng xã hội, quyết định sự
phát triển của xã hội và trình bày lịch sử các hình thái ý thức xã hội tách rời cơ sở kinh tế - xã hội.
-Chủ nghĩa duy vật lịch sử chỉ rõ rằng, tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội. Tồn tại xã hội như thế nào thì ý thức xã
hội sẽ tương ứng như vậy, ý thức xã hội là sự phản ánh đối với tồn tại xã hội và phụ thuộc vào tồn tại xã hội. Ở những
thời kỳ lịch sử khác nhau, do những điều kiện khác nhau của đời sống vật chất quyết định cho nên những lý luận, quan
điểm cũng sẽ khác nhau. Mỗi khi tồn tại xã hội thay đổi, đặc biệt là sự thay đổi của phương thức sản xuất thì những tư
tưởng và lý luận xã hội, những quan điểm về chính trị, pháp quyền, đạo đức, văn hóa, nghệ thuật tất yếu sẽ biến đổi
theo ở những mức độ khác nhau.
-Tuy nhiên, tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội không phải một cách giản đơn, trực tiếp mà thường thông qua các
khâu trung gian. Không phải bất cứ tư tưởng, quan niệm, lý luận hình thái ý thức xã hội nào cũng phản ánh rõ ràng trực

19
tiếp những quan hệ kinh tế của thời đại, mà chỉ khi nào xét đến cùng thì chúng ta mới thấy được những mối quan hệ
kinh tế được phản ánh bằng cách này hay cách khác trong các tư tưởng ấy.
Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội
-Khi khẳng định vai trò quyết định của tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội. Chủ nghĩa duy vật lịch sử đã khẳng định: Ý
thức xã hội không phải là yếu tố thụ động hoặc tiêu cực. Mặc dù chịu sự quy định và sự chi phối của tồn tại xã hội
nhưng ý thức xã hội luôn có tính độc lập tương đối. Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội thể hiện ở năm điểm sau
đây:
+Thứ nhất, ý thức xã hội thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội.
● Lịch sử xã hội đã chứng minh, nhiều khi tồn tại xã hội cũ đã mất đi, thậm chí đã mất rất lâu, nhưng ý thức xã
hội do nó sinh ra vẫn tồn tại dai dẳng hoặc khi xã hội mới ra đời, nhưng ý thức xã hội không biến đổi kịp để
phản ánh nó.
● Ý thức xã hội thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội là do các nguyên nhân sau:
■ Sự biến đổi của tồn tại xã hội do tác động mạnh mẽ, thường xuyên và trực tiếp của những hoạt
động thực tiễn của con người, thường diễn ra với tốc độ nhanh và ý thức xã hội có thể không
phản ánh kịp và trở nên lạc hậu. Hơn nữa, ý thức xã hội là cái phản ánh tồn tại xã hội nên nói
chung chỉ biến đổi sau khi có sự biến đổi của tồn tại hội, nhất là phản ánh các hiện tượng xã
hội đòi hỏi phải có thời gian.
■ Do sức mạnh của thói quen, tập quán, truyền thống... cũng như tính bảo thủ của một số hình
thái ý thức (tôn giáo, đạo đức...).
■ Ý thức xã hội luôn gắn với lợi ích của những nhóm, những tập đoàn người, những giai cấp
nhất định trong xã hội. Vì vậy những tư tưởng cũ lạc hậu thường được các lực lượng xã hội
phản tiến bộ lưu giữ và truyền bá nhằm chống phá các lực lượng xã hội tiến bộ.
○ Tuy nhiên, những ý thức lạc hậu tiêu cực không mất đi một cách dễ dàng. Vì vậy, trong sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội mới phải thường xuyên tăng cường công tác tư tưởng, đấu tranh chống lại
những âm mưu và hành động phá hoại của các lực lượng thù địch, kiên trì xóa bỏ những tàn dư ý thức
cũ, đồng thời ra sức phát huy những truyền thống, tư tưởng tốt đẹp.
+Thứ hai, ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội.
● Triết học Mác - Lênin thừa nhận rằng, ý thức xã hội thường lạc hậu hơn tồn tại xã hội nhưng cũng có thể vượt
trước tồn tại xã hội. Thực tế là nhiều tư tưởng khoa học và triết học trong những điều kiện nhất định có thể
vượt trước tồn tại xã hội của thời đại rất xa. Sở dĩ ý thức xã hội có khả năng đó là do nó phản ánh đúng được
những mối liên hệ logic, khách quan, tất yếu, bản chất của tồn tại xã hội.
● Trong những điều kiện lịch sử nhất định, tư tưởng khoa học của con người có thể vượt trước sự phát triển của
tồn tại xã hội, dự báo được tương lai và góp phần chỉ đạo hướng dẫn con người trong hoạt động thực tiễn cải
tạo biến đổi thế giới.
● Song, khi nói tư tưởng tiên tiến có khả năng phản ánh vượt trước tồn tại xã hội thì điều đó không có nghĩa là nó
bị ý thức xã hội quyết định hay do một lực lượng thần bí nào sinh ra. Tư tưởng khoa học tiên tiến xét cho cùng
vẫn là do tồn tại xã hội quyết định.
+Thứ ba, ý thức xã hội có tính kế thừa trong sự phát triển của mình.
Ý thức xã hội của mỗi giai đoạn lịch sử vừa là sự phản ánh tồn tại xã hội của mỗi giai đoạn lịch sử đó lại vừa là
sự kế thừa ý thức xã hội của mỗi giai đoạn lịch sử trước đó. Sự kế thừa đó chính là sự phát triển của ý thức xã hội dựa
trên những tiền đề của ý thức xã hội trong các giai đoạn trước. Không có những tiền đề đó thì không thể có ý thức mới.
+Thứ tư, sự tác động qua lại của của hình thái ý thức xã hội trong sự phát triển của chúng.
● Các hình thái ý thức xã hội gồm có: chính trị, triết học, pháp quyền, đạo đức, nghệ thuật, tôn giáo... Ở mỗi giai
đoạn lịch sử, có thể có một hình thái ý thức nào đó nổi lên hàng đầu tác động đến hình thái ý thức xã hội khác.
● Trong xã hội có đối kháng giai cấp, thông thường ý thức chính trị có vai trò đặc biệt quan trọng, chi phối các
hình thái ý thức xã hội khác, nó định hướng cho các hình thái ý thức xã hội khác phát triển phù hợp với lợi ích
của các giai cấp, các lực lượng xã hội nhất định.
20
+ Thứ năm, sự tác động trở lại của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội.
● Ý thức xã hội có tính độc lập tương đối và tác động trở lại tồn tại xã hội. Vai trò tác động của ý thức xã hội đối
với tồn tại xã hội phụ thuộc vào những điều kiện lịch sử cụ thể; vào tính chất của các mối quan hệ kinh tế mà
trên đó tư tưởng nảy sinh; vai trò lịch sử của giai cấp mang ngọn cờ tư tưởng; vào mức độ phản ánh đúng đắn
của tư tưởng đối với các nhu cầu phát triển xã hội; vào mức độ mở rộng của tư tưởng trong quần chúng nhân
dân…
● Sự tác động của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội theo hai hướng: Nếu ý thức xã hội phản ánh đúng quy luật
vận động của hiện thực khách quan, của tồn tại xã hội, sẽ góp phần thúc đẩy tồn tại xã hội phát triển. Nếu ý
thức xã hội phản ánh không đúng quy luật vận động của hiện thực khách quan, của tồn tại xã hội, sẽ kìm hãm
sự phát triển của tồn tại xã hội.
C. Ý nghĩa phương pháp luận
Trên cơ sở nghiên cứu mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội,
có thể rút ra ý nghĩa phương pháp luận cơ bản như sau:
Nghiên cứu vấn đề ý thức xã hội, không được dừng lại ở các hiện tượng ý thức mà
phải đi sâu phát hiện những mâu thuẫn của đời sống xã hội – cơ sở làm nảy sinh các hiện
tượng ý thức.
Muốn khắc phục các hiện tượng ý thức cũ và xây dựng ý thức mới phải chú ý tất cả các lĩnh vực, nhưng về cơ
bản lầu dài, triệt để phải chú ý tạo lập một hiện thực cuộc sống để nó là mảnh đất tốt nảy sinh, tồn tại và phát triển của
ý thức tốt đẹp
Cần coi trọng và đẩy mạnh cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng văn hóa. Tư tưởng tác
động rất mạnh trở lại hiện thực cuộc sống. Văn hóa là “gương soi của dân tộc” và là yếu tố nội sinh của đời sống xã
hội. Cần thấy được tầm quan trọng và ý nghĩa của ý thức đối với quá trình hình thành nền văn hóa mới và con người
mới.
D. Vận dụng mối quan hệ này trong thời kỳ đổi mới của Đảng Cộng Sản Việt Nam
Trong công cuộc đổi mới đất nước, xây dựng ý thức xã hội mới là vấn đề bức thiết. Xây dựng ý thức xã hội
mới là sự nghiệp của toàn dân, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, trên cơ sở xây dựng và phát triển nền văn hoá tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kết hợp chặt
chẽ giữa xây dựng ý thức xã hội mới đáp ứng nhu cầu phát triển đất nước trên cả hai mặt đời sống tinh thần và đời
sống vật chất trong thời kỳ đổi mới và hội nhập, kèm theo là chống những biểu hiện cản trở sự nghiệp xây dựng đó.
Trong điều kiện hiện nay, cùng với sự phát triển của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, Đảng ta thấy
được sự cần thiết trong việc tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa dựa trên nền tảng của khoa học, công
nghệ, đổi mới sáng tạo và công nghệ của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Quá trình này tạo ra cơ sở vật chất
kỹ thuật làm thay đổi những điều kiện kinh tế cũng như tạo ra cơ sở và môi trường xã hội để thay đổi tư duy, nếp nghĩ,
thay đổi thói quen, lối sống... của từng cá nhân và cả cộng đồng xã hội. Đồng thời, chủ thể của quá trình CNH, HĐH
chính là con người. Cho nên, khi tham gia vào quá trình CNH, HĐH, thực tiễn của quá trình này đòi hỏi những con
người đó buộc phải thay đổi, phải từ bỏ những tư tưởng, thói quen, nếp nghĩ, tập quán... cũ, không còn phù hợp để hình
thành nên những tư tưởng, quan điểm, lối sống... mới, đáp ứng được yêu cầu của đời sống kinh tế - xã hội hiện nay.
Trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước hiện nay, việc phát huy vai trò của ý thức xã hội mới có ý
nghĩa rất quan trọng. Phát huy vai trò của ý thức xã hội mới hiện nay là tổng hợp những biện pháp, cách thức làm cho ý
thức xã hội mới được ăn sâu, bám rễ, thẩm thấu vào đời sống tinh thần, tư tưởng, đạo đức, lối sống của nhân dân. Với
hạt nhân tư tưởng là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối, chủ trương của Đảng; chính sách, pháp
luật của Nhà nước, có thể nói, ý thức xã hội mới đóng vai trò quan trọng nhất trong việc định hướng tư tưởng, văn hóa
xã hội; góp phần xây dựng đạo đức, lối sống mới, tiến bộ cho nhân dân trong bối cảnh sự suy thoái đạo đức, lối sống
của một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân hiện nay đang có những diễn biến nghiêm trọng; góp phần đấu tranh
chống những quan điểm sai trái, thù địch đang chống phá Đảng và Nhà nước, công kích, xuyên tạc nhằm bác bỏ nền
tảng tư tưởng của Đảng ta là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.

21
Trong hoạt động phòng, chống dịch bệnh Covid-19 vừa qua, Đảng và Nhà nước ta đã biết vận dụng linh hoạt
và sáng tạo mối quan hệ giữa hai phạm trù này, để nâng cao đời sống tồn tại xã hội, cho người dân, cần có sự đoàn kết,
nhất trí của cả hệ thống chính trị. Để hiện thực hóa quan điểm của Đảng, Nhà nước, lời kêu gọi của Tổng Bí Thư, đòi
hỏi cần phải phát huy được “liều vắc-xin hữu hiệu nhất” trong các liều vắc-xin hữu hiệu - đó là “ý thức công dân”.
Đồng thời, cần phải luôn luôn cảnh giác với các thế lực thù địch, những tư tưởng phản động tác động xấu đến ý thức,
đời sống tinh thần của người dân, góp phần bảo vệ Đảng, Nhà nước và nhân dân.
Tóm lại, trong hệ thống lý luận của triết học Mác - Lênin, vấn đề ý thức xã hội là một nội dung quan trọng góp
phần tạo cơ sở lý luận cho quan điểm duy vật về lịch sử, và cùng với học thuyết giá trị thặng dư, đã trở thành hai phát
kiến vĩ đại của chủ nghĩa Mác. Nhận thức sâu sắc những vấn đề lý luận về ý thức xã hội của triết học Mác và vận dụng
hợp lý chúng trong xây dựng ý thức xã hội mới nói riêng và đời sống tinh thần nói chung sẽ góp phần thiết thực vào
thành công của công cuộc xây dựng đất nước theo định hướng XHCN.

Câu 12: Tính vượt trước của ý thức xã hội so với tồn tại xã hội. Ý nghĩa của nó trong việc xây dựng đời sống
tinh thần của Việt Nam hiện nay.
A. Tính vượt trước của ý thức xã hội so với tồn tại xã hội.
Khái niệm tồn tại xã hội: Tồn tại xã hội là toàn bộ sinh hoạt vật chất và những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội.
Tồn tại xã hội của con người là thực tại xã hội khách quan, là một kiểu vật chất xã hội, là các quan hệ xã hội vật chất
được ý thức xã hội phản ánh. Trong các quan hệ xã hội vật chất thì quan hệ giữa con người với giới tự nhiên và quan
hệ giữa con người với con người là những quan hệ cơ bản nhất.
Khái niệm ý thức xã hội: Ý thức xã hội là phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử được vận dụng để giải quyết vấn đề
cơ bản của triết học trong lĩnh vực xã hội. Ý thức xã hội chính là xã hội tự nhận thức về mình, về sự tồn tại xã hội của
mình và về hiện thực xung quanh mình. Nói cách khác, ý thức xã hội là mặt tinh thần của đời sống xã hội, là bộ phận
hợp thành của văn hoá tinh thần của xã hội. Văn hoá tinh thần xã hội mang nặng dấu ấn đặc trưng của hình thái kinh tế
- xã hội, của các giai cấp đã tạo ra nó.
-Triết học Mác – Lênin thừa nhận rằng, ý thức xã hội thường lạc hậu hơn tồn tại xã hội nhưng cũng có thể vượt trước
tồn tại xã hội. Thực tế trong nhiều điều kiện nhất định, nhiều tư tưởng khoa học và triết học có thể vượt trước tồn tại xã
hội của thời đại rất xa. Sở dĩ ý thức xã hội có khả năng đó là do nó phản ánh đúng những mối liên hệ logic, khách quan,
tất yếu, bản chất của tồn tại xã hội.
-Ý thức xã hội chính là xã hội tự nhận thức về mình, về sự tồn tại xã hội của mình và về hiện thực xung quanh mình.
Chính vì thế, ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội. Bên cạnh đó, sự phản ánh này không phải là sự phản ánh thụ động,
bất động mà là một quá trình biện chứng phức tạp, là kết quả của mối quan hệ hoạt động, tích cực của con người đối
với hiện thực. Nhờ vậy mà ý thức xã hội có thể nhận thức được cái bản chất, cốt lõi, những mâu thuẫn trong lòng xã
hội, từ đó phân tích, vạch định xu hướng vận động, phát triển của tồn tại xã hội.
-Lịch sử đã cho thấy nhiều dự báo của các nhà tư tưởng lớn phải sau một thời gian, có thể ngắn hoặc rất dài mới được
thực tiễn xác nhận. Nhiều dự báo của C.Mác đang trở thành sự thật trong thời đại chúng ta đã hoàn toàn khẳng định
điều đó. Chẳng hạn, dự báo tri thức trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp đang được thực tiễn của cuộc cách mạng
chuyển đối công nghệ số, thời đại trí tuệ nhân tạo hay cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, thời đại kinh tế tri
thức xác nhận. Đặc biệt, khi đánh giá rằng, xã hội tư bản "hoàn toàn không phải là một khối kết tinh vững chắc, mà là
một cơ thể có khả năng biến đổi" thì chính C.Mác đã chỉ ra các quy luật vận động tất yếu của xã hội và cũng đã dự báo
về sự thay thế không thể tránh khỏi của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa bằng phương thức sản xuất cao hơn –
phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa.
Biểu hiện:
● Khoa học: Thuyết nguyên tử của Đêmôcrit đã có từ thời kì cổ đại nhưng mãi đến sau này, cùng với sự phát
triển của khoa học - kỹ thuật, người ta mới chứng minh, khẳng định được quan điểm đó là đúng, là hiện thực
● Triết học: Chủ nghĩa Mác ra đời đã nhận thức được những mâu thuẫn trong lòng xã hội và dự báo về sự thay
thế của CNTB bằng một hình thái xã hội tiến bộ hơn là CNXH
Liên hệ

22
Chủ nghĩa Mác ra đời những năm 40 TK XIX. Vào thời điểm ấy, C.Mác đã nhìn thấy hiện thực và mâu thuẫn trong
lòng TBCN. Đó là mâu thuẫn giữa LLSX mang tính xã hội hoá cao với QHSX dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân
TBCN về TLSX. Mâu thuẫn ấy biểu hiện ở lĩnh vực chính trị - xã hội, ở mâu thuẫn gay gắt giữa giai cấp vô sản và giai
cấp tư sản. Xuất phát từ hiện thực mâu thuẫn cơ bản trong lòng chủ nghĩa tư bản, các nhà kinh điển Mácxít đã đưa ra
dự báo về cách mạng vô sản hay cách mạng xã hội chủ nghĩa về sau là tất yếu nổ ra và giành thắng lợi. Dự báo này khi
đặt bối cảnh vào thời kì C.Mác, Ăngghen chưa trở thành hiện thực. Thế nhưng, xuất phát từ mâu thuẫn xã hội, họ đã
chỉ ra một tất yếu lịch sử, CNXH sẽ ra đời trên sự phát triển của CNTB. Mãi cho đến CMT10 Nga, lời "tiên đoán" của
C.Mác mới thành hiện thực đã chứng tỏ những dự báo của C.Mác đã đi trước thời đại của, dựa trên cơ sở căn cứ vào
hiện thực khách quan.
Tư tưởng khoa học, lý luận triết học vượt trước so với tồn tại xã hội dự báo sự phát triển tồn tại xã hội nếu xuất phát từ
hiện thực, từ thực tiễn. Tư tưởng, lý luận khoa học dự báo xu hướng vận động phát triển của tồn tại xã hội chỉ khi nó
xuất phát từ hiện thực xã hội. Tuy nhiên, cũng có tư tưởng vượt trước lại là phản khoa học nếu nó xuất phát từ ý muốn
chủ quan của con người.
B. Ý nghĩa của nó trong việc xây dựng đời sống tinh thần của Việt Nam hiện nay.
Trong bối cảnh hiện nay với những điều kiện mới, cùng với sự phát triển của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư,
Đảng ta nhấn mạnh: “Tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa dựa trên nền tảng của khoa học, công nghệ, đổi
mới sáng tạo và công nghệ của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư...”. Quá trình này tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật
làm thay đổi những điều kiện kinh tế cũng như tạo ra cơ sở và môi trường xã hội để thay đổi tư duy, nếp nghĩ, thay đổi
thói quen, lối sống... của từng cá nhân và cả cộng đồng xã hội. Đồng thời, chủ thể của quá trình CNH, HĐH chính là
con người. Cho nên, khi tham gia vào quá trình CNH, HĐH, thực tiễn của quá trình này đòi hỏi những con người đó
buộc phải thay đổi để hình thành nên những tư tưởng, quan điểm, lối sống mới, đáp ứng được yêu cầu của đời sống
kinh tế - xã hội hiện nay. Như vậy, ý thức xã hội cần có sự điều chỉnh phù hợp.

Câu 13: Tại sao ý thức xã hội lại thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội. Cho ví dụ chứng minh?
A. Khái niệm:
● Tồn tại xã hội: Là toàn bộ sinh hoạt vật chất và những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội
● Ý thức xã hội: Là phương diện sinh hoạt tinh thần của đời sống xã hội bao gồm các quan điểm, tư tưởng, tình
cảm, tâm trạng, truyền thống... của cộng đồng xã hội, nảy sinh từ tồn tại xã hội và phản ánh tồn tại xã hội trong
những giai đoạn phát triển nhất định.
Ý thức xã hội thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội bởi vì những nguyên nhân sau:
● Do tác động mạnh mẽ, thường xuyên và trực tiếp từ những hoạt động thực tiễn của con người, tồn tại xã hội
thường diễn ra với tốc độ nhanh. Mà ý thức xã hội là sự phản ánh của tồn tại xã hội nên nó chỉ biến đổi sau khi
có sự biến đổi của tồn tại xã hội. Dẫn đến không phản ứng kịp và trở nên lạc hậu
● Do sức mạnh của thói quen, truyền thống, tập quán cũng như do tính lạc hậu, bảo thủ của một số hình thái xã
hội. V.I.Lênin cũng cho rằng: sức mạnh của tập quán được tạo ra qua nhiều thế kỷ là sức mạnh ghê gớm nhất.
● Ý thức xã hội luôn gắn với lợi ích của những nhóm, những tập đoàn người, những giai cấp nhất định trong xã
hội. Vì vậy những tư tưởng lạc hậu thường được các lực lượng xã hội phản động lưu trữ và truyền bá nhằm
chống lại những lực lượng xã hội tiến bộ.

B. Ví dụ minh hoạ(Liên hệ)


● Quan điểm xưa: Người phụ nữ sau khi kết hôn phải làm việc nội trợ ở nhà, không được phát triển sự nghiệp cá
nhân nữa mà phải chăm sóc cho gia đình
● Quan điểm nay: Người phụ nữ độc lập, có khả năng làm điều mình muốn, vừa chăm lo gia đình vừa gầy dựng
sự nghiệp cá nhân.
→ Tuy nhiên, vẫn bắt gặp những quan điểm xưa tồn tại đâu đó trong xã hội:
● Quan điểm xưa: đàn ông không được vào bếp, đàn bà không được can dự chính trị, việc lớn,..

23
● Quan điểm nay: bình đẳng, bất kì ai cũng có thể vào bếp, nam nữ đều tham gia vào các hoạt động của nhà
nước, địa phương,.... Thế nhưng, ở một vài nơi, một vài cá nhân vẫn còn giữ quan niệm này: Hủ tục ma chay,
cưới hỏi tư tưởng trọng nam khinh nữ, phụ quyền, gia trưởng, hủ tục bắt vợ. Công cụ lao động mới ra đời,
nhiều người chưa cập nhật thông tin nên chưa hiểu và chưa sử dụng được.
-Quan điểm triết học Mác - Lênin đã chỉ rõ, sự lạc hậu trong quá trình phát triển của ý thức xã hội là điều không
tránh khỏi. Ở nước ta hiện nay, sự tồn tại của những tư tưởng, phong tục, tập quán lạc hậu vẫn còn khá phổ biến, với
những biểu hiện như trọng nam khinh nữ, gia trưởng...; là sự tồn tại của tâm lý tiểu nông với biểu hiện rất đa dạng như
thói tự do, tùy tiện, tâm lý “ăn xổi, ở thì”, thiếu nhìn xa, trông rộng...; của tâm lý làng xã, biểu hiện ở thói cục bộ địa
phương cũng như những tư tưởng, thói quen, tập quán tiêu cực được hình thành trong thời kỳ tập trung bao cấp...
Những tư tưởng, phong tục, tập quán lạc hậu này vẫn đang tác động tới đời sống xã hội. Bên cạnh đó, những hình thái
khác của ý thức xã hội cũng có thể ảnh hưởng đến chế độ XHCN mà Đảng và Nhà nước ta đang từng bước xây dựng.
Do vậy, một trong những nhiệm vụ quan trọng của việc xây dựng đời sống tinh thần nói chung và ý thức xã hội mới
nói riêng hiện nay ở nước ta là tiến hành đấu tranh hạn chế và khắc phục các loại hình tư tưởng, phong tục, tập quán cũ,
lạc hậu đó. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này, sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: “Chúng ta
phải thay đổi triệt để những nếp sống, thói quen, ý nghĩ và thành kiến có gốc rễ sâu xa hàng ngàn năm... chúng ta phải
biến một nước dốt nát, cực khổ thành một nước văn hoá cao và đời sống tươi vui hạnh phúc”. Tuy nhiên, do những tư
tưởng, phong tục, tập quán này đã tồn tại lâu dài, đã len lỏi vào những khía cạnh sâu xa trong đời sống xã hội cũng như
ở mỗi con người nên quá trình khắc phục những biểu hiện tiêu cực không hề đơn giản mà là cả một quá trình khó khăn,
lâu dài. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng (năm 2021) cũng xác định: “Từng bước hạn chế, tiến tới xóa bỏ các hủ tục, tập
quán lạc hậu” chứ không thể nhanh chóng xóa bỏ ngay được các hủ tục, tập quán đó.
-Nhờ có sự lãnh đạo kịp thời, sáng suốt của Đảng và Nhà nước mà xã hội trong những năm gần đây đã có nhiều
biến chuyển. Ý thức xã hội càng phát triển, tư tưởng, nhận thức quan điểm của người dân lại càng có nhiều thay đổi.
Đảng và Nhà nước đã, đang cố gắng nhằm định hướng ý thức xã hội theo hướng tích cực, ủng hộ chế độ XHCN, tránh
sự lệch lạc về nhận thức và hành vi, đe dọa đến sự phát triển của nhà nước XHCN Việt Nam. Việc phát huy vai trò của
ý thức xã hội mới hiện nay là tổng hợp những biện pháp, cách thức làm cho ý thức xã hội mới được ăn sâu, bám rễ,
thẩm thấu vào đời sống tinh thần, tư tưởng, đạo đức, lối sống của nhân dân. Với hạt nhân tư tưởng là chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, có thể nói, ý thức
xã hội mới đóng vai trò quan trọng nhất trong việc định hướng tư tưởng, văn hóa xã hội, góp phần xây dựng đạo đức,
lối sống mới, tiến bộ cho nhân dân trong bối cảnh sự suy thoái đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên và
nhân dân hiện nay đang có những diễn biến nghiêm trọng và góp phần đấu tranh chống những quan điểm sai trái, thù
địch đang chống phá Đảng và Nhà nước, công kích, xuyên tạc nhằm bác bỏ nền tảng tư tưởng của Đảng ta là chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tóm lại, nhận thức sâu sắc những vấn đề lý luận về ý thức xã hội của triết học Mác và vận dụng hợp lý chúng trong
xây dựng ý thức xã hội mới nói riêng và đời sống tinh thần nói chung sẽ góp phần thiết thực vào thành công của công
cuộc xây dựng đất nước theo định hướng XHCN.

Câu 14: Tại sao nói quần chúng nhân dân là lực lượng sáng tạo chân chính ra lịch sử? Phê phán những quan
điểm sai lầm về vấn đề này?
A. Quần chúng nhân dân là lực lượng sáng tạo chân chính ra lịch sử
-Quần chúng nhân dân là lực lượng sáng tạo chân chính ra lịch sử, bởi vì: Mọi lý tưởng giải phóng xã hội, giải phóng
con người chỉ được chứng minh thông qua sự tiếp thu và hoạt động của quần chúng nhân dân. Hơn nữa, tư tưởng xã
hội không bao giờ là tư tưởng thuần tuý của một cá nhân mà là phản ánh điều kiện sinh hoạt vật chất xã hội dưới các
dạng và trình độ khác nhau, được tổng hợp lại qua một số nhà tư tưởng nào đó. Tư tưởng chỉ có tác dụng tích cực đến
lịch sử khi nó phản ánh được nguyện vọng, lợi ích của quần chúng trong những giai đoạn lịch sử nhất định; và sức
mạnh, tính chân lý của nó chỉ được chứng tỏ thông qua sự tiếp thu và hoạt động của quần chúng. Mặt khác, tư tưởng tự
nó không biến đổi được xã hội mà phải thông qua hoạt động cách mạng của quần chúng.

24
→Như vậy, chính quần chúng nhân dân mới là người kết hợp lý luận với thực tiễn cải tạo xã hội, hiện thực hóa
những tư tưởng, quan điểm xã hội phù hợp với tiến trình phát triển xã hội. Lãnh tụ dù uyên bác, tài giỏi nhưng
không có uy tín, không được quần chúng ủng hộ, hoặc do tác phong quan liêu, hách dịch, coi khinh quần chúng thì bản
thân lãnh tụ đó cũng sẽ đánh mất vai trò lãnh tụ của mình.

B. Phê phán những quan điểm sai lầm về vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử
Quan điểm tôn giáo cho rằng, mọi sự thay đổi trong lịch sử xã hội là do ý chí của Đấng tối cao, do mệnh trời quy định
và trao quyền cho các cá nhân – vĩ nhân thực hiện.
-Chủ nghĩa duy tâm tiếp tục đề cao vai trò của các vĩ nhân, coi thường quần chúng nhân dân, coi quần chúng nhân dân
chỉ là công cụ, là phương tiện để các vĩ nhân lập nên những chiến tích lịch sử.
-Chủ nghĩa duy vật trước Mác vẫn chưa thoát khỏi quan điểm duy tâm về xã hội khi cho rằng, nhân tố quyết định sự
phát triển của xã hội là các chân lý vĩnh cửu - tư tưởng đạo đức, pháp luật…, là các vĩ nhân và chỉ có họ mới sớm nhận
thức được chân lý vĩnh cửu thúc đẩy sự phát triển của lịch sử.
→Tóm lại, các trường phái triết học triết Mác đều chưa nhận thức đúng đắn về vai trò của quần chúng nhân
dân trong lịch sử. Bằng cách này hay cách khác, họ đã phủ nhận vai trò của quần chúng nhân dân, coi thường quần
chúng nhân dân, coi quần chúng nhân dân là “đàn cừu ngoan ngoãn”, để các vĩ nhân sai khiến, lợi dụng; coi quần
chúng nhân dân chỉ là vật liệu, phương tiện, bệ tỳ của lịch sử. Các quan điểm trên hoàn toàn xa lạ với quan điểm của
triết học Mác – Lênin.

Câu 15: Phân tích vai trò của quần chúng nhân dân và lãnh tụ trong lịch sử. Ý nghĩa của vấn đề này trong việc
quán triệt bài học “Lấy dân làm gốc”.
A. Khái niệm và vai trò:
Khái niệm quần chúng nhân dân và vai trò trong lịch sử:
-Khái niệm quần chúng nhân dân: Quần chúng nhân dân là thuật ngữ chỉ tập hợp đông đảo những con người hoạt động
trong một không gian và thời gian xác định, bao gồm nhiều thành phần, tầng lớp xã hội và giai cấp đang hoạt động
trong một xã hội xác định. Đó có thể là toàn bộ quần chúng nhân dân của một quốc gia, một khu vực lãnh thổ xác định.
Họ có chung lợi ích khoa học cơ bản liên hiệp với nhau, chịu sự lãnh đạo của một tổ chức, một đảng phái, cá nhân xác
định để thực hiện những mục tiêu kinh tế, chính trị, văn hóa hay xã hội xác định của một thời kỳ lịch sử nhất định.
-Vai trò của quần chúng nhân dân:
Chủ nghĩa duy vật lịch sử khẳng định, quần chúng nhân dân là chủ thể sáng tạo chân chính ra lịch sử, vai trò quyết định
lịch sử của quần chúng nhân dân được biểu hiện ở 3 nội dung sau:
● Thứ nhất: quần chúng nhân dân là lực lượng sản xuất cơ bản của xã hội, trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất là
cơ sở tồn tại và phát triển của xã hội.
● Thứ hai: Quần chúng nhân dân là động lực cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội.
● Thứ ba: Quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra những giá trị văn hóa tinh thần .
Như vậy, quần chúng nhân dân luôn đóng vai trò quyết định trong lịch sử. Tuy nhiên, tùy vào điều kiện lịch sử mà
vai trò chủ thể của quần chúng nhân dân cũng biểu hiện khác nhau. Chỉ có trong chủ nghĩa xã hội, quần chúng
nhân dân mới đủ điều kiện phát huy tài năng và sáng tạo của mình.

Khái niệm lãnh tụ và vai trò của lãnh tụ trong lịch sử:
-Khái niệm lãnh tụ:
Lãnh tụ là những cá nhân kiệt xuất, xuất hiện trong phong trào quần chúng nhân dân, nhận thức được một cách đúng
đắn, nhanh nhạy, kịp thời những yêu cầu, những vấn đề căn bản nhất của một lĩnh vực hoạt động nhất định của đời
sống xã hội hoặc là kinh tế, hoặc là chính trị, hoặc là văn hóa, khoa học, nghệ thuật v.v…, dám quên mình vì lợi ích
của quần chúng nhân dân, có năng lực nhận thức và hoạt động thực tiễn. Ngoài phẩm chất cá nhân, lãnh tụ còn phải có
những phẩm chất xã hội như được quần chúng tín nhiệm, gắn bó mật thiết với quần chúng, đặt lợi ích của quần chúng
nhân dân lên trên lợi ích cá nhân, có khả năng tập hợp quần chúng nhân dân, thống nhất nhận thức, ý chí và hành động
của nhân dân. Như vậy, lãnh tụ phải là người có những phẩm chất cơ bản sau đây:
25
● Thứ nhất, có tri thức khoa học uyên bác, nắm bắt được xu thế vận động của dân tộc, quốc tế và thời đại.
● Thứ hai, có năng lực tập hợp quần chúng nhân dân, thống nhất ý chí và hành động của quần chúng nhân dân
vài nhiệm vụ của dân tộc, quốc tế và thời đại.
● Thứ ba, gắn bó mật thiết với quần chúng nhân dân, hy sinh quên mình vì lợi ích của dân tộc, quốc tế và thời đại
-Vai trò của lãnh tụ trong lịch sử:
Lãnh tụ có vai trò to lớn đối với phong trào quần chúng nhân dân. Điều này được thể hiện ở ba điểm chủ yếu sau: Một
là, hoạt động của lãnh tụ có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của phong trào quần chúng nhân dân, từ đó có thể
thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển xã hội. Hai là, lãnh tụ là người sáng lập ra các tổ chức chính trị, xã hội, là linh hồn
của các tổ chức đó. Ba là, lãnh tụ của mỗi thời đại, chỉ có thể hoàn thành những nhiệm vụ đặt ra của thời đại đó.
Không có lãnh tụ cho mọi thời đại.

B. Về việc quán triệt bài học “Lấy dân làm gốc”


-Tư tưởng “nước lấy dân làm gốc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh có vị trí đặc biệt quan trọng, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá
trình lãnh đạo cách mạng của Đảng ta. Tư tưởng đó là sự kế thừa, phát huy truyền thống lịch sử hàng nghìn năm dựng
nước, giữ nước của dân tộc và quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về vai trò của nhân dân trong lịch sử.
-Trong mối quan hệ thống nhất biện chứng giữa quần chúng nhân dân và lãnh tụ, chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định
vai trò quyết định của quần chúng nhân dân đồng thời đánh giá cao vai trò của lãnh tụ. Quần chúng nhân dân là lực
lượng đóng vai trò quyết định đối với sự phát triển của lịch sử xã hội, là động lực của sự phát triển đó. Lãnh tụ là người
dẫn dắt, định hướng cho phong trào, thúc đẩy phong trào phát triển, do đó mà thúc đẩy sự phát triển của lịch sử xã hội.
-Quần chúng nhân dân và phong trào của họ tạo nên các lãnh tụ và những điều kiện, tiền đề khách quan để các lãnh tụ
xuất hiện và hoàn thành các nhiệm vụ mà lịch sử đặt ra cho họ. Lãnh tụ là sản phẩm của thời đại, của cộng đồng, của
phong trào. Sự xuất hiện của họ và khả năng giải quyết được các nhiệm vụ của lịch sử nhanh hoặc chậm, nhiều hoặc ít
sẽ thúc đẩy sự vận động, phát triển của phong trào quần chúng nhân dân.
-Mục đích và lợi ích của quần chúng nhân dân và lãnh tụ là thống nhất. Quan hệ lợi ích là cầu nối liên kết các nhân,
quần chúng nhân dân, lãnh tụ với nhau thành một khối thống nhất ý chí và hành động.
-Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ, mọi hoạt động của Đảng, Nhà nước phải xuất phát từ nguyện vọng, lợi ích chính đáng
của nhân dân; phải tôn trọng và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân, vì nhân dân phục vụ. Bởi lẽ, nhân dân là người
chủ thực sự của đất nước, là lực lượng lao động cơ bản của xã hội, chủ thể sáng tạo lịch sử; là lực lượng quyết định sự
thành bại của cách mạng; nếu không có quần chúng nhân dân thì không có lịch sử nào cả.
-Người chỉ rõ: “Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, chứ không phải là sự nghiệp của cá nhân anh hùng nào”.
Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn đã nói, “Khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc. Đó là thượng sách giữ
nước”; Nguyễn Trãi khẳng định, “Chở thuyền là dân, lật thuyền cũng là dân”. Trong thời đại Hồ Chí Minh, tư tưởng
“nước lấy dân làm gốc” của Người là gốc rễ, là cơ sở, nền tảng hình thành đường lối chiến tranh nhân dân toàn dân,
toàn diện, độc đáo, sáng tạo, góp phần quan trọng vào việc phát huy sức mạnh tổng hợp để đánh bại mọi kẻ thù xâm
lược.
-Bởi quần chúng nhân dân là lực lượng đóng vai trò là động lực của sự phát triển của lịch sử xã hội, là thành phần tạo
nên lãnh tụ, do đó cần quán triệt bài học “Lấy dân làm gốc”, lãnh tụ phải tôn trọng và bảo vệ lợi ích chính đáng của
nhân dân, vì nhân dân phục vụ.

26

You might also like