You are on page 1of 30

PHIẾU NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ TIỂU LUẬN

STT Nội dung nhận xét Giảng viên nhận xét Điểm Điểm kết luận
giảng viên

1 Thể thức văn bản 0,5

2 Bố cục, kết cấu đề tài 0,5

3 Nội dung 8,0


(Lý luận + Thực tiễn)

4 Phương pháp trình 0,5


bày

5 Tài liệu tham khảo 0,5

10

Họ và tên giảng viên:

Chữ kí giảng viên:


MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU.………………………………………………………………..……3

1. Tính cấp thiết của đề tài.……………………………………………...…………..……...3


2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến tiểu luận………………………………………….4
3. Mục đích, nhiệm vụ của tiểu luận…………………………………………………….…4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của tiểu luận…………………………………….….4
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của tiểu luận……………………………....4
6. Những đóng góp mới của đề tài………………………………………………………....5
7. Kết cấu của tiểu luận…………………………………………………………………….5

PHẦN NỘI DUNG………………………………………………………...…………6

CHƯƠNG I: QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN VỀ NGUYÊN LÝ CỦA


SỰ PHÁT TRIỂN…………………………………………………………………………...6

1.1. Các khái niệm cơ bản……………………………………………………………….6


1.2. Tính chất của sự phát triển…………………………………………………………8
1.3. Ý nghĩa phương pháp luận………………………………………………………….9

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CỦA SỰ PHÂN HÓA GIÀU NGHÈO Ở NƯỚC TA
HIỆN NAY…………………………………………………………………………........….12

2.1. Khái quát về thực trạng phân hóa giàu nghèo……………………………………12

2.2. Thực trạng phân hóa giàu nghèo ở nước ta hiện nay……………………………12

2.3. Tác động của quá trình phân hóa giàu nghèo đối với nền kinh tế - xã hội ở Việt
Nam hiện nay……………………………………………………………………………….15

2.4. Những nguyên nhân chủ yếu làm gia tăng sự phân hóa giàu nghèo ở Việt
Nam………………………………………………………………………………………….17

1
CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP NHẰM HẠN CHẾ SỰ PHÂN HÓA GIÀU
NGHÈO………………………………………………………………………………..……21
3.1. Tạo lập môi trường chính trị - xã hội ổn định, thuận lợi để mọi người cùng có cơ
hội làm giàu…………………………………………………………………………………21
3.2. Có các chính sách ưu đãi dành cho các nhóm dân cư nghèo…………………….21
3.3. Tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; chú trọng công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn……………………………………………………...22
3.4. Điều chỉnh chính sách kinh tế; tích cực phát huy vai trò của chính sách xã hội,
đặc biệt là công tác xóa đói, giảm nghèo…………………………………………………..23
3.5. Hoàn thiện hệ thống pháp luật phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, tăng cường sự quản lý chặt chẽ, kịp thời, hiệu quả của Nhà nước đối
với nền kinh tế………………………………………………………………………………25
PHẦN KẾT LUẬN………………………………………………………………….26
DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………27

1
PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Toàn thế giới đã và đang bước vào một kỉ nguyên mới, một thế kỉ mới với kỳ vọng
vào một cuộc sống phồn vinh và hạnh phúc. Sự toàn cầu hoá lan nhanh với tốc độ chóng mặt
đã khiến các quốc gia tăng trưởng một cách nhanh chóng và phát triển mạnh mẽ về nhiều
mặt. Nhưng bên cạnh đó nó lại tạo ra hố ngăn giữa các quốc gia và các tầng lớp trong xã hội
ngày càng sâu. Có thể thấy, vấn đề này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng và cấp thiết nhất là
đối với Việt Nam – một đất nước đang trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa. Thực tiễn đổi mới ở nước ta 30 năm qua cho thấy, với sự
chuyển đổi, xây dựng, và phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế
thị trường, có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, cùng các chính
sách mở cửa, hội nhập đã đem lại cho đất nước ta những thành tựu to lớn trên tất cả các lĩnh
vực của đời sống xã hội từ chính trị, kinh tế đến văn hóa, xã hội,... Nhưng đồng thời, quá
trình này kéo theo những biến động về cơ cấu xã hội, phân tầng xã hội và biến đổi về chuẩn
mực xã hội. Những biến đổi trên phản ánh tính tất yếu của quá trình phát triển xã hội ở nước
ta trong giai đoạn hiện nay, tuy có những tác động tích cực tới sự phát triển của đất nước
nhưng mặt khác, nó cũng đem lại những hệ lụy xã hội cần phải nhận diện và khắc phục. Một
trong những hệ lụy xã hội biểu hiện rõ rệt nhất hiện nay chính là sự phân tầng xã hội, cụ thể
là sự phân hóa giàu nghèo. Vấn đề này đang diễn ra ngày càng rõ nét, nổi lên như một vấn
đề thời sự cấp bách. Vì nó mang tính hai mặt: bên cạnh mặt tích cực là làm người dân giàu
hợp pháp thì mặt tiêu cực lại liên quan đến bất bình đẳng xã hội. Nếu để quá trình bất bình
đẳng diễn ra một cách tự phát thì nó không chỉ dẫn đến những bất ổn về kinh tế, văn hoá, xã
hội mà trên cả lĩnh vực chính trị, thậm chí dẫn đến nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa.
Chính vì vậy, các nghiên cứu góp phần giải quyết, cải thiện vấn để phân hóa giàu nghèo để
xây dựng nên một đất nước công bằng, dân chủ và văn minh đã trở thành một vấn đề cực kỳ
cấp bách ở Việt Nam hiện nay. [1] Với ý nghĩa lý luận và thực tiễn như vậy, tác giả đã chọn
đề tài: “Vận dụng nguyên lý về sự phát triển phân tích quá trình phân hóa giàu nghèo ở nước
ta hiện nay” làm tiểu luận giữa phần môn Triết học Mác - Lênin.

3
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến tiểu luận

Trong những năm gần đây, sự cấp bách của vấn đề phân hóa giàu nghèo đã được rất
nhiều các học giả, nhà báo,… cũng như Nhà nước, Chính phủ, các cơ quan chức năng
quan tâm và nghiên cứu. Kết quả nghiên cứu của các công trình ấy đều mang lại
những giá trị lớn về mặt lý luận cũng như thực tiễn, làm tiền đề là cơ sở lý luận để tác
giả kế thừa và phát triển trong quá trình làm tiểu luận này.

3. Mục đích, nhiệm vụ của tiểu luận

 Mục đích: Trên cơ sở phân tích quá trình phân hóa giàu nghèo ở nước ta hiện nay,
từ đó đề xuất ra những giải pháp, phương hướng giải quyết sự phân hóa giàu
nghèo nhằm phát triển, xây dựng đất nước công bằng, dân chủ, văn mình.
 Nhiệm vụ:
- Nêu bật cơ sở lý luận mà đề tài đề cập
- Phân tích quá trình phân hóa giàu nghèo ở nước ta từ năm 1990 đến nay.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm hạn chế sự phân hóa giàu nghèo.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của tiểu luận

 Đối tượng nghiên cứu:


Tiểu luận tập trung nghiên cứu vấn đề phân hóa giàu nghèo ở nước ta.
 Phạm vi nghiên cứu:
Vận dụng nguyên lý về sự phát triển của triết học Mác-Lênin, tiểu luận chỉ tập
trung làm rõ quá trình phân hóa giàu nghèo ở nước ta hiện nay.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của tiểu luận

 Cơ sở lý luận: Tiểu luận được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa
Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm đường lối của Đảng Cộng sản
Việt Nam về quá trình phân hóa giàu nghèo ở nước ta hiện nay. Tiểu luận sẽ kế
thừa có chọn lọc các công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài đã được công
bố.

4
 Phương pháp nghiên cứu: Tiểu luận được nghiên cứu trên lập trường duy vật biện
chứng và phương pháp biện chứng duy vật để xem xét những vấn đề đặt ra.

6. Những đóng góp mới của đề tài

 Về lý luận: Phân tích thực trạng, làm rõ vấn đề và dự báo xu hướng biến động của
phân hóa giàu nghèo của nước ta hiện nay. Từ đó đề xuất ra những phương án,
giải pháp nhằm hạn chế sự phân hóa giàu nghèo.
 Về thực tiễn: Đề tài có thể làm tài liệu tham khảo cho các bạn học sinh, sinh viên
khi nghiên cứu, làm tiểu luận hay quan tâm về vấn đề này.

7. Kết cấu của tiểu luận

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, tiểu luận gồm 3
chương:
+ Chương I: Quan điểm của Triết học Mác-Leenin về nguyên lý về sự phát triển
+ Chương II: Thực trạng của sự phân hóa giàu nghèo ở nước ta hiện nay
+ Chương III: Giải pháp nhằm hạn chế sự phân hóa giàu nghèo

5
PHẦN NỘI DUNG

CHƯƠNG I: QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN VỀ NGUYÊN LÝ CỦA


SỰ PHÁT TRIỂN

1.1. Các khái niệm cơ bản

1.1.1. Nguyên lý là gì?

Nguyên lý triết học là những luận điểm – định đề khái quát nhất được hình thành nhờ sự
quan sát, trải nghiệm của nhiều thế hệ người trong mọi lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy;
rồi đến lượt mình chúng lại làm cơ sở, tiền đề cho những suy lý tiếp theo rút ra những
nguyên tắc, quy luật, quy tắc, phương pháp,… phục vụ cho các hoạt động nhận thức và thực
tiễn của con người. [2, tr.90]

1.1.2. Khái niệm về sự phát triển

- Trong chủ nghĩa duy vật biện chứng, phát triển là một phạm trù triết học dùng để khái
quát quá trình vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn
thiện đến hoàn thiện hơn.

Ta cần phân biệt khái niệm “vận động” và khái niệm “phát triển”:

+ Vận động là mọi biến đổi nói chung.

+ Phát triển là sự vận động có khuynh hướng tạo ra cái mới hợp quy luật. Phát triển gắn liền
với sự ra đời của cái mới này.

Nhờ có sự phát triển, cơ cấu tổ chức, phương thức tồn tại và vận động của sự vật cũng như
chức năng vốn có của nó ngày càng hoàn thiện hơn. Như thế, phát triển là một trường hợp
đặc biệt của sự vận động. [3]

Có nhiều quan điểm về “phát triển”, trong đó:

6
- Theo quan điểm siêu hình, phát triển chỉ là sự tăng lên, giảm thuần túy về lượng, không có
sự thay đổi gì về mặt chất của sự vật; hoặc nếu có sự thay đổi nhất định về chất thì sự thay
đổi ấy cũng chỉ diễn ra theo một vòng khép kín, chứ không có sự sinh thành ra cái mới với
những chất mới. Những người theo quan điểm siêu hình xem sự phát triển như là một quá
trình tiến lên liên tục, không có bước quanh co, phức tạp. Quan điểm này cho rằng phát triển
chỉ là một đường thẳng, phủ nhận sự phát triển, tuyệt đối hóa mặt ổn định của sự vật, hiện
tượng.

- Theo quan niệm biện chứng, sự phát triển (sự tiến hóa) là quá trình giảm đi và tăng lên,
như là lặp lại; là sự thống nhất của các mặt đối lập (sự phân đôi của cái thống nhất thành
những mặt đối lập bài trừ lẫn nhau và mối quan hệ lẫn nhau giữa các mặt đối lập ấy) …
Quan niệm thứ nhất là chết cứng, nghèo nàn, khô khan. Quan niệm thứ hai là sinh động …
cho ta chìa khóa của sự “tự vận động” của tất thảy mọi cái đang tồn tại, chỉ có nó mới cho ta
chìa khóa của những “bước nhảy vọt”, của sự “gián đoạn của tính tiệm tiến”, của sự “chuyển
hóa thành mặt đối lập”, của sự tiêu diệt cái cũ và sự nảy sinh ra cái mới”. [4]

Có thể thấy, quan điểm biện chứng đối lập với quan điểm siêu hình về sự phát triển ở chỗ,
nó coi sự phát triển là sự vận động đi lên, là quá trình tiến lên thông qua bước nhảy; sự vật,
hiện tượng cũ mất đi, sự vật, hiện tượng mới ra đời thay thế, nó chỉ ra nguồn gốc bên trong
của sự vận động, phát triển là đấu tranh giữa các mặt đối lập bên trong sự vật, hiện tượng.
Các sự vật, hiện tượng của thế giới tồn tại trong sự vận động, phát triển và chuyển hóa
không ngừng. Cơ sở của sự vận động đó là sự tác động lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng
và mâu thuẫn giữa các mặt đối lập trong mỗi sự vật, hiện tượng. Vì thế, V.I. Leenin cho
rằng, học thuyết về sự phát triển của phép biện chứng duy vật là “hoàn bị nhất, sâu sắc nhất
và không phiến diện”. Do vậy, quan điểm này được xây dựng thành khoa học nhằm phát
hiện ra các quy luật, bản chất và tính phổ biến của vận động, phát triển của sự vật, hiện
tượng trong thế giới.

Tùy theo các lĩnh vực khác nhau mà sự vận động đó có thể là vận động từ thấp lên cao, vận
động từ đơn giản đến phức tạp và vận động từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Đặc điểm
chung của sự phát triển là tính tiến lên theo đường xoáy ốc, có kế thừa, có sự dường như lặp
lại sự vật, hiện tượng cũ nhưng trên cơ sở cao hơn. Quá trình đó diễn ra vừa dần dần, vừa có
7
những bước nhảy vọt…làm cho sự phát triển mang tính quanh co, phức tạp, có thể có những
bước thụt lùi tương đối trong sự tiến lên. Trong phép biện chứng duy vật, phát triển chỉ là
một trường hợp đặc biệt của vận động, nó chỉ khái quát xu hướng chung của vận động là vận
động đi lên của sự vật, hiện tượng mới trong quá trình thay thế sự vật, hiện tượng cũ. Tùy
thuộc vào hình thức tồn tại của các tổ chức vật chất cụ thể, mà “phát triển” thể hiện khác
nhau. [2, tr. 93-94]

1.2. Tính chất của sự phát triển

Theo quan điểm duy vật biện chứng, phát triển có 4 tính chất cơ bản: tính khách quan, tính
phổ biến và tính đa dạng, phong phú.

1.2.1. Tính khách quan

- Tất cả các sự vật, hiện tượng trong hiện thực luôn vận động, phát triển một cách khách
quan, độc lập với ý thức của con người. Đây là sự thật hiển nhiên, dù ý thức của con người
có nhận thức được hay không, có mong muốn hay không.

Nguồn gốc của sự phát triển nằm ngày trong chính bản thân của sự vật, hiện tượng. Đó là sự
thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập thuộc mỗi sự vật, hiện tượng.

Phát triển là quá trình tự thân (tự nó, tự mình) của mọi sự vật, hiện tượng.

- Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về tính khách quan của sự phát triển đã phủ
nhận quan điểm của chủ nghĩa duy tâm và quan điểm siêu hình về sự phát triển. Quan điểm
duy tâm cho rằng nguồn gốc của sự phát triển ở các lực lượng siêu nhiên, phi vật chất (thần
linh, thượng đế), hay ở ý thức con người. Tức là đều nằm ở bên ngoài sự vật, hiện tượng.
Còn quan điểm siêu hình cho rằng các sự vật, hiện tượng về cơ bản là “đứng im”, không
phát triển. Hoặc phát triển chỉ là sự thay đổi đơn thuần về mặt lượng (số lượng, kích
thước…) mà không có sự biến đổi về chất.

1.2.2. Tính phổ biến

Sự phát triển diễn ra ở tất cả mọi lĩnh vực, từ tự nhiên, xã hội và tư duy. Từ hiện thực khách
quan đến những khái niệm, những phạm trù phản ánh hiện thực ấy.

8
Trong hiện thực, không có sự vật, hiện tượng nào là đứng im, luôn luôn duy trì một trạng
thái cố định trong suốt quãng đời tồn tại của nó.

1.2.3. Tính kế thừa

Sự phát triển tạo ra cái mới phải trên cơ sở chọn lọc, kế thừa, giữ lại, cải tạo ít nhiều những
bộ phận, đặc điểm, thuộc tính… còn hợp lý của cái cũ; đồng thời cũng đào thải, loại bỏ
những gì tiêu cực, lạc hậu, không tích hợp của cái cũ. Đến lượt nó, cái mới này lại phát triển
thành cái mới khác trên cơ sở kế thừa như vậy.

Đó là quá trình phủ định biện chứng. Là sự thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất.
Quá trình này diễn ra vô cùng, vô tận theo hình xoáy trôn ốc.

1.2.4. Tính phong phú, đa dạng

Sự phát triển có muôn hình, muôn vẻ, biểu hiện ra bên ngoài theo vô vàn loại hình khác
nhau.

Sự phong phú của các dạng vật chất và phương thức tồn tại của chúng quy định sự phong
phú của phát triển. Môi trường, không gian, thời gian và những điều kiện, hoàn cảnh khác
nhau tác động vào các sự vật, hiện tượng cũng làm cho sự phát triển của chúng khác nhau.

Trong giới hữu cơ, sự phát triển biểu hiện ở khả năng thích nghi của cơ thể trước sự biến đổi
của môi trường, ở khả năng tự sản sinh ra chính mình với trình độ ngày càng cao hơn…

Sự phát triển trong xã hội biểu hiện ở năng lực chinh phục tự nhiên, cải tạo xã hội ngày càng
lớn của con người.

Đối với tư duy, sự phát triển là năng lực nhận thức ngày càng sâu sắc, toàn diện, đúng đắn
hơn. [3]

1.3. Ý nghĩa phương pháp luận

Nguyên lý về sự phát triển là cơ sở lý luận khoa học để định hướng việc nhận thức thế giới
và cải tạo thế giới. Theo nguyên lý này, trong mọi nhận thức và thực tiễn cần phải có quan
điểm phát triển. Theo V.I.Lênin, “… Lôgíc biện chứng đòi hỏi phải xét sự vật trong sự phát

9
triển, trong “sự tự vận động”…, trong sự biển đổi của nó”. Quan điểm phát triển đòi hỏi phải
khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ, định kiến, đối lập với sự phát triển.

Theo như nguyên lý này thì trong mọi nhận thức và trong thực tiễn cần phải có quan điểm về
sự phát triển. Để có thể phát triển được thì cần phải khắc phục được những tư tưởng bảo thủ,
trì trệ, lạc hậu, định kiến, đối lập với sự phát triển.

- Nguyên lý về sự phát triển cho thấy trong hoạt động nhận thức và trong hoạt động thực tiễn
của con người cần phải tôn trọng quan điểm phát triển. Quan điểm này đòi hỏi khi nhận thức
cũng như khi giải quyết một vấn đề nào đó thì con người cần phải đặt chúng ở trạng thái
động và nằm trong khuynh hướng chung của sự phát triển. Phải nhận thức được tính quanh
co, phức tạp trong quá trình phát triển (tức là phải có quan điểm lịch sử cụ thể trong nhận
thức và giải quyết các vấn đề của thực tiễn, phù hợp với tính chất phong phú, đa dạng phức
tạp của nó). Để không chỉ nhận thức được nó ở trạng thái hiện tại, mà còn dự báo được
khuynh hướng phát triển của nó trong tương lai.

- Xem xét sự vật theo quan điểm phát triển phải nhận thức được rằng, phát triển là quá trình
trải qua nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn lại có đặc điểm, tính chất, hình thức khác nhau. Trên
cơ sở này tìm ra phương pháp nhận thức và những cách tác động phù hợp nhằm thúc đẩy sự
vật tiến triển nhanh hơn hoặc là kìm hãm sự phát triển của nó tùy thuộc vào sự phát triển đó
có lợi hay là có hại đối với đời sống của con người.

- Phải sớm phát hiện và ủng hộ đối tượng mới hợp quy luật, tạo điều kiện cho nó phát triển;
cần phải tìm ra được những mâu thuẫn của sự vật qua hoạt động thực tiễn từ đó giải quyết
được mâu thuẫn và tìm ra được sự phát triển. Phải khắc phục từ tư tưởng bảo thủ, định kiến,
trì trệ,.. Phải đặt sự vật, hiện tượng theo khuynh hướng đi lên.

- Trong quá trình thay thế đối tượng cũ bằng đối tượng mới phải biết kế thừa các yếu tố tích
cực từ đối tượng cũ và phát triển sáng tạo chúng trong điều kiện mới.

Quan điểm phát triển góp phần khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ, định kiến trong hoạt động
nhận thức và hoạt động thực tiễn. Với tư cách là những nguyên tắc phương pháp luận, quan
điểm toàn diện, quan điểm lịch sử – cụ thể, quan điểm phát triển góp phần định hướng, chỉ
đạo hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn cải tạo hiện thực, cải tạo chính bản thân con
10
người. Song để thực hiện được chúng, mỗi người cần nắm chắc cơ sở lý luận của chúng
nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển, biết vận dụng chúng một
cách sáng tạo trong hoạt động của mình. Từ đó có thể rút ra được những bài học về sự phát
triển như sau:

– Thứ nhất, cần tích cực, chủ động nghiên cứu tìm ra được những mâu thuẫn trong mỗi sự
vật, sự việc, hiện tượng để từ đó xác định được định hướng phát triển và những biện pháp
giải quyết phù hợp.

– Thứ hai, khi xem xét các sự vật, hiện tượng thì cần đặt sự vật hiện tượng đó trong sự vận
động và phát triển. Bởi sự vật không chỉ như là cái mà nó đang có, đang hiện hữu trước mắt
mà còn cần phải nắm được và hiểu rõ được khuynh hướng phát triển, khả năng chuyển hóa
của nó.

– Thứ ba, cần phải có sự nhìn nhận, đánh giá khách quan đối với sự vật hiện tượng, không
được dao động trước những quanh co, những phức tạp của sự phát triển ở trong thực tiễn.

– Kế thừa những thuộc tính, những bộ phận còn hợp lý của cái cũ nhưng đồng thời cũng
phải kiên quyết loại quả những cái đã quá lạc hậu cản tở và gây ảnh hưởng đến sự phát triển.
Vì trong phát triển có sự kế thừa do đó cần phải chủ động phát hiện, cổ vũ những cái mới,
cái phù hợp từ đó có thể tìm cách thúc đẩy để phát triển cái mới, để cái mới chiếm đóng vai
trò chủ đạo. [5]

11
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CỦA SỰ PHÂN HÓA GIÀU NGHÈO Ở NƯỚC TA
HIỆN NAY

2.1 Khái quát về thực trạng phân hóa giàu nghèo

Phân hóa giàu nghèo là một hiện tượng xã hội phản ánh quá trình phân chia xã hội thành các
nhóm xã hội có điều kiện kinh tế khác biệt nhau, thể hiện trong xã hội có nhóm giàu, nhóm
đủ ăn và nhóm nghèo đói. Phân hóa giàu nghèo không chỉ là vấn đề kinh tế mà còn là vấn đề
chính trị, văn hóa, xã hội của thế giới và từng quốc gia dân tộc trong tiến trình phát triển. Nó
ẩn chứa những mầm mống của xung đột xã hội, sự đối lập giàu nghèo trong xã hội như là
căn nguyên trực tiếp, hiển hiện của các cuộc bạo động xã hội.

Việt Nam sau hơn 30 năm tiến hành công cuộc đổi mới đất nước, từ một nước nông nghiệp
nghèo nàn lạc hậu, phải nhận viện trợ lương thực từ bên ngoài đã có những bước tiến vượt
bậc về kinh tế - xã hội với tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao( tính từ năm 2000 đến 2010 tốc
độ tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm là 7,26%), đời sống vật chất và tinh thần của
nhân dân ngày càng được cải thiện rõ rệt. Tuy vậy, đi sâu vào bức tranh chung đó, theo số
liệu thống kê và tổng kết của các cơ quan chức năng thì sự chênh lệch giàu nghèo, phân hóa
giàu nghèo ở nước ta cũng đang có xu hướng tăng lên. Phân hóa giàu nghèo - "mặt tiêu cực"
của kinh tế thị trường, đã và đang làm tăng thêm tính phức tạp xã hội, gây cản trở cho việc
huy động và phát huy sức lao động thặng dư và có người chiếm đoạt lao động thặng dư của
người khác để cuộc sống của mình trở nên khá giả hơn. Chính quá trình phân công lao động
xã hội thúc đã đẩy quá trình phân hóa giàu nghèo trở nên sâu sắc và mạnh mẽ và trở thành
một vấn đề cấp thiết đối với toàn xã hội, đòi hỏi sự quan tâm và cần tìm ra các giải pháp
khắc phục. [1]

2.2 Thực trạng phân hóa giàu nghèo ở nước ta hiện nay

12
“Thực trạng phân hóa giàu - nghèo ở nước ta hiện nay thể hiện rất đa dạng: sự chênh lệch về
thu nhập, mức sống chi tiêu, sự hưởng thụ các dịch vụ xã hội cơ bản giữa các nhóm dân cư;
giữa các vùng, miền; giữa nông thôn và thành thị,…

2.2.1. Phân hóa giàu nghèo thể hiện ở sự chênh lệch về thu nhập giữa các khu vực dân cư,
giữa các vùng miền.

Theo cách tính của Ngân hàng Thế giới và Tổng cục Thống kê, chênh lệch thu nhập giữa
nhóm 20% có thu nhập cao nhất so với nhóm 20% có thu nhập thấp nhất (trong cả nước)
năm 1990 là 4,1 lần, năm 1991 tăng lên 4,2 lần, năm 1993 tăng lên 6,2 lần, năm 1994 là 6,5
lần, năm 1995 tăng 7,0 lần, đến năm 2004 tăng 8,4 lần. Năm 2010, thu nhập bình quân 1
người/tháng của nhóm hộ giàu nhất gấp 9,2 lần thu nhập nhóm hộ nghèo nhất. Theo Viện
Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương (CIEM), khoảng cách chênh lệch về thu nhập giữa
các thành phố, các vùng miền tại Việt Nam năm 2011 rất cao. Chẳng hạn như, thu nhập bình
quân đầu người ở Thủ đô Hà Nội là hơn 1.850 đô la Mỹ (USD)/năm, ở Thành phố Hồ Chí
Minh khoảng 3.000 USD, ở Cần Thơ khoảng 2.350 USD [6]; ở Nam Định chỉ đạt 19,2 triệu
đồng/năm (khoảng 900 USD), ở Bắc Kạn là 14,6 triệu đồng (khoảng hơn 700 USD), ở
Quảng Ngãi chưa đến 9 triệu đồng/người/năm (hơn 400 USD), ở Hà Giang chưa đến 6 triệu
đồng/năm (dưới 300 USD).

2.2.2. Phân hóa giàu nghèo thể hiện ở sự chênh lệch về thu nhập trong các ngành nghề, các
doanh nghiệp.

Kết quả điều tra về tiền lương và thu nhập của người lao động do Bộ Lao động - Thương
binh và Xã hội thực hiện ở 250 doanh nghiệp trong khoảng thời gian từ 2002 đến 2008 [7]
cũng cho thấy có sự chênh lệch lớn về thu nhập của người lao động tính theo ngành. Chẳng
hạn, các ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước trả lương cao nhất là 4,039 triệu
đồng/người/tháng; còn ngành thủy sản chỉ trả lương cao nhất là 819.000 đồng/người/tháng.
Người lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao thu nhập cao gấp 3,5 lần so với lao
động phổ thông, gấp 2,28 lần so với lao động có trình độ sơ cấp. Người ở vị trí quản lý cao
cấp trong doanh nghiệp thu nhập bình quân 10,231 triệu đồng/người/tháng, gấp 9,86 lần so
với lao động phổ thông, gấp 2,29 lần so với lao động quản lý bậc trung.

13
Khoảng cách giàu – nghèo không chỉ thể hiện ở sự chênh lệch về thu nhập hàng tháng giữa
những người lao động trong các doanh nghiệp, mà còn thể hiện ở số tiền thưởng Tết. Chẳng
hạn, năm 2011 ở Thành phố Hồ Chí Minh, mức thưởng Tết cao nhất là 532 triệu
đồng/người, thấp nhất là 330.000 đồng/người, chênh lệch hơn 1.600 lần. Tại Hà Nội, mức
thưởng Tết cao nhất là 72,9 triệu đồng và thấp nhất là 200.000 đồng, chênh lệch gần 365 lần
[8].

2.2.3. Phân hóa giàu nghèo thể hiện ở sự chênh lệch về mức sống, chi tiêu, hưởng thụ, tiếp
cận các dịch vụ xã hội.

Nếu năm 1993, chi tiêu bình quân đầu người của những hộ gia đình giàu nhất cao gấp 5 lần
so với hộ gia đình nghèo nhất, thì năm 2004, tỷ lệ này là 7,27 lần [9]. Năm 2010, theo số liệu
của Tổng cục Thống kê, chi tiêu bình quân một người/tháng cũng có sự chênh lệch: ở khu
vực nông thôn là 950 nghìn đồng, ở khu vực thành thị là 1.828 nghìn đồng. Khu vực thành
thị có mức chi tiêu cho đời sống cao gấp 1,94 lần khu vực nông thôn, nhóm giàu nhất có
mức chi tiêu cho đời sống cao gấp 4,7 lần so với nhóm hộ nghèo nhất. Nhóm hộ giàu nhất có
mức chi tiêu về hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng ngoài ăn uống cao gấp 7,5 lần so với nhóm hộ
nghèo nhất. Trong đó, chi về nhà ở, điện nước, vệ sinh gấp 11,7 lần; chi thiết bị vệ sinh và
đồ dùng gia đình gấp 5,8 lần; chi y tế, chăm sóc sức khỏe gấp 3,8 lần; chi đi lại, bưu điện
gấp 12,4 lần; chi giáo dục gấp 6 lần; đặc biệt chi cho văn hóa, thể thao, giải trí gấp 131 lần.
Chỉ với sự chênh lệch trên, chúng ta cũng có thể nhận thấy khoảng cách giàu - nghèo giữa
các tầng lớp dân cư rất rõ. Việc tiếp cận và hưởng thụ phúc lợi và an sinh xã hội cũng có sự
chênh lệch nhau rất lớn. Số liệu điều tra của Chương trình phát triển Liên Hợp Quốc
(UNDP) đã cho biết, trước năm 2009, nhóm 20% những người giàu nhất ở Việt Nam hưởng
tới 40% lợi ích từ các chính sách an sinh xã hội của Nhà nước, còn nhóm 20% những người
nghèo nhất chỉ nhận 7% lợi ích từ nguồn này. Tại kỳ họp thứ 7 Quốc hội khóa XII (5/2010),
có ý kiến cho rằng, nhóm 20% có thu nhập cao nhất nhận được 47% lương hưu, 35% trợ
giúp giáo dục, trong khi nhóm 20% nghèo nhất chỉ nhận được 2% lương hưu, 15% trợ giúp
giáo dục [10]. Báo cáo "Đánh giá nghèo Việt Nam năm 2012" của Ngân hàng Thế giới cho
thấy, đối tượng thu nhập thấp tập trung chủ yếu ở nhóm dân tộc thiểu số. Người dân tộc
thiểu số ngày càng chiếm tỷ lệ cao trong tổng số người nghèo, khoảng cách về thu nhập giữa

14
người dân tộc thiểu số và các nhóm còn lại đang tăng lên. Chênh lệch thu nhập của nhóm
20% hộ có thu nhập thấp nhất của dân tộc thiểu số với nhóm 20% thu nhập thấp nhất của
dân tộc đa số cũng đã tăng từ mức 1,4 lần lên mức 2,1 lần [11].

Sự phân hóa giàu - nghèo ở Việt Nam đang biến động theo xu hướng gia tăng về khoảng
cách. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, xét trên phạm vi cả nước năm 2010, hệ số Gini là
0,43 có xu hướng tăng lên so với các năm trước (năm 2002 là 0,418, 2006 là 0,42 và năm
2008 là 0,43). Sự phân hóa giàu nghèo sẽ tiếp tục tăng mạnh cùng sự phát triển của kinh tế
thị trường và có thể làm trầm trọng hơn những bất bình đẳng xã hội.” [12]

Có rất nhiều thông tin về những đám cưới “khủng” với những “dàn siêu xe” tiêu tốn hàng
chục tỉ đồng hay quan chức bỏ tiền tỉ trong những buổi đánh bạc,… trên các phương tiện
truyền thông đại chúng. Trong khi đó, có biết bao những con người nghèo khổ đang chật vật
vì từng miếng ăn, thậm chí là tìm đến cái chết để giải thoát, hay các em nhỏ ở những vùng
quê nghèo đang phải mưu sinh với cái đầu trần, chân đất cùng bộ quần áo không mấy ấm áp
giữa trời đông giá rét. Hay ở các thành phố lớn, vẫn luôn đầy rẫy những ngôi nhà, biệt thự
bỏ hoang trong khi lại có không ít người dân không có nhà hoặc phải sinh sống ở khu ổ
chuột rách nát.

2.2.4. Phân hóa giàu nghèo thể hiện ở lĩnh vực y tế

Trong khi đại đa số người giàu có thu nhập cao lựa chọn những bệnh viện tư, bệnh viện có
vốn nước ngoài, kỹ thuật điều trị cao để chăm sóc sức khỏe. Đó lại là một điều quá đỗi xa xỉ
đối với người nghèo. Ta có thể thấy sự cách biệt lớn giữa tỉ lệ tử vong của trẻ sơ sinh giữa
các tỉnh miền núi và các thành phố, cao nhất là Điện Biên và thấp nhất là Thành phố Hồ Chí
Minh. Trẻ em dân tộc thiểu số có khả năng tử vong lớn gấp 3-4 lần khả năng tử vong ở trẻ
người Kinh/Hoa là hàng xóm của họ. [13]

2.3. Tác động của quá trình phân hóa giàu nghèo đối với nền kinh tế - xã hội ở Việt Nam
hiện nay

2.3.1. Mặt tích cực

15
Phân hóa giàu nghèo đã góp phần khơi dậy tính năng động xã hội trong con người ở nhiều
nhóm xã hội, kích thích họ tìm kiếm và khai thác cơ may, vận hội để vượt lên. Kích thích sự
sáng sạo của con người, nhằm tạo môi trường cạnh tranh quyết liệt, qua đó sàng lọc và tuyển
chọn những thành viên vượt trội, tạo động lực cho sự phát triển của mỗi ngành nghề, mỗi
lĩnh vực hay mỗi địa phương. Đặc biệt là số nhóm và nhóm người xã hội giàu lên do làm ăn
đúng pháp luật. Và những hộ đã giàu hướng dẫn cách làm ăn cho người nghèo làm cho nền
kinh tế phát triển với năng suất lao động cao, tăng phúc lợi xã hội cho người dân (y tế, giáo
giục,…) thông qua thuế thu nhập của người giàu…

2.3.2. Mặt tiêu cực

- Sự phân hóa giàu nghèo trên thực tế đã làm trầm trọng hơn những bất bình đẳng xã hội.
Đó là:

Sự cách biệt giữa người giàu và người nghèo ngày càng rộng. Những người giàu ngày càng
có cơ hội phát triển do có những điều kiện về vốn và kỹ thuật… còn người nghèo phải làm
thuê và bị bóc lột. Họ rất ít có cơ hội tiếp cận và được đảm bảo những điều kiện sống cơ
bản, tối thiểu. Một mặt vì họ quá nghèo không đủ tài chính trang bị vốn, tri thức, kĩ thuật…
mặt khác trong cơ chế thị trường hoạt động dịch vụ cơ bản có xu hướng phục vụ người giàu
là chính. Ở nông thôn người nghèo thường thiếu vốn làm ăn, muốn có vốn họ phải thế chấp
nhà cửa, ruộng vườn nên không có khả năng đảm bảo tài chính nếu thiên tai xảy ra. Chính vì
vậy, trong xã hội sự bất bình đẳng ngày càng trầm trọng.

- Trong các hộ gia đình nghèo, phụ nữ, trẻ em, người già lại là những người thiệt thòi nhất,
đặc biệt hộ nghèo thường rơi vào những gia đình là đối tượng quan tâm của xã hội (gia đình
liệt sĩ, thương binh, người có công với nước…) thì vấn đề này càng trở nên phức tạp hơn.

- Với nền kinh tế thị trường như hiện nay thì phân phối không thể công bằng:

Đối với một số người giàu, giàu lên nhanh chóng nhờ một số hoạt động siêu lợi nhuận như
kinh doanh địa ốc, bất động sản, một số loại hình hoạt động thương mại… nhưng họ phải có
vốn tri thức… tuy nhiên bên cạnh đó có một số người làm giàu bất hợp pháp ( buôn lậu, trốn
thuế, tham nhũng....) . Đặc biệt là tình trạng tham nhũng, quan liêu và các tệ nạn xã hội làm

16
ảnh hưởng tới sự ổn định chính trị - xã hội và không tạo động lực cho sự phát triển kinh tế -
xã hội.

- Về hành vi, lối sống:

Phân hóa giàu nghèo góp phần tạo sự đa dạng trong các hình mẫu lối sống. Sự phát triển của
lối sống tiêu dùng xa hoa, lãnh phí trong bộ phận dân cư khá giả có ảnh hưởng xấu tới các
nhóm dân cư khác. Đặc biệt một số bộ phận gia đình mới phất lên (nhờ gặp may, hoặc do kế
thừa…) sử dụng tiền theo lối sống buông thả, bất chấp các chuẩn mực giá trị, đạo đức, hoặc
không quan tâm đến con cái, để chúng hư hỏng, sống xa đọa, đồi trụy mà không biết. Đây là
một trong những nguồn gốc của tệ nạn ma túy và mại dâm… và dẫn đến tình trạng gia tăng
tội phạm như hiện nay. Và chính sự hoang phí ấy đã làm ảnh hưởng tới những người dân
nghèo, hoặc những người thuộc tầng lớp trung. Những người nghèo họ sẽ cảm thấy không
còn gì để mất vì vậy họ có những hành động như ăn cắp, làm trung gian trong con đường
buôn lậu, vận chuyển ma túy,… nhằm mục đích kiếm tiền, giàu lên nhanh chóng. Còn người
thuộc tầng lớp trung sẽ dựa trên cơ sở sẵn có của mình (của cải, vốn, mối quan hệ…) để làm
ăn phi pháp.

- Phân hóa giàu nghèo còn làm lệch lạc các định hướng giá trị và chuẩn mực đạo đức, lối
sống của xã hội nhất là đối với thế hệ trẻ:

Những thanh niên được sinh ra trong gia đình khá giả, có quyền lực thường có tư tưởng coi
thường luân lý, đạo đức xã hội, không chịu củng cố kiến thức. Còn những gia đình nghèo lại
không có đủ điều kiện để cho con ăn học. Chính vì vậy nó đã gây nên tình trạng thiếu hụt
văn hóa trong xã hội. Nếu không sớm phát hiện và nhận thức đầy đủ tác động tiêu cực của
xu hướng này để sớm có giải pháp khắc phục thì xã hội sẽ không thể đạt được sự phát triển
bền vững. [14]

2.4. Những nguyên nhân chủ yếu làm gia tăng sự phân hóa giàu nghèo ở Việt Nam

Trong những năm gần đây, Chính phủ đã dành một khoản ngân sách đáng kể cho việc xây
dựng cơ sở hạ tầng các vùng nông thôn trong công cuộc xây dựng nông thôn mới, xây dựng
và phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất, các loại hình dịch vụ ở khu vực này. Tạo
điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp đầu tư vào vùng nông thôn đặc biệt là các doanh
17
nghiệp nước ngoài nhằm tạo công ăn việc làm cho lao động nhàn rỗi ở các địa phương.
Chính vì vậy đã góp phần làm tăng thu nhập, cải thiện đời sống cho người dân nông thôn.
Điều này góp phần thu hẹp khoảng cách chênh lệch giữa thành thị - nông thôn. Nhưng lại
gián tiếp gây ra sự gia tăng chênh lệch giàu nghèo trong khu vực nông thôn nói riêng và trên
phạm vi cả nước nói chung. Sự phát triển không đều của các vùng nông thôn trong cả nước
cũng là một nguyên nhân của tình trạng trên. Trong khi nhiều vùng nông thôn ở các khu vực
đồng bằng đã có sự phát triển khá mạnh, thì tại các vùng sâu, vùng xa, miền núi,… trình độ
phát triển còn rất thấp, người dân còn gặp nhiều khó khăn, thiếu thốn, tỉ lệ hộ nghèo còn rất
cao. Chính sách đối với người nghèo, người dân tộc thiểu số, các vùng sâu, vùng xa chưa
đầy đủ, toàn diện hoặc chưa phát huy được hiệu quả cũng là một nguyên nhân của việc phân
hóa giàu nghèo ở nông thôn chưa được cải thiện.

2.4.1 Nguyên nhân chủ quan

Có thể thấy rằng vấn đề giàu cụ thể ở nước ta thế nào vẫn chưa được rõ vì thiếu số liệu chính
thức. Đó là do chúng ta chưa có chủ trương kê khai tài sản và thu nhập. Kết quả do công
chúng tự khai báo, nhưng thực tế thì ít người khai báo đúng thu nhập của mình, người giàu
khai báo ít đi để trốn thuế thu nhập, người nghèo khai báo ít hơn để được hưởng trợ cấp từ
Nhà nước. Tuy nhiên, qua điều tra ta có thể thấy được một số nguyên nhân cơ bản để không
ít hộ giàu lên đó là:

+ Ở nông thôn, họ giàu chủ yếu do khả năng thích ứng nhanh với sản xuất kinh doanh. Họ
không chỉ làm nông nghiệp mà còn làm thêm các nghề khác như làm dịch vụ, thủ công
nghiệp, công nghiệp nhỏ, chế biến,… Đối với các hộ giàu, phần thu từ sản xuất nông nghiệp
thường dùng cho chi tiêu sinh hoạt hàng ngày, còn phần thu từ các ngành nghề khác thì dùng
cho việc mua sắm tài sản cố định để nâng cao mức sống hoặc để tích lũy mở rộng sản xuất
kinh doanh. Một bộ phận nhỏ các gia đình giàu lên nhờ có người thân sống và làm việc ở
nước ngoài. Bằng nguồn tài trợ không ít gia đình có điều kiện nâng cao mức sống hoặc đầu
tư cho sản xuất kinh doanh, tăng thêm thu nhập. Ngoài ra có một số hộ giàu vì có người thân
tham gia công tác quản lý, lãnh đạo các cấp. Trong số hộ này, không loại trừ những hộ giàu
lên nhờ khôn khéo hợp thức hóa những người thu nhập bất chính dưới đủ loại bổng lộc.

18
+ Ở thành phố, phần lớn người giàu là ở lĩnh vực buôn bán và dịch vụ trong lĩnh vực sản
xuất, số hộ giàu rất ít. Trong số hộ giàu lên nhờ buôn bán, có không ít người đã lợi dụng các
kẽ hở của pháp luật để trốn thuế hoặc lẩn tránh các khoản nộp khác. Ở đây phải kể đến một
bộ phận không nhỏ các viên chức Nhà nước làm “dịch vụ tổng hợp” tại các công ty trách
nhiệm hữu hạn, các trung tâm tư vấn… Ngoài ra là các hành vi buôn lậu, trốn thuế, làm hàng
giả, tham nhũng cực kì nguy hiểm cũng tạo nên một bộ phận cán bộ, viên chức giàu lên rất
nhanh.

+ Về tay nghề, tính chất công việc, vị trí quyền lực: Tay nghề cao, quyền lực càng lớn thì
thu nhập càng lớn, Tất nhiên tay nghề và tính chất công việc đều đòi hỏi trình độ, tri thức
của người lao động được tích lũy lâu dài mới có được và những người sở hữu chúng có thu
nhập cao là đúng. Tuy nhiên địa vị xã hội hay uy tín có thể xuất phát từ tiềm lực kinh tế và
hiện tượng người lạm dụng để làm giàu một cách bất chính thì sẽ làm cho sự phân hóa giàu
nghèo ngày càng tăng vì thực sự dựa trên quyền lực và địa vị xã hội, tiềm lực kinh tế để làm
giàu chính là bóc lột giá trị của những người khác.

Nguyên nhân cơ bản của nghèo là: thiếu kiến thức làm ăn, thiếu vốn hoặc không có vốn,
đông con, neo đơn thiếu sức lao động. Bên cạnh đó:

+ Đối với thành thị: nguyên nhân nghèo có thể do bị phá sản, đông con, thiếu sức lao
động, ốm đau, lười nhác, mắc các tệ nạn xã hội, thiếu tri thức…

+ Đối với nông thôn: ngoài thiếu kiến thức làm ăn, không có vốn, nghèo còn do đông con,
không có điều kiện làm việc (thiếu ruộng, vườn, không đủ phương tiện sản xuất…), không
có kinh nghiệm…

2.4.2. Nguyên nhân khách quan

+ Nguyên nhân nổi bật là do nền kinh tế nước ta đang trong tình trạng kém phát triển, thu
nhập bình quân theo đầu người quá thấp, lại bị ảnh hưởng bởi hậu quả nặng nề của chiến
tranh. Vị trí địa lí của nước ta bên cạnh mặt thuận lợi cho phát triển kinh tế cũng gây nhiều
khó khăn do hình thế trải dài, gây nên sự cách biệt chênh lệch về phát triển kinh tế giữa các
vùng lãnh thổ trong lịch sử. Nước ta lại bị ảnh hưởng lớn của điều kiện tự nhiên khắc nghiệt
như thiên tai, lũ lụt, hạn hán…
19
+ Mặt khác, trong các yếu tố mang tính lịch sử, truyền thống thì cũng có mặt tiêu cực, và
tích cực ảnh hưởng đến sự phân hóa giàu nghèo. Đó chính là những truyền thống cổ hủ, lạc
hậu cùng với các quan niệm “ai giàu ba họ, ai khó ba đời”, “con vua rồi lại làm vua, con sãi
ở chùa lại quét lá đa”,… là triết lý an ủi người ta cam chịu đói nghèo, coi đó là sự thật hiển
nhiên không thể thay đổi được. Điều đó làm người dân trở nên nhụt chí, cam chịu trước số
phận của mình, làm kìm hãm sự phát triển của đất nước, tạo ra sự trì trệ về nghèo nàn, lạc
hậu của nước ta nói chung, đặc biệt là người nghèo nói riêng.

+ Khi chúng ta chuyển đổi từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường thì
những di chứng của chế độ bao cấp như bình quân, vừa đặc quyền, vừa đặc lợi vẫn sót lại
trong ý thức con người, làm cho con người trở nên lười lao động, suy nghĩ không sáng tạo,
năng động trong sản xuất.

+ Môi trường pháp lý: Hiện nay nhà nước ta đang trong giai đoạn hoàn thiện hệ thống
pháp luật theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Chính vì vậy dễ nhận thấy sự bất ổn định và
nhiều khiếm khuyết. Nhiều đạo luật còn thiếu đang được bổ sung. Tính khả thi của nhiều
đạo luật và văn kiện dưới luật vẫn còn yếu, tạo cơ hội cho những người làm giàu bất chính.

+ Bên cạnh đó, đối với nông thôn hay thành thị, có một số hộ gia đình giàu lên nhờ được
thừa kế một số vốn lớn, hay có đất nằm trong khu quy hoạch, gần đường xá…

+ Do cơ chế chính sách chưa thỏa đáng: trung ương cũng như địa phương chưa có chính
sách đầu tư cơ sở hạ tầng thỏa đáng, nhất là các vùng núi cao, vùng sâu… thiếu các chính
sách đồng bộ như: chính sách ưu đãi, khuyến khích sản xuất, tạo việc làm, tăng thu nhập,
cung cấp dịch vụ y tế, giáo dục đào tạo, văn hóa cũng như chuyển giao công nghệ, tổ chức
chưa tốt việc chăm lo của cộng động xã hội đối với người nghèo. [15]

20
CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP NHẰM HẠN CHẾ SỰ PHÂN HÓA GIÀU NGHÈO

Sự phân hóa giàu - nghèo ở nước ta hiện nay có xu hướng tăng mạnh cùng sự phát triển của
kinh tế thị trường và đã ở mức độ bất hợp lý. Để hạn chế sự phân hóa giàu - nghèo, cần thực
hiện nhiều giải pháp.

3.1. Tạo lập môi trường chính trị - xã hội ổn định, thuận lợi để mọi người cùng có cơ hội
làm giàu

Việc tạo ra môi trường chính trị - xã hội ổn định, thuận lợi được xem như việc tạo ra cơ hội
bình đẳng để cho tất cả mọi thành viên yên tâm làm giàu. Đồng thời, việc làm đó cũng thể sự
kết hợp chặt chẽ giữa chính sách kinh tế với chính sách xã hội trong đường lối phát triển đất
nước của Đảng và Nhà nước ta.

Cần khắc phục quan niệm một chiều về phân hóa giàu - nghèo. Phân hóa giàu - nghèo là một
hiện tượng tất yếu trong nền kinh tế thị trường, là kết quả của việc thực hiện công bằng xã
hội, bởi vì người cống hiến nhiều hơn thì được hưởng nhiều hơn. Tuy nhiên, chúng ta cần
phân biệt việc làm giàu chính đáng (để cổ vũ, ủng hộ) với việc làm giàu trái pháp luật, vô
đạo đức (để loại trừ); phải quán triệt quan điểm của Đảng cho rằng, “một bộ phận dân cư
giàu trước là cần thiết cho sự phát triển”, tức là thừa nhận có thể một số nhóm xã hội trở nên
giàu có ở mức độ khác nhau so với những nhóm xã hội khác. Hạn chế sự phân hóa giàu
nghèo không phải là triệt tiêu cơ hội làm giàu cho mọi người, mà là triệt tiêu sự làm giàu bất
hợp pháp, bất hợp lý; đặc biệt là khắc phục tình trạng làm giàu bằng tham nhũng của một bộ
phận người có chức có quyền. Để hạn chế làm giàu phi pháp cần xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ; bên cạnh đó, cần đẩy mạnh thực hiện
dân chủ, phát huy tính tích cực của mọi thành viên trong xã hội.
21
3.2. Có các chính sách ưu đãi dành cho các nhóm dân cư nghèo

Chẳng hạn như tăng tỷ lệ đầu tư công ở nông thôn; khuyến khích đầu tư tư nhân ở nông
thôn; hỗ trợ tín dụng cho nông dân nghèo và dân tộc thiểu số; cải thiện chất lượng giáo dục ở
nông thôn; tạo điều kiện thuận lợi cho nhóm người nghèo được hưởng các quyền lợi về an
sinh xã hội và phúc lợi xã hội như nhóm người giàu,…

3.3. Tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; chú trọng công nghiệp hóa, hiện
đại hóa nông nghiệp, nông thôn

Đối với Việt Nam, một quốc gia mà đa số người dân làm nông nghiệp và sống ở nông thôn,
thì việc thực hiện giải pháp này không những mang lại sự tăng trưởng phát triển kinh tế đất
nước, sớm đưa nước ta đạt mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo hướng hiện
đại, mà còn góp phần trực tiếp nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người nông dân,
giảm khoảng cách giàu - nghèo giữa các vùng, miền, giữa nông thôn và thành thị, giữa các
bộ phận dân cư trong cả nước. Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp,
nông thôn, cần tiếp tục thực hiện tốt hơn các chương trình khoa học và công nghệ trọng
điểm, nhất là Chương trình xây dựng mô hình ứng dụng và chuyển giao công nghệ phục vụ
phát triển kinh tế - xã hội nông thôn, miền núi. Thực hiện chính sách khuyến nông có hiệu
quả; thúc đẩy sự phân công lao động tạo việc làm mới cho nông dân; khai thác và phát triển
các thế mạnh, các ngành nghề của từng vùng; chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phát
triển các ngành, các sản phẩm chủ lực; thu hút nhiều lao động vào hoạt động kinh tế dịch vụ,
công nghiệp ở từng vùng; hình thành hệ thống các đô thị trung tâm trên khắp các địa bàn
theo vùng, theo tỉnh, huyện, xã, thị trấn và cải thiện kết cấu hạ tầng; chú trọng đầu tư xây
dựng giao thông, điện lưới; hình thành các chợ thuận lợi cho việc tiêu thụ nông sản; có chính
sách phù hợp trong việc quy hoạch xây dựng khu công nghiệp, khu đô thị. Khi Nhà nước
chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp thì phải có kế hoạch tốt để sử dụng lao động
tại chỗ, tạo việc làm mới và chuyển nghề cho nông dân; có chiến lược đào tạo và phát triển
nghề lâu dài đối với dân cư vùng quy hoạch, chuyển đổi đất. Phát huy các tiềm năng to lớn
trong nông nghiệp, nông thôn gắn với bảo vệ môi trường tự nhiên; có chính sách hỗ trợ cho
nông dân về các điều kiện sản xuất, tiêu thụ sản phẩm. Thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại
hóa quá trình sản xuất ra nông phẩm, đồng thời phải hiện đại hóa công nghệ sau thu hoạch.
22
Thu hút các dự án đầu tư vào sản xuất và chế biến trong khu vực nông, lâm, ngư nghiệp;
thực hiện cơ khí hóa, điện khí hóa, thủy lợi hóa; đưa nhanh tiến bộ khoa học - kỹ thuật và
công nghệ sinh học vào sản xuất; nâng cao năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh, phù hợp
với đặc điểm của từng vùng, từng địa phương. Khẩn trương hoàn thành xây dựng quy hoạch
phát triển nông thôn và thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới theo kế hoạch; xây
dựng các làng, xã, thôn, ấp, bản có cuộc sống no đủ, văn minh, môi trường lành mạnh; hình
hành các khu dân cư đô thị hóa với kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ,…

3.4. Điều chỉnh chính sách kinh tế; tích cực phát huy vai trò của chính sách xã hội, đặc
biệt là công tác xóa đói, giảm nghèo

Nhà nước cần đổi mới và nâng cao hiệu quả hơn nữa các chính sách đất đai, chính sách đầu
tư, chính sách tín dụng, khoa học và công nghệ cho các vùng nông thôn và chính sách bảo
trợ tài nguyên môi trường, qua đó tạo sự cân bằng, ổn định kinh tế đất nước và tạo cơ hội
cho người nghèo có điều kiện để thoát nghèo. Khi họ giàu lên, thì tình trạng phân hóa giàu -
nghèo sẽ được cải thiện. Nhà nước cần mở rộng các dự án kinh tế, xây dựng khu đô thị, phát
triển các trường đại học về các vùng ngoại thành, các tỉnh thành trên cả nước; đồng thời, có
chính sách đầu tư xây dựng cơ sở vật chất ở các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa nhiều
hơn, nhanh hơn nữa. Để thu hẹp khoảng cách giàu - nghèo, việc điều chỉnh chính sách thuế
cũng rất cần thiết. Ngoài việc áp dụng thuế thu nhập cá nhân, cần căn cứ vào tất cả các loại
tài sản có thực để yêu cầu mức nộp thuế. Nguồn thu từ khoản thuế này nên dành nhiều hơn
để đầu tư cho các vùng nghèo và quỹ an sinh xã hội. Cần tiếp tục điều chỉnh chính sách tiền
lương kịp thời cho người lao động và nhằm đảm bảo tái sản xuất sức lao động. Điều đó
nhằm đảm bảo tái sản xuất sức lao động, góp phần giảm mức chênh lệch giàu - nghèo, cân
bằng mức chi tiêu, sự hưởng thụ các dịch vụ xã hội cơ bản giữa các nhóm dân cư. Điều đó
còn khuyến khích được tính tích cực của người lao động trong sản xuất để tăng năng suất lao
động cao cho xã hội. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả Chương trình 135; xã hội hóa công tác
xóa đói, giảm nghèo; khuyến khích làm giàu chính đáng đi đôi với xóa đói giảm nghèo bền
vững. Để có thể xóa nghèo bền vững, chúng ta cần tiếp tục thực hiện tốt Nghị quyết 80/NQ-
CP của Chính phủ về định hướng giảm nghèo bền vững 2011 - 2020. Tập trung đầu tư đồng
bộ về cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội theo tiêu chí nông thôn mới tại các huyện nghèo, xã

23
nghèo, thôn, bản đặc biệt khó khăn, ưu tiên trước mắt là các công trình hạ tầng thiết yếu. Đối
với người giàu chính đáng, chúng ta cần khuyến khích, tôn vinh. Đối với người nghèo do
khách quan chúng ta cần chia sẻ, hỗ trợ, cho vay vốn, hỗ trợ tín dụng, tư liệu sản xuất và
khoa học - kỹ thuật. Cần có chính sách khuyến khích cả người giàu và người nghèo làm giàu
chính đáng. Mở ra nhiều cơ hội cho người nghèo tiếp cận các dịch vụ xã hội. Có chính sách
tạo việc làm, tạo cơ hội cho người nghèo làm giàu và tham gia các quá trình phát triển kinh
tế xã hội. Cải cách các thủ tục hành chính nhằm tạo sự liên kết trực tiếp giữa người giàu với
người nghèo; tạo ra sân chơi bình đẳng trong các hoạt động kinh tế để người nghèo làm giàu,
người giàu làm giàu hơn nữa và tự nguyện tham gia chương trình xóa đói, giảm nghèo bằng
việc làm từ thiện, bằng việc đầu tư sản xuất và đóng góp vào các quỹ xã hội thông qua thuế
thu nhập. Khuyến khích người giàu đầu tư vào sản xuất kinh doanh, tạo việc làm mới cho
người lao động, cho xã hội; khuyến khích các doanh nghiệp trả lương theo vùng, theo ngành;
tạo ra những điều kiện, cơ hội cho những người lao động nghèo nâng cao thu nhập, nhưng
trong đó phải chú ý tới nâng cao trình độ học vấn và tay nghề chuyên môn, bồi dưỡng kiến
thức cho cả lao động nữ. Nhà nước cũng cần phát huy và mở rộng chính sách an sinh xã hội
đa dạng thích ứng với từng địa bàn dân cư. Xây dựng hệ thống an sinh xã hội toàn diện đối
với người nghèo ở các vùng, miền của đất nước, kể cả những người nghèo ở đô thị. Đặc biệt,
phải chú trọng việc làm cho người dân mất ruộng ở nơi đô thị hóa. Hệ thống an sinh cần
hướng đến các nhóm đặc thù, nhóm nghèo. Chính phủ cần tiếp tục có những đề án đào tạo
nghề hiệu quả cho lao động đô thị và tăng cường cải thiện các dịch vụ, nhất là dịch vụ liên
quan đến nhà ở nhằm hướng tới giảm nghèo đô thị bền vững. Thực hiện chính sách xóa đói,
giảm nghèo phải đi liền với thực hiện chính sách đền ơn, đáp nghĩa đối với người có công
với cách mạng, với đất nước. Tập trung khắc phục những hạn chế trong công tác tác bảo vệ
tài nguyên môi trường, chủ động ứng phó có hiệu quả với biến đổi của khí hậu. Tăng cường
hợp tác quốc tế để phối hợp ngăn chặn thiên tai ảnh hưởng xấu tới thu nhập của người dân.
Cần đào tạo đội ngũ lao động theo hướng tri thức hóa để đáp ứng yêu cầu mà nền kinh tế tri
thức đặt ra. Mặt khác, bản thân mỗi người (dù đó là người giàu hay người nghèo) cũng cần
phải rèn luyện nhiều hơn nữa kỹ năng làm việc, phải tự giác nâng cao trình độ chuyên môn
mới có thể thích ứng khi làm việc trong môi trường mới để có thu nhập, nâng cao đời sống,
góp phần thu hẹp khoảng cách giàu - nghèo trong xã hội. Việc thực hiện các chính sách xã
24
hội cũng cần theo hướng không “làm thay” người nghèo nhằm khơi dậy tính năng động và
tránh được tâm lý ỷ lại của người nghèo.

3.5. Hoàn thiện hệ thống pháp luật phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, tăng cường sự quản lý chặt chẽ, kịp thời, hiệu quả của Nhà nước đối với
nền kinh tế

Thực hiện giải pháp này góp phần ngăn chặn sự hình thành “môi trường thuận lợi” cho việc
làm giàu không chính đáng. Vì vậy, ngoài những quy phạm theo văn bản pháp luật quy định,
cần xây dựng mới những quy định pháp luật về việc xóa đói, giảm nghèo; những văn bản
quy định mới nhằm khuyến khích các nhà khoa học, các “nhân tài kinh tế” tham gia hoạt
động nghiên cứu dự báo phát triển kinh tế và thị trường ở từng khu vực, từng ngành; ban
hành rộng rãi văn bản hướng dẫn cụ thể về cách làm giàu. Đổi mới và điều chỉnh thường
xuyên về hệ thống pháp luật và đường lối chính sách kinh tế, chính sách xã hội để phù hợp
với thực tiễn của đất nước. Coi trọng việc hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách quản lý
kinh tế, quản lý xã hội, quản lý con người. Khắc phục những yếu kém trong công tác cán bộ;
xây dựng và phát hiện, tuyển chọn những người có đức, có tài vào làm lãnh đạo; làm tốt
công tác quy hoạch và tạo nguồn cán bộ trẻ, cán bộ ở các vùng sâu, vùng xa; khắc phục tư
tưởng cục bộ, khép kín. Coi trọng công tác khảo sát thực tiễn để đúc rút kinh nghiệm trong
quản lý; trưng cầu ý dân kịp thời trước khi ban hành các chính sách, quy định mới liên quan
đến vấn đề kinh tế, việc làm, thu nhập của người dân; xử lý nghiêm minh các hành vi vi
phạm pháp luật khi làm kinh tế. [12]

25
PHẦN KẾT LUẬN

Trong điều kiện ở Việt Nam hiện nay, chúng ta khó có thể khắc phục hay xóa bỏ sự phân
hóa giàu - nghèo theo ý chủ quan. Chúng ta chỉ có thể khắc phục, điều chỉnh khoảng cách
giàu - nghèo trên cơ sở tôn trọng các quy luật kinh tế khách quan ở mức độ cho phép; mức
độ mà nó có thể khích lệ được người giàu tiếp tục làm giàu cho bản thân, cho đất nước, còn
người nghèo thì cố gắng phấn đấu thoát nghèo, giàu lên. Phân hóa giàu nghèo là điều bình
thường. Nhưng phân hóa giàu nghèo nảy sinh do một số người làm giàu bất hợp pháp và bất
hợp lý thì cần phải được khắc phục. Để khắc phục sự phân hóa giàu nghèo bất hợp lý thì
chính sách của Đảng và Nhà nước ta đóng vai trò vô cùng quan trọng, nhưng mỗi người,
nhất là những người nghèo cũng luôn phải tích cực, chủ động nâng cao đời sống vật chất và
tinh thần của mình.

Thông qua quá trình làm bài, tiểu luận đã giúp tác giả hiểu rõ hơn không chỉ về nguyên lý
của sự phát triển mà còn có thêm những hiểu biết về đất nước, nhất là quá trình phân hóa
giàu nghèo của nước ta. Từ thực trạng, cho đến những tác động tích cực, tiêu cực và nguyên
nhân gây ra thực trạng đó. Qua đó tìm ra được những giải pháp làm hạn chế, giảm bớt quá
trình phân hóa giàu nghèo, góp phần giúp đất nước Việt Nam tiến bộ, phát triển, là đất nước
công bằng, dân chủ, văn minh.

26
DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Phân hóa giàu nghèo ở khu vực biên giới nước ta hiện nay, TaiLieuDaiHoc.com.

https://www.tailieudaihoc.com/3doc/4118565.html

2. Giáo trình Triết học Mác - Lênin, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Nhà xuất bản Chính

trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, năm 2022, tr. 90, tr. 93-94.

3. Nguyên lý về sự phát triển và ý nghĩa phương pháp luận, 8910X.

https://8910x.com/nguyen-ly-phat-trien-va-y-nghia/

4. V.I Leenin (2005), Bút ký triết học, Toàn tập, t. 29, Sđd, tr. 379.

5. Phát triển là gì? Nguyên lý về sự phát triển theo Triết học Mác – Lênin?, Luật Dương Gia.

https://luatduonggia.vn/phat-trien-la-gi-nguyen-ly-ve-su-phat-trien-theo-triet-hoc-mac-lenin-
duoc-hieu-nhu-the-nao/

6. Chênh lệch thu nhập tại Việt Nam đang tăng, http://dantri.com.vn, 28/06/2012.

7. Tiền lương của công nhân trong các Doanh nghiệp tư nhân, http://laodongxahoionline.vn,
18/05/2011.

8. Công bằng xã hội để phát triển đất nước, http://phapluat.vn, 03/02/2011.

9. Tăng trưởng kinh tế và phân hóa giàu - nghèo, http://bmktcn.com, 18/10/2009.

10. Quốc hội và nỗi lo cho người nghèo, http://vneconomy.vn

11. Đánh giá nghèo Việt Nam năm 2012, http://hanoimoi.com.vn

http://hanoimoi.com.vn/ban-in/Xa-hoi/586282/chenh-lech-thu-nhap-ngay-cang-gia-tang

12. Bùi Thị Hoàn (2022), Phân hoá giàu - nghèo ở nước ta hiện nay thực trạng và giải pháp,
Luận văn Thạc sĩ Triết học, Xemtailieu.
27
https://tailieumienphi.vn/doc/phan-hoa-giau-ngheo-o-viet-nam-hien-nay-thuc-trang-va-giai-
phap-ta1buq.html

13. Lý Thị Huệ, Phân hóa giàu nghèo ở Việt Nam hiện nay thực trạng và hệ lụy, TaiLieu.tv.

https://tailieu.tv/tai-lieu/phan-hoa-giau-ngheo-o-viet-nam-hien-nay-thuc-trang-va-he-luy-
47587/

14. Thực trạng và giải pháp nhằm hạn chế sự phân hóa giàu nghèo ở nước ta hiện nay,
TaiLieu.vn.

https://tailieu.tv/tai-lieu/thuc-trang-va-giai-phap-nham-han-che-su-phan-hoa-giau-ngheo-o-
nuoc-ta-hien-nay-13386/

15. Tăng Tùng Lâm, Đề tài Phân tích thực trạng phân hóa giàu nghèo ở Việt Nam,
LuanVan.co.

https://luanvan.co/luan-van/de-tai-phan-tich-thuc-trang-phan-hoa-giau-ngheo-o-viet-nam-
61506/

28

You might also like