You are on page 1of 39

1

MỤC LỤC
PHẦN I. MỞ ĐẦU ................................................................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài................................................................................................................. 1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................................... 2
3. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu ....................................................................... 2
4. Kết cấu của đề tài: .............................................................................................................. 2
PHẦN II. NỘI DUNG ............................................................................................................ 3
CHƯƠNG I. TỔNG QUAN VỀ PHẬT GIÁO, NHO GIÁO, ĐẠO GIÁO ...................... 3
1.1. Quá trình hình thành và những tư tưởng triết học cơ bản của Phật giáo. ................ 3
1.1.1. Sơ lược quá trình hình thành và phát triển của Phật giáo. .......................................... 3
1.1.2. Những tư tưởng triết học chủ yếu của Phật giáo. ....................................................... 4
1.2. Vài nét về tiến trình phát triển và một số quan điểm cơ bản của Nho giáo. ............ 7
1.2.1. Vài nét về tiến trình phát triển của Nho giáo. ............................................................. 7
1.1.2. Một số quan điểm cơ bản của Nho giáo: .................................................................... 9
1.3 .Khái quát về Đạo giáo ................................................................................................... 13
1.3.1. Khởi nguồn và sự phát triển của Đạo giáo ............................................................ 14
1.3.2. Tư tưởng triết học của Đạo giáo ............................................................................ 14
CHƯƠNG II. ẢNH HƯỞNG CỦA PHẬT GIÁO, NHO GIÁO VÀ ĐẠO GIÁO ĐẾN
ĐỜI SỐNG TINH THẦN NGƯỜI VIỆT .......................................................................... 19
2.1. Một số ảnh hưởng của Phật giáo đến xã hội và con người Việt Nam........................ 19
2.1.1. Phật giáo với xã hội và con người Việt Nam xưa kia. ............................................... 19
2.1.2. Phật giáo với xã hội và con người Việt Nam ngày nay ............................................. 23
2.1.3. Ảnh hưởng của Phật giáo tới thế hệ trẻ. .................................................................... 25
2.2. Ảnh hưởng của nho giáo đến đời sống tinh thần của người Việt Nam. .................... 28
2.3. Ảnh hưởng của Đạo giáo trong sinh hoạt tinh thần của người Việt. ....................... 32
PHẦN III. KẾT LUẬN ........................................................................................................ 34
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 19
1

PHẦN I. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Triết học ra đời ở cả phương Đông và phương Tây gần như cùng một thời gian
(khoảng từ thế kỷ thứ VIII đến thế kỷ VI trước CN) tại một số vùng trung tâm văn minh
cổ đại của nhân loại như: Trung Quốc, Ấn Độ, Hy Lạp.
Triết theo từ nguyên chữ Hán có nghĩa là Trí, bao hàm sự hiểu biết sâu sắc về sự
vật, hiện tượng và đạo lý. Ở Phương Tây thuật ngữ - “Triết học” (phylosophy) gốc tiếng
Hy Lạp có nghĩa là “yêu mến sự thông thái”.
Theo quan điểm của Macxit: Triết học là hệ thống tri thức lý luận chung nhất của
con người về thế giới; về vị trí, vai trò của con người trong thế giới ấy.
Tư tưởng Triết học Trung Quốc xuất hiện và nở rộ vào thời Xuân Thu – Chiến
Quốc, nó gắn liền với các trường phái Triết học: Nho giáo, Đạo giáo, Pháp gia, Mặc gia,
thuyết Âm dương – Ngũ hành…Trong đó, Đạo giáo là một trong những trường phái Triết
học chính của Trung Quốc cổ đại.
Trải qua quá trình tồn tại và phát triển, Phật giáo, Nho giáo và Đạo giáo có ảnh
hưởng rất lớn đối với nền tảng văn hóa Trung Quốc, đồng thời vượt ra khỏi biên giới hòa
nhập vào đời sống tinh thần của một số nước châu Á trong đó có Việt Nam.
Việt Nam là nước đa tôn giáo, các tôn giáo ở Việt Nam có truyền thống chung sống
hòa hợp và đồng hành với dân tộc. Trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước, các
tôn giáo đã và đang có nhiều đóng góp trên các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội,
bao gồm cả khía cạnh đạo đức.
Ngày nay, sau nhiều đổi mới chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam, tôn giáo
ngày càng được nhìn nhận hơn ở phương diện chức năng luận (nhằm trả lời cho câu hỏi
tôn giáo đóng góp được gì cho xã hội) thay vì tập trung vào phương diện bản thể luận
như trước kia (trả lời cho câu hỏi tôn giáo là gì). Trong cách nhìn nhận về các đóng góp
của tôn giáo với xã hội, Đảng và Nhà nước ngày càng chú trọng tới sự đóng góp về mặt
đạo đức của tôn giáo. Trên thực tế tôn giáo trở thành nguồn lực đối với xây dựng và phát
triển đất nước, mà trong đó trước hết phải kể đến nguồn lực về mặt đạo đức, điều chỉnh
hành vi, kiến tạo cộng đồng luân lý, nhân bản. Việc tìm tòi và khuyến khích các giá trị
đạo đức tôn giáo góp phần xây dựng đạo đức xã hội ở Việt Nam hiện nay đã trở thành
một nhiệm vụ không thể thiếu trong công tác nghiên cứu khoa học và trong các nhiệm vụ
tuyên truyền, vận động của toàn bộ hệ thống chính trị. Sự cần thiết đó không chỉ là để cụ
thể hóa các chủ trương, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước mà còn góp phần
thúc đẩy các tổ chức tôn giáo ở Việt Nam vận dụng, lan tỏa hơn nữa các giá trị đạo đức
tôn giáo của mình vào trong đời sống xã hội. Từ đó góp phần thay đổi quan điểm, nhận
thức của một bộ phận nhân dân, cán bộ đối với tôn giáo. Từ việc nhận thức được một
2

cách cơ bản giá trị đạo đức tôn giáo, chúng ta có thể vận dụng các giá trị đạo đức vào
việc xây dựng đạo đức xã hội ở Việt Nam.
Xuất phát từ thực tế trên, tôi đã chọn đề tài “Ảnh hưởng của Nho giáo, Phật giáo
và Đạo giáo đối với đời sống tinh thần của người Việt Nam” làm đề tài cho tiểu luận
của mình nhằm tìm hiểu lịch sử cũng như định hướng cho sự phát triển nhân cách, tư duy
con người Việt Nam trong tương lai.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu:
Tiểu luận được thực hiện nhằm mục đích tìm hiểu nội dung tư tưởng cơ bản của 2
tôn giáo lớn: Nho giáo, Phật giáo nói riêng và các tôn giáo ở Việt Nam nói chung. Từ
đó, đưa ra giá trị, ảnh hưởng của nó đối với đời sống tinh thần của người Việt Nam.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
Xuất phát từ mục đích nghiên cứu, tiểu luận cần phải giải quyết những vấn đề như
sau: - Tiền đề khái quát chung về Nho giáo, Phật giáo và Đạo giáo ở Việt Nam.
- Phân tích, đánh giá những giá trị, ảnh hưởng của nó đến đời sống tinh thần con
người Việt Nam.
3. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Tiểu luận dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử; bên cạnh đó, tiểu luận sử dụng các phương pháp nghiên cứu
như phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp diễn dịch và quy nạp, phương
pháp lịch sử - logic, phương pháp so sánh đối chiếu.
4. Kết cấu của đề tài:
Đề tài gồm 3 phần: Mở đầu, Nội dung và Kết luận
3

PHẦN II. NỘI DUNG


CHƯƠNG I. TỔNG QUAN VỀ PHẬT GIÁO, NHO GIÁO, ĐẠO GIÁO

1.1. Quá trình hình thành và những tư tưởng triết học cơ bản của Phật giáo.
1.1.1. Sơ lược quá trình hình thành và phát triển của Phật giáo.
Đạo Phật ra đời vào thế kỷ VI trước Công nguyên ở Ấn độ, đến nay đã trở thành
một tôn giáo có ảnh hưởng sâu sắc tới nhiều quốc gia, dân tộc. Theo kinh Phật cùng sử liệu
thì Đức Thích Ca Mâu Ni (Shakya thub-pa) vốn xuất thân là một thái tử thuộc hoàng tộc
của tiểu quốc Shakya ở vùng Kapilavastu. Tuy nhiên, lúc hai mươi chín tuổi, Đức Phật từ
bỏ cuộc sống gia đình và di sản hoàng tộc của mình, trở thành một người tầm đạo lang
thang hành khất. Qua những chuyến du hành của mình, Đức Phật đã nhận định rõ ràng nỗi
khổ thật sự mà mọi người phải trải qua và phương cách khả dĩ để thoát khổ. Và sau 6 năm
tu đạo, Ngài đạt được giác ngộ chính pháp vào năm 35 tuổi và dành tiếp 45 năm còn lại
cho việc truyền bá, giảng dạy giáo lý Phật pháp trên khắp những khu vực ở Đông và Nam
tiểu lục địa Ấn Độ. Tất-đạt-đa đề xướng con đường Trung đạo - tức vừa từ bỏ đời sống xa
hoa nhưng cũng không đi theo lối tu hành ép xác khổ hạnh vốn rất thịnh hành trong các
học thuyết tôn giáo Ấn Độ thời đó. Giáo pháp của Ngài đặt nền tảng cho sự hình thành và
phát triển của giáo lý đạo Phật ngày nay.
Sự phát triển của đạo Phật có thể được chia làm bốn giai đoạn:
+ Giai đoạn 1: (Giữa thế kỷ thứ 6 đến giữa thế kỷ thứ 5 trước Công nguyên) Giai
đoạn nguyên thủy, do đức Phật giáo hóa và các đệ tử của Phật truyền bá.
+ Giai đoạn 2: (Kể từ thế kỷ thứ 4 trước Công nguyên) Giai đoạn bắt đầu phân hóa
ra nhiều trường phái qua các lần kết tập về giáo pháp.
+ Giai đoạn 3: (Kể từ thế kỷ thứ 1) Xuất hiện giáo phái Đại thừa với hai tông phái
quan trọng là Trung quán tông và Duy thức tông.
+ Giai đoạn 4: (Kể từ thế kỷ thứ 7) Xuất hiện Phật giáo Mật tông (Phật giáo Tây
Tạng, Kim cương thừa).
Sau thế kỷ thứ 13, do ở Ấn Độ, đạo Hồi đã thâm nhập mạnh; những người cực đoan
đã tiêu hủy nhiều kiến trúc cũng như các tổ chức Phật giáo nên tôn giáo này được xem là
bị tiêu diệt tại Ấn Độ, nơi sản sinh đạo Phật. Từ thế kỷ thứ 3, đạo Phật được truyền đi các
nước khác ngoài Ấn Độ và mang nặng bản sắc của các nước đó. Ngày nay, phái Tiểu thừa
với quan điểm của Thượng tọa bộ được truyền bá rộng rãi tại Tích Lan (Sri Lanka), Thái
Lan, Miến Điện (Myanma), Campuchia. Đại thừa được truyền tại Trung Quốc, Nhật Bản,
4

Hàn Quốc và Việt Nam. Giáo pháp Kim cương thừa – cũng được xếp vào Đại thừa – phát
triển mạnh tại Tây Tạng, Mông Cổ.
1.1.2. Những tư tưởng triết học chủ yếu của Phật giáo.
Phật giáo ra đời ở Ấn Độ vào thế kỉ VI TCN, Đức Thích Ca Mâu Ni là người sáng
lập ra đạo Phật:
+ Người nhận thấy cuộc sống giàu sang về vật chất, thoả mãn dục vọng và cả cuộc
sống tu hành khổ hạnh ép xác đều là con đường sai lầm.
+ Sau khi tự suy nghĩ tìm con đường giác ngộ, Người quyết định từ bỏ cuộc sống tu
hành khổ hạnh để đi vào tư duy trí tuệ.
+ Sau 49 ngày ngồi thiền định dưới gốc cây bồ đề, Ngài đã giác ngộ được chân lí, lí
giải được nguồn gốc của nỗi khổ con người cũng như phương pháp diệt khổ, giải thoát.
Sinh thời, đức Phật không viết sách mà chỉ thuyết giảng bằng lời nói. Sau khi nhập
Niết bàn, các đệ tử đã tập hợp, phát triển tư tưởng của Ngài thành một học thuyết tôn giáo
hoàn chỉnh (kinh, phật, luận). Về sau, Phật giáo được chia thành Tiểu thừa và Đại thừa với
nhiều tông phái khác nhau.
Trong thế giới quan, Phật giáo tập trung giải quyết những vấn đề về các yếu tố tạo
nên thế giới, các cõi trên thế giới và vị trí của con người trong thế giới:
Thứ nhất, quan niệm về các yếu tố tạo nên thế giới và các cõi trên thế giới:
+ Về các yếu tố tạo nên thế giới:
Mọi sự vật, hiện tượng đều có bản chất, quy luật vận hành, phát triển của nó, theo
đúng tinh thần của Phật giáo là không thêm, không bớt. Đây là quan điểm xuất phát vô
cùng quan trọng để nhận thức thế giới theo thế giới quan Phật giáo.
Nói đến thế giới là nói đến sự tổng hợp của tất cả hiện tượng sinh diệt biến dị qua
không gian và thời gian. Theo Phật giáo, các hiện tượng sinh diệt biến dị này chịu sự chi
phối của nhân duyên. Ngũ uẩn (sắc, thụ, tưởng, hành, thức) là hai pháp của thân và tâm.
Nguồn gốc nhân duyên sinh diệt của vũ trụ vạn hữu bắt nguồn từ “thức” và “sắc”. Chủ thể
nhận thức và đối tượng nhận thức tương quan duyên với nhau trong phạm vi đối đãi để
hình thành thế giới nên “thức duyên danh sắc, danh sắc duyên thức”, đức Phật muốn nói
về vũ trụ vạn hữu đều do ngũ uẩn và nhân duyên hoà hợp tạo thành.
Các yếu tố vật chất tạo nên thế giới là đất, nước, lửa, gió (tứ đại); chỉ cho bốn tính
chất cứng, ướt, nóng, động. Sắc uẩn do bốn tính chất này tạo nên với sự vật muôn hình
vạn trạng.
Thụ uẩn là sự nhận lấy, nghĩa là đem tâm thụ nhận mọi hiện tượng xảy ra xung
5

quanh mình.
Tưởng uẩn là sự nắm bắt tướng trạng, nghĩa là khi nhận thức về cảnh giới, chúng
ta đem tâm nhận lấy mọi thứ để tạo thành khái niệm.
Hành uẩn là sự tạo tác, nghĩa là đối cảnh sinh tâm hoặc suy xét và quyết đoán khi
tiếp xúc với thế giới hiện tượng.
Thức uẩn là sự phân biệt của năm giác quan, nghĩa là khi mắt nhìn thấy sắc lại phân
biệt trắng, đen, hồng, tím; tai nghe thấy tiếng lại phân biệt tốt xấu;…
➔ Theo quan điểm của Phật giáo, năm uẩn trên đã tạo thành thế giới. Ngũ uẩn cũng
được gọi là “danh sắc”, nguồn gốc để tạo nên vũ trụ. Thức uẩn chính là thể thức
nhận biết mang tính chủ quan, các uẩn còn lại chính là sự vật được nhận biết mang
tính khách quan.
Thế giới trong thế giới quan Phật giáo là mọi sự vật, hiện tượng, các pháp đều do
nhân duyên sinh. Nhân duyên ở đây chỉ mối liên hệ điều kiện (có cái này thì có cái kia, cái
này sinh thì cái kia sinh, cái này không thì cái kia không, cái này diệt thì cái kia diệt). Các
sự vật hiện tượng đều có mối quan hệ qua lại lẫn nhau, không có sự vật gì tồn tại một cách
tuyệt đối.
Thế giới quan Phật giáo cho rằng thế giới này sinh ra do mối quan hệ nhân quả nối
tiếp nhau mà thành. Những sự vật hiện tượng ở hiện tại đều do cái nhân từ trước, tạo thành
mối quan hệ nối tiếp không ngừng nghỉ, thế giới là vô thuỷ (không có khởi thuỷ).
Theo quan điểm của Phật giáo, thế giới này về đại thể có hai yếu tố cơ bản là danh
và sắc (yếu tố tinh thần và yếu tố vật chất, theo triết học là vật chất và ý thức). Theo thuyết
“Chư pháp nhân duyên sinh”, hai yếu tố này có mối quan hệ mật thiết (có vật là do tâm,
không có tâm thì vật gì cũng không ai biết).
+ Về các cõi trên thế giới:
Phật giáo có khái niệm tam giới: Dục giới (nơi lòng dục thịnh), Sắc giới (dục tuy
không thịnh nhưng chưa hoàn toàn thoát ly khỏi sự trói buộc của vật chất); Vô sắc giới
(hoàn toàn thoát ly khỏi sự trói buộc của vật chất, chỉ có tinh thần).
Phật giáo đưa ra khái niệm lục đạo (6 nẻo luân hồi): Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sinh,
Người, Atula, Trời.
Thứ hai, quan niệm về bản chất của thế giới:
Phật giáo nguyên thuỷ không bàn đến cái ngã có tồn tại hay không. Chủ trương vô
ngã không có nghĩa là cái ngã không tồn tại mà là yêu cầu khi tu tập đạo đức tôn giáo
không được dính mắc vào cái tôi hay cái của tôi mà thôi.
6

Thứ ba, quan niệm về quy luật vận hành của thế giới:
Sáu cõi trong thế giới tương ứng với sáu dòng tâm: tham là ngã quỷ, sân là địa ngục,
atula là ganh tỵ, trời là kiêu mạn, súc sinh là si mê, con người là sự chuyển đổi cả năm
dòng tâm trên. Từ năm dòng tâm đó mà tạo nên toàn bộ cõi luân hồi. Thế giới quan Phật
giáo về thế giới luân hồi chính là được tạo nên bởi sáu trạng thái tâm đó. Khi điều phục
được sáu trạng thái tâm đó, con người sẽ tới được Niết bàn, Tịnh độ.
Sự hình thành và hoại diệt của vũ trụ đều do hai chữ “nhân duyên”. Sự sinh diệt của
một sự vật trong vũ trụ luôn luôn có đầy đủ các điều kiện nào đó; sự tồn tại của mỗi sự vật
cũng cần có mối quan hệ tương hỗ lẫn nhau. Điều kiện hay mối quan hệ tồn tại hoặc sinh
diệt của một sự vật được gọi là nhân duyên của sự vật ấy.
Sự hình thành của vũ trụ không phải do thần linh sáng tạo ra, sự biến đổi của vạn
hữu cũng không phải do thượng đế chi phối. Sự sinh khởi từ “không” đến “có”, căn cứ vào
“nhân” gọi là “duyên khởi”, đứng trên lập trường kết quả thì gọi là “duyên sinh” Phật
giáo nói muôn sự vạn vật tồn tại trong vũ trụ là pháp được nhân duyên sinh, và sự sinh khởi
của vạn hữu là nhân duyên sinh của vạn pháp.
Duyên khởi luận trong thế giới Phật giáo có nhiều thuyết khác nhau, trong cuốn
Triết học Phật giáo Việt Nam, Phan Văn Hùm viết: “Duyên khởi luận trong Phật giáo có
nhiều thuyết: Thuyết thứ nhất là Nghiệp cảm duyên khởi, thuyết thứ hai là A lại da duyên
khởi, thuyết thứ ba là Chân Như duyên khởi, thuyết thứ tư là Pháp giới duyên khởi, thuyết
thứ năm là Lục đại duyên khởi”.
+ Nghiệp cảm duyên khởi: Học thuyết có từ Phật giáo nguyên thuỷ, rút ra từ Tứ diệu
đế và Thập nhị nhân duyên. Tứ diệu đế cho rằng vì mê vọng nên có hành động sai lầm từ
đó phải chịu khổ.
+ A lại da duyên khởi: Thuyết này cho rằng sau khi chết, ngũ uẩn tan ra, nghiệp lực
dẫn dắt đi đầu thai.
+ Chân như duyên khởi: Thuyết này theo kinh Lăng già, kinh Đại bát Niết bàn, kinh
Đại thừa khởi tín luận thuộc thời kì Đại thừa. Tâm bao gồm tất cả và gồm hai phương diện:
về phương diện động thì tâm là cái cửa sinh diệt; về phương diện tịnh thì tâm là cái cửa
của chân như (ở đây Tâm ví như biển, Chân như ví như nước, Vạn tượng ví như sóng).
+ Lục đại duyên khởi: Chủ trương của Chân ngôn hay Mật tông. Lục đại gồm địa,
thuỷ, hoả, phong, không và thức. Sáu đại này dung thông nhau và tuỳ duyên sinh khởi ra
vũ trụ, vạn hữu. Năm đại trước thuộc về sắc pháp (vật), đại thứ sáu thuộc về tâm pháp
(tâm). Vật và tâm không tách rời nhau.
7

+ Pháp giới duyên khởi: Cho rằng pháp giới (tức vũ trụ, vạn hữu) là một duyên khởi
lớn tức là các pháp làm nhân duyên cho nhau, nương tựa, tương phản, dung thông nhau mà
thành lập.
Trong thế giới quan Phật giáo, thế giới tồn tại ở trạng thái vô thường, vô ngã:
+ Vô thường: Không có sự vật nào tồn tại vĩnh viễn mà biến đổi theo chu kì “thành
– trụ – hoại – không” hay “sinh – trụ – dị – diệt”. Bản chất của cuộc sống, của cõi luân
hồi là vô thường, vạn vật trên thế giới đều bị chi phối bởi quy luật vô thường, luôn thay
đổi cùng với thời gian.
+ Vô ngã: Không có “cái tôi hay bản ngã” theo ý nghĩa của một cái gì đó vĩnh cửu,
không thể tách rời, tự trị trong một sự tồn tại cá nhân.
Thứ tư, quan niệm về vị trí, vai trò của con người trong thế giới
Quan niệm về thế giới quan Phật giáo về con người chủ yếu tập trung ở học thuyết
cấu tạo con người, học thuyết về sự xuất hiện và tái sinh (tức nghiệp, luận hồi).
Về cấu tạo hay các yếu tố hình thành nên con người, thế giới quan Phật giáo có mấy
thuyết sau:
+ Thuyết Danh – Sắc: Danh (yếu tố tinh thần) – Sắc (yếu tố vật chất).
+ Thuyết Lục đại: Địa (đất, xương thịt) – Thuỷ (nước, máu, chất lỏng) – Hoả (lửa,
nhiệt, khí) – Phong (gió, hô hấp) – Không (các lỗ trong cơ thể) – Thức (ý thức, tinh thần)
Cấu tạo con người nghiêng về vật chất.
+ Thuyết Ngũ uẩn: Sắc (vật chất, gồm tứ đại: địa, thuỷ, hoả, phong) – Thụ (tình
cảm, cảm giác) – Tưởng (tưởng tượng, tri giác, ý thức) – Hành (ý chí) – Thức (ý thức)
Cấu tạo con người nghiêng về tinh thần.
1.2. Vài nét về tiến trình phát triển và một số quan điểm cơ bản của Nho giáo.
1.2.1. Vài nét về tiến trình phát triển của Nho giáo.
Hệ tư tưởng của Nho giáo trải qua hơn 2000 năm phát triển và biến đổi. Cơ sở của
Nho giáo được hình thành từ thời Tây Chu, đặc biệt với sự đóng góp của Chu Công Đán,
còn gọi là Chu Công. Đến thời Xuân Thu, xã hội loạn lạc, Nho giáo được Khổng Tử, tên
thật là Khâu, hay còn gọi là Trọng Ni, người nước Lỗ (551 - 479 trước Công nguyên, thời
Xuân Thu - Chiến quốc) phát triển tư tưởng của Chu Công, hệ thống hóa và tích cực truyền
bá các tư tưởng đó. Chính vì thế mà người đời sau coi ông là người sáng lập ra Nho giáo.
Khổng Tử là người mở đường vĩ đại của lịch sử tư tưởng Trung Quốc cổ đại. Ông là nhà
triết học, nhà chính trị và là nhà giáo dục nổi tiếng ở Trung quốc cổ đại. Ông đã hệ thống
những tri thức tư tưởng đời trước và quan điểm của ông thành học thuyết đạo đức chính trị
8

riêng, gọi là Nho giáo. Học thuyết của ông được hai nhà tư tưởng là Mạnh Tử và Tuân Tử
hoàn thiện và phát triển. Mạnh Tử theo hướng duy tâm, Tuân Tử theo hướng duy vật. Trong
lịch sử sau này dòng Khổng Mạnh có ảnh hưởng lâu dài nhất. Từ nhà Hán trở đi, Nho giáo
được nhiều nhà tư tưởng phát triển và sử dụng theo môi trường xã hội của nó.
Khi lịch sử phức tạp của Trung Quốc tiến vào thời kỳ phát đạt - thời kỳ nhà Tống, vị
hoàng đế khai quốc là Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dẫn lập tức chủ trì nghi lễ long trọng tế
tự Khổng Tử để biểu dương lòng thiếu đễ, vua còn thân chủ trì khoa thi tiến sĩ mà nội dung
hoàn toàn theo Nho học. Đối với Nho học mới bột hưng ở thời Tống, chúng ta thường gọi
đó là Lý học.
Nội dung và kết cấu của Lý học hết sức rộng lớn, bắt đầu từ Hàn Dũ đời nhà Đường,
trải qua nỗ lực của Tôn Phục, Thạch Giới, Hồ Viên, Chu Đôn Di, Thiệu Ung, Thương Tái,
Trình Di, Trình Hạo đời Bắc Tống cho đến Chu Hi đời Nam Tống là người tập đại thành
hoàn chỉnh hệ thống tư tưởng Lý học. Lý học trình Chu nhấn mạnh Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí,
Tín như lễ trời (thiên lý) dùng học thuyết Khổng Mạnh làm nguồn gốc, hấp thu thêm các
học thuyết tư tưởng của Phật giáo, Đại giáo cung cấp sự nhu yếu cho xã hội quân chủ chuyên
chế. Chu Hi tập chú giải thích các kinh điển Nho gia như Luận ngữ, Mạnh Tử trở thành
những sách giáo khoa bắt buộc của sĩ tử trong xã hội phong kiến và là tiêu chuẩn pháp định
trong khoa cử của chính phủ. .
Ngoài Lý học của Trình Chu có địa vị chi phối, phái Công học của Trần Lượng, Diệp
Thích, phái Tâm học của Vương Dương Minh cũng đều tôn sùng Khổng Tử, hấp thu một
phần tư tưởng cơ bản của ông. Những học thuyết này đều được lưu truyền rộng rãi và tạo
ảnh hưởng sâu sắc trong xã hội văn hoá Trung Quốc.
Vì Nho học được các sĩ đại phu tôn sùng, được các vương triều đua nhau đề xướng
nên Nho học thuận lợi thẩm thấu trong mọi lĩnh vực trong mọi giai tầng xã hội, từ rất sớm
nó đã vượt qua biên giới dân tộc Hán, trở thành tâm lý của cộng đồng dân tộc Trung Quốc,
là cơ sở văn hoá của tín ngưỡng và tập tính.
Cốt lõi của Nho giáo là Nho gia. Đó là một học thuyết chính trị nhằm tổ chức xã hội. Để
tổ chức xã hội có hiệu quả, điều quan trọng nhất là phải đào tạo cho được người cai trị kiểu
mẫu - người lý tưởng này gọi là quân tử (quân = kẻ làm vua, quân tử = chỉ tầng lớp trên
trong xã hội, phân biệt với "tiểu nhân", những người thấp kém về điạ vị xã hội; sau "quân
tử" còn chỉ cả phẩm chất đạo đức: những người cao thượng, phẩm chất tốt đẹp, phân biệt
với "tiểu nhân" là những người thiếu đạo đức hoặc đạo đức chưa hoàn thiện. Điều này có
thể được lí giải bởi đối tượng mà Nho giáo hướng đến trước tiên là những người cầm
9

quyền). Để trở thành người quân tử, con người ta trước hết phải "tự đào tạo", phải "tu thân".
Sau khi tu thân xong, người quân tử phải có bổn phận phải "hành đạo" (Đạo không đơn
giản chỉ là đạo lí. Nho gia hình dung cả vũ trụ được cấu thành từ các nhân tố đạo đức, và
Đạo ở đây bao chứa cả nguyên lí vận hành chung của vũ trụ, vấn đề là nguyên lí đó là
những nguyên lí đạo đức do Nho gia đề xướng (hoặc như họ tự nhận là phát hiện ra) và cần
phải tuân theo. Trời giáng mệnh làm vua cho kẻ nào có Đạo, tức là nắm được đạo trời, biết
sợ mệnh trời. Đạo vận hành trong vũ trụ khi giáng vào con người sẽ được gọi là Mệnh.
Nhìn chung hệ tư tưởng Nho giáo khi hình thành và phát triển đã là hình thái ý thức của
giai cấp thống trị trong xã hội phong k iến ở Trung Quốc. Đối với nó thì ngũ luân, ngũ
thường, hay tam cương ngũ thường là những cái tuyệt đối. Đối với nó xã hội phong kiến
không phải chỉ là một giai đoạn trong lịch sử loài người, luân lý phong kiến không chỉ là
một hình thái ý thức của giai đoạn ấy, như họ nói: “Quân thần chi nghĩa vô sở đào ư thiên
địa chi gian”
Hay là: “Thiên bất biến, đạo diệc bất biến” (Đổng Trọng Thư) Đạo ở đây tức là tam
cương, ngũ thường.
1.1.2. Một số quan điểm cơ bản của Nho giáo:
Tựu trung lại tư tưởng trung tâm của Nho giáo là những giá trị tinh thần về chính trị,
đạo đức của con người và xã hội.
- Quan điểm về bản chất con người:
Nho giáo đặt vấn đề đi tìm một bản tính có sẵn và bất biến của con người. Đức Khổng
Tử và Mạnh Tử đều quan niệm bản tính con người ta sinh ra vốn thiện. Bản tính "Thiện"
ở đây là tập hợp các giá trị chính trị, đạo đức của con người. Xuất phát từ quan niệm cho
rằng bản tính của con người là thiện, Khổng Tử đã xây dựng phạm trù "Nhân" với tư cách
là phạm trù trung tâm trong triết học của ông. Theo ông, một triều đại muốn thái bình thịnh
trị thì người cầm quyền phải có đức Nhân, một xã hội muốn hoà mục thì phải có nhiều
người theo về điều Nhân. Chữ Nhân được coi là nguyên lý đạo đức cơ bản quy định bản
tính con người và những quan hệ giữa người với người từ trong gia tộc đến ngoài xã hội.
Nếu Khổng Tử cho rằng chữ Nhân là cái gốc đạo đức của con người, thì theo ông,
để trở thành một con người hoàn thiện, một điều kiện tất yếu khác là phải "hiểu biết mệnh
trời" để sống "thuận mệnh" . Ông viết: "Không biết mệnh trời thì không lấy gì làm quân
tử", nhưng ông kêu gọi mọi người trước hết phải tìm sức mạnh vươn lên ở trong chính bản
thân mỗi người, đừng trông chờ vào trời đất quỷ thần: "Đạo người chưa biết thì làm sao
biết được đạo quỷ thần". Con người phải chú trọng vào sự nỗ lực học tập, làm việc tận tâm,
10

tận lực, còn việc thành bại như thế nào, lúc đó mới tại ý trời.
Trong triết học Nho giáo, nếu Khổng Tử và Mạnh Tử cho rằng con người vốn có bản
tính thiện thì Tuân Tử đưa ra lý luận bản tính con người là ác: "Tính người là ác, thiện là
do người làm ra"; nhưng trong quan điểm sai lầm đó cũng có nhân tố hợp lý như: hành vi
đạo đức của con người là do thói quen mà thành, phẩm chất con người là sản phẩm của
hoàn cảnh xã hội và kết quả của sự học tập, giáo dục lâu ngày mà nên, từ đó ông cho rằng
có thể giáo dục, cải hoá con người từ ác thành thiện được. Nếu ra sức tu dưỡng đạo đức thì
bất cứ người nào cũng đều có thể đạt được địa vị "người quân tử". Tuân Tử đề cao khả
năng và vai trò của con người. Ông khẳng định trời không thể quyết định được vận mệnh
của con người. Ông cho rằng con người không thể chờ đợi tự nhiên ban phát một cách bị
động mà phải vận dụng tài trí, khả năng của mình, dựa vào quy luật của tự nhiên mà sáng
tạo ra những của cải, sản vật để phục vụ cho đời sống con người.
Như vậy, Nho giáo thể hiện là một học thuyết có tính nhân văn rất cao, nhìn thấy nét
đẹp của con người và rất tin tưởng vào con người, tin tưởng vào khả năng giáo dục con
người.
Tuy nhiên quan niệm về Nhân của Khổng Tử có nội dung giai cấp rõ ràng, ông cho
rằng chỉ có người quân tử, tức kẻ cai trị mới có được đức nhân, còn người tiểu nhân, tức
nhân dân lao động, không thể có được đức nhân. Đạo nhân chỉ là đạo của người quân tử,
tức giai cấp thống trị. Đây chính là điểm hạn chế bởi lập trường giai cấp trong quan điểm
của Khổng Tử khi ông cho rằng Tiểu nhân và Quân tử là hai loại người đối lập nhau không
phải chủ yếu về địa vị xã hội mà chủ yếu là về phẩm chất đạo đức.
- Quan điểm về xã hội học:
Nho giáo đứng trên quan điểm duy tâm để giải quyết những vấn đề xã hội bởi vì khi
giải quyết những vấn đề xã hội. Nho giáo là hình thái ý thức của giai cấp thống trị trong xã
hội phong kiến ở Trung Quốc. Đối với nó thì “ngũ luân, ngũ thường, hay tam cương ngũ
thường” là những cái tuyệt đối, bao gồm:
- Quan hệ vua - tôi.
- Quan hệ cha - con.
- Quan hệ chồng - vợ.
Quan hệ thứ nhất thuộc quan hệ quốc gia, còn hai quan hệ sau thuộc quan hệ gia
đình. Điều này nói lên rằng trong quan niệm về xã hội, Nho giáo đặc biệt quan tâm tới
những quan hệ nền tảng của xã hội là quan hệ gia đình. Quan hệ gia đình ở đây mang tính
chất tông tộc, dòng họ. Xã hội trị hay loạn trước hết thể hiện ở chỗ có giữ vững được ba
11

quan hệ ấy hay không:


“Xã hội là tam cương - tam cương là quốc gia.
Mỗi cương thay đổi xã hội loạn”.
Vì vậy , muốn cải loạn thành trị, muốn thực hiện xã hội đại đồng thì phải chấn chỉnh
lại ba quan hệ đó. Để chấn chỉnh lại ba quan hệ đó, Nho gia nguyên thủy lấy giáo dục đạo
đức làm cứu cánh.
- Quan điểm về giáo dục:
Trước hết, Nho giáo có nêu quan điểm về một xã hội lý tưởng. Lý tưởng cao nhất
của đức Khổng Tử cũng như các tác giả sau này của Nho giáo là xây dựng một xã hội "Đại
đồng". Khái niệm xã hội đại đồng của Nho giáo không phải là một xã hội đặt trên nền tảng
của một nền sản xuất phát triển cao mà là một xã hội "an hoà", trong đó sự an hoà được đặt
trên nền tảng của sự công bằng xã hội.
Để thực hiện xã hội lý tưởng, xã hội đại đồng, xã hội an hoà trên, Nho giáo không
đặt vấn đề về một cuộc cách mạng, không cầu cứu ở bạo lực, mà tìm cứu cánh ở một nền
giáo dục. Đức Khổng Tử là người đầu tiên lập ra trường tư, mở giáo dục ra toàn dân. Có
giáo dục và tự giáo dục thì mỗi người mới biết phận vị của mình mà nhìn nhận hành động
trong cuộc sống cho đúng.
Nội dung của giáo dục Nho giáo, giáo dục và tự giáo dục, hướng vào việc giáo dục
những chuẩn mực chính trị - đạo đức đã hình thành từ ngàn xưa, được nêu gương sáng
trong cổ sử mà thôi nên cách dạy của Nho giáo là chỉ dạy làm người nói chung, không hề
đề cập đến khoa học, kinh tế, nghề nghiệp, tức không hướng vào phương diện kỹ nghệ và
kinh tế. Thừa thời gian mới học đến lục nghề. Đây là một nền giáo dục thiên lệch.
Đồng thời, nguyên tắc giáo dục trong Nho giáo là nguyên tắc tự giác: nguyên tắc tự
nguyện làm sáng tỏ, thường dùng phương pháp nêu gương.
- Quan điểm về quản lý xã hội (trị quốc):
Để theo đuổi mục tiêu lý tưởng xây dựng xã hội đại đồng, Nho giáo nêu nguyên tắc
quản lý xã hội như sau:
- Nguyên tắc 1: Thực hiện nguyên tắc tập quyền cao độ (Chế độ quân chủ trung ương
tập quyền cao độ). Trong phạm vi quốc gia, toàn bộ quyền lực tập trung vào một người là
Hoàng đế.
- Nguyên tắc 2: Thực hiện "chính danh" trong quản lý xã hội.
"Chính danh" nghĩa là mỗi người cần phải nhận thức và hành động theo đúng cương
vị, địa vị của mình: vua phải ra đạo vua, tôi phải ra đạo tôi, cha phải ra đạo cha.
12

- Quan điểm về giáo dục:


Trước hết, Nho giáo có nêu quan điểm về một xã hội lý tưởng. Lý tưởng cao nhất
của đức Khổng Tử cũng như các tác giả sau này của Nho giáo là xây dựng một xã hội "Đại
đồng". Khái niệm xã hội đại đồng của Nho giáo không phải là một xã hội đặt trên nền tảng
của một nền sản xuất phát triển cao mà là một xã hội "an hoà", trong đó sự an hoà được đặt
trên nền tảng của sự công bằng xã hội.
Để thực hiện xã hội lý tưởng, xã hội đại đồng, xã hội an hoà trên, Nho giáo không
đặt vấn đề về một cuộc cách mạng, không cầu cứu ở bạo lực, mà tìm cứu cánh ở một nền
giáo dục. Đức Khổng Tử là người đầu tiên lập ra trường tư, mở giáo dục ra toàn dân. Có
giáo dục và tự giáo dục thì mỗi người mới biết phận vị của mình mà nhìn nhận hành động
trong cuộc sống cho đúng.
Nội dung của giáo dục Nho giáo, giáo dục và tự giáo dục, hướng vào việc giáo dục
những chuẩn mực chính trị - đạo đức đã hình thành từ ngàn xưa, được nêu gương
sáng trong cổ sử mà thôi nên cách dạy của Nho giáo là chỉ dạy làm người nói chung, không
hềđề cập đến khoa học, kinh tế, nghề nghiệp, tức không hướng vào phương diện kỹ nghệ
và kinh tế. Thừa thời gian mới học đến lục nghề. Đây là một nền giáo dục thiên lệch.
Đồng thời, nguyên tắc giáo dục trong Nho giáo là nguyên tắc tự giác: nguyên tắc tự
nguyện làm sáng tỏ, thường dùng phương pháp nêu gương.
- Quan điểm về quản lý xã hội (trị quốc):
Để theo đuổi mục tiêu lý tưởng xây dựng xã hội đại đồng, Nho giáo nêu nguyên tắc
quản lý xã hội như sau:
- Nguyên tắc 1: Thực hiện nguyên tắc tập quyền cao độ (Chế độ quân chủ trung
ương tập quyền cao độ). Trong phạm vi quốc gia, toàn bộ quyền lực tập trung vào một
người là Hoàng đế.
- Nguyên tắc 2: Thực hiện "chính danh" trong quản lý xã hội.
"Chính danh" nghĩa là mỗi người cần phải nhận thức và hành động theo đúng cương
vị, địa vị của mình: vua phải ra đạo vua, tôi phải ra đạo tôi, cha phải ra đạo cha, con phải
ra đạo con, chồng phải ra đạo chồng, vợ phải ra đạo vợ... Nếu như mọi người không chính
danh thì xã hội ắt trở nên loạn lạc. Không thể có một xã hội trị bình mà nguyên tắc chính
danh bị vi phạm.
Trong Nho giáo, Khổng Tử đặc biệt đề cao giữa danh và thực. Thực do học, tài và
phận quy định.
- Nguyên tắc 3: Thực hiện Văn trị - Lễ trị - Nhân trị. Đây là nguyên tắc có tính chất
13

đường lối căn bản của Nho giáo.


Văn trị: Đề cao trị bằng hiểu biết. Tạo ra vẻ đẹp của một nền chính trị để mọi người
tự giác tuân theo.
Lễ trị: Dùng tổ chức, thiết chế xã hội để trị quốc. Đề cao nghi lễ giao tiếp trong trị
quốc.
Nhân trị: Trị quốc bằng lòng nhân ái, mở rộng ân trạch của hoàng cung tới bốn
phương.
Khổng Tử cho rằng trị quốc là việc rất khó, nhưng cũng rất dễ làm nếu đức Minh
quân biết sử dụng ba loại người: Cả quyết can đảm, Minh đản (trí thức) và Nghệ tinh. Nhà
vua muốn trị vì đất nước và muốn có đức nhân phải biết dùng người và thực hiện ba điều:
+ Kính sự: Chăm lo đến việc công.
+ Như tín: Giữ lòng tin với dân.
+ Tiết dụng: Tiết kiệm tiêu dùng.
Ngược lại, dân và bề tôi đối với vua phải như đối với cha mẹ mình, phải tỏ lòng
trung của mình đối với vua.
Tiếp tục thuyết " Nhân trị" của Khổng Tử, Mạnh Tử đề ra tư tưởng " Nhân chính".
Theo Mạnh Tử, việc chăm dân, trị nước là vì nhân nghĩa, chứ không phải vì lợi và Mạnh
Tử chủ trương một chế độ "bảo dân", trong đó người trị vì phải lo cái lo cho dân, vui cái
vui của dân, tạo cho dân có sản nghiệp riêng và cuộc sống bình yên, no đủ, như thế dân
không bao giờ bỏ vua. Đồng thời ông cũng khuyên các bậc vua chúa phải giữ mình khiêm
cung, tiết kiệm, gia huệ cho dân, thu thuế của dân có chừng mực. Đặc biệt Mạnh Tử có
quan điểm hết sức mới mẻ và sâu sắc về nhân quyền. Ông nói: "Dân vi quý, quân vi khinh,
xã tắc thứ vi", vì theo ông, có dân mới có nước, có nước mới có vua. Thậm chí ông cho
rằng dân có khi còn quan trọng hơn vua. Kẻ thống trị nếu không được dân ủng hộ thì chính
quyền sớm muộn cũng sẽ phải sụp đổ, nếu vua tàn ác, không hợp với lòng dân và ý trời
thì sẽ có thể bị truất phế.
- Nguyên tắc 4: Đề cao nguyên lý công bằng xã hội. Đức Khổng Tử đã nói: "Không
lo thiếu mà lo không đều, Không lo nghèo mà lo dân không yên".
Sự không công bằng là đầu mối của loạn xã hội. Cơ sở công bằng trong tôn giáo:
+ Theo phái Mặc gia: Công bằng theo kiểu cào bằng.
+ Theo phái Nho giáo: Công bằng trên cơ sở danh của mình. Tức là công bằng theo
danh (địa vị xã hội) trong hưởng quyền lợi phân phối theo chức vụ, địa vị.
1.3 .Khái quát về Đạo giáo
14

1.3.1.Khởi nguồn và sự phát triển của Đạo giáo


Đạo giáo ra đời khoảng cuối thời Đông Hán, cuối thế kỷ thứ II sau công nguyên
(SCN). Đây là thời điểm xuất hiện nhiều cuộc khởi nghĩa của nông dân dưới ngọn cờ của
tôn giáo. Vào năm 141 (SCN), xuất hiện Ngũ Đấu Mễ Đạo (Đạo năm đấu thóc) của
Trương Lăng và vào năm 184 xuất hiện Thái Bình Đạo của Trương Giác. Hai tổ chức
này được xem là hình thức đầu tiên của Đạo giáo và được gọi là Đạo giáo sơ kỳ.
Đạo giáo thời kỳ đầu được bắt nguồn từ tư tưởng Lão Trang thời Tiên Tần qua chiếc
cầu Hoàng – Lão, một học thuyết bắt nguồn từ Đạo gia vùng Tắc Hạ. Cho nên, ít nhiều
cũng pha tạp một số yếu tố của Nho gia, Pháp gia cùng các phái khác, nhưng về cơ bản
Đạo giáo gắn bó nhiều hơn với triết lý Lão Trang.
Trong quá trình tồn tại và phát triển của mình, Đạo giáo đã coi Trang Tử và Lão Tử
là sư tổ của tông phái mình, kinh sách của hai ông được coi là thánh kinh, đặc biệt tư
tưởng về “đạo” của hai ông đã được Đạo giáo Trung Quốc coi là hạt nhân lý luận của
mình, nó dựa sát vào Đạo gia, giương cao ngọn cờ của Đạo gia. Điều đó tạo thành mối
quan hệ: “Phi tức phi ly” (không phải cái này tức là cái kia).
1.3.2.Tư tưởng triết học của Đạo giáo
- Quan điểm về đạo
Đạo là sự khái quát cao nhất của triết học Lão – Trang. Ý nghĩa của nó có hai mặt:
- Thứ nhất, Đạo là bản nguyên của vũ trụ, có trước trời đất, không biết tên nó là gì,
tạm đặt tên cho nó là “đạo”. Vì “đạo” quá huyền diệu, khó nói danh trạng nên có thể quan
niệm ở hai phương diện “vô” và “hữu”. “Vô” là nguyên lý vô hình, là gốc của trời đất.
“Hữu” là nguyên lý hữu hình là mẹ của vạn vật. Công dụng của đạo là vô cùng, đạo sáng
tạo ra vạn vật. Vạn vật nhờ có đạo mà sinh ra, sự sinh sản ra vạn vật theo trình tự “đạo
sinh một, một sinh hai, hai sinh ba, ba sinh ra vạn vật”. Đạo còn làm chủ tể vạn vật và
đạo là phép tắc của vạn vật.
- Đạo còn là quy luật biến hóa tự thân của vạn vật, quy luật ấy gọi là Đức. “Đạo”
sinh ra vạn thân của vạn vật vì nó là nguyên lý huyền diệu, đức bao bọc, nuôi dưỡng tới
thành thục vạn vật (là nguyên lý của mỗi vật). Mỗi vật đều có đức mà đức của bất kỳ sự
vật nào cũng từ đạo mà ra, là một phần của đạo, đức nuôi lớn mỗi vật tùy theo đạo. Đạo
đức của Đạo gia là một phạm trù vũ trụ quan. Khi giải thích bản thể của vũ trụ; Lão Tử
sáng tạo ra phạm trù Hữu và Vô, trở thành những phạm trù cơ bản của lịch sử triết học
Trung Hoa.
- Quan điểm về đời sống xã hội
15

Ông cho rằng, bản tính nhân loại có hai khuynh hướng “hữu vi” và “vô vi”. “Vô vi”
là khuynh hướng trở về nguồn gốc để sống với tự nhiên, tức hợp thể với đạo. Vì vậy, Lão
Tử đưa ra giải pháp cho các bậc trị nước là “lấy vô vi mà xử sự, lấy bất ngôn mà dạy
đời”. Để lập quân bình trong xã hội, phải trừ khử những “thái quá” nâng đỡ cái “bất cập”,
lấy “nhu nhược thắng cương thường”, “lấy yếu thắng mạnh”, “tri túc” không “cạnh tranh
bạo động”, “công thành thân thoái”, “dĩ đức báo oán”. Đó là quan điểm tiêc cực, bảo thủ.
Vì vậy, Lão Trang đã gạt bỏ các khái niệm “hữu vi” của Nho gia, Mặc gia theo đuổi một
thế giới vô vi, thanh tịnh, vô sự, vô dục.
Trang Tử thổi phồng một cách phiến diện tính tương đối của sự vật cho rằng trong
phạm trù “đạo” “vạn vật đều thống nhất”. Ông đề ra tư tưởng triết học nhân sinh “tề vật”,
tức là đối xử như một (tề nhất) đối với những cái tương phản, xóa bỏ đúng sai. Mục đích
của ông là đặt phú quý, vinh nhục ra bên tiến vào vương quốc “tiêu đao”, thanh đạm, đạm
bạc, lặng lẽ, vô vi…
- Về nhận thức
Lão Tử đề cao tư duy trừu tượng coi khinh nghiên cứu sự vật cụ thể. Ông cho rằng
“không cần ra cửa mà biết thiên hạ, không cần nhòm qua khe cửa mà biết đạo trời”. Trang
Tử xuất phát từ nhận thức luận tương đối của mình mà chỉ ra rằng, nhận thức của con
người đối với sự vật thường có tính phiến diện, hạn chế. Nhưng ông đã rơi vào quan điểm
bất khả tri, cảm thấy “đời có bờ bến mà sự hiểu biết lại vô bờ bến, lấy cái có bờ bến theo
đuổi cái vô bờ bến là không được”. Ông lại cho rằng, ngôn ngữ và tư duy logic không
khám phá được Đạo trong vũ trụ.
Trong ba thời kỳ: Sơ Hán, Ngụy Tấn, Sơ Đường, học thuyết Đạo gia chiếm địa vị
thống trị về tư tưởng trong xã hội. Suốt lịch sử hai ngàn năm, tư tưởng Đạo gia tồn tại
như những tư tưởng văn hóa truyền thống và là sự bổ sung cho triết học Nho gia.
20

CHƯƠNG II. ẢNH HƯỞNG CỦA PHẬT GIÁO, NHO GIÁO VÀ ĐẠO GIÁO ĐẾN
ĐỜI SỐNG TINH THẦN NGƯỜI VIỆT
2.1. Một số ảnh hưởng của Phật giáo đến xã hội và con người Việt Nam
2.1.1. Phật giáo với xã hội và con người Việt Nam xưa kia.
Đạo phật truyền vào nước ta khoảng thế kỷ II sau công nguyên và đã trở thành một trong
những hệ tư tưởng. Tôn giáo có sức sống lâu dài, tồn tại cho đến mãi ngày nay, đã ảnh hưởng
sâu sắc đến đời sống xã hội và tinh thần của người Việt Nam.
Vào lúc này, mặc dù đang phải chống lại các thế lực thực dân phương bắc, nhân dân
Việt Nam vẫn đủ thông minh, tỉnh táo để tiếp nhận Đạo Phật đến với dân tộc ta bằng tinh thần
hoà bình, hữu nghị.
Sự tiếp nhận đạo phật trong hoàn cảnh như vậy, không thể bỏ qua vấn đề nội dung
của đạo phật. Điều đó có nghĩa là bản thân đạo phật phải có những nội dung nào đó mà
nhân dân Việt Nam có thể chấp nhận được.ở đây chính là nội dung của hai nền tín ngưỡng
có nét giống nhau, có lẽ do những nét giống nhau mà có sự hợp nhất tạo nên các chùa
pháp vân, pháp vũ, pháp nôi, pháp điện. Tức là tín ngưỡng phật và tín ngưỡng thần của
Việt Nam khi đó có sự hợp nhất. Hình ảnh phật đã trở thành hình ảnh bụt.
Một điều thể hiện đặc biệt phổ quát mà nhiều người đã nhắc đến là phật giáo vốn
dễ hoà hợp với tín ngưỡng dân gian ở những nơi nó được truyền bá đến . ở bắc Việt Nam
đặc điểm đó càng nổi bật. Nếu đặc điểm tôn giáo Việt Nam là sự thờ cúng tổ tiên (linh
hồn người thân đã khuất ) thì phật hay quan âm cũng được coi là một thứ tổ tiên (trong
tâm thức dân gian việt cổ, phật hay quan âm không phải là người “ngoại quốc ‘người
khác tộc). Nếu đặc điểm của tôn giáo Việt Nam là sự thờ thần (thế lực siêu nhiên) mà
con người cũng cầu để nhờ sự “phù hộ độ trì” thì phật hay quan âm cũng trở thành một
loại thần, phật điện cũng trở thành một thứ thần điện, tính tâm linh ấn độ nhường bước
cho tính tính Việt Nam (hơn đâu hết, tôn giáo Việt Nam nặng về tính tình cảm hơn là
giáo lý, giỏi luật, đoàn thể, tôn giáo).
Bụt người Việt Nam không phải thuần tuý là việc phiên âm thuật ngữ Bonddha.
Hình ảnh bụt của người Việt Nam là sự sáng tạo từ hai nguyên liệu tín ngưỡng phật và
tín ngưỡng thần linh đương thời của người Việt Nam. Bụt có những nét giống và khác
phật.Bụt giốg phật ở lòng từ bi, bác ái, vị tha đối với những người bị áp bức bóc
lột.Nhưng bụt khác phật ở chỗ bất kỳ người nghèo nào gặp tai nạn, gặp áp bức bất công
mà cần tới bụt, bụt lập tức xuất hiện ngay để cứu vớt các vị thần trong nhà nhưng lại có
cái oai lực, uy quyền hơn cả trời. Đối với những người bị áp bức trời ở quá xa, kêu trời
khó thấu, còn các thần linh gần nhưng lại yếu đuối, bất lực trước những việc quá sức của
mình quả là gần gũi ,công bằng vì phật không hề chia cấp bậc. Có lẽ ngày xưa chưa có
một người dân bình thường nào nghĩ đến khái niệm bình đẳng. Nhưng đối với phật họ
20

cũng có thể có mặc cảm sâu sa rằng phật có cái nhìn ngang bằng với tất cả chúng sinh.
Với phật, không ai tiểu nhân, không ai quân tử. Cũng không có quân, không có dân, chia
cắt nhau bằng các hàng rào cấp bậc giai cấp. Với phật, còn cả một niềm từ bi bác ái, không
có hằn học, oán ghét, phục thù. Đó cũng là điều phù hợp với bản chất dân tộc Việt Nam. Tiếp
đó phật kêu gọi sự tự giác, giac tha không những để giải quyết nỗi khổ của mình mà còn
phải cứu nhân độ thế . Chăc chắn trong tư duy của người dân bình thường, chưa ai băn
khoăn tìm hiểu thế nào là bản ngã là chân theo nghĩa sâu xa của phật học. Người ta chỉ thấy
ở đây một chủ nghĩa nhân đạo lớn lao và có phần tích cực. Có thực hiện được hay không
là vấn đề khác mà chúng ta cần xem xét, để phê phán giá trị của học thuyết này. Nhưng ở
đây thì rõ ràng đó là những điểm chính yếu làm cho phật giáo gắn bó được với quần chúng.
Tâm lý dân gian Việt Nam ta thiên về sự cân bằng, sự bù đắp. Nỗi khổ hôm nay
phải được đền bù bằng sự sung sướng ngày mai. Cô tấm trong cổ tích trải qua bao gian nan
cuối cùng vẫn được hưởng hạnh phúc. Phật giáo cũng hứa hẹn với con người sự đền bù
không do quyền phép nào, chỗ dựa nào của nho giáo, cũng không do cán cân phúc tội của
đạo gia, mà do chính nỗ lực của bản thân mình. Người dân bình thường ở xứ ta ở phần bản
chất cũng có quan niệm nhận thức như vậy, mà chăc chắn không phải vì do họ quán triệt
thuyết bát chánh đạo của nhà thiền. Mặc dù bát chánh đạo không có gì là thần bí, nhưng dễ
đã có mấy ông sư nhớ đủ tám đường mà phật tổ đã đề ra. Vấn đề là ở cái tinh thần quàn
xuyến rút từ bát chánh đạo.Tinh thần ấy là sự cố gắng tu dưỡng, vun thêm cho bản thân
mình. Và họ cũng mong mỏi một sự đền bù này, khi thấy phật tổ vạch ra cho họ và khẳng
định điều tất nhiên sẽ đến. Tuy nhiên, không phải phật giáo đi được vào quần chúng,có một
sự gắn bó sâu sa nhất định, mà không một sự thẩm định, chọn lựa nào có lựa chọn để chối
bỏ hoặc đồng hoá nữa. Đối với phật giáo sự lựa chọn này bao hàm cả ý nghĩa phê phán.
Ngày nay, chúng ta có thể chỉ ra được nhiều khuyết điểm của nho, phật, lão ở góc độ chính
trị hay tư tưởng triết học. Dân gian xưa không có điều kiện hay trình độ để làm việc ấy,
song khi họ chấp nhận, chối bỏ hoặc biến hóa những giáo lý để thích nghi với trình độ tư
duy, với các sinh hoạt của họ tức là họ đã lộ cái ý đồng hay không đồng. Có thể nói rằng
văn hoá Việt Nam hoá phật hơn là hoá phật hoá. Phật giáo đến Việt Nam dù là phật giáo
nguyên thuỷ hay đa dạng sau này bởi tiểu thừa
hay đạo thừa thì vẫn nhất phải nhập với tín ngưỡng bản địa. Để biến man nương thành
phật mẫu, ỷ lan thành quan âm mà không cần phải tạo ra xung quanh nhân vật ấy những
gì huyền bí thần kỳ cho lắm.
Phật giáo còn là một sự kiện văn hoá, phật giáo từ ấn độ được truyền vào Việt Nam
vốn không phải một sự kiện đơn độc mà kéo theo nó là cái ảnh hưởng của tổng thể văn
hoá ấn độ đối với Việt Nam cổ. Mặc dù chúng ta còn ít nghiên cứu và hiểu biết về văn
hoá việt- ấn nhưng chắc chắn ảnh hưởng của văn hoá ấn độ lên Việt Nam diễn ra trên
20

nhiều lĩnh vực: Nông nghiệp, y dược, âm nhạc vũ đạo ngôn ngữ.
Điều quan trọng là văn hoá Việt Nam cổ tiếp thu một liều lượng quan trọng văn
hoá ấn độ qua ngả đường phật giáo, vào suốt thời bắc thuộc và chống bắc thuộc, khi ảnh
hưởng văn minh trung hoa tràn lan đất nước Việt Nam và mang khuynh hướng đồng hoà
rõ rệt.
Về khách quan, ảnh hưởng của văn hoá ấn độ là một đối trọng của văn hoá trung
hoa trên đất việt. Nó có tác dụng trung hoà ảnh hưởng quá mạnh mẽ của văn hoá trung
hoa; Nó góp sức cùng nền văn hoá Việt Nam cổ ngăn chặn sự đồng hoá của văn minh
trung hoa, nó hội nhập và làm giàu làm nên cái khác của văn hoá việt với văn hoá trung
hoa.
Ví dụ: Như ở thăng long thời lý: Hoàng thành Long Phượng mở bốn cửa nếu cửa
phía bắc thờ thành trần vũ – trần võ là một vị thần linh trung hoa được nhập nội vào đất
việt, thì của tây long thành được mang tên “quảng phúc môn “ mở ra phía tây để mong
phúc lớn rộng “phúc đẳng hà sa của Đức Phật ở Tây Thiên.
Cũng vậy, Đạo Phật từ ấn Độ được truyền bá vào đất Việt ở buổi đầu thời kỳ Bắc
thuộc về khách quan mà nói là một đối tượng của Nho giáo. Đạo nho cũng bắt đầu phát
huy ảnh hưởng ở đất Việt từ buổi đầu công nguyên với việc mở trường nhằm “ giáo lễ
nghĩa Trung Hoa” cho người Việt. Ta không thể phủ nhận các mặt tích cực của Nho giáo,
góp phần làm tăng tri thức người dân, nhấn mạnh vào Nhân, Nghĩa, ái. Nhưng dù sao đi
nữa Nho giáo vẫn là một công cụ của tầng lớp thống trị Trung Hoa nhằm nô dịch người
nông dân Trung Quốc và các dân tộc vùng ngoại vi để chế Trung Hoa lấn áp. Sao chăng
nữa, dù có đề cao Nhân, Trí, Dũng là những giá trị con người muôn thủa thì Nho giáo vẫn
đặt cược cơ bản vào Lễ, mà Lễ là gì nếu không phải thực chất là trật tự “ Tiên học lễ hậu
học văn”, nghĩa là trước hết và trên hết phải học tập để tôn trọng và duy trì trật tự đẳng cấp,
trật tự trên dưới: Vua - tôi, cha - con, chồng - vợ (tam cương). Nếu hoàn toàn chấp nhận
Nho giáo trong thời Bắc thuộc thì nói chung chẳng còn gì là chống Bắc thuộc cả. Hãy cúi
mình trước thiện mệnh trìu tượng và thiên tử Trung hoa cụ thể:
Song người Việt cổ, tổ tiên chúng ta vốn có một nội lực tự sinh quật cường, bất
khuất, thích lối sống riêng tự do thuần phác từ thời Bắc thuộc, một lối sống không quá ngăn
cách giữa vua và dân, một lối sống khá bình đẳng giữa cha và con, bình đẳng giữa vợ và
chồng. Bởi vậy người Việt cổ khó lòng chấp nhận nổi trật tự “ Cương thường “ của Nho
gia. Nhưng người Việt bình dân cũng khó lòng “ cãi lý” nổi với những nho sĩ, Nho gia
“Bụng đầy chữ nghĩa”. Họ chỉ còn biết dựa vào các sư sãi vừa có chữa nghĩa vừa bảo vệ
họ, Sao chăng nữa, đạo Phật đã chủ trương bình đẳng, Phật là đức Phật đã thành, chúng
sinh là Đức Phật sẽ thành, chúng sinh đều có Phật tính, đều bình đẳng trước Phật. Nếu như
Nho giáo Việt Nam dựng ra cái Đình ở làng quê với một “ tiểu triều đình” trọng nam khinh
20

nữ thì dân quê Việt Nam dựng và bảo vệ chùa, chùa làng của dân gian và trước hết là giới
đàn bà được loại khỏi sinh hoạt ở Đình có thể sinh hoạt thậm chí trở thành lực lượng quan
trọng trong sinh hoạt chùa làng.
Mặt khác, điều kiện xã hội con người xưa kia cũng mở rộng cho Phật giáo dễ dàng
du nhập so với Trung Quốc. Phật giáo khi du nhập Trung Quốc đã bị phản ứng mãnh liệt của
tâm lý dân tộc, truyền thống văn hoá, đặc biệt là ý thức hệ Nho giáo. Trong khi đó Phật
giáo vào Việt Nam tương đối thuận lợi, phát triển nhanh chóng, hầu như không bị phản ứng
sâu sắc trừ một số ít Nho sỹ thời Trần, Hồ. Xã hội Việt Nam khi tiếp nhận Phật giáo từ ấn
Độ hay Trung Quốc sang chưa có sự phân chia gay gắt và đối kháng kịch liệt, mối quan hệ
của Tông tộc gia đình chưa chịu ảnh hưởng của lý thuyết Tam cương nặng nề. Điều này
khiến Phật giáo khi thâm nhập không bị phản đối. Song lý do chính có lẽ là do Phật gia khi
vào đây chưa gây một đảo lộn, một biến cách, không phủ nhận những giá trị tinh thần,
phong tục tập quán của từng người, từng gia đình, của xã hội. Vì vậy
người Việt bình dân đã khá dễ dàng hấp thụ cái triết lý nhân sinh quan của Đạo Phật,
không biết có quá không nhưng một nhà Phật học của Việt Nam đã nói có phần đúng
rằng ở thời Bắc thuộc Đạo Phật đã thấm vào lòng người dân Việt như nước thấm vào
lòng đất.
Dòng Phật giáo có ảnh hưởng sâu sắc và lâu dài trong xã hội Việt Nam là Thiền
Tông. Thiền Tông có một số đặc điểm mà dân gian dễ chấp nhận.
+ Phật giáo Thiền Tông ít bàn về lý luận mà chuyển sang tông phong phong cách
tu hành. Thiền Tông chủ trương “ Bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền trực chỉ nhân
tâm, kiến tính thành phật, tức tâm thị Phật”. Như vậy chủ chương của Thiền tông là lôi
kéo thế giới Tây Phương cực lạc về trần thế, đặt nó trong lòng con người, tâm thị Phật.
+ Thiền tông chủ trương lao động theo thanh qui của Bách Trượng ( 720- 814) : “
Nhất nhật bất tác, nhất nhật bất thực” ( một ngày không làm, một ngày không ăn) và lấy
việc phục vụ xã hội làm điều kiện tu hành. Điều này khiến cho các tăng nhân không phải
là một tầng lớn ăn bám xã hội.
Thiền tông lại chấp nhận sự bần khổ coi sự chịu đựng bần khổ cũng là cách tu hành.
Chấp nhận bần khổ và lao động là điều khiến Thiền Tông dễ đi vào nông thôn, dễ
bám vào làng xã, đứng được trong làng quê.
+ Thiền tông có khi còn đi xa hơn nữa, cho phép sát sinh, giết người, giết mội người
mà cứu được muôn người quả là điều phúc. Phật tử không hoàn toàn là người bị động
mà có thể vùng lên chống áp bức bóc lột. Do vậy ở Việt Nam thời phong kiến cũng có
nhiều cuộc nổi dậy giành chính quyền do nhà sư lãnh đạo.
Phật giáo lại biết bám lấy làng xã bằng nhiều hoạt động cụ thể có tổ chức, kết hợp với tín
ngưỡng bản địa, hội hè. Nhà sư và ngôi chùa có vai trò quan trọng trong đời sống dân gian
20

cổ truyền. ở Bắc Bộ trước đây hầu như làng nào cũng có chùa. Ngoài thờ Phật, chùa còn
thêm tín ngưỡng dân gian thờ thần tiên, thờ các vị tướng có công với nước. Ngôi chùa trở
thành một trung tâm văn hoá ở nông thôn. Có thể nói Phật giáo đã góp phần làm phong phú
thêm nền văn hoá dân tộc. Nho giáo về mặt nào đó làm cho tư tưởng văn hoá khô cứng thì
Phật giáo có phần làm mền hơn, phong phú và sinh động hơn. Hộ chùa cũng như hội làng
là tiêu biểu cho sự hồ hởi của công xã, là một dịp để con người được giải phóng tình cảm,
hoà cái ta của mình vào cái ta của làng xã, không bị giáo lý khuôn phép gò bó và toả chiết
tâm hồn. Dưới mái nhà chùa mà vẫn được phép giao lưu tình cảm. Bao nhiêu câu chuyện
tình duyên đằm thắm đã xảy ra bên cạnh cửa thiền. Thế ra cửa từ bi không hề nghiêm ngặt
như chốn sân Trình cửa Khổng. Phật chứng nhận cho cuộc sống hồn nhiên của làng xã.
Do Phật giáo bám sâu vào làng xã nên có sức sống lâu bền và tương đối ổn định. Vào
thời kỳ Lý Trần Phật giáo thịnh vượng nhất, được nhà nước nâng đỡ, từ thời Hồ và Lê sơ
về sau Phật giáo bị giảm sút (Nho giáo ở vị trí thống trị và chi phối), nhưng Phật giáo vẫn
cứ duy trì và mở rộng khắp nông thôn, bởi lẽ Phật giáo có sơ sở làng xã vững vàng.
Phật giáo Việt Nam đã trải qua một vận mệnh thịnh suy, Nhà Phật đâu có sợ “ thịnh suy”
mà “thịnh” theo cái nghĩa được nhà nước quân chủ Lý Trần nâng đỡ bảo trợ. Cũng chính vì
nó Phật gia được chính quyền quá ưu ái mà sinh hoạt nhà chùa trở nên xa hoa, sa đoạ, trái
ngược với đời sống Đức Phật chối bỏ sinh hoạt cung đình, trái ngược với giới luât Bách
Trượng tự lao động mà sinh sống giản dị để dự bị giờ phút “ đến ngộ thành Phật”. “Suy”
theo nghĩa cơ bản mất sự ủng hộ của chính quyền. Nhưng suy ở thượng tầng thì lại toả ra
dân chúng ở làng quê ở các cơ sở hạ tầng, nếu đừng quá khắt khe và cứng độ trong nguyên
lý thì có thể khái quát rằng Phật giáo Lý Trần là Phật giáo quý tộc, còn Phật giáo Lê Nguyên
về sau là Phật giáo dân gian. Từ chỗ trở thành dân tộc từ trước, sau thế kỷ X, Phật giáo Việt
Nam đã trở thành dân gian, nhân gian - hay là đã được dân gian hoá sau thế kỷ XV.
Đạo phật có thể mất đi, như mọi hiện tượng vô thường. Song cái tinh tuý của văn hoá
Phật giáo đã được dân tộc hoá và dân gian hoá thì mãi mãi trường tồn.
2.1.2. Phật giáo với xã hội và con người Việt Nam ngày nay
Ngày nay, mặc dù có rất nhiều tôn giáo xuất hiện ở Việt Nam như Thiên chúa giáo, Đạo
Cao Đài, Hoà Hảo, Cơ đốc giáo, ... ngoài ba tôn giáo chính từ xưa. Nhưng Phật giáo vẫn giữ
một vai trò hết sức quan trọng trong đời sống xã hội và tinh thần người Việt
23

Nam. Nhìn vào đời sống xã hội và tinh thần người Việt Nam trong thời gian qua, ta thấy
qua nhiều biểu hiện Phật giáo đang được phục hồi và phát triển. ở nhiều vùng đất nước
số người theo Phật giáo ngày càng đông, số gia đình Phật tử xuất hiện ngày càng nhiều,
lễ hội Phật giáo và sinh hoạt Phật giáo ngày một có vị trí cao trong đời sống tinh thần xã
hội, số sư sãi được đào tạo từ các trường Phật học ngày càng nhiều, số kinh sách xuất
bản hàng năm cũng tăng.
Hơn lúc nào hết trong mấy chục năm lại đây người Phật tử Việt Nam rất chăm lo
đến việc thực hiện các nghi lễ của đạo mình. Họ hay lên chùa trong các ngày sóc, cọng,
họ trân trọng thành kính trong khi thi hành lễ, họ siêng năng trong việc thiền định, giữ
giới, làm việc thiện. Việc ăn chay hàng tháng trở thành thói quen không thể thiếu của
người theo Đạo phật. Mặt khác nhà chùa sẵn sàng thực hiện các yêu cầu của họ như cầu
siêu, giản oan,... Tất cả những điều này củng cố niềm tin vào giáo lý, vừa qui định tư duy
và hành động của họ, tạo cơ sở để hình thành những nhân cách riêng biệt.
Thời đại ngày nay, là thời đại phát triển. Nước ta vừa trải qua mấy chục năm chiến
tranh và hàng chục năm sống dưới chế độ quan liêu bao cấp, đời sống còn nghèo nàn,
lạc hậu vẫn cần đến sự phát triển. Phát triển có nghĩa là sự tăng trưởng nhanh chóng về
kinh tế, đời sống vật chất và văn hoá. Đảng và nhà nước đã chỉ ra nhiệm vụ trước mắt
làm dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh. Để đạt mục tiêu này nước ta cần
có những người có tham vọng lớn, năng động, lạc quan, tin tưởng, dũng cmở rộng sáng
tạo. Những phẩm chất này phần lớn trái với giáo lý nhà Phật, vì tham vọng trái với cấm
dục, vô dục, ly dục của Nhà Phật ... Vì vậy việc cần làm hiện nay là phải xác định rõ
Phật giáo có ảnh hưởng đến hệ tư tưởng của người Việt Nam như thế nào để từ đó đưa
ra những chính sách phát triển phù hợp với lòng dân, làm cho xã hội ngày càng phát triển
tiến bộ và tốt đẹp hơn.
2.1.3. Ảnh hưởng của Phật giáo tới thế hệ trẻ.
Ngày nay ở nước ta Phật giáo không còn ở vị trí chính thống Nhà trường ở các cấp học
phổ thông không có chương trình giảng dạy lịch sử, triết lý, đạo đức Phật giáo một cách
hệ thống. Số gia đình Phật tử cũng không còn đông như trước đây. Sinh viên các trường
Đại học chỉ nhận được rất ít kiến thức sơ bộ về Phật giáo thông qua bộ môn “lịch sử triết
học Phương Đông”, trừ những khoa chuyên ngành Triết học. Vì thế phần lớn những hiểu
biết của chúng ta về Phật giáo trước hết là chịu ảnh hưởng tự nhiên của gia đình, sau đó
là từ bạn bè, thầy cô và những mối quan hệ xã hội khác. Trong đó ảnh hưởng của gia đình
có tác động lớn lên mỗi chúng ta. Nếu trong mỗi gia đình mọi người đều theo đạo phật
23

hoặc không theo một tôn giáo nào nhưng vẫn giữ tập tục quan trọng đi lễ chùa vào những
ngày âm quan trọng như ngày Tết, lễ, rằm ... Người già thường nói chuyện với con cháu
về Đức Phật, Bồ Tát, về đạo lý làm người dựa vào các giáo lý Phật giáo. Những suy nghĩ
quan niệm này có thể phai nhạt, thậm chí đi ngược lại khi ta gặp một trào lưu tư tưởng
mới, đem lại một thế giới quan mới từ trong môi trường gia đình chúng ta phần nào đó
chịu ảnh hưởng của đạo phật nhưng không sâu sắc như các triều đại trước và mục đích
tìm đến Đạo phật không còn mang tính hướng đạo chân chính như trước kia nữa. Do nhiều
nguyên nhân nhưng trước hết do sự xâm nhập của nhiều trào lưu tư tưởng, học thuyết
Phương Tây vào nước ta cách đây vài ba thế kỷ. Đặc biệt là sự giác ngộ lý luận Mác -
Lênin, chủ nghĩa cộng sản của giai cấp công nhân và quần chúng nhân dân lao động đã
tạo tiền đề xây dựng hệ thống tư tưởng, nguyên tắc hành động cho phong trào cách mạng
của nhân dân Việt Nam, lấy đó làm vũ khí chính trị kết hợp với đấu tranh vũ trang. Đảng
ta rất chú trọng việc truyền bá học thuyết này cho quần chúng nhân dân nhất là đối tượng
thanh thiếu niên, những người chủ tương lai của đất nước. Chính vì vậy, thanh thiếu niên,
chúng ta ngày nay khi rời ghế nhà trường được trang bị không những kiến thức để làm
việc mà còn cả kiến thức về lý luận chính trị. Điều này giúp ta nhận thức được về cơ bản
giữa mô hình lý tưởng nhân đạo của Phật giáo và chủ nghĩa cộng sản là: Một bên là duy
tâm, một bên duy vật. Một bên diệt dục triệt để bằng ý chí và coi dục là căn nguyên của
mọi tội lỗi, bên kia thì cố gắng thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng của con người bằng lao
động với năng suất và chất lượng cao nhằm cải tạo thế giới, coi nhằm cải tạo thế giới, coi
đó là tiêu chuẩn đánh giá tính nhân đạo thực sự tiến bộ của xã hội, một bên hứa hẹn một
mô hình niết bàn bình đẳng tự do cho tất cả mọi người, từ bi bác ái như nhau, không còn
bị ràng buộc bởi các nhu cầu trần tục, còn bên kia khẳng định mô hình lý tưởng cho mọi
người lao động, coi lao động là nhu cầu sống chứ không phải phương tiện sống, lao động
không còn là nguồn gốc của khổ đau, qua lao động con người hoàn thiện cả bản thân và
hoàn thiện cả xã hội.
Mặt khác, với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, mọi lĩnh vực trong
đời sống con người đều có bước nhar vọt. Xu thế toàn cầu hoá thể hiện ngày càng rõ nét.
Điều kiện đó đòi hỏi con người phải hết sức năng động, nhanh nhạy nắm bắt vấn đề trong
cuộc sống. Trong khi đó, theo giáo lý nhà Phật con người trở nên không có tham vọng
tiến thân, bằng lòng với những gì mình đã có, sống nhẫn nhục, không đấu tranh, hướng
tới cõi niết bàn khi cuộc sống trần gian đã chấm dứt. Như vậy đạo đức Phật giáo đã tách
con người ra khỏi điều kiện thực tiễn của con người xã hội, làm cho con người có thái
độ chấp nhận chứ không phải là cải tạo thế giới. Đạo đức xuất thể của Phật giáo là chạy
trốn nhu cầu bản năng chứ không phải chế ngự thiên nhiên, bắt nó phục vụ cho mình.
Các chương trình xã hội của Phật giáo không phải cải tạo lại điều kiện sống mà chỉ để
23

cố san bằng xã hội bằng đạo đức, trong xã hội đó ai cũng từ bi, bác ái, hỉ xả, nhẫn nhục
... Đạo đức nhà Phật bị gimở rộng mất giá trị nhân đạo nhờ chính thái độ yếu thế này,
khi những nhu cầu về thể xác bị coi là trần tục, kém đạo đức. Nhất là trong cuộc sống
ngày nay, khi mà con người đã đạt được một trình độ nhất định, quan niệm trên càng
không thể chấp nhận được. Do đó, ảnh hưởng của Phật giáo càng xa rời thế hệ trẻ.
Chúng ta cũng nhận thấy rằng, ngày ngay những người đi chùa hầu hết không có
đủ tri thức về Phật giáo cho nên khó có thể giáo dục đạo Phật một cách tự giác, tích cực
trong xã hội và gia đình. Phật giáo bác học cũng bị mai một nhiều, không còn phát huy
vai trò hướng đạo. Các cao tăng chưa ý thức được hết vai trò của họ trong việc xây dựng
hoàn thiện nhân cách con người Việt Nam. Chẳng hạn các buổi giảng kinh đàm đạo các
buổi lễ trên chùa chưa được tổ chức theo tinh thần khai thác những tinh thuý của đạo lý
Phật giáo, mà phần nhiều theo thị hiếu: Cầu an, giải hạn, cầu lộc ... của giới bình dân.
Phật giáo bình dân cũng sa sút. Người dân lên chùa thường quá chú trọng đến lễ vật, đến
các ham muốn tầm thường. Do không được giáo dục đầy đủ, đúng đắn giáo lý nhà Phật,
số đông thanh thiếu niên đã đua theo thị hiếu của mọi người. Họ đến chùa cúng bái, thắp
hương vái xin phật, Bồ Tát, La Hán phù hộ độ trì cho họ đạt được mong muốn của mình.
24

Những mong muốn ấy thường là chuyện học hành, tình cảm, sức khoẻ, vật chất ... hoặc
hơn nữa, họ coi đến chùa chỉ là hình thức đi chơi, giải trí với bạn bè kèm theo đó là sự
thiếu nghiêm túc trong ăn mặc, đi đứng, nói năng. Số lượng học sinh, sinh viên nói riêng
cũng như số lượng người dân đi chùa gần đây càng đông, song xem ra ý thức cầu thiện,
cầu mạnh về nội tâm còn quá ít so với những mong muốn tư lợi. Có rất ít người đến chùa
để tìm sự thanh thản trong tâm hồn, để tu dưỡng nghiền ngẫm đạo lý làm người, về thiện
- ác. Như vậy mục đích đến chùa của người dân đã sai lầm, tầm thường hoá so với điều
mà giáo lý nhà Phật muốn hướng con người ta vào.
Nhưng ta cũng có thể thấy rằng những tư tưởng Phật giáo cũng có ảnh hưởng ít
nhiều đến đời sống của thanh thiếu niên hiện nay. Như ở các trường phổ thông, các tổ
chức đoàn, đội luôn phát động các phong trào nhân đạo như “ Lá lành đùm lá rách”., “
quỹ giúp bạn nghèo vượt khó” , “ quỹ viên gạch hồng” ... Chính vì vậy ngay từ nhỏ các
em học sinh đã được giáo dục tư tưởng nhân đạo, bác ái, giúp đỡ người khác mà cơ sở
của nền tảng ấy là tư tưởng giáo lý nhà Phật đã hoà tan với giá trị truyền thống của con
người Việt Nam. Lên đến cấp III và vào Đại học, những thanh thiếu niên có những hoạt
động thiết thực hơn. Việc giúp đỡ người khác không phải hạn chế ở việc xin bố mẹ tiền
để đóng góp mà có thể bằng chính kiến thức, sức lực của mình. Sự đồng cảm với những
con người gặp khó khăn, những số phận bất hạnh cô đơn, cộng với truyền thống từ bi,
bác ái đã giúp chúng ta, những học sinh, sinh viên còn ngồi trên ghế nhà trường có đủ
nghị lực và tâm huyết để lập ra những kế hoạch, tham gia vào những hoạt động thiết thực
như hội chữ thập đỏ, hội tình thương, các chương trình phổ cập văn hoá cho trẻ em
nghèo, chăm nom các bà mẹ Việt Nam nghèo ... Hình ảnh hàng đoàn thanh niên, sinh
viên hàng ngày vẫn lăn lội trên mọi nẻo đường tổ quốc góp phần xây dựng đất nước, tổ
quốc ngày càng giàu mạnh thật đáng xúc động và tự hào. Tất cả những điều đó chứng tỏ
thanh niên, sinh viên ngày nay không chỉ năng động, sáng tạo đầy tham vọng trong cuộc
sống mà còn thừa hưởng những giá trị đạo đức tốt đẹp của ông cha, đó là sự thương yêu,
đùm bọc lẫn nhau giữa mọi người, lòng thương yêu giúp đỡ mọi người qua cơn hoạn nạn
mà không chút nghĩ suy, tính toán. Và ta không thể phủ nhận Phật giáo đã góp phần tạo
35

nên những giá trị tốt đẹp ấy. Và ta càng phải nhắc đến giá trị đó trong khi cuộc sống ngày
nay ngày càng xuất hiện những hiện tượng tiêu cực. Trong khi có những sinh viên còn
khó khăn đã dồn hết sức mình để học tập cống hiến cho đất nước thì vẫn còn một số bộ
phận thanh niên ăn chơi, đua đòi, làm tiêu tốn tiền bạc của cha mẹ và đất nước. Tối đến,
người ta bắt gặp ở các quán Bar, sàn nhảy những cô chiêu, cậu ấm đang đốt tiền của bố
mẹ vào những thú vui vô bổ. Rồi những học sinh, sinh viên lầm đường lỡ bước vào ma
tuý, khiến cho bao gia đình tan nát, biết bao ông bố bà mẹ cay đắng nhìn những đứa con
của mình bị chịu hình phạt trước pháp luật. Thế hệ trẻ ngày nay nhiều người chỉ biết
chạy theo vật chất, bị cuốn hút bởi những thứ ăn chơi sau đoạ làm hại đến gia đình và
cộng đồng. Hơn bao giờ hết việc giáo dục nhân cách cho thế hệ trẻ trở nên rất quan trọng
và một trong những phương pháp hữu ích là nêu cao truyền bá tinh thần cũng như tư
tưởng nhà Phật trong thế hệ trẻ. Đó thực sự là công việc cần thiết cần làm ngay.
2.1. Ảnh hưởng của nho giáo đến đời sống tinh thần của người Việt Nam.
- Nho giáo thống lĩnh tư tưởng văn hóa Việt Nam từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 19, suốt
hai triều đại Lê Nguyễn. Nho giáo Việt Nam về cơ bản là sự tiếp thu Nho giáo Trung
Quốc, nhưng không còn giữ nguyên trạng thái nguyên sơ của nó nữa mà có những biến
đổi nhất định. Quá trình du nhập và tiến tới xác lập vị trí Nho giáo trong đời sống xã hội
Việt Nam cũng là quá trình tiếp biến văn hóa hết sức sáng tạo của người Việt Nam trong
suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước, góp phần tạo nên tính đa dạng, nhưng
thống nhất và độc đáo của văn hóa Việt Nam.
- Trong thời kỳ phát triển xã hội cổ đại Việt Nam, Nho giáo với hệ thống tư tưởng
chính trị của mình đã tích cực góp phần xây dựng các nhà nước phong kiến trung ương,
tập quyền vững mạnh, góp phần xây dựng một hệ thống quản lý thống trị xã hội chặt
chẽ, nâng cao sức mạnh quân sự và kinh tế quốc gia.
- Nho giáo rất coi trọng trí thức, coi trọng học hành. Khổng Tử là người “học nhi bất
yếm, hối nhân bất nguyện”. Hàng nghìn năm qua, nhà nước Việt Nam đều lấy Nho học.
Nho giáo làm nền tảng lý luận để tổ chức nhà nước, pháp luật và đặc biệt là giáo dục.
Nội dung giáo dục của Nho giáo là dạy đức và dạy tài vẫn còn có ý nghĩa. Nho giáo coi
trọng đức là coi trọng cách làm người, coi trọng con người là yếu tố quyết định. Giáo
dục Nho giáo góp phần nâng cao văn hóa con người đặc biệt về văn hóa, sử học, triết
học. Với phương châm “học nhi ưu tắc sĩ”, học để có thể tìm ra một nghề nghiệp mới
và nâng cao vị trí xã hội của bản thân là động lực hiếu học trong nhân dân. Hiếu học là
đặc điểm của Nho giáo. Hiếu học đã trở thành truyền thống văn hóa Á Đông trong đó có
Việt (Tiểu luận: Ảnh hưởng của nho giáo đối với đời sống tinh thần).
- Nho giáo hướng quản đạo quần chúng nhân dân vào việc học hành, tu dưỡng đạo
đức theo Ngũ Thường “Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín” làm cho xã hội ngày càng phát triển
35

văn minh hơn.


- Nho giáo góp phần xây dựng mối quan hệ xã hội rộng rãi hơn, bền chặt hơn, có
tôn tri trật tư… vượt quá phạm vi cục bộ là các làng xã, thô, ấp hướng tới tầm mức quốc
gia, ngoài ra nó góp phần xây dựng mối quan hệ gia đình bền chặt hơn, có tôn ty hơn…
nhờ tuân theo Ngũ Luân “Vua-tôi, cha-con, chồng-vợ, anh-em, bạn-bè”.
- Nho giáo vốn đặt mối quan hệ vua tôi ở vị trí cao nhất trong năm quan hệ giữa
người với người. Các Nho sĩ Việt Nam cũng nhấn mạnh mối quan hệ này, xây dựng tinh
thần trung quân, ái quốc nhưng không mù quáng trung quân mà vẫn đặt ái quốc lên hàng
đầu. Họ đòi hỏi nhà vua trước hết phải trung thành với tổ quốc và trung hậu với nhân
dân.
Nhân nghĩa trong Khổng giáo là tình cảm sâu sắc, nghĩa vụ thiêng liêng của
bề tôi đối với nhà vua, của con đối với cha, của vợ đối với chồng, nhưng đối với
Nguyễn Trãi và các trí thức Việt Nam thì điều cốt yếu của nhân nghĩa là phải đem lại
cho nhân dân cuộc sống thanh bình, và đội quân chính nghĩa phải nhằm tiêu diệt những
quân tàn bạo.
Tuy nhiên trong thời kỳ này, sự đóng góp của Nho giáo vào đời sống tinh thần của
người Việt Nam vẫn có nhiều mặt không tích cực như: Không như Nho giáo Trung Hoa,
tuy không coi trọng thương nghiệp nhưng cũng không phản đối. Nho giáo Việt Nam quá
coi trọng nông nghiệp mà bài xích thương nghiệp, quá chú trọng đến tự sản, tự tiêu mà
quên đi sự trao đổi mua bán, kềm hãm tính năng động, sáng tạo dẫn đến quan liêu, bảo
thủ trong cả kinh tế lẫn chính trị. Trong những giai đoạn đầu của chế độ phong kiến, nó
tạo sự ổn định, phát triển nhưng sau đó chính nó lại tạo ra sức ỳ quá lớn khiến đất nước
không thể phát triển.
- Nho giáo quá bảo thủ không tiếp thu những cái mới ưu việt hơn dẫn đến bị cái
mới ưu việt hơn tiêu diệt.
- Nho giáo đưa con người quá hướng nội, chuyên chú suy xét trong tâm mà không
hướng dẫn con người hướng ra bên ngoài, thực hành những điều tìm được, chinh phục
thiên nhiên, vạn vật xung quanh. Điều này làm cho nền văn minh, khoa học tư nhiên,
kỷ thuật sau một thời gian phát triển đã bị chựng lại so với nền văn minh phương Tây
vốn xuất hiện sau.
Đến thời kỳ cách mạng dân tộc: Nho giáo được Việt Nam hóa, trí thức Nho giáo
đã có những đóng góp đáng kể vào việc củng cố những truyền thống tốt đẹp của dân tộc,
nâng nó lên thành những tư tưởng ổn định thúc đẩy sự phát triển của đất nước, tạo nên
một sức mạnh to lớn để suốt một ngàn năm giữ vững độc lập và chiến thắng mọi kẻ xâm
lược.
Bước sang thế kỷ thứ 19, Việt Nam và các nước phương Đông phải đối đầu với sự xâm
35

lược của chủ nghĩa đế quốc có trình độ kỷ thuật, tiềm năng kinh tế, tổ chức quân đội
và chất lượng vũ khí. Nho giáo lúc bấy giờ tỏ ra bất lực cả về tư tưởng và hành động. Bác
Hồ khi kế thừa các tư tưởng triết học Nho giáo đã tinh lọc, loại bỏ những tư tưởng không
phù hợp với thời đại và hoàn cảnh của Việt nam lúc bấy giờ.
Trên con đường cách mạng của dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh đã sáng suốt không
thể không gạt đi cái cốt lõi lạc hậu của Nho giáo và giữ gìn, phát huy những nhân tố hợp
lý của nó nhằm phục vụ cho sự nghiệp cách mạng.
- Nhà Nho tôn thờ nhất chính là cái mà cách mạng lên án và đánh đổ. Hồ Chí Minh
không thể chấp nhận cái chữ Trung của Nho giáo, không thể chấp nhận lòng trung thành
tuyệt đối của nhân dân bị áp bức đối với chính kẻ áp bức mình. Chữ Trung ở Nho giáo
là trung thành tuyệt đối với nhà vua và chế độ phong kiến, còn ở Hồ Chí Minh, Trung
là trung thành với sự nghiệp cách mạng của nhân dân, lên án chế độ phong kiến và lật
đổ nhà nước phong kiến.
- Nho giáo vốn coi nhân dân là những người nghèo hèn cần được bề trên chăn dắt
và ai khiến, Hồ Chí Minh đòi hỏi người cán bộ phải là “đày tớ của dân”, phải học hỏi
nhân dân, và yêu quý nhân dân. Với tinh thần ấy, cách mạng đã xây dựng được khối đại
đoàn kết toàn dân, biến nhân dân thành sức mạnh vô địch để giành độc lập và xây dựng
tổ quốc.
- Nho giáo đã nuôi dưỡng hàng ngàn năm tinh thần “trọng nam khinh nữ”, từ chổ
khinh rẽ phụ nữ đến chổ áp bức họ, trói buộc họ trong bếp núc gia đình. Cách mạng
Việt Nam đã sớm xóa bỏ những tử tưởng lạc hậu ấy để cho phụ nữ cùng bình đẳng với
nam giới trên mọi lĩnh vực chiến đấu, sản xuất và quản lý đất đai.
- Nho giáo luôn quay về với quá khứ, đời này không bằng đời xưa, người ít tuổi
không bằng người nhiều tuổi. Cách mạng luôn nhìn về phía trước, đặt niềm tin vào thanh
niên và tiền đồ dân tộc.
- Đảo ngược lại học thuyết của Nho giáo, nhằm mục tiêu trái hẳn với mục tiêu của Nho
giáo, Hồ Chí Minh không xóa bỏ toàn bộ nội dung của Nho giáo mà giữ lại những nhân
tố hợp lý vốn phục vụ cho chế độ cũ thành những công cụ chống lại chế độ cũ và xây
dựng chế độ mới. Với tinh thần nói trên mà trong quá trình lãnh đạo Cách mạng tháng
tám, Hồ Chí Minh đã sử dụng rất nhiều câu chữ của Nho giáo, nhiều kinh nghiệm giáo
dục và tu dưỡng của Nho giáo, nhiều biện pháp động viên tinh thần và ý chí của Nho
giáo để cổ vũ nhân dân đứng lên chiến đấu giành lại độc lập tự do với một khí phách
kiên cường, tinh thần mưu trí và sáng tạo.
Ngày nay, Sau hai cuộc kháng chiến Nhân dân Việt Nam giành lại được độc lập và
thống nhất, đất nước ta đang phát triển theo định hướng XHCN, trên con đường tiến tới
một tương lai tốt đẹp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Chúng ta lại
35

thường xuyên đụng đến nho giáo, nó vẫn bám sát chúng ta, tiếp tục đem đến cho chúng
ta nhiều bài học cả chính diện và phản diện. Nho giáo nhiều lúc nêu lại điều hay y tốt
như tạo thêm năng lượng cho cổ xe cách mạng tiến lên, nhưng cũng có trường hợp nho
giáo trở nên thọc gậy bánh xe.
Hiện nay Việt Nam đang bước vào cơ chế thị trường xuất hiện nhiều xáo trộn trong
quan hệ xã hội, sinh hoạt gia đình và phẩm chất cá nhân. Thực tế cho thấy mâu thuẫn
không thể điều hòa được giữa phát triển vật chất và suy thoái tinh thần, giữa kinh tế và
đạo đức văn hóa xã hội. Để chống lại, khôi phục lại truyền thống văn hóa tốt đẹp xưa
nay của nhân dân ta, Đảng ta chủ trương giáo dục con người, chiến lược con ngưới, phát
huy sáng tạo, độc lập tư chủ, chủ trương giáo dục “Tiên học lễ, hậu học văn” là những
điều cốt yếu của nền giáo dục. Về kinh tế chủ trương làm giàu chính đáng, cạnh tranh
lành mạnh, hợp đạo để động viên khuyến khích nhân dân ta trong công cuộc xây dựng
đất nước, dần hình thành đạo đức trong kinh doanh.
Cho đến nay, Nho giáo vẫn còn ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống gia đình, các
phẩm chất, đạo đức của người phụ nữ, vẫn còn những quan điểm coi thường phụ nữ, lấy
tiêu chuẩn tứ đức làm đầu “ công, dung, ngôn, hạnh”. Người phụ nữ trở nên bị phong
tỏa, dồn nén trong vòng tứ đức không phát huy được hết năng lực của mình.
Truyền thống quan hệ cha con và anh em đến nay trong gia đình Việt Nam vẫn giữ được
tư tưởng của nho giáo, là nét đẹp trong quan hệ văn hóa xã hội Việt nam. Nho giáo đòi
hỏi sự gắn bó chặt chẽ giữa các thành viên trong một gia đình, trong một dòng họ, nó
kêu gọi sự yêu thương, đùm bọc lẫn nhau, khuyến khích nhau giữ gìn truyền thống của
gia đình và dòng họ. Những nghi thức ứng xử hàng ngày, những lời răn dạy của ông cha,
những gia huấn được lưu truyền đến các đời con cháu.
Nho giáo vẫn thể hiện rõ như việc lập bàn thờ tổ tiên ở mỗi gia đình. Việc thờ cúng
ông ba cha mẹ trong nhà gắn liền với việc thờ cúng tổ tiên trong họ, việc xây dựng nhà
thờ, sửa sang mồ mả, sưu tầm ghi chép gia phả, đều góp phần làm khăng khít hơn mối
quan hệ trong gia đình, gia tộc. Đã có nhiều biểu hiện tốt đẹp của tình người nảy sinh từ
đó. Sự giáo dục của Nho giáo lấy lễ nghĩa làm biện pháp đã đạt được tới mức độ sâu sắc
ở chổ nó thành tiêu chuẩn để đánh giá hành vi của con người. Nho giáo đã huy động
được dư luận toàn thể xã hội, biết quí trọng người có lễ và khinh ghét người vô lễ và
điều này đã đi vào sâu lương tâm của con người.
Bên cạnh đó đời sống tinh thần văn hóa dân gian không thể tách rời các thời kỳ cho
đến nay. Những nhà Nho nước ta, kể cả những bậc đại sỹ phu không bao giờ coi thường
văn hóa dân gian, vì họ thấy được trong văn hóa dân gian có những giá trị mà bất cứ ai
có tinh thần dân tộc đều không thể bỏ qua. Ví như ở Hội đền Hùng thường có các quan
đầu tỉnh thay mặt Nhà nước về làm chủ tế, có không ít các nho sĩ tham gia sinh hoạt văn
35

hóa dân gian làng xã. Ở nông thôn hiện nay, ngôi đình làng là noi thể hiện rõ nhất sự ảnh
hưởng của Nho giáo đối với đời sống tinh thần của người Việt Nam…
Ảnh hưởng của Nho giáo trong lịch sử phát triển dời sống tinh thần ở nưóc ta vẫn
tiếp tục và duy trì cho đến ngày nay…
2.2. Ảnh hưởng của Đạo giáo trong sinh hoạt tinh thần của người Việt.
Trong nghi lễ thờ cúng của người Việt, Đạo giáo được thể hiện khá rõ nét trong
các vương triều phong kiến xưa. Đặc biệt là thời kì chúa Nguyễn, Đạo giáo chính thống
được chia làm hai phái:
+ Đạo lục: đảm nhiệm việc cầu cúng, tế lễ trong các đạo quán. Ngoài ra, còn có
giới pháp sư hay đạo sĩ ở ngoài dân gian chăm lo nghi lễ cầu cúng của dân gian.
+ Pháp lục: chăm lo, săn sóc, chữa trị cho bầy voi ngựa hay voi chiến của chúa.
Cho đến nay, vào ngày mùng chín tháng giêng hay rằm tháng riêng hàng năm, các
gia đình người Việt thường cử hành lễ “dâng sao giải hạn” (đặc biệt là những người gặp
phải sao Kế Đô, La Hầu, Thái Bạch... chiếu mệnh). Lễ cúng này ngày xưa diễn ra dưới
sự chủ trì của pháp sư.
Mọi người phải cầu cạnh đến pháp sư khi cha mẹ hay con cháu, ốm đau, bệnh tật,
rủi ro... Những tai nạn bất ngờ, hay chiến tranh, tai họa làm mất xác cũng phải cầu cúng,
làm lễ chiều hồn nhập cốt để an táng… Những hồn ma linh thiêng, những thai non bị sa
sẩy bất ngờ, không được chôn cất thờ cúng cũng phải cầu cúng, trả lễ.
Sự hòa nhập của Đạo giáo vào đời sống tinh thần của người Việt còn thể hiện ở
quan niệm về thần linh.
Các vị đạo sĩ Trung Quốc không ngừng quảng bá những vị thần linh mà họ tôn
thờ như là: Ngọc Hoàng Thượng Đế, Thái Thượng Lão Quân, Huyền Vũ (Huyền Thiên
Thượng Đế)... Danh vị tuy có khác nhau nhưng tất cả những đấng thần linh này đều có
chung một nguồn gốc là được các đạo sĩ tôn thờ.
Quá trình truyền bá Đạo giáo vào nước ta là quá trình biến đổi không ngừng, biểu
hiện ở xu hướng không ngừng bổ sung và từng bước thay thế các nhân vật thần linh. Cụ
thể là các nhân vật trong “Tứ bất tử” của thần thoại Việt Nam: Tản Viên, Chử Đồng Tử,
Tiên Dung, Thánh Gióng. Hay những người có công với đất nước được người đời kính
nể, tôn sùng.
Có thể thấy, sự kết hợp giữa Đạo giáo – Trung Quốc cùng với tập tục và tín ngưỡng
truyền thống dân gian của người Việt đã tạo ra một thế giới thần linh phong phú, đa dạng
gắn liền với từng gia đình, các thế hệ, khắp các vùng miền... xuất hiện ở hầu hết các giai
đoạn lịch sử dân tộc Việt Nam.
Trong đời sống hàng ngày của người Việt Nam, theo truyền thống bất cứ người
nào cũng có hai đấng thần linh theo dõi liên tục, suốt cuộc đời. Và con người, trong cuộc
35

sống thường nhật của mình, khi gặp một hiện tượng khó xử nào mà cần đến đấng thần
linh chứng giám người dân thường có câu “quỷ thần hai vai” để minh chứng cho lời nói
và hàng động của mình. Hai đấng thần linh đó chính là ông Thiện và ông Ác. Hai ông
này thường sống ở hai vai chúng ta. Ông Thiện sẽ là người ghi chép và xác thực mọi
việc làm tốt đẹp của con người. Ông Ác sẽ ghi một cách chính xác và xác thực những
điều xấu của con người. Những điều tốt và điều ác của con người gây ra dù không chứng
kiến nhưng “quỷ thần hai vai” đều biết hết và sẽ có cách trừng phạt những người làm
điều xấu, khuyến khích những người làm điều thiện theo lẽ công bằng của tòa án. Nếu
gạt bỏ lớp mê tín dị đoan, chúng ta sẽ thấy rõ những giá trị giáo dục đạo lý ẩn chứa bên
trong nó. Ông Thiện chính là nguồn cổ vũ mạnh mẽ và thường xuyên đối với ý định làm
điều thiện của con người. Ông Ác chính là sự răn đe đối với cái xấu luôn túc trực xung
quanh con người. Ông Thiện và ông Ác sẽ báo cáo tất cả những điều tốt, xấu của con
người với quỷ quan khi con người đi qua thế giới bên kia.
Một trong những quan niệm phổ biến của người Việt trước đây, đó là ý niệm thiêng
liêng về việc thờ Nam Tào và Bắc Đẩu trong các chùa quán. Đồng thời, theo quan niệm
dịch học, người Việt cho rằng: Hình hài gò bãi, sông núi trên mặt cũng là do tác động
của các vì sao mà hình thành. Sao Thủy, sao Mộc, sao Hỏa, sao Kim, sao Thổ đã tác
động để hình thành những thế đất mang tính chất ngũ hành. Con người dựng dương cơ,
đặt âm phần trên những thế đất, mục đích là để con cháu đời sau làm ăn phát đạt, thăng
quan tiến chức.
Quan niệm này từ Đạo giáo, đã gây nên ý niệm thiêng liêng về xem đất của người
Việt xưa kia rất sâu sắc và vẫn tồn tại cho đến ngày nay. Tục xem đất ngày xưa đã hình
thành bộ phận các thầy địa lý chuyên xem đất cho mọi nhà. Việc xem địa lý không chỉ
xem hình hài mặt đất mà còn căn cứ vào dòng nước, hướng gió nên gọi là thuật phong
thủy.
Mục đích của thuật phong thủy là tìm ra một mảnh đất tốt, cụ thể là tìm cho đúng
“long mạch”. Long mạch chỗ cao có nhiều gò đống gọi là dương long (dương thăng),
chỗ bằng phẳng gọi là âm long (âm giáng). Qua nhiều gò nọ đống kia, dò đến đúng chỗ
nào thấy giao thủy hoặc tụ thủy thì chỗ ấy mới đúng là long mạch. Quan điểm này sau
được các vua chúa rất ưa chuộng, đặc biệt là ở triều Nguyễn. Theo quan điểm của các
vua chúa nhà Nguyễn, muốn muôn đời con cháu sau này thịnh vượng thì khi chết phải
chôn đúng chỗ long mạch, và ngay từ khi còn sống các vua chúa nhà Nguyễn đã nhờ các
thầy địa lý đi tìm đất tốt. Một mảnh đất được coi là long mạch, ngoài chỗ đó phải giao
thủy hay tụ thủy, thì tả phải có thanh long, hữu có bạch hổ, đầu kề non, chân đạp biển…
Đối với người dân bình thường, thuật phong thủy còn được thể hiện cả ở trong
việc chọn hướng nhà để xây cất, và hướng nhà đó hợp hay không hợp còn phụ thuộc vào
35

tuổi và cung của gia chủ. Hướng Tây là hướng tịch diệt, hướng Bắc là hướng hàn thực,
luôn luôn phải tiếp nhận những lạnh lẽo. Hướng Đông là hướng thanh long, là rồng,
thuộc dương, thanh là xanh thuộc hành mộc xanh tươi, hướng đến mọi sự sinh sôi phát
triển. Tốt nhất vẫn là hướng Nam thể hiện ở câu xưa: “Vợ hiền hòa nhà hướng nam”;
hướng Nam là hướng tọa khôn hướng càn dựa lưng vào hướng Bắc, bụng hướng về
hướng Nam; tay trái hướng về Đông; tay phải hướng về Tây.
Ngày xưa trong kinh dịch có câu “Thánh nhân nam diện trị ư thiên hạ”, phương
nam quẻ càn trời phương nam nóng ấm, mọi vật sinh sôi phát triển, xã hội đi lên. Ý nói
thánh nhân phải điều hành đất nước, chăm lo sức dân theo cách sinh sôi phát triển.
Theo quan niệm của người dân, mỗi vùng đất mà họ sinh sống đều có một vị thần
cai quản. Do vậy, trong dân gian mới có câu: “Đất có Thổ Công, sông có Hà Bá”. Thần
đất còn có những cái tên khác như: Thổ Địa, Thổ Lệnh, Thổ Thần hay Thổ Công. Tuy
nhiên, cần phân biệt giữa Thần Đất và Ông Địa. Thần Đất được thờ phổ biến ở nước ta.
Còn Ông Địa do từng chủ hộ, các chủ trong cùng một phòng trong cùng một hộ đứng ra
lập bàn thờ, Thần Đất là của chung trong một khu vực rộng, do chức sắc của vùng đứng
ra lập nơi đề thờ và chủ trì việc tế lễ. Quan niệm “đất có Thổ Công”, nên bất kỳ một hoạt
động nào có liên quan đến vùng đất họ sinh sống, nằm trong sự cai quản của Thổ Công
như đào kênh, đào mương máng, xây miếu, xây đình làng… đều phải làm lễ xin phép
Thần Đất. Người xưa cho rằng: “Có thờ có thiêng, có kiêng có lành”, thờ Thần Đất trở
thành thiêng liêng đối với cuộc sống của mỗi người dân. Điều đó thể hiện trong bài khấn
của mỗi gia đình, dù đó là ngày cúng tổ tiên, tuần rằm, mùng một đều có “lạy Thổ Công
Táo quan Thổ Thần Thổ Địa”.
Thần sông hay còn gọi là Hà Bá, Thủy Thần… làm nhiệm vụ cai quản sông ngòi,
kênh rạch và ao hồ. Có thần Sông nên bất cứ ai qua sông, đi trên sông nước đều phải rất
cẩn trọng giữ lễ, mọi điều thần linh đều biết dù là nơi vắng vẻ không ai hay biết. Cùng
với Thần Đất, Thần Sông còn có Thần Núi hay còn gọi là Sơn Thần cai quản một dãy
nũi, một ngọn núi hay một quả đồi. Hình dạng của thần rất đa dạng, lúc thì được mô tả
là người có hình dáng cao lớn, cũng có khi là một loại thú khỏe mạnh kì lạ hoặc tinh
khôn hơn cả. Cũng có khi, Thần được mô tả có phép thuật biến hóa khôn lường…
PHẦN III. KẾT LUẬN
Thế giới ngày nay đang trong quá trình vận động, biến đổi rất nhanh chóng về mọi
phương diện. Tôn giáo, với tư cách là một loại hình ý thức xã hội, một thực thể xã hội
cũng không nằm ngoài sự vận động, biến đổi chung đó. Trong quá trình vận động, phát
triển, mỗi quốc gia đang từng bước hoàn thiện hệ thống luật pháp liên quan đến tôn giáo
cho phù hợp với xu thế vận động chung.
Điểm đặc biệt cần nhấn mạnh ở đây là hệ thống luật pháp đó đều chú ý khuyến
35

khích sự đoàn kết, khoan dung giữa các tôn giáo, đồng thời có chính sách để phát huy
các giá trị tốt đẹp của tôn giáo (không chỉ là giá trị văn hóa, đạo đức) và vai trò của các
tôn giáo với tư cách là một nguồn lực để phát triển xã hội, hoặc nhìn nhận các tôn giáo
(chân chính) là nguồn sức mạnh mềm của quốc gia.
Thực tiễn đời sống tôn giáo ở nước ta cũng như trên thế giới và kết quả nghiên cứu
về vai trò của tôn giáo trong đời sống xã hội cho thấy, tôn giáo không chỉ có vai trò xây
dựng đối với xã hội thông qua các giá trị văn hoá, đạo đức của nó, mà tôn giáo còn có
thể đóng góp những giá trị tốt đẹp khác đối với ổn định xã hội, đoàn kết dân tộc và phát
triển bền vững.
Tôn giáo cũng là một kênh quan trọng để thúc đẩy mở rộng đối ngoại nhân dân;
tham gia giải quyết các vấn đề có tính chất toàn cầu như: Bảo vệ môi trường, bảo vệ chủ
quyền quốc gia, chống chiến tranh, bá quyền, bạo lực, nghèo đói... Tôn giáo cũng là một
kênh quan trọng để chúng ta tăng cường đoàn kết, tập hợp đồng bào ta đang sinh sống,
làm ăn ở nước ngoài. Tôn giáo của người Việt Nam cũng là một kênh quan trọng để giới
thiệu, quảng bá hình ảnh, văn hoá tốt đẹp của Việt Nam ra nước ngoài.
1. Đạo đức tôn giáo và đạo đức xã hội có nhiều tương đồng và cùng hướng đích
vào việc hoàn thiện nhân cách con người, tạo ra những giá trị tốt đẹp cho xã hội. Từ khi
hình thành phát triển cho đến nay, các truyền thống tôn giáo đã biết vận dụng các giá trị
luân lý, đạo đức của mình để mang lại những đóng góp cho xã hội. Trong quá trình phát
triển, triết lý nhiều tôn giáo cũng đã dung hợp nhiều giá trị đạo đức thế tục để phát triển
các tín điều đạo đức của mình. Mặt khác các tổ chức xã hội dân sự, thế tục cũng
không ngừng tiếp thu, chắt lọc các giá trị đạo đức của tôn giáo để cung cấp thêm các
nền tảng đạo đức và các chuẩn mực xây dựng xã hội tốt đẹp. ở nhiều nơi, nhiều khu
vực có các tôn giáo chủ lưu, chi phối đời sống văn hóa xã hội, đạo đức tôn giáo được
xem như nền tảng đạo đức xã hội. ở những quốc gia thế tục, cho dù tôn giáo được tách
ra khỏi hệ thống chính trị nhưng các giá trị đạo đức, di sản, văn hóa của tôn giáo vẫn
được coi trọng và được vận dụng theo những cách khác nhau để giáo dục đạo đức
cũng như truyền thống văn hóa, di sản cho nhiều công dân của xã hội hiện đại. Điều
này cho thấy tôn giáo vẫn là một thực thể khách quan và hữu ích với con người ở
nhiều khía cạnh trong đó có việc giáo dục đạo đức cho con người. Ở Việt Nam với
sự đa dạng tôn giáo, cư dân và các thành phần dân tộc, nên không có một giá trị đạo
đức của riêng tôn giáo nào bao trùm và ảnh hưởng tới toàn xã hội. Tuy nhiên trong sự
đa dạng đó, người dân Việt Nam, đặc biệt là tín đồ các tôn giáo từ lâu đã biết phát
huy vận dụng các tín điều đạo đức của tôn giáo vào việc giáo dục đạo đức con người.
Các tôn giáo ở Việt Nam cũng đều đề cao các giá trị luân lý và đạo đức theo những
cách thức khác nhau và ảnh hưởng khác nhau tới tín đồ. Một số tôn giáo nội sinh còn
35

đặc biệt đề cao tới yếu tố tu học để làm người, có cách sống tử tế và hữu ích cho xã
hội. Trong bối cảnh đạo đức xã hội đang bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi các mặt trái
của sự hiện đại, làm suy thoái nhiều người thì các tổ chức tôn giáo ở Việt Nam đã và
đang tham gia tích cực vào việc giữ cho người tín đồ sống đời sống đạo đức thế tục
tốt. Điều này đã góp phần tạo ra những cộng đồng tôn giáo giàu tính luân lý, đạo đức,
đề cao sự yêu thương, chia sẻ và trách nhiệm trong xã hội.
2. Các biểu hiện của đời sống tôn giáo hiện nay cho thấy tôn giáo có tác động mạnh
mẽ tới đời sống cá nhân, gia đình và cộng đồng. Ở cấp độ cá nhân, các đạo đức tôn
giáo có ảnh hưởng trực tiếp tới nhiều ý thức và hành vi đạo đức của người tín đồ.
Các tín đồ căn cứ vào các tín điều đạo đức họ đã được học, giảng dạy từ các lớp giáo
lý, hay từ các bài giảng của chức sắc, từ kinh nghiệm truyền thống của cộng đồng để
mà soi chiếu vào các chuẩn mực hành vi cá nhân trong đời sống. Điều này đã tác động
khá nhiều tới những tín đồ về mục đích sống hướng thiện, không sa vào các cám dỗ
và tệ nạn, góp phần làm
36

cho đạo đức xã hội thêm những gương sáng, lành mạnh. Ở góc độ gia đình, các chuẩn
mực đạo đức tôn giáo đã đề cao ý thức trách nhiệm của các thành viên. Ngoài ra luôn
khuyên nhủ và răn dạy mỗi thành viên trong gia đình sống đúng vai trò, chức năng, nghĩa
vụ của mình trong các mối quan hệ như: cha-con, chồng-vơi, anh-em, với các giá trị nền
tảng của đạo đức gia đình luôn được các tôn giáo đề cao trong tín lý như: bổn phận nghĩa
vụ với cha mẹ, con cái, chung thủy vợ chồng, anh em yêu thương nhau, cùng hòa thuận…
Nhiều giá trị đạo đức tôn giáo đã giúp cho đạo đức gia đình được duy trì, qua đó gia đình
phát triển ổn định, bền vững, ít rạn nứt, đổ vỡ, trẻ con được học hành, dạy dỗ với đủ tình
yêu thương của cha lẫn mẹ. Ở góc độ cộng đồng, tôn giáo đã tạo ra những giá trị và
những quy tắc giúp cho tập thể làm theo hoặc để răn dạy, nhằm xa lánh các điều xấu.
Các giá trị đạo đức tôn giáo cũng làm cho các cá nhân trong một cộng đồng tương tác
thường xuyên với nhau, chia sẻ các giá trị và cùng nhau thực hành theo những khuôn
mẫu đạo đức do tôn giáo cung cấp. Khi tác động của đạo đức tôn giáo tới đạo đức cộng
đồng, làm cho nhiều giá trị tốt đẹp của tôn giáo được lan tỏa, ảnh hưởng ra phạm vi xã
hội, nhất là qua các phong trào y tế, giáo dục, từ thiện nhân đạo. Tuy nhiên cũng phải
cần nhìn nhận một thực tế ngày nay là bản thân các tôn giáo đang phải đối mặt với các
nguy cơ phi truyền thống từ bên ngoài xâm nhập vào. Đó là các giá trị thế tục, các mặt
trái của hiện đại, sự lên ngôi của công nghệ, sự xâm nhập của các tiêu chí phi tôn giáo
vào trong cộng đồng tôn giáo… Trên thực tế nhiều tín điều đạo đức của tôn giáo đã
không còn là “khuôn vàng thước ngọc” với chính tín đồ của họ. Không ít tín đồ cũng
nhạt dần các giá trị tôn giáo và phạm vào các rới răn do chính tôn giáo mình quy đinh.
Điều này cũng đặt ra cho cả đạo đức tôn giáo và đạo đức xã hội những suy nghĩ để duy
trì, bảo vệ các bản sắc của mình, đồng thời phải cải tiến các cách thức và nội dung giáo
dục đạo đức tôn giáo một cách thực tế và hiệu quả hơn.
3. Từ khi hình thành đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn nhất quán đường lối
tôn trọng tự do tôn giáo, tín ngưỡng của nhân dân. Đây là một nền tảng vô cùng quan
trọng để các tổ chức tôn giáo có thể phát huy tốt vai trò của mình với cộng đồng và xã
hội. Mặt khác Đảng cũng đã thừa nhận các giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của tôn giáo
37

và cần thiết phải phát huy. Đặc biệt từ 2018 đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII Đảng đã khẳng định tôn giáo còn là một nguồn lực xã hội, cần thiết cho công
cuộc xây dựng xã hội, phát triển đất nước. Những chuyển biến này càng khẳng định
vai trò lãnh đạo của Đảng với công tác quản lý tôn giáo nhưng đồng thời cũng mở ra
cơ hội để các tổ chức tôn giáo ở Việt Nam tham gia tích cực vào xây dựng xã hội trong
đó có kiến tạo đạo đức và hệ giá trị. Trong quá trình vận động, phát huy các giá trị đạo
đức tôn giáo từ phía chính sách của các cơ quan Nhà nước và các tổ chức tôn giáo
cũng cho thấy, tôn giáo có nguồn lực đạo đức và văn hóa to lớn trong công cuộc xây
dựng và phát triển đất nước. Do đó việc khai thác, phát huy vốn văn hóa, vốn đạo đức
của các tôn giáo vào xây dựng văn hóa, đạo đức ở Việt Nam cần tiếp tục được đẩy mạnh
hơn nữa. Trong thời gian tới cần tiếp tục duy trì các phong trào, các mô hình điển hình
để huy động các tổ chức, cá nhân và cộng đồng tôn giáo tham gia vào xây dựng đời
sống văn hóa, đạo đức xã hội. Việc vận động tôn giáo tham gia vào các cuộc vận động,
phong trào cần được thúc đẩy, đi sâu đi sát và cần tăng cường nguồn kinh phí cho các
hoạt động này. Bên cạnh đó, các cơ quan, ban ngành cần có các đề án thúc đẩy nghiên
cứu biên soạn và phát hành hệ thống các tài liệu, đầu sách về các quan điểm của Đảng,
chính sách pháp luật của Nhà nước về phát huy giá trị đạo đức tôn giáo và nội dung
các giá trị cơ bản về đạo đức của các tôn giáo để phổ biến một cách rộng rãi đến các
tầng lớp nhân dân cũng như cán bộ các cấp ở địa phương. Điều này sẽ góp phần xóa
bỏ định kiến xã hội vẫn tồn tại trong một bộ phận cán bộ và tầng lớp nhân dân về tôn
giáo nói chung và đạo đức tôn giáo nói riêng. Về phía các tổ chức tôn giáo cùng cần
tiếp tục nâng cao trình độ cả về mặt đạo và đời, tiến tới sự chuyên nghiệp hóa trong
các công tác xã hội để đưa các giá trị đạo đức của tôn giáo mình vào xây dựng và phát
triển đất nước. Xuyên suốt trong các quy định pháp luật của Nhà nước đều khẳng định
tôn trọng tự do tín ngưỡng, tôn giáo, thực hiện bình đẳng tôn giáo. Đồng thời Nhà
nước đã ban hành nhiều quy định pháp luật để các tổ chức, cá nhân tôn giáo tham gia
vào các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Các chủ trương xã hội hóa y tế, giáo
dục, xây dựng đời sống văn hóa, và các hoạt động từ thiện, nhân đạo đã mở rộng con
đường nhập thế, đưa các giá trị đạo đức vào đời sống xã
38

hội của các tôn giáo ở Việt Nam. Tới Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 đã quy
định rõ ràng là tôn trọng và bảo vệ các giá trị đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo cho thấy
bước tiến về quy định pháp luật đối với lĩnh vực đạo đức tôn giáo. Tuy nhiên, để có
quan điểm và đường lối chính sách, pháp luật cụ thể hơn đối với việc phát huy các giá
trị đạo đức tốt giáo cần phải có các văn bản chỉ đạo từ phía Đảng, các hướng dẫn về
mặt chính sách, pháp luật của Nhà nước một cách cụ thể hơn nữa. Việc các tôn giáo
tham gia vào lĩnh vực từ thiện, nhân đạo, xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư,
tham gia vào công tác giáo dục, y tế… cần có các thông tư hướng dẫn đầy đủ và hệ
thống hơn.
4. Để phát huy hơn nữa đóng góp đạo đức tôn giáo cho đạo đức xã hội, cần phải
có sự phối hợp và thống nhất các chủ trương từ: chính sách của Đảng đến pháp luật của
Nhà nước, sự nỗ lực của tổ chức tôn giáo cũng như nhận thức của mỗi cá nhân và cộng
đồng xã hội. Về chính sách, cần tạo ra những nền tảng pháp lý tốt hơn nữa để các tổ
chức tôn giáo có thể tham gia vào nhiều lĩnh vực xã hội từ đó lan tỏa và thể hiện các
giá trị đạo đức tôn giáo vào trong xã hội. Tất nhiên cần phải thực hiện trên khuôn khổ
luật pháp. Các cá nhân, cộng đồng cũng cần nâng cao hơn hiểu biết về các tôn giáo
trong đó có các giá trị đạo đức, để từ đó có thể kết nối chia sẻ các giá trị với nhau. Bản
thân các tổ chức tôn giáo cũng không ngừng thích ứng hội nhập với hoàn cảnh mới,
trên nền tảng tín điều của mình, đặc biệt phải giữ được các tín đồ, chức sắc của mình
trở thành những tấm gương tiêu biểu của việc sống “tốt đời, đẹp đạo” để từ đó có thể
lan tỏa giá trị tới tín đồ và cộng đồng. Mọi sự suy thoái đạo đức tu hành đều có thể
phản tác dụng và làm xấu đi hình ảnh của tôn giáo trong công chúng và dư luận, khi
đó rất khó nói tới những gì tốt đẹp của tôn giáo.
39

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. Ngô Thị Lan Anh (2008), “Ảnh hưởng Tâm trong Phật giáo đối với tinh thần của
người Việt Nam hiện nay”,Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 5.
2. Đỗ Thị Ngọc Anh (2015), “Giá trị văn hóa, đạo đức của hôn nhân và gia đình
Công giáo ở Việt Nam hiện nay”, Nghiên cứu Tôn giáo, số 10 (148).
3. Lê Văn Chưởng (2005), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Trẻ.
4. Nguyễn Hùng Hậu (2002), Đại cương triết học Phật giáo Việt Nam, tập 1,
NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
5. Hội đồng quốc gia chỉ đạo biên soạn Từ điển Bách khoa Việt Nam (2003), Từ
điển Bách khoa Việt Nam, tập 3, NXB Văn hoá dân tộc, Hà Nội, tr.325-326.
6. Nguyễn Thị Thuý Hằng (2014), Một số đặc trưng của nhân sinh quan Phật giáo
Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, tập 128, số 2, tr.25-34.
7. Minh Chi (1990), “Hồ Chủ Tịch với đạo đức tôn giáo”, Nghiên cứu văn hóa nghệ
thuật, số 02 (91).
8. Hồ Ngọc Chương (2011), “Sự tác động hỗ tương giữa các yếu tố đạo đức của
Phật giáo và yếu tố tín ngưỡng dân tộc”, Công tác tôn giáo, số 08.
9. Nguyễn Thế Cường, Nguyễn Thị Ngọc Lan (2008), “Vai trò của Phật giáo đối
với sự ổn định và phát triển xã hội”, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 12.
10. Trương Hải Cường (2012), Một số vấn đề về tín ngưỡng tôn giáo ở Việt Nam
hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia.
11. Lê Anh Dũng (2003), “Tôn giáo và đạo đức học môi trường”, Tạp chí Nghiên
cứu Tôn giáo, số 4.
12. Nguyễn Hồng Dương (2004), Tôn giáo trong mối quan hệ văn hóa và phát triển
ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội.
13. Lê Tuấn Đạt (2008), “Một số vấn đề về tôn giáo và nhu cầu tôn giáo hiện nay”,
Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 2.

You might also like