You are on page 1of 24

ĐỀ CƯƠNG TRIẾT HỌC

(PHẦN VẬN DỤNG)

Mục lục

1. Phật Giáo……………………………………………………………………………………..2
2. Nho giáo……………………………………………………………………………………...3
​ ………………………………../
3. Đặc điểm của triết học cổ đại Ấn Độ, Trung Quốc (ko có)…
4. Hai nguyên lý triết học Mác………………………………………………………………….3
5. Ba quy luật triết học Mác…………………………………………………………………….6
6. Lý luận hình thái kinh tế - xã hội…………………………………………………………….8
7. Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và Quan hệ sản xuất…………………………………11
8. Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng……………………………………………………..15
9. Tồn tại xã hội và Ý thức xã hội……………………………………………………………...19
10. Vai trò của thế giới quan, phương pháp luận triết học (tham khảo tiểu luận nhóm 6)………/
11. Vai trò của khoa học công nghệ…………………………………………………………….21

1
CHỦ ĐỀ 1: PHẬT GIÁO
(Liên hệ: Nhận định của Phó thủ tướng Vương Đình Huệ và Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam Trần Thanh Mẫn về vai trò của Phật Giáo)

1. Điểm lại lịch sử Việt Nam​, từ các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần đã khẳng định tinh thần gắn liền
đạo pháp với dân tộc của Phật giáo Việt Nam. Có thể kể đến các Thiền sư Không Lộ, Vạn Hạnh…
đã hết lòng phò Vua giúp nước, xây dựng xã tắc vững bền. Hay như Phật Hoàng Trần Nhân Tông,
người từng hai lần khoác chiến bào cùng toàn dân kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên
Mông. Trong 2 cuộc kháng chiến của dân tộc, không ít tu sĩ Phật giáo đã trở thành những chiến sĩ
cách mạng, lên đường đánh giặc cứu nước, góp phần vào sự nghiệp đấu tranh giành độc lập, thống
nhất đất nước.

Điểm lại những đóng góp tiêu biểu của Phật giáo Việt Nam, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VIII Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ khẳng định: "Trong
gần 2 ngàn năm gắn bó và đồng hành cùng dân tộc, Phật giáo Việt Nam đã góp phần to lớn vào sự
nghiệp dựng nước, giữ nước. Từ xa xưa, giáo lý Phật giáo đã thấm nhuần trong đời sống của đông
đảo người Việt Nam. Giá trị tốt đẹp của Phật giáo đã góp phần hun đúc nên những giá trị tốt đẹp
của con người Việt Nam. Lịch sử Việt Nam đã ghi nhận thời nào Phật giáo cũng có những đóng
góp xứng đáng cho việc bảo vệ và xây dựng đất nước, gắn bó với dân tộc để "Hộ quốc an dân".

2. Khi đất nước hòa bình​, Phật giáo Việt Nam tiếp tục có những đóng góp quan trọng vào công
cuộc bảo vệ và xây dựng Tổ quốc với phương châm "Đạo pháp - Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội",
đồng hành cùng nhân dân cả nước tiến hành công cuộc đổi mới trong tinh thần hòa hợp, đoàn kết.
Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Trần Thanh Mẫn nhấn mạnh:
"Hoạt động an sinh xã hội của Giáo hội tiếp tục được phát triển và mở rộng, góp phần cùng Đảng,
Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam chăm lo cho người nghèo, người có công với nước, trẻ mồ
côi... Giáo hội quan tâm triển khai nhiều hoạt động ích nước, lợi dân nhằm khẳng định và bảo vệ
chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ. Đồng thời, chủ động tham gia đấu tranh với những âm
mưu chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc của các thế lực thù địch. Qua đó khẳng định
vị thế và nâng cao uy tín của Giáo hội đối với đất nước và nhân dân; khẳng định chính sách tôn
trọng tự do tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng, Nhà nước."
3. Phật giáo Việt Nam hội nhập với hoạt động Phật giáo quốc tế. ​Trong xu thế phát triển, đổi mới
và hội nhập toàn cầu của đất nước, Giáo hội Phật giáo Việt Nam hoạt động với tinh thần hòa bình
và hữu nghị, đoàn kết với các giáo hội Phật giáo trên thế giới để hợp tác hoằng dương chính pháp
và góp phần xây dựng, củng cố nền hòa bình cho nhân loại.

Năm năm qua, Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã trở thành thành viên của các tổ chức Phật giáo lớn
trên thế giới, thành viên sáng lập Liên minh Phật giáo thế giới tại Ấn Độ, Hội Phật giáo thế giới
truyền bá chính pháp, Ủy ban quốc tế đại lễ VESAK Liên hợp quốc tại Thái Lan...

4. Nhân dịp năm mới 2020 và Tết cổ truyền Canh Tý, chiều 2/1, ​ông Trần Thanh Mẫn, Bí thư
Trung ương Đảng, Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã đến thăm,
chúc Tết Hòa thượng Thích Thiện Nhơn​, Chủ tịch Hội đồng Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt

2
Nam tại chùa Minh Đạo, Thành phố Hồ Chí Minh. Điều này thể hiện sự quan tâm đặc biệt mà
Đảng và Nhà nước dành cho Phật giáo ở Việt Nam.

CHỦ ĐỀ 2: NHO GIÁO


(Một số đề xuất trong việc kế thừa và phát triển giá trị của Nho giáo trong thời kỳ ngày nay)

(Mở đầu phần liên hệ) Trong ​luận án Tiến sĩ “Ảnh hưởng của tư tưởng trị quốc Nho giáo đối
với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay”, năm 2019, tác giả
Bùi Quốc Hưng đã chỉ ra rằng bên cạnh những ảnh hưởng tích cực của Nho giáo như giáo dục con
người sống có đạo đức, đề cao tinh thần tự giáo dục,.. thì tư tưởng Nho giáo cũng có những ảnh hưởng
tiêu cực như đầu óc gia trưởng, tâm lý “trọng quan”, truy cầu công danh,..Vì vậy, để có thể tối đa hóa sức
mạnh của Nho giáo trong việc xây dựng đất nước, chúng ta cần loại bỏ những tư tưởng lạc hậu đã thâm
căn cổ đế trong lối sống người Việt, đồng thời kế thừa, phát huy cũng như vận dụng một cách sáng tạo
Nho giáo phù hợp với thời đại ngày nay.
Ví dụ điển hình có thể kể đến như, Bác Hồ khi kế thừa các tư tưởng triết học Nho giáo đã tinh lọc,
loại bỏ những tư tưởng không phù hợp với thời đại và hoàn cảnh của Việt nam lúc bấy giờ. Chẳng hạn
Khổng Tử cho rằng: “Thứ dân bất nghị” tức là dân thường không có quyền bàn việc nước, còn Bác Hồ đề
cao dân chủ và đề cao Nhà nước “của dân, do dân và vì dân”, lấy “dân” là động lực của Cách mạng là
người làm chủ đất nước. Không chỉ vậy, nếu như Khổng Tử coi thường vị trí, vai trò của người phụ nữ
trong xã hội thì Bác Hồ chủ trương nam nữ bình quyền. Trong lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, Bác Hồ
đã viết: “Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ
là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc.”
Mặt khác, đối với những chuẩn mực đạo đức Nho giáo vẫn còn nguyên giá trị, ta cần không ngừng kế
thừa và phát huy trong quá trình xây dựng đất nước . Ví dụ như, con đường tu dưỡng đạo đức theo
Nhân – Nghĩa – Lễ – Trí – Tín của Nho giáo được Bác Hồ kế thừa và phát triển thành lời khuyên răn:
“Cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư, trung, hiếu, …”. Không chỉ vậy, khẩu hiệu “Tiên học lễ, hậu học
văn” trong Nho giáo vẫn được trân trọng và coi là kim chỉ nam cho giáo dục ngày nay. Đặc biệt, tư tưởng
“Trăm năm trồng người” và “Hữu giáo vô loại” (nghĩa là dạy học cho mọi người không phân biệt đẳng
cấp) của Khổng Tử đã được Đảng Cộng sản Việt nam vận dụng trong công cuộc xây dựng đất nước.

(Kết bài) Đối với Việt Nam dù ít, dù nhiều gần 2.000 năm chịu ảnh hưởng của Nho giáo, cho đến
ngày nay trong xã hội, trong cuộc sống và tinh thần của người Việt Nam vẫn còn mang dấu ấn Nho giáo
khá rõ nét. Vì vậy, cần phải nhận thức rõ về mặt tích cực, tiêu cực của Nho giáo để mà phê phán, để mà
chọn lọc kế thừa, hầu làm phong phú hơn đời sống văn hóa, tinh thần của người Việt Nam, đặc biệt là góp
phần thúc đẩy xã hội phát triển trong điều kiện mở rộng giao lưu, hội nhập quốc tế của đất nước ta hiện
nay

CHỦ ĐỀ 4: HAI NGUYÊN LÝ CỦA TRIẾT HỌC MÁC


1. Vận dụng của nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
a. Quan điểm toàn diện có thể được vận dụng trong cuộc sống
Khi đưa ra​ đánh giá về một cá nhân hay sự việc, ta cần xem xét đánh giá một cách toàn diện,
nhiều mặt để hiểu được bản chất sự việc chứ không nên chỉ dựa vào bề nổi của vấn đề mà vội
vàng đưa ra kết luận. Ví dụ như, khi mới làm quen kết bạn với ai đó, ta không nên chỉ dựa vào vẻ
ngoài mà đánh giá nhân cách con người họ. Một người có gương mặt ưa nhìn chưa chắc luôn luôn
là người bạn tốt, cũng giống như một người có ngoại hình không được chỉnh chu cho lắm không
3
có nghĩa người đó là người xấu. Trái lại, khi đánh giá một người, ta cần có thời gian tiếp xúc lâu
dài với họ, nhìn nhận họ trong nhiều hoàn cảnh khác nhau thì mới có một quan điểm thực sự toàn
diện.

Khi xem xét nguyên nhân của một vấn đề nào đó để giải quyết, chúng ta cần xem xét chúng trong
các mối liên hệ để xem nguyên nhân từ đâu để có cách giải quyết, xử lý tốt . Khi ta học kém đi ,
điểm số giảm cần tìm nguyên nhân do đâu khiến ta như vậy. Do lười học, không hiểu bài, không
làm bài tập hay không có thời gian học. Nếu tìm được nguyên nhân cụ thể, chủ yếu , thì sẽ tìm
được cách giải quyết đúng đắn.

Mặt khác, trong quan hệ giữa con người với con người, chúng ta phải biết ứng xử sao cho phù hợp
với từng con người. Đối với những người bề trên như ông ,bà ,bố ,mẹ, thầy cô… thì chúng ta cần
có thái độ cư xử lễ phép, tôn trọng họ. Đó chính là cách ta áp dụng mối liên hệ phổ biến để đối
nhân xử thế sao cho phù hợp.
b. Vận dụng trong công cuộc đổi mới nước Việt Nam

2. Vận dụng của nguyên lí về sự phát triển

4
a. Khi xem xét các sự vật, hiện tượng, ta phải đặt nó trong sự vận động và phát triển.

– Ta cần phải nắm được sự vật không chỉ như là cái nó đang có, đang hiện hữu trước mắt, mà còn phải
nắm được khuynh hướng phát triển tương lai, khả năng chuyển hóa của nó. Bằng tư duy khoa học, ta phải
làm sáng tỏ được xu hướng chủ đạo của tất cả những biến đổi khác nhau đó. => Có thể nói, cái nhìn vượt
thời đại của những nhà lãnh đạo Việt Nam đã được thể hiện qua cuộc chiến chống dịch COVID​. Vận
dụng quy luật phát triển của chủ nghĩa Mác Lê-nin, Đảng và Nhà nước ta đã nhìn trước được sự nguy
hiểm của dịch COVID-19 và có những biện pháp nâng cao ý thức người dân bằng công tác truyền thông
mạnh mẽ, chiến dịch phát khẩu trang miễn phí, phát triển ứng dụng điện thoại nCoV để người dân Việt
Nam có thể khai báo tình trạng sức khỏe online,.. Chính sự nhìn xa trông rộng đã giúp Việt Nam ta chiến
thắng dịch COVID với 0 ca tử vong tính đến thời điểm hiện tại.

– Quan điểm phát triển hoàn toàn đối lập với quan điểm bảo thủ, trì trệ, định kiến. Tuyệt đối hóa một
nhận thức nào đó về sự vật có được trong một hoàn cảnh lịch sử nhất định, xem đó là nhận thức duy nhất
đúng về toàn bộ sự vật trong quá trình phát triển tiếp theo của nó sẽ đưa chúng ta đến sai lầm nghiêm
​ ột ví dụ điển hình có thể kể đến đó là Nho giáo​. Mặc dù từng là công cụ cai trị đất nước trong
trọng. M
thời đại phong kiến, nhưng đặt trong hoàn cảnh đất nước ngày nay, hệ tư tưởng Nho giáo không còn phù
hợp với sự phát triển của thời đại. Mà thay vào đó, ta cần một nhà nước pháp quyền cùng với sức mạnh
của luật pháp để cai trị đất nước.

b. Không dao động trước những quanh co, phức tạp của sự phát triển trong thực tiễn.

Ta cần phải xác quyết rằng các sự vật, hiện tượng phát triển theo một quá trình biện chứng đầy mâu
thuẫn. Do đó ta phải công nhận tính quanh co, phức tạp của quá trình phát triển như một hiện tượng phổ
biến, đương nhiên. Quan điểm phát triển đòi hỏi phải có sự nhìn nhận, đánh giá khách quan đối với mỗi
bước thụt lùi tương đối của sự vật, hiện tượng. Bi quan về sự thụt lùi tương đối sẽ khiến chúng ta gặp phải
những sai lầm tai hại.

c. Phải chủ động tìm ra phương pháp thúc đẩy sự phát triển của sự vật, hiện tượng.

– ​Ta phải tích cực, chủ động nghiên cứu, tìm ra những mâu thuẫn trong mỗi sự vật, hiện tượng. Từ đó,
xác định biện pháp phù hợp giải quyết mâu thuẫn để thúc đẩy sự vật, hiện tượng phát triển.

Việc xác định những biện pháp cũng cần căn cứ vào từng giai đoạn, hoàn cảnh cụ thể của sự vật, hiện
tượng. Vì sự phát triển diễn ra theo nhiều giai đoạn, từ thấp đến cao, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện
hơn.

– Vì trong sự phát triển có sự kế thừa, ta phải chủ động phát hiện, cổ vũ cái mới phù hợp, tìm cách thúc
đẩy để cái mới đó chiếm vai trò chủ đạo. Ta cũng phải tìm cách kế thừa những bộ phận, thuộc tính… còn
hợp lý của cái cũ, đồng thời kiên quyết loại bỏ những gì thuộc cái cũ mà lạc hậu, cản trở sự phát triển.

Phải tích cực học hỏi, tích lũy kiến thức khoa học và kiến thức thực tiễn. Tuyệt đối tránh bảo thủ, trì trệ
trong tư duy và hành động.

5
– Sự phát triển được thực hiện bằng con đường tích lũy về lượng để tạo ra sự thay đổi về chất. Do đó,
chúng ta phải luôn nỗ lực, chăm chỉ lao động để làm cho sự vật, hiện tượng tích lũy đủ về lượng rồi dẫn
đến sự thay đổi về chất.

CHỦ ĐỀ 5 - BA QUY LUẬT CỦA TRIẾT HỌC MÁC


1. Ứng dụng Quy luật lượng - chất
- ​Mỗi học sinh, sinh viên cần phải có nhận thức rõ ràng, đúng đắn về vấn đề tích lũy đủ lượng
mới có thể chuyển hóa chất, phải tích đủ lượng tới giới hạn điểm nút thì mới được thực hiện bước
nhảy, không được nôn nóng, đốt cháy giai đoạn.
+ Hiện nay, kiểu học tín chỉ đã tạo điều kiện cho những sinh viên cảm thấy mình đủ năng lực
có thể đăng kí học vượt để ra trường sớm. Tuy nhiên cũng có không ít sinh viên đăng kí
học vượt nhưng không đủ khả năng để theo, dẫn đến hậu quả là phải thi lại chính những
môn đã đăng kí học vượt. Điều này cũng có nghĩa là các sinh viên đó chưa tích lũy đủ về
lượng đến giới hạn điểm nút mà đã thực hiện bước nhảy, đi ngược lại với quy luật lượng –
chất, và hậu quả tất yếu là sự thất bại.
+ Thực trạng nền giáo dục của nước ta hiện nay vẫn còn tồn tại căn bệnh thành tích, đặc
biệt là ở bậc tiểu học và trung học cơ sở. Tức là học sinh chưa tích lũy đủ lượng cần thiết
đã được tạo điều kiện để thực hiện thành công bước nhảy, điều này đã khiến cho nền giáo
dục của chúng ta có những người không có cả “chất” và “lượng”, dẫn đến những vụ việc
rất vô lí như học sinh đi học không viết nổi tên mình mà vẫn được lên lớp, chỉ vì nếu cho ở
lại sẽ làm ảnh hưởng đến thành tích phổ cập giáo dục của trường. Ví dụ như vụ việc vào
tháng 10/2014, chị Hoàng Thị Thu (trú xóm Hồng Tiến, xã Xuân Giang, huyện Nghi
Xuân, Hà Tĩnh) không đồng ý con trai mình là Bảo Quân bị nhà trường “bắt ép” lên lớp 2.
Phụ huynh này đã xin cho con học lại lớp 1, vì cháu chưa thuộc hết bảng chữ cái. Các chữ
O, A…, em cũng không biết.
2. Sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập
(NHẬN THỨC VÀ GIẢI QUYẾT MỘT SỐ MÂU THUẪN QUAN TRỌNG TRONG LĨNH VỰC
KINH TẾ VÀ XÃ HỘI CỦA THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI)

Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội cần phải giải quyết một loạt những mâu thuẫn trong lĩnh vực
kinh tế, chính trị, xã hội. Bên cạnh phải giải quyết những mâu thuẫn của xã hội cũ để lại, ta còn phải giải
quyết một loạt mâu thuẫn nảy sinh trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ, như
mâu thuẫn giữa các hình thức sở hữu và các thành phần kinh tế, mâu thuẫn giữa bóc lột và bị bóc lột, mâu
thuẫn giữa bình đẳng và bất bình đẳng, và nhất là mâu thuẫn giữa cá nhân và xã hội.

Nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nền sản xuất nhỏ, sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa chưa có bao
nhiêu, kinh tế tư bản chủ nghĩa chưa từng giữ vai trò thống trị trong xã hội, do đó việc giải quyết mâu
thuẫn cơ bản của chế độ tư bản cũng có tính chất đặc thù của nó. Vấn đề không phải là xóa bỏ hay hạn
chế các thành phần kinh tế tư tư bản chủ nghĩa mà là không để cho quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa
phát triển thành quan hệ sản xuất thống trị trong cơ sở hạ tầng của xã hội. Cần phải khuyến khích kinh tế
tư nhân, kể cả doanh nghiệp tư nhân có thuê mướn lao động không hạn chế về quy mô, nhưng phải đảm
bảo nó phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa; nghĩa là giảm dần sự bóc lột của nó, làm cho công
bằng xã hội được thực hiện ngày càng cao trong thành phần kinh tế này, làm cho doanh nghiệp tư nhân tư
bản dần dần không còn mang tính chất tư bản chủ nghĩa nữa.

6
Công cuộc đổi mới đất nước ta hiện nay đặt ra yêu cầu phải nghiên cứu lại một cách có hệ thống lý luận
về mâu thuẫn, vận dụng nó để hiểu và có thái độ đúng đắn đối với những mâu thuẫn hiện thực, thí dụ mâu
thuẫn giữa các hình thức sở hữu, giữa các thành kinh tế, giữa bóc lột và bị bóc lột, giữa bình đẳng và bất
bình đẳng, giữa lợi ích cá nhân lợi ích và xã hội, v.v.. Việc nhìn nhận đúng đắn mặt tích cực và tiêu cực
của những mâu thuẫn này, tìm biện pháp tốt nhất để từng bước giải quyết chúng, phát huy mặt tích cực,
hạn chế mặt tiêu cực sẽ góp phần làm tăng động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta trong
giai đoạn hiện nay, tạo tiền đề vững chắc cho sự phát triển bền vững trong tương lai.

3. Ứng dụng quy luật phủ định của phủ định


(mở bài) Nếu như quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất và
ngược lại chỉ ra cách thức của sự phát triển, quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập chỉ ra
nguyên nhân và động lực bên trong của sự phát triển thì quy luật phủ định của phủ định có vai trò quan
trọng trong việc chỉ ra con đường phát triển của các sự vật, hiện tượng diễn ra trong tự nhiên, xã hội và tư
duy.
a. Trong thế giới biến động không ngừng, mỗi cá nhân cần không ngừng học hỏi, tiếp thu những
kiến thức, kỹ năng mới, học liên tục và học suốt đời. Để không bị đào thải, mỗi công nhân nên
lĩnh hội và áp dụng những kiến thức về khoa học công nghệ vào công việc. Ví dụ, một chủ cửa
hàng bán đồ ăn đã quen với hình thức truyền thống khi mà người mua đến tận cửa hàng để mua
bán sản phẩm. Tuy nhiên, thời đại 4.0 ngày nay đang mở ra một xu thế mới cho phép khách hàng
có thể đặt mua sản phẩm qua ứng dụng như Grabfood hay Now​ mà không phải trực tiếp đến
quán ăn. Là một công dân tiến bộ, chủ quán hoàn toàn có thể cân nhắc việc đăng ký cửa hàng
trên các ứng dụng giao hàng trên để bắt kịp xu hướng của thời đại và vẫn tiếp tục phát triển
được mô hình kinh doanh.
b. Trong khía cạnh về văn hóa​, là một người Việt Nam, chúng ta cần phủ định những phong tục tập
quán cổ hủ, lạc hậu (như tục bắt vợ, trọng nam khinh nữ,..) đồng thời kế thừa những giá trị văn
hóa tinh hoa mà cha ông đã để lại (như hát Quan Họ, điệu múa Cồng Chiêng, ẩm thực Việt,..). Mặt
khác, chúng ta còn cần hội nhập giao lưu với quốc tế với phương châm “hòa nhập chứ không hòa
tan”
c. Trong sự phát triển của đất nước

Vận dụng quy luật phủ định của phủ định nhận định quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta là
một quá trình lâu dài, khó khăn, nhiều thử thách. Đảng ta khẳng định, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
ở nước ta “là một quá trình cách mạng sâu sắc, triệt để, đấu tranh phức tạp giữa cái cũ và cái mới nhằm
tạo ra sự biến đổi về chất trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá
độ lâu dài với nhiều bước phát triển, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen”. Nước ta mới trải
qua hai cuộc chiến tranh, mọi lĩnh vực của đời sống xã hội đều chưa phát triển, nước ta tiến thẳng lên Chủ
nghĩa xã hội bỏ qua hình thái kinh tế tư bản chủ nghĩa nên hầu như những tiền đề thực tiễn cơ bản cho sự
ra đời của chủ nghĩa xã hội còn khó khăn. Khi cái mới và cái cũ còn hiện hữu đầy mâu thuẫn, quá trình
đấu tranh giữa tiến bộ và lạc hậu, giữa tư tưởng tập thể và tư tưởng cá nhân ích kỷ, hẹp hòi, khi tiềm lực
kinh tế còn chưa đủ mạnh, những tiêu cực trong xã hội vẫn còn những tồn tại, dẫn đến những khó khăn và
thách thức này. Từ đó, Đảng ta đã đưa ra đường lối đổi mới tại Đại hội VI. Đại hội đã đánh dấu bước
ngoặt trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, đưa nước ta thoát ra khỏi sự khủng hoảng
và ngày càng phát triển.
Ngày nay, khoa học - công nghệ phát triển nhanh chóng cùng với quá trình toàn cầu hóa và hội nhập
quốc tế ngày càng sâu rộng đã có tác động mạnh mẽ đến quá trình phát triển kinh tế, xã hội của các quốc
gia, trong đó có Việt Nam. Để đáp ứng được yêu cầu hội nhập quốc tế, các quốc gia tiến hành điều chỉnh
chiến lược phát triển theo hướng tăng cường liên kết, vừa hợp tác, vừa cạnh tranh, nhất là trong các lĩnh

7
vực như thương mại, đầu tư, nhân lực, khoa học - công nghệ,... Dưới sự lãnh đạo của Đảng tiến trình hội
nhập quốc tế của Việt Nam ngày càng sâu rộng, nhất là hội nhập trong lĩnh vực kinh tế. Thể chế kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ngày càng được hoàn thiện. Chúng ta đã thiết lập được nhiều
quan hệ đối tác chiến lược về kinh tế, như: tham gia đóng góp và xây dựng Cộng đồng ASEAN; hoàn
thiện thị trường trong nước đầy đủ hơn theo cam kết Tổ chức Thương mại Thế giới, tham gia ký kết nhiều
hiệp định thương mại tự do đa phương và song phương; tham gia đàm phán Hiệp định đối tác toàn diện
và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương. Như vậy, để đáp ứng được yêu cầu của sự phát triển, yêu cầu của hội
nhập quốc tế, không bị tụt hậu với thế giới, chúng ta đã mở cửa để hội nhập. Đây cũng chính là điều kiện
và cơ hội để Việt Nam có thể có những bước nhảy vọt trong sự phát triển về kinh tế - xã hội, từ đó rút
ngắn con đường phát triển của mình.
Trên cơ sở vâṇ dụng và phát triển lý luâṇ của chủ nghĩa Mác - Lênin và những điều kiện thực tiễn của
Việt Nam, Đảng ta luôn kiên định lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế đô ̣ tư bản chủ
nghĩa. Điều này được Đảng ta thể hiện rất rõ tại Đại hội VI, Đảng ta khẳng định: từ chủ nghĩa tư bản lên
chủ nghĩa xã hội phải trải qua thời kỳ quá độ lâu dài là một tất yếu khách quan. Thời kỳ quá độ ở nước ta
do tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội từ một nền sản xuất nhỏ, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa,
đương nhiên phải lâu dài và rất khó khăn. Đến Đại hội VII, Đảng ta khẳng định: Nước ta quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Đến các Đại hội VIII, IX, X, XI, XII của Đảng, đều có sự
bổ sung và làm rõ hơn con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội và về cơ bản đều nhất quán với Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được Đại hội VII thông qua. Nhìn vào thành tựu
to lớn sau hơn 30 năm đổi mới, chúng ta thấy được sự đúng đắn, hợp lý của Đảng, Nhà nước và Nhân dân
ta trong việc lựa chọn con đường phát triển, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam.
Nghiên cứu, nhận thức đầy đủ quy luật phủ định của phủ định của chủ nghĩa Mác-Lênin về khuynh
hướng của sự phát triển, chúng ta càng tin tưởng vào sự lựa chọn con đường phát triển của đất nước dưới
sự lãnh đạo của Đảng - con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.

CHỦ ĐỀ 6: LÝ LUẬN HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI


I. Vấn đề xây dựng hình thái kinh tế - xã hội ở Việt Nam

8
9
10
CHỦ ĐỀ 7: LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ QUAN HỆ SẢN XUẤT

1. Đường lối phát triển QHSX và LLSX theo định hướng XHCN ở Việt Nam  
Từ khi đổi mới năm 1986 đến nay, QHSX XHCN đã có sự biến đổi quan trọng góp phần
hình thành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Sự biến đổi của QHSX
11
XHCN được thể hiện trên cả ba mặt là: quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất, quan hệ trong tổ chức,
quản lý và quan hệ trong phân phối kết quả sản xuất. Về quan hệ sở hữu; Các ngành, lĩnh vực
thuộc diện 100% vốn nhà nước đã được thu hẹp lại tập trung hơn vào các ngành, lĩnh vực quan
trọng của nền kinh tế quốc dân, từ việc hầu như các doanh nghiệp nhà nước bao trùm toàn bộ nền
kinh tế đến nay giảm xuống còn 19 ngành 100%. Quá trình cổ phần hóa, sắp xếp, đổi mới các
doanh nghiệp nhà nước diễn ra mạnh mẽ làm cho số lượng giảm đi nhanh chóng từ 12000 doanh
nghiệp đến năm 2016 chỉ còn 718 doanh nghiệp là những doanh nghiệp lớn hoạt động trên các
ngành, nghề quan trọng đóng vai trò là công cụ để nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Về quan
hệ tổ chức quản lý chúng ta đã từng bước xóa bỏ cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp để hình
thành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tách bạch chức năng chủ sở hữu và
chức năng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh giữa doanh
nghiệp nhà nước và các thành phần kinh tế khác. Về quan hệ phân phối; chúng ta đã xóa bỏ cơ chế
phân phối bình, trả lương bằng hiện vật sang trả lương theo lao động, theo năng suất và hiệu quả
kinh tế.
Bên cạnh những biến đổi tích cực còn có biến đổi tiêu cực như: tỷ trọng sở hữu trong doanh
nghiệp nhà nước còn lớn trong nền kinh tế, hiệu quả đầu tư thấp, nhiều doanh nghiệp thua lỗ, mô
hình quản trị tập đoàn còn nhiều bất cập. Để phát huy biến đổi tích cực, hạn chế biến đổi tiêu cực,
chúng ta phải có các giải pháp kịp thời, để QHSX XHCN ngày càng làm tốt vai trò của mình trong
nền kinh tế.
Theo luận án tiến sĩ “Về sự biến đổi quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ đổi
mới ở Việt Nam”, năm 2017, tác giả Nguyễn Văn Sơn đã nhấn mạnh rằng Đảng khẳng định
quan hệ sản xuất ở nước ta, đặc biệt là QHSX XHCN không chỉ phù hợp với trình độ của lực
lượng sản xuất mà còn phải thể hiện được sự tiến bộ của mình. Đại hội lần thứ XII của Đảng chỉ
rõ: “có quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất” Sự tiến bộ được thể
hiện ở mục đích của nền sản xuất xã hội là phải vì nhân dân, vì người lao động. Đây là điểm khác
căn bản của QHSX XHCN với các quan hệ sản xuất khác. Tiến bộ là tính chất xã hội của QHSX
mà chúng ta đang lựa chọn đó là chế độ XHCN; một chế độ của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân lấy phục vụ nhân đân làm thước đo cao nhất. Chính vì vậy, QHSX XHCN ở nước ta ngoài
việc phải phù hợp với trình độ của LLSX để thúc đẩy sản xuất phát triển còn phải dẫn dắt, tạo điều
kiện cho các quan hệ khác phát triển, phải định hướng đi lên CNXH. Chính thực tiễn phát triển
của nền sản xuất nước ta trong những năm qua đã đòi hỏi như vậy trong các năm tiếp theo.
Để xây dựng được một quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất thì trước
hết phải xác định đúng trình độ của lực lượng sản xuất. Sau 30 năm đổi mới, lực lượng sản xuất ở
nước ta đã có nhiều tiến bộ, cùng với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, khoa học công nghệ
ngày càng được đưa vào sản xuất nhiều hơn. Lực lượng sản xuất xã hội chủ nghĩa ở nước ta mà
nòng cốt là các tập đoàn kinh tế nhà nước đã có sự hiện đại hóa, đã hình thành các tập đoàn kinh
tế lớn với máy móc công nghệ hiện đại đóng vai trò chủ lực của nền kinh tế, đủ sức chi phối, dẫn
dắt các loại hình QHSX khác và đủ sức cạnh tranh với nước ngoài trong quá trình hội nhập quốc
tế như: Tập đoàn Viễn thông quân đội, Tập đoàn Điện lực, Tập đoàn Bưu chính viễn thông, Tập
đoàn Dệt may, Tập đoàn Cao su…
Các tập đoàn này, đã đầu tư hàng ngàn tỉ đồng mua các loại máy móc, áp dụng khoa học
công nghệ hiện đại vào trong sản xuất kinh doanh, sánh ngang với các nước trong khu vực và trên
thế giới. Chẳng hạn Tập đoàn viễn thông quân đội Viettel, tổng công ty sữa Vinamilk đã có thể
cạnh tranh thắng lợi với các công ty nước ngoài trên sân nhà mà còn đầu tư ra nước ngoài chiếm
lĩnh thị trường… Do vậy, quan hệ sản xuất cũng phải được đổi mới cho phù hợp. Để có quan hệ
12
sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển cao của LLSX thì: chúng ta phải đổi mới đồng bộ
quan hệ sản xuất trên cả ba mặt; sở hữu tư liệu sản xuất, quan hệ tổ chức quản lý và quan hệ phân
phối sản phẩm lao động sao cho quan hệ sản xuất tạo điều kiện, địa bàn cho lực lượng sản xuất
phát triển để đem lại năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế cao.

2. Một số quan điểm trong việc giải quyết mối quan hệ giữa phát triển lực lượng sản
xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất trong thời gian tới:
- Tiếp tục đẩy mạnh nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn về nhận thức và vận dụng quy luật quan
hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở nước ta - vốn từ một nước lạc hậu, có
điểm xuất phát rất thấp đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế.
- Tiếp tục đổi mới tư duy lý luận về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, về sở hữu và
các thành phần kinh tế, giải quyết những vấn đề còn vướng mắc, chưa rõ, ý kiến còn khác nhau, nhằm
phát triển lực lượng sản xuất theo hướng hiện đại, như vấn đề chế độ sở hữu và các hình thức sở hữu ở
nước ta; vấn đề vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước, vai trò kinh tế tập thể, vai trò động lực phát triển
của kinh tế tư nhân ở nước ta; vai trò kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài; vấn đề kinh tế hỗn hợp, kinh tế cổ
phần. Trước mắt cần sớm thống nhất sử dụng một khái niệm về kinh tế tư nhân trong các văn bản và phân
loại do hiện nay vẫn sử dụng nhiều cách gọi: “Kinh tế tư nhân”, “Thành phần kinh tế tư nhân”, “Khu vực
kinh tế tư nhân”.
- Tiếp tục đổi mới tư duy và quan điểm phát triển hài hòa cả về lực lượng sản xuất, quan hệ sản
xuất, chính trị, văn hóa, xã hội. Xây dựng tư duy mới về mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, về hội nhập, về phương thức phát triển kinh tế.Làm rõ hơn nữa vai trò của Nhà nước trong
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, quan hệ giữa Nhà nước và thị trường. Đẩy mạnh cải cách
toàn diện thể chế nhằm tăng cường hiệu lực thực thi pháp luật và chính sách, phát huy dân chủ, tăng
cường kỷ luật, kỷ cương và nâng cao hiệu quả quản lý, khai thác, sử dụng và phát huy các nguồn lực của
nền kinh tế.Đẩy mạnh xã hội hóa trong khoa học, công nghệ, giáo dục, y tế và các lĩnh vực khác.Thực
hiện đổi mới đồng bộ, phù hợp về kinh tế và chính trị.Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện luật pháp và chính
sách kinh tế để kiến tạo sự phát triển bền vững.Xây dựng nguồn nhân lực, trọng dụng nhân tài, nhất là
trong bộ máy quản lý nhà nước.Xây dựng và hoàn thiện đồng bộ các loại thị trường, bảo đảm nguyên tắc
thị trường trong sự vận hành nền kinh tế, hoàn thiện cơ chế vận hành các loại thị trường.
- Tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế. Hoàn thiện chế độ sở hữu và các
thành phần kinh tế; xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ trong quá trình chủ động, tích cực hội nhập quốc
tế; gắn kết chặt chẽ 5 trụ cột: kinh tế - chính trị - văn hóa - xã hội - môi trường trong phát triển bền vững;
tiếp tục đổi mới chế độ phân phối; thực hiện quyền làm chủ của nhân dân và nâng cao đời sống vật chất
và tinh thần của nhân dân.
Để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đưa đất nước ngày càng phát triển bền vững, trong
thời gian tới chúng ta cần tiếp tục giải quyết hiệu quả mối quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất và
xây dựng, hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, trước mắt thực hiện một số nội dung sau:
Một là, tiếp tục sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật để khơi thông, giải
phóng tối đa và nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực hiện có, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội theo
nguyên tắc thị trường, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa; công khai, minh bạch trong quản lý, khai
thác và sử dụng các nguồn lực của đất nước. Rà soát, khẩn trương cắt giảm thực chất điều kiện kinh
doanh đang là rào cản đối với hoạt động của doanh nghiệp và cơ sở kinh doanh cá thể. Có chính sách và
13
giải pháp phù hợp để khuyến khích các cơ sở kinh doanh cá thể chuyển thành doanh nghiệp; tạo dựng
điều kiện kinh doanh thuận lợi cho các cơ sở cá thể kinh doanh ổn định, lâu dài và tuân thủ pháp luật.
Hai là, đổi mới mô hình phát triển kinh tế - xã hội từ chủ yếu dựa vào khai thác tài nguyên, vốn
đầu tư và lao động sang sử dụng tổng hợp, hiệu quả các nguồn lực của nền kinh tế; sử dụng khoa học và
công nghệ, đổi mới sáng tạo để phát triển bền vững. Tập trung thực hiện đồng bộ các giải pháp nâng cao
năng suất lao động, coi đây là nội dung quan trọng hàng đầu trong nâng cao năng lực cạnh tranh và phát
triển bền vững của nền kinh tế.
Ba là, quyết liệt thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao
năng suất, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Đổi mới cơ cấu kinh tế ngành, vùng và cơ cấu sản
phẩm theo hướng hiện đại, phát huy lợi thế so sánh và tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu, trong đó
tập trung cơ cấu lại ngành nông nghiệp và thủy sản theo hướng nâng cao chất lượng sản phẩm cây trồng,
vật nuôi trên cơ sở áp dụng công nghệ hiện đại, công nghệ sinh học và mang lại hiệu quả kinh tế cao; tập
trung phát triển công nghiệp chế biến, chế tạo, nhất là công nghiệp chế biến sâu, chế biến sản phẩm nông
nghiệp, công nghiệp hỗ trợ, sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu; nâng cao chất lượng và hiệu quả
các ngành dịch vụ, coi trọng phát triển các ngành dịch vụ có năng suất lao động cao, dịch vụ có giá trị gia
tăng cao, dịch vụ du lịch hiện đại. Tập trung các nguồn lực phát triển những sản phẩm có lợi thế so sánh,
có sức cạnh tranh, có giá trị gia tăng cao và có thị trường tiêu thụ.
Bốn là, đổi mới cơ cấu thành phần kinh tế theo hướng bảo đảm cạnh tranh công bằng, bình đẳng,
tôn trọng tính phổ biến hơn là nhấn mạnh tính đặc thù; định vị vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước tập
trung vào định hướng, dẫn dắt và thực hiện những dịch vụ công, đầu tư các dự án trọng điểm quốc gia mà
các thành phần kinh tế khác không đủ năng lực hoặc không có nhu cầu đầu tư. Tiếp tục kiến tạo môi
trường kinh doanh thuận lợi cho doanh nghiệp phát triển; cải cách thủ tục hành chính liên quan đến cấp
phép thành lập đăng ký kinh doanh, thủ tục thuê đất, cấp tín dụng; cải thiện cơ sở hạ tầng logistics...
Năm là, nâng cao năng lực kiến tạo, quản trị quốc gia và năng lực tự chủ, đổi mới sáng tạo trong
quản lý doanh nghiệp. Đổi mới và nâng cao chất lượng công tác xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội trên cơ sở tăng cường năng lực phân tích, đánh giá, dự báo trên các lĩnh
vực... Thực hiện công khai, minh bạch, bình đẳng và dân chủ hóa đời sống kinh tế - xã hội.Kiểm soát tốt
quyền lực, đề cao trách nhiệm giải trình và đạo đức công vụ. Xây dựng và thực thi nghiêm các chế tài đủ
mạnh nhằm ngăn chặn hành vi cửa quyền, độc quyền; cơ chế xin - cho; lợi ích nhóm; đẩy lùi tham nhũng,
góp phần củng cố lòng tin của các nhà đầu tư, doanh nghiệp và toàn xã hội; chống trì trệ, bảo thủ, chậm
đổi mới.
Sáu là, nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho cán bộ, đảng viên và nhân dân về phát triển khoa học
công nghệ và chủ động nắm bắt cơ hội, tận dụng tối đa lợi thế từ Cách mạng công nghiệp 4.0 để phát triển
kinh tế - xã hội đất nước. Trước mắt cần nghiên cứu thấu đáo nội hàm, phương thức vận hành và tác động
của Cách mạng công nghiệp 4.0, định hướng nhiệm vụ, giải pháp thực hiện cụ thể vào một số ngành, lĩnh
vực, ở một số địa phương để chủ động hội nhập và hòa chung vào dòng chảy của cuộc cách mạng công
nghiệp này. Phát huy sáng tạo trong đổi mới khoa học và công nghệ; xây dựng cơ chế, chính sách, tạo
môi trường thuận lợi để tăng mức độ hoạt động và số lượng tổ chức dịch vụ khoa học công nghệ, đơn vị
ứng dụng công nghệ. Tăng cường đầu tư xây dựng một số tổ chức nghiên cứu và phát triển đạt trình độ
hiện đại, tiên tiến để thúc đẩy quá trình hội nhập. Tạo ra mối liên kết chặt chẽ giữa các tổ chức khoa học
công nghệ, các trường đại học với doanh nghiệp; gắn kết giữa nghiên cứu khoa học, hoạt động đào tạo
với sản xuất - kinh doanh.

14
Bẩy là, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước và hội nhập quốc tế, trong đó chú trọng phát triển nhanh nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu kinh tế số,
nhất là nhân lực về trí tuệ nhân tạo. Lợi thế “dân số vàng” cần được biến thành lợi thế về năng lực số
trong hội nhập và phân công lao động quốc tế. Chú trọng đào tạo nguồn nhân lực công nghệ đạt chuẩn
quốc tế. Người lao động phải được trang bị nhiều loại kỹ năng đa dạng để thích ứng với môi trường thời
đại 4.0 và dễ dàng dịch chuyển công việc phù hợp với nhu cầu của thị trường.
Tám là, tăng cường khai thác các cơ hội tăng trưởng bằng cách hội nhập kinh tế sâu hơn, bao gồm
cả việc thúc đẩy các hiệp định thương mại tự do với các nước ASEAN và các đối tác lớn khác ở châu Á
như Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc. Bên cạnh khả năng tiếp cận thị trường, quá trình hội nhập cũng
hỗ trợ các cải cách về thể chế của Việt Nam, đưa Việt Nam đi đúng con đường tạo ra một nền kinh tế giàu
sức cạnh tranh và sáng tạo hơn. Thúc đẩy các doanh nghiệp chủ động hơn nữa trong việc tìm hiểu các
FTA để xây dựng phương án kinh doanh sáng tạo, vượt qua thách thức và tận dụng tối đa các cơ hội từ
hội nhập kinh tế quốc tế. Nhà nước cần chú trọng hỗ trợ các Hiệp hội, doanh nghiệp chủ động ứng phó
với làn sóng mới về chủ nghĩa bảo hộ của các nền kinh tế lớn trên thế giới.
Chín là, sớm thống nhất dùng khái niệm “loại hình kinh tế” thay thế “thành phần kinh tế” theo tài
liệu hướng dẫn học tập Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ IX và Luật thống kê.
Mười là, xây dựng bộ tiêu chí, chỉ tiêu thống kê về lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất để có
thông tin đầy đủ, chính xác, khách quan của mối quan hệ này trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất
nước thời kỳ 2020-2035.

CHỦ ĐỀ 8: CƠ SỞ HẠ TẦNG VÀ KIẾN TRÚC THƯỢNG TẦNG


1. Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng ở Việt Nam

15
16
17
18
CHỦ ĐỀ 9: TỒN TẠI XÃ HỘI VÀ Ý THỨC XÃ HỘI
(Sự vận dụng tồn tại xã hội và ý thức xã hội ở Việt Nam trong việc phát triển kinh tế gắn chặt với công
bằng xã hội + phát triển mạnh mẽ văn hóa giàu bản sắc dân tộc)
Bằng việc vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, Đảng đã xác
định đúng đắn đường lối phát triển kinh tế gắn chặt với công bằng xã hội và phát triển mạnh mẽ
văn hóa giàu bản sắc dân tộc ở nước ta​, đó là điều kiện đảm bảo sự thành công và bền vững cho tiến
trình đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Từ đúc kết về mối liên giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, trong công cuộc cải cách đổi mới và xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, Đại hội IX của Đảng đã khẳng định “​Tăng trưởng kinh tế đi lên gắn
liền với phát triển văn hóa, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện
tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường xã hội”
Đường lối chiến lược phát triển kinh tế - xã hội này của Đảng xuất phát từ nhận thức rõ vai trò
quyết định của kinh tế đối với ý thức xã hội. Trên con đường quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã
khẳng định phát triển kinh tế bằng con đường công nghiệp hóa - hiện đại hóa là nhiệm vụ trung tâm. Để
thực hiện được nhiệm vụ này và bảo đảm sự phát triển toàn diện của xã hội thì đi đôi với tăng trưởng kinh
tế phải phát triển văn hóa và giáo dục nhằm phát huy mọi nguồn lực tinh thần của người Việt Nam.
Báo cáo chính trị của Ban chấp hành trung ương tại Đại hội VII chỉ rõ : phải kết hợp hài hòa giữa
phát triển kinh tế với phát triển văn hóa - xã hội, giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần của nhân
dân, coi phát triển kinh tế là cơ sở và tiền đề để thực hiện tốt chính sách xã hội, là động lực thúc đẩy phát
triển kinh tế. Như vậy, với vai trò là nguồn gốc sản sinh ra ý thức xã hội, nền kinh tế phát triển mạnh tạo
điều kiện và là tiền đề cho việc lành mạnh hóa các QHSX, bảo vệ truyền thống tốt đẹp của từng gia đình
và của cả dân tộc.
Đại hội IX của Đảng cũng đã khẳng định con đường đi lên CNXH ở nước ta là ​“Tăng trưởng
kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa và giáo dục, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà
bản sắc dân tộc, làm cho chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời
sống tinh thần của nhân dân”. Nó vừa là mục tiêu vừa là động lực phát triển kinh tế - xã hội.
Trong giai đoạn quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội hiện nay, những tàn dư của tư tưởng cũ vẫn còn, mặt
tích cực và tiêu cực trong tình hình tư tưởng trong Đảng và trong nhân dân hiện nay vẫn còn đan xen
nhau, trong đó mặt tích cực là cơ bản, đã và đang quyết định chiều hướng phát triển của xã hội, là nguyên
tố quan trọng tạo nên thắng lợi của cuộc đổi mới đất nước. Tính tích cực năng động sáng tạo của các tầng
lớp nhân dân ngày càng rõ trên các lĩnh vực xã hội, được phát huy tinh thần đoàn kết tương thân tương ái
lòng yêu nước ý thức tự hào tự tôn dân tộc truyền thống cách mạng và lịch sử bản sắc dân tộc được tiếp
tục giữ gìn và phát huy. Tuy nhiên, Hiện nay nhiều vấn đề xã hội còn phức tạp, một mặt nền kinh tế thị
trường vừa tạo ra những yếu tố tích cực để nâng cao đời sống vật chất, tinh thần nhưng mặt khác nó lại
vừa tạo ra những yếu tố tiêu cực ảnh hưởng đến đời sống tinh thần của xã hội đặc biệt là về tư tưởng đạo
đức và lối sống. Trong đó những hạn chế mơ hồ về tư tưởng, nhận thức và tình trạng suy thoái về đạo đức
lối sống cũng khá phổ biến. Sự suy thoái về nhận thức, tư tưởng chính trị, đạo đức và lối sống trong một
bộ phận không nhỏ cán bộ - Đảng viên chưa được ngăn chặn hình thức phai nhạt lý tưởng cách mạng sa
sút phẩm chất đạo đức tệ quan liêu tham nhũng lãng phí chủ nghĩa cá nhân tư tưởng cơ hội thực dụng có
chiều hướng phát triển. Những mặt tiêu cực là nguy cơ tiềm ẩn liên quan sự mất còn của Đảng, của chế
độ.

19
Từ tình hình đó, Đảng ta chủ trương toàn Đảng phải nghiêm túc học tập chủ nghĩa Mác Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, không ngừng bồi dưỡng nâng cao tính chất đạo đức cách mạng và mục tiêu của cuộc
cách mạng trên lĩnh vực tư tưởng cần đạt được là xây dựng nền văn hóa mới và con người mới XHCN.
Để thực hiện hai nhiệm vụ trong giai đoạn hiện nay là : nhiệm vụ trọng tâm về tư tưởng là làm cho chủ
nghĩa Mác Lênin và tư tưởng HCM giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của xã hội. Còn nhiệm vụ
cấp bách về văn hóa là xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc : “​Hướng mọi hoạt động
văn hóa vào việc xây dựng con người VN phát triển toàn diện về chính trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo đức,
thể chất, năng lực sáng tạo, có ý thức cộng đồng, lòng nhân ái khoan dung, trọng tình nghĩa, lối sống
có văn hóa, quan hệ hài hòa trong giáo dục, cộng đồng và xã hội” và nêu cao tinh thần trách nhiệm của
gia đình trong việc xây dựng và bồi dưỡng các thành viên có lối sống văn hóa làm cho gia đình thật sự là
tổ ấm của mỗi người và là tế bào lành mạnh của xã hội. Đẩy mạnh phong trào “​Toàn dân đoàn kết xây
dựng đời sống văn hóa”; ngăn chặn việc phục hồi các thủ tục, khắc phục tình trạng mê tín đang có xu
hướng lan rộng trong xã hội”. Mặt khác, trong công cuộc tiến hành cách mạng tư tưởng văn hóa, xây
dựng con người mới và nền văn hóa mới, ta phải biết chọn lọc, tiếp thu, kế thừa những thành quả văn
minh, những di sản quý giá do loài người tạo ra bao thế hệ những thành tựu văn hóa, khoa học hiện đại
đồng thời cũng kiên quyết chống chủ nghĩa hư vô và khuynh hướng siêu giai cấp trong việc kế thừa di
sản để lại
Việc tăng trưởng kinh tế sẽ dẫn đến việc gia tăng hiệu quả kinh tế. Hiệu quả kinh tế gắn liền với
hiệu quả xã hội. Việc đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế tạo cơ hội cho mọi tầng lớp nhân dân tự do làm ăn
theo pháp luật sẽ là một tiến bộ về mặt xã hội, là thực hiện dân chủ hóa trong lĩnh vực kinh tế, từ đó giải
quyết tốt hơn việc làm thu nhập và đời sống tạo tiền đề vật chất cho việc xử lý các vấn đề xã hội. Tuy
nhiên tăng trưởng kinh tế tự nó không thể giải quyết được tất cả các vấn đề xã hội trong đó có sự phân
hóa giàu nghèo là không tránh khỏi. Do đó, trong đường lối phát triển kinh tế xã hội, một mặt Đảng và
Nhà nước ta chủ trương bảo vệ và khuyến khích công dân làm giàu hợp pháp, được hưởng thụ văn hóa,
giáo dục đào tạo, chăm lo y tế, được hưởng thụ xứng đáng với công sức, tiền của bỏ vào sản xuất, chống
tư tưởng bình quân, ỷ lại, đãi ngộ xứng đáng tài năng; một mặt Đảng và Nhà nước phải chăm lo việc thực
hiện phân phối công bằng theo lao động, mở rộng phúc lợi xã hội, đổi mới tốt chính sách bảo hiểm xã hội,
bảo vệ sức khỏe, nâng cao thể lực cho nhân dân, bảo đảm nhu cầu thuốc chữa bệnh. Thực hiện tốt chính
sách đền ơn đáp nghĩa, xóa đói giảm nghèo, tạo phong trào đoàn kết giúp đỡ trong nhân dân theo truyền
thống “lá lành đùm lá rách” tương thân tương ái đùm bọc lẫn nhau. Đẩy mạnh hơn nữa chống tham
nhũng, bất công xã hội nghiêm trọng hiện nay. Cải cách chế độ tiền lương để người lao động hăng hái
làm việc đủ sống và nâng cao mức sống, mức đóng góp cho xã hội.
Ngược lại chính việc giải quyết tốt những vấn đề xã hội là điều kiện quyết định để thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế. Chúng ta không thể sớm có ngay một xã hội tốt đẹp trong khi kinh tế nước ta còn kém
phát triển, năng suất lao động thấp, kinh tế kỹ thuật còn lạc hậu nhưng ta phải kết hợp ngay từ đầu tăng
trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội.
Tóm lại, vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, Đảng đã xác
định đúng đắn đường lối phát triển kinh tế gắn chặt với công bằng xã hội và phát triển mạnh mẽ
văn hóa giàu bản sắc dân tộc ở nước ta​, đó là điều kiện đảm bảo sự thành công và bền vững cho tiến
trình đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Điều này được tái khẳng định ở Đại hội X ​bởi Đảng ta: "​Xã hội xã
hội chủ nghĩa mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, công
bằng, dân chủ, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất
hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nền văn hoá tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no, tự
20
do, hạnh phúc, phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ,
giúp nhau cùng tiến bộ; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới". Có
thể nói, mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa mà Đảng ta đã xác định đó là định hướng có tính chiến lược
trong việc xây dựng ý thức xã hội mới ở nước ta hiện nay.

CHỦ ĐỀ 11: VAI TRÒ CỦA KHOA HỌC CÔNG NGHỆ

1. CÁC GIẢI PHÁP ÁP DỤNG CÁCH MẠNG 4.0 ĐỂ PHÁT TRIỂN KINH TẾ, KHOA HỌC
CÔNG NGHỆ TẠI VIỆT NAM

Cùng hòa chung với xu hướng toàn cầu, Việt Nam đã nhanh chóng nắm bắt xu thế, không ngừng
cải thiện mức độ sẵn sàng trong việc tiếp cận cuộc CMCN 4.0, chuẩn bị tốt các điều kiện để khai thác, tận
dụng các lợi ích của Cuộc cách mạng này, gắn với xây dựng, tổ chức thực hiện các chiến lược, kế hoạch,
quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Chúng ta có thể tự tin nói rằng, đây là một cơ hội quan
trọng để Việt Nam nắm bắt nhằm mục tiêu tăng tốc phát triển nền kinh tế, hướng tới đưa nước ta trở thành
nước công nghiệp, có thu nhập trung bình cao trong tương lai gần trên nền tảng một chiến lược tổng thể
của quốc gia về cuộc CMCN 4.0, phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam và xu hướng chung của
quốc tế.

Trong thời gian qua, cuộc CMCN 4.0 đã trở thành một chủ đề lớn được toàn thế giới cũng như tất
cả các cấp, các ngành và người dân Việt Nam quan tâm, theo dõi và tập trung thảo luận, vừa là nhằm tìm
hiểu một cách kỹ lưỡng, chi tiết, cụ thể những nội hàm và các vấn đề liên quan đến khái niệm mới xuất
hiện này - “CMCN 4.0 ”, vừa là để nghiên cứu, tìm tòi, xây dựng các giải pháp, chính sách, bước đi cần
thiết để tận dụng tối đa những cơ hội do Cuộc cách mạng đem lại cũng như hạn chế những tác động tiêu
cực của Cuộc cách mạng đối với nền kinh tế, nhất là những ngành, lĩnh vực sản xuất, kinh doanh sử dụng
nhiều lao động.

Theo Bộ trưởng Bộ KH&ĐT Nguyễn Chí Dũng, Chiến lược quốc gia về CMCN 4.0 của Việt Nam
được xây dựng bao gồm 03 yếu tố nền tảng:

Một là, đổi mới và hoàn thiện thể chế kinh tế theo hướng xây dựng hệ thống thể chế kinh tế thị
trường đầy đủ, hiện đại, hội nhập và thân thiện với các mô hình kinh tế mới, dựa trên nền tảng của khoa
học công nghệ và đổi mới sáng tạo, tạo điều kiện cho các DN đầu tư vào nghiên cứu phát triển, ứng dụng
công nghệ, tạo ra các sản phẩm, dịch vụ mới, nhanh chóng thương mại hóa các kết quả nghiên cứu.

Hai là, phát triển hạ tầng kết nối, xây dựng và khai thác cơ sở dữ liệu lớn, bao gồm việc xây dựng
hệ thống hạ tầng kỹ thuật số để áp dụng các công nghệ của Cuộc CMCN 4.0 ở quy mô và phạm vi rộng,
kết nối Internet tốc độ cao; xây dựng, chia sẻ các cơ sở dữ liệu.

Ba là, phát triển nguồn nhân lực đủ về số lượng và chất lượng để thực hiện các hoạt động chuyển
đổi, nâng cấp công nghệ và nghiên cứu phát triển các công nghệ, sản phẩm, dịch vụ mới. Bên cạnh các
yếu tố nền tảng này, dự kiến Chính phủ Việt Nam sẽ triển khai ba nhóm chính sách quan trọng, bao gồm:

Thứ nhất, áp dụng công nghệ, chuyển đổi quản trị khu vực công: bao gồm xây dựng Chính phủ
điện tử hướng tới Chính phủ số để quản lý nhà nước nhanh hơn, minh bạch hơn, hiệu lực và hiệu quả hơn;

21
nâng cao hiệu quả theo dõi, giám sát thực hiện chính sách, pháp luật, đem lại sự hài lòng cao hơn cho
người dân và doanh nghiệp.

Thứ hai, hỗ trợ, khuyến khích ứng dụng công nghệ và đổi mới sáng tạo trong khu vực DN để tối
ưu hóa việc phân bổ nguồn lực; phát triển sản xuất, kinh doanh nhanh hơn, thông minh hơn và hiệu quả
hơn; cắt giảm chi phí; mở rộng thị trường trong nước và quốc tế; nâng cao chất lượng quản trị chuỗi cung
ứng; phát triển sản phẩm, dịch vụ mới; nâng cao năng suất của DN nói riêng và toàn bộ nền kinh tế nói
chung.

Thứ ba, cơ cấu lại và tập trung nguồn lực đầu tư nâng cao hiệu quả hoạt động khoa học công nghệ
và nghiên cứu phát triển, hướng tới làm chủ một số công nghệ đặc trưng của CMCN 4.0 và công nghệ thế
hệ tiếp theo, vươn lên vị trí dẫn đầu trong một số lĩnh vực công nghệ hiện đại, giúp cải thiện và nâng cao
năng lực cạnh tranh quốc gia cả trong ngắn hạn và dài hạn.

Ngoài ra, các giải pháp bổ sung cũng có ý nghĩa rất quan trọng, góp phần thực hiện thành công các
chính sách đề ra ở trên, như: Thu hút đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực nghiên cứu phát triển và đổi mới
sáng tạo; các dự án đầu tư, sản xuất các sản phẩm, dịch vụ sử dụng các công nghệ đặc trưng của CMCN
4.0; thu hút đầu tư của các DN công nghệ hàng đầu trên thế giới; thu hút đầu tư mạo hiểm nước ngoài cho
các Startup Việt Nam; Thúc đẩy hợp tác quốc tế trong khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo; kêu gọi
các quốc gia tiên tiến, các tổ chức quốc tế hỗ trợ, hợp tác, thành lập các cơ sở nghiên cứu phát triển và đổi
mới sáng tạo; mở rộng và làm sâu sắc hơn hợp tác khoa học công nghệ với các đối tác, đặc biệt là các
nước đối tác chiến lược, các đối tác quan trọng có trình độ khoa học công nghệ tiên tiến; xây dựng, mở
rộng mạng lưới quan hệ với các chuyên gia quốc tế, nhất là chuyên gia trong các lĩnh vực công nghệ mới,
công nghệ trọng điểm của CMCN 4.0.

Nhiều nhà nghiên cứu kinh tế chỉ ra rằng, cuộc cách mạng này có thể mang lại sự bất bình đẳng
lớn hơn, đặc biệt là ở khả năng phá vỡ thị trường lao động. Khi tự động hóa thay thế người lao động bằng
máy móc có thể làm trầm trọng thêm sự chênh lệch giữa lợi nhuận so với vốn đầu tư và lợi nhuận so với
sức lao động. Mặt khác, tri thức sẽ là yếu tố quan trọng của sản xuất trong tương lai và làm phát sinh một
thị trường việc làm ngày càng tách biệt thành các mảng "kỹ năng thấp/lương thấp" và "kỹ năng cao/lương
cao", do đó dễ dẫn đến sự phân tầng xã hội ngày càng trầm trọng thêm.

Chúng ta đang ở trong giai đoạn cơ cấu “dân số vàng”. Tuy nhiên, quá trình chuyển đổi cơ cấu
kinh tế lại chưa tương thích với quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động. Để hướng đến một nền sản xuất
công nghiệp hiện đại, số lượng giai cấp công nhân lao động công nghiệp chỉ chiếm khoảng 24% lực
lượng lao động xã hội là tỷ lệ còn thấp.

Mặt bằng chung trình độ văn hóa và tay nghề của công nhân nước ta dù được cải thiện, song vẫn
còn thấp, đã ảnh hưởng không thuận đến việc tiếp thu khoa học - kỹ thuật, đến năng suất lao động, chất
lượng sản phẩm. Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, với tốc độ tăng năng suất lao động như hiện nay, thì phải
đến năm 2038, năng suất lao động của công nhân Việt Nam mới bắt kịp Philippines, năm 2069 chúng ta
mới bắt kịp được Thái Lan. Do đó, nếu không tập trung đầu tư nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, có kế
hoạch đào tạo đón đầu, thì chúng ta sẽ bị thiếu hụt nghiêm trọng về lao động khi các dự án lớn đầu tư vào
Việt Nam. Một thực trạng đáng quan tâm khác là tỷ lệ thất nghiệp của những người đã qua đào tạo đang
ngày càng cao…

22
Trước thực trạng trên, để xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam ngày càng lớn mạnh, thích ứng
cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, cần thực hiện tốt một số giải pháp:

Thứ nhất, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho công nhân lao động, đặc biệt là người lao động
ở các khu công nghiệp, khu chế xuất. Từng bước thực hiện chính sách tiền lương bảo đảm đời sống cho
người lao động và có tích lũy từ tiền lương; đồng thời, mở rộng cơ hội cho công nhân mua cổ phần trong
doanh nghiệp, nhằm góp phần xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định và tiến bộ, giảm thiểu tranh
chấp lao động và đình công trong doanh nghiệp. Các cơ quan chức năng và tổ chức công đoàn cần tăng
cường công tác kiểm tra, thanh tra để bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động,
xử lý nghiêm các doanh nghiệp vi phạm quyền lợi của người lao động. Xây dựng và thực hiện tốt các
chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, chính sách cụ thể giải quyết nhà ở cho
người lao động. Khi phê duyệt các khu công nghiệp, khu chế xuất, cần yêu cầu dành quỹ đất tương xứng
để xây dựng nhà ở và các công trình dịch vụ thiết yếu cho công nhân. Chú trọng chăm lo xây dựng đời
sống văn hóa - tinh thần, nhất là quan tâm tới các dịch vụ văn hóa, thể thao, chăm sóc sức khỏe cho người
lao động.

Thứ hai, nâng cao chất lượng đào tạo nghề, phát triển đội ngũ công nhân có trình độ cao, ngày
càng làm chủ được khoa học - công nghệ, có kỹ năng lao động, tác phong công nghiệp, ý thức kỷ luật.
Cần kịp thời bổ sung, sửa đổi, xây dựng chính sách đào tạo và đào tạo lại công nhân; tạo điều kiện cho họ
tự học tập nâng cao trình độ; điều chỉnh, bổ sung quy hoạch mạng lưới các cơ sở dạy nghề gắn với các
ngành, các vùng kinh tế trọng điểm. Khuyến khích các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế dành
kinh phí và thời gian thích đáng cho đào tạo, đào tạo lại công nhân.

Thứ ba, xây dựng và thực hiện nghiêm hệ thống chính sách, pháp luật liên quan đến việc bảo đảm
quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của công nhân. Xây dựng, hoàn thiện các chính sách, pháp luật về lao
động, việc làm, đời sống, nâng cao thể chất cho công nhân. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của
Nhà nước, tổ chức công đoàn và các tổ chức chính trị - xã hội khác trong doanh nghiệp, có chế tài xử lý
nghiêm các tổ chức và cá nhân vi phạm chính sách, pháp luật. Khuyến khích, tạo điều kiện cho người lao
động chủ động học tập nâng cao kiến thức pháp luật, nắm bắt những quy định cơ bản về quyền và nghĩa
vụ của mình trong quan hệ lao động, giúp họ tự bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng trong trường hợp cần
thiết.
2. Tầm nhìn về Khoa học công nghệ của Bộ Khoa học và Công nghệ về năm 2020 và xa hơn
nữa

Theo Báo cáo Năng suất Việt Nam 2018, năng suất lao động khu vực công nghiệp đạt 154,1 triệu
đồng/lao động, tăng 55,4 triệu đồng/lao động so với năm 2011; đóng góp của năng suất các nhân
tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng kinh tế đạt 42,7%. Đặc biệt, KH&CN cũng góp phần quan
trọng trong việc gia tăng tỷ lệ nội địa hóa linh kiện, phụ tùng trong nhiều ngành công nghiệp; hình
thành một số doanh nghiệp/tập đoàn kinh tế có tiềm lực tốt, có khả năng cạnh tranh toàn cầu.

Theo Thứ trưởng Trần Văn Tùng, Năm 2020 và những năm tiếp theo, Bộ KH&CN sẽ tiếp tục đổi
mới, đưa khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo phát triển lên một tầm cao mới, đóng góp ngày
càng to lớn và thiết thực cho sự nghiệp phát triển nhanh và bền vững đất nước. Bộ KH&CN sẽ tập
trung triển khai các Chương trình, đề án trọng tâm cũng như thực hiện đồng bộ các giải pháp về
kinh tế, thương mại, đầu tư và cải thiện môi trường kinh doanh để kích cầu công nghệ và nhu cầu

23
đổi mới sáng tạo từ khu vực doanh nghiệp. Tăng cường năng lực hấp thụ công nghệ của doanh
nghiệp thông qua việc tiếp tục khuyến khích doanh nghiệp đầu tư lập quỹ phát triển KH&CN,
thành lập viện nghiên cứu, doanh nghiệp KH&CN, doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo. Tăng
cường hợp tác công tư trong triển khai các dự án công nghệ quy mô lớn và hỗ trợ khởi nghiệp
sáng tạo.

Thời gian tới, Bộ KH&CN tiếp tục hoàn thiện hành lang pháp lý để thúc đẩy sự phát triển của
khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo theo hướng hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp
luật hướng dẫn nội dung chi và quản lý Quỹ phát triển KH&CN của doanh nghiệp nhằm trao
quyền tự chủ, tự quyết định sử dụng Quỹ phát triển KH&CN cho hoạt động nghiên cứu khoa học,
đổi mới công nghệ, đổi mới sáng tạo và đầu tư cho khởi nghiệp sáng tạo phục vụ trực tiếp hoạt
động sản xuất kinh doanh. Triển khai xây dựng dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
Sở hữu trí tuệ để trình Quốc hội vào năm 2021.

Bộ KH&CN cũng sẽ tập trung triển khai các giải pháp nhằm tiếp tục đổi mới tư duy trong công
tác quản lý khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Một số giải pháp cụ thể như: Tiếp tục đổi
mới hệ thống sáng tạo quốc gia theo hướng lấy doanh nghiệp làm trung tâm và trường đại học là
chủ thể nghiên cứu mạnh. Thúc đẩy hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo quốc gia để phát triển mạnh
lực lượng doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo có tiềm năng tăng trưởng nhanh. Thúc đẩy gắn kết,
hợp tác giữa các trường đại học, viện nghiên cứu với khu vực công nghiệp và doanh nghiệp để
đẩy mạnh thương mại hóa kết quả nghiên cứu trong thực tiễn sản xuất, kinh doanh. Tiếp tục đổi
mới hoạt động quản lý khoa học và công nghệ theo hướng dỡ bỏ các rào cản, giải phóng tối đa
tiềm năng sáng tạo. Phát triển đội ngũ cán bộ khoa học mạnh, kết hợp đồng thời biện pháp động
viên, khuyến khích và đặt yêu cầu trở lại đối với nhà khoa học. Quan tâm thúc đẩy sự phát triển
của thị trường khoa học và công nghệ, các hoạt động kết nối cung cầu công nghệ.

3. Một số thành tựu Khoa học công nghệ nổi bật ở Việt Nam những năm gần đây

Vệ tinh do kỹ sư Việt Nam thiết kế bay vào vũ trụ. ​Vào tháng 1 năm 2019, một sự kiện được coi như
một dấu mốc quan trọng trong lịch sử phát triển ngành công nghệ vũ trụ của Việt Nam, đó chính là lần
đầu tiên, vệ tinh do kỹ sư Việt Nam thiết kế bay vào vũ trụ. Vệ tinh này được đặt tên là Micro Dragon,
mang theo ước mơ vươn tới không gian của các nhà khoa học trong nước. Sự kiện này đã giúp chúng ta
đã viết tên Việt Nam lên bản đồ khoa học vũ trụ thế giới. Sau khi được phóng lên vệ tinh ngày, hiện các
kỹ sư Việt Nam cùng các giáo sư, chuyên gia Nhật Bản đang điều khiển, vệ tinh làm việc trên quỹ đạo
gồm: chụp ảnh, thu nhận, truyền tín hiệu từ vệ tinh.

Giàn khoan tự nâng 90m nước. ​Đây là giàn khoan đầu tiên của Việt Nam có thể đạt tới độ sâu 90m
nước, thuộc sở hữu của Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam (PVN). Ở Việt Nam, dự án cơ khí này được
tài trợ nhiều nhất. Sau khi dự án được lắp đặt thành công trên biển, Việt Nam có thể tự hào là quốc gia sở
hữu giàn khoan có chất lượng nằm trong top 3 khu vực châu Á và top 10 trên thế giới.

Phương pháp phẫu thuật nội soi cắt các khối u tuyến tụy. ​Khoa Phẫu thuật bụng - Bệnh viện 103, Hà
Nội đã thành công trong việc xây dựng và hoàn thiện một phương pháp phẫu thuật nội soi có thể loại bỏ
các khối u ở tuyến tụy. Đây là loại phẫu thuật cực kỳ phức tạp và liên quan đến các thiết bị kỹ thuật cao.
Sự thành công của phương pháp này đánh dấu một cột mốc mới về phẫu thuật nội soi ổ bụng tại Việt
Nam.

24

You might also like