You are on page 1of 130

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN


-----o0o-----

NGUYỄN THỊ HẰNG

ẢNH HƢỞNG CỦA PHẬT GIÁO

ĐẾN LỐI SỐNG CỦA NGƢỜI VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ

Chuyên ngành Triết học

HÀ NỘI – 2015
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----o0o-----

NGUYỄN THỊ HẰNG

ẢNH HƢỞNG CỦA PHẬT GIÁO

ĐẾN LỐI SỐNG CỦA NGƢỜI VIỆT NAM HIỆN NAY

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Triết học

Mã số: 60 22 03 01

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS Đặng Thị Lan

HÀ NỘI – 2015
LỜI CẢM ƠN
Sau hai năm học tập tại khoa Triết học - Trường Đại học Khoa học Xã
hội và Nhân văn, em có được kết quả như ngày hôm nay là do sự nỗ lực, cố
gắng của bản thân và sự giúp đỡ, chỉ bảo tân tình, chu đáo của các thầy cô
trong khoa Triết học.
Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến các thầy cô giáo trong khoa Triết
học, đặc biệt là cô giáo PGS.TS Đặng Thị Lan - người đã tận tình giúp đỡ,
hướng dẫn em trong quá trình học tập cũng như trong thời gian làm luận văn.
Cảm ơn gia đình, bạn bè và những người thân đã động viên, giúp đỡ,
tạo điều kiện cho em hoàn thành luận văn này.
Mặc dù đã cố gắng hết sức nhưng vì thời gian có hạn, trình độ năng lực
và kinh nghiệm về lý luận và thực tiễn còn nhiều hạn chế nên luận văn không
tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được những lời nhận xét, góp ý
chân thành của quý thầy cô cũng như bạn bè để luận văn của em được hoàn
thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!

Học viên

Nguyễn Thị Hằng


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...........................................................................................................1
CHƢƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHẬT GIÁO
VÀ LỐI SỐNG CỦA NGƢỜI VIỆT NAM.................................................10
1.1. Những tƣ tƣởng cơ bản của Phật giáo..................................................10
1.1.1. Thế giới quan Phật giáo.....................................................................10
1.1.2. Nhân sinh quan Phật giáo..................................................................17
1.2. Sự du nhập và phát triển của Phật giáo ở Việt Nam.............................29
1.3. Lối sống của ngƣời Việt Nam.................................................................36
1.3.1. Quan niệm về lối sống......................................................................36
1.3.2. Đặc điểm lối sống của người Việt Nam truyền thống........................42
1.3.3. Sự biến đổi của lối sống và những vấn đề đặt ra trong xây dựng lối
sống của người Việt Nam hiện nay.............................................................47
CHƢƠNG 2. NHỮNG ẢNH HƢỞNG CHỦ YẾU CỦA PHẬT GIÁO ĐẾN
LỐI SỐNG CỦA NGƢỜI VIỆT NAM HIỆN NAY....................................59
2.1. Ảnh hƣởng của Phật giáo trong cách thức lao động sản xuất và tổ chức
cuộc sống của ngƣời Việt Nam hiện nay.......................................................59
2.1.2. Những ảnh hưởng tích cực................................................................59
2.1.2. Một số ảnh hưởng tiêu cực................................................................71
2.2. Ảnh hƣởng của Phật giáo đến phong tục, tập quán..............................75
2.2.1. Phật giáo góp phần củng cố, duy trì các phong tục, tập quán của người
Việt Nam....................................................................................................75
2.2.2. Phật giáo ảnh hưởng đến tập tục đi lễ chùa, cúng Rằm, mùng Một....78
2.2.3. Phật giáo ảnh hưởng trong tục ăn chay, phóng sinh và bố thí............81
2.2.4. Phật giáo ảnh hưởng đến nghi thức ma chay, cưới hỏi.......................82
2.3. Ảnh hƣởng của Phật giáo đến phƣơng thức ứng xử, triết lý sống của
ngƣời Việt Nam..............................................................................................87
2.4. Một số khuyến nghị nhằm phát huy ảnh hƣởng tích cực, hạn chế ảnh
hƣởng tiêu cực của Phật giáo đến lối sống của ngƣời Việt Nam hiện nay 106
2.4.1. Không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân và
đồng bào Phật tử nhằm xa rời mê tín dị đoan, tiếp nhận những tư tưởng tích
cực của Phật giáo......................................................................................106
2.4.2. Phát huy vai trò tích cực của các tổ chức Phật giáo, tổ chức Phật tử
trong đời sống xã hội................................................................................109
2.4.3. Nâng cao hiệu quả tổ chức và quản lý đối với các hoạt động tín
ngưỡng, tôn giáo nói chung, Phật giáo nói riêng.......................................111
KẾT LUẬN...................................................................................................114
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................116
1. Lý do chọn đề tài
MỞ ĐẦU
Phật giáo ra đời cách đây hơn 2500 năm và đã được truyền bá, có ảnh
hưởng tới nhiều nước trên thế giới như Xrilanca, Mianma, Ai Cập, Thái Lan,
Việt Nam, Trung Quốc… Trong quá trình du nhập và trải qua các thời kỳ
lịch sử, Phật giáo lại phụ thuộc vào tình hình kinh tế - xã hội, điều kiện lịch
sử, văn hóa ở mỗi quốc gia mà có những biến đổi cho phù hợp. Ngày nay,
trên phạm vi quốc tế, Phật giáo đang chiếm vị trí sâu rộng trong đời sống
của con người trong đó có Việt Nam.
Phật giáo vừa là một tôn giáo, vừa là triết học bởi trong nó chứa đựng
nhiều quan điểm sâu sắc về thế giới, nhân sinh. Trải qua bao thăng trầm của
lịch sử, từng chịu biết bao thử thách trong sự va chạm với các tôn giáo khác,
song Phật giáo vẫn tồn tại và phát triển mạnh mẽ cho đến ngày nay. Sở dĩ đạo
Phật có được sức sống mãnh liệt đó là vì mục đích tối thượng của nó là cứu
khổ đem lại sự an lạc, hạnh phúc cho con người. Mọi sự thuyết pháp của đức
Phật đều tập trung vào cuộc sống hiện thực của chúng sinh mà ít bàn đến
những hiện tượng tự nhiên, điều đó hoàn toàn phù hợp với đông đảo quần
chúng khi trình độ nhận thức còn nhiều hạn chế. Hơn nữa, đạo Phật đã khơi
dậy được những giá trị văn hóa trong con người hướng tới chân – thiện – mỹ,
khơi dậy được khát khao của con người muốn được giải thoát trước những
mâu thuẫn, bế tắc do chính con người tạo ra. Bởi vậy, đạo Phật xét về mặt tích
cực, nó thực sự là chỗ dựa tinh thần cho một bộ phận đông đảo quần chúng
nhân dân. Cũng chính bởi vậy mà đạo Phật đã bám sâu vào trong đời sống xã
hội, đáp ứng được nhu cầu thiết thực của con người trong mọi thời đại.
Phật giáo du nhập vào Việt Nam từ rất sớm và luôn gắn bó với những
bước thăng trầm của lịch sử dân tộc. Những tư tưởng, giáo lý của Phật giáo
đã ngấm sâu vào tư duy và trở thành một bộ phận văn hóa, nếp sống của
1
người Việt. Với bề dày gần hai nghìn năm tại Việt Nam, Phật giáo đã khẳng
định chân giá trị của nó trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Phật giáo đã
trở thành một hệ tư tưởng - tôn giáo có sức sống lâu dài và đã có những ảnh
hưởng sâu sắc đến đời sống con người Việt Nam. Trải qua mọi thời đại, văn
hóa Phật giáo là một bộ phận không thể tách rời của văn hóa dân tộc. Đạo
Phật với quan niệm nhân sinh độc đáo đã trở thành một bộ phận không thể
thiếu của nền văn hóa Việt Nam. Phật giáo với cái đích là cứu con người thoát
khỏi nỗi khổ muôn đời, với cứu cánh là giải thoát, nó mang đậm tính triết học
hơn bất kỳ một tôn giáo nào khác. Phật giáo chứa đựng một hệ thống những
tư tưởng về thế giới quan, nhân sinh quan vô cùng sâu sắc. Những tư tưởng cơ
bản của Phật giáo đã và đang có những tác động, ảnh hưởng sâu rộng trên
nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội ở nước ta hiện nay.
Trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay, do sự tác động mạnh mẽ
của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và quá trình giao lưu,
hội nhập quốc tế, đạo đức, lối sống của con người có nhiều biến đổi theo cả
chiều hướng tích cực và tiêu cực. Chúng ta đang phải đối mặt với tình trạng suy
thoái nghiêm trọng về đạo đức, lối sống trong một bộ phận dân cư, trong đó có
cả các đảng viên. Trong tình hình ấy, chúng ta cần phát huy mọi nguồn lực để
xây dựng một lối sống tiến bộ, lành mạnh. Phật giáo chứa đựng trong đó những
tư tưởng nhân văn về đạo đức vẫn còn nhiều điểm phù hợp với công cuộc xây
dựng xã hội mới như Đảng ta khẳng định. Biết phát huy những giá trị tích cực
trong thế giới quan và nhân sinh quan Phật giáo là một nhân tố quan trọng góp
phần xây dựng lối sống ở nước ta hiện nay. Với tầm quan trọng và ý nghĩa như
vậy, tác giả lựa chọn chọn đề tài: “Ảnh hưởng của Phật giáo đến lối sống
của người Việt Nam hiện nay” làm luận văn Thạc sĩ của mình.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Phật giáo là một trong ba tôn giáo lớn trên thế giới cả về bề dày lịch sử,

2
tính đồ sộ của hệ thống giáo lý và số lượng tín đồ, do đó thu hút được sự quan
tâm rất lớn của giới khoa học. Nghiên cứu về Phật giáo được rất nhiều nhà
khoa học trong và ngoài nước nghiên cứu trên nhiều phương diện khác nhau
và đạt được kết quả đáng trân trọng. Có thể kể đến một số công trình nghiên
cứu trên các phương diện sau:
2.1. Các công trình nghiên cứu về Phật giáo, tư tưởng của Phật giáo và lịch
sử Phật giáo Việt Nam
“Việt Nam Phật giáo sử luận” (Nxb Văn học Hà Nội, 1992) của
Nguyễn Lang đã đề cập đến các giai đoạn du nhập của Phật giáo vào Việt
Nam, vai trò của các thiền sư trong công cuộc dựng nước và giữ nước của
các triều đại phong kiến Việt Nam. Trong sách “Lịch sử Phật giáo Việt
Nam” (Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1998), các tác giả đã bàn về lịch sử du
nhập và quá trình phát triển của Phật giáo từ thời kỳ đầu mới du nhập đến
thế kỷ XX, bàn về các tông phái Phật giáo và đã phân tích vai trò của Phật
giáo đối với các lĩnh vực tư tưởng chính trị trong suốt chiều dài lịch sử Việt
Nam; “Mấy vấn đề Phật giáo và lịch sử tư tưởng Việt Nam” của Ủy ban
Khoa học Xã hội Việt Nam, Việt Triết học (Hà Nội, 1996) đã đề cập đến
tính chất của Phật giáo Việt Nam, các tông phái Phật giáo ở Việt Nam, vai
trò của Phật giáo trong nền văn hóa dân tộc và ảnh hưởng của Phật giáo đối
với lịch sử tư tưởng Việt Nam… Bên cạnh đó, các công trình nghiên cứu về
triết học Phật giáo như“Đại cương triết học Phật giáo” của Thích Đạo
Quang (Nxb Thuận Hóa - Huế, 1996) đã phân tích những giá trị trong các
giáo lý cơ bản của Phật giáo và đề cập một cách khái quát các tông phái cơ
bản của đạo Phật; “Tư tưởng triết học Phật giáo Việt Nam”của Nguyễn Duy
Hinh đã trình bày và phân tích một cách sâu sắc các vần đề của triết học
Phật giáo như: Bản thể luận, nhận thức luận, giải thoát luận và các nội dung
triết học Phật giáo Việt Nam như tư tưởng triết học Phật giáo sơn môn Dâu,

3
tư tưởng triết học Phật giáo sơn môn Kiến Sơ và triết học Phật giáo tông
Trúc Lâm... Nguyễn Hùng Hậu với cuốn “Đại cương triết học Phật giáo
Việt Nam” (Nxb Khoa học xã hội, 2002) dưới góc độ triết học đã khái quát
quá trình du nhập và phát triển của Phật giáo ở Việt Nam. Tác giả đã trình
bày rõ sự tiếp biến và phát triển của Phật giáo ở Việt Nam qua các giai
đoạn và chỉ ra đặc trưng của Phật giáo Việt Nam là sự kết hợp của ba yếu
tố Thiền – Tịnh – Mật trong sự hòa quyện với tín ngưỡng bản địa tạo nên
những đặc điểm riêng biệt của Phật giáo Việt Nam…Cuốn sách này là một
trong những nguồn tư liệu quý giá khi nghiên cứu Phật giáo và Phật giáo
Việt Nam. Phan Văn Hùm viết cuốn “Phật giáo triết học” bản in lần thứ
ba năm 1943 dưới góc độ tiếp cận triết học, tác giả tập trung phân tích
nguyên lý của Phật giáo nguyên thủy: vấn đề tâm và vật, Ngũ uẩn, Nghiệp,
Thiền định; đưa ra những nhận định chung nhất về bản thể luận, nhận thức
luận của triết học Phật giáo.
Ngoài ra, trong nhóm công trình nghiên cứu về Phật giáo cũng có một
số công trình nghiên cứu của các học giả nước ngoài, có thể kể đến một số
công trình như: “Cốt tủy của đạo Phật” (1971) của Daisetz Teitaro Suzuki
do Trúc Thiên dịch (Nxb An Tiêm, Sài Gòn); “Nền tảng của đạo Phật” của
Peter D. Santina do Thích Tâm Quang dịch (NXb Thành phố Hồ Chí Minh).
Junjiro Takakusu với cuốn “Tinh hoa triết học Phật giáo” (The Essentials of
Buddhis). Nhan đề lần xuất bản thứ nhất do Ban Tu thư Viện Đại học Vạn
Hạnh dịch là “Các tông phái của đạo Phật”, lần tái bản năm 2008 Tuệ Sỹ
dịch ra tiếng việt là “Tinh hoa triết học Phật giáo”. Ngoài phần giới thiệu và
kết luận, cuốn sách gồm có 14 chương. Ông đã trình bày triết học Phật giáo
theo xu hướng hệ thống trong đó tập trung lý giải các nguyên lý cơ bản của
Phật giáo ở các chương I, II, III. Ông đã chỉ ra 6 nguyên lý căn bản trong
triết học Phật giáo là nguyên lý duyên khởi, nguyên lý tất định và bất định,

4
nguyên lý tương dung, nguyên lý như thực, nguyên lý viên dung, nguyên lý
Niết bàn hay giải thoát viên mãn… Emmanuel Kant khi nghiên cứu về Phật
giáo Tích Lan, Miến Điện, Trung Quốc, Thái Lan, Nhật Bản cũng đánh giá
cao những giá trị đạo đức của tôn giáo này thông qua nhận thức và hành vi
của các vị tu sĩ, qua thuyết “Duyên khởi”, thuyết “Luân hồi” của Phật giáo.
Sau Emmanuel Kant, một số triết gia người Đức khác như Schelling, Hegel,
Nietzche, Schopenhaueur… cũng chú ý đến Phật giáo. Nhìn chung, các triết
gia người Đức này đều đánh giá Phật giáo là một tôn giáo cao thâm thể hiện ở
các quan niệm của nó về thế giới và con người như quan niệm: thế giới là vô
thủy vô chung, thế giới vận động biến đổi không ngừng, con người là “vô
ngã”… Đặc biệt, họ rất chú ý đến quan niệm “Nhân quả, luân hồi’ trong giáo
lý nhà Phật, và cho đây là một trong những điều huyền bí nhất cần khám phá
trong văn hoá phương Đông.
2.2. Các công trình nghiên cứu về ảnh hưởng của Phật giáo đối với đạo
đức, lối sống của con người Việt Nam
Về lĩnh vực này có thể kể đến các công trình như: “Ảnh hưởng của các
hệ tư tưởng và tôn giáo đối với con người Việt Nam hiện nay” (Nxb Chính trị
quốc gia Hà Nội, 1997) do Nguyễn Tài Thư (chủ biên) đã đề cập đến vai trò
của Phật giáo trên một số lĩnh vực như: ảnh hưởng của Phật giáo đối với hệ tư
tưởng, đối với sự hình thành nhân cách con người Việt Nam hiện nay; “Phật
giáo và văn hóa Việt Nam” (Nxb Hà Nội, 1999) của Nguyễn Đăng Duy đã đề
cập đến vai trò của Phật giáo trong đời sống chính trị, văn hóa, đạo đức của
dân tộc Việt Nam. Trần Văn Giàu với một loạt các công trình như: “Giá trị
tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam” (Nxb Khoa học xã hội, 1975),
“Đạo đức Phật giáo trong thời hiện đại” (Nxb TP. Hồ Chí Minh, 1993) và
“Sự phát triển của tư tưởng Việt Nam từ giữa thế kỷ XIX đến cách mạng
tháng Tám” (3 tập) (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 1997, 1998) đã đề cập

5
đến những giá trị đạo đức Phật giáo, những đóng góp của Phật giáo trong lịch
sử tư tưởng Việt Nam. Học viện Phật giáo Việt Nam tại Thành phố Hồ Chí
Minh với “Phật giáo nhập thế và phát triển” (Nxb Tôn giáo, 2008) đã tập
hợp các bài viết của các nhà khoa học, các tri thức Phật giáo viết về vai trò
Phật giáo trong các lĩnh vực của đời sống xã hội Việt Nam hiện nay như:
Phật giáo trong thời kỳ hội nhập và phát triển, Phật giáo với chính trị, xã
hội; Phật giáo với sự phát triển bền vững của đất nước, Phật giáo với xã hội
dân sự, Phật giáo với sự nghiệp độc lập, Phật giáo với đời sống tâm linh…
“Phật giáo với dân tộc” của Thích Thanh Từ (Thành Hội Phật giáo TP. Hồ
Chí Minh, 1995) đã bàn về những nét chính trong luân lý Phật giáo, những
giới luật của phật tử tại gia và phật tử xuất gia, về đóng góp của Phật giáo
cho lịch sử dân tộc trên các phương diện chính trị, tư tưởng, văn nghệ, về
các giá trị đạo đức Phật giáo với tuổi trẻ Việt Nam hiện đại. Luận án Tiến sĩ
Triết học của Lê Hữu Tuấn với đề tài: “Ảnh hưởng của những tư tưởng triết
học Phật giáo trong đời sống văn hóa tinh thần của dân tộc Việt Nam” (Hà
Nội, 1999); Luận án tiến sĩ triết học của Tạ Chí Hồng với đề tài: “Ảnh
hưởng của đạo đức Phật giáo trong đời sống đạo đức xã hội Việt Nam hiện
nay” (Hà Nội, 2004); “Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo trong đời
sống tinh thần của con người Việt Nam và sự biến đổi của nó trong quá
trình đổi mới hiện nay” của Mai Thị Dung, luận án Tiến sĩ Triết học, Học
viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2003…
Ngoài ra, còn có rất nhiều các công trình trên các tạp chí cũng đề cập
đến những ảnh hưởng của Phật giáo trên các phương diện khác nhau trong
văn hóa, lối sống của người Việt Nam như: “Ảnh hưởng của Phật giáo đối
với tư uy và cách ứng ử của người Việt Nam hiện nay” (Tạp chí xã hội học,
số 4 1989) và “Một số suy ngh về ảnh hưởng của Phật giáo đối với tư uy
người Việt” (Tạp chí Triết học, số 5 1996) của GS.TS Nguyễn Hùng Hậu;

6
“Phật giáo và sự hình thành nh n cách con người Việt Nam hiện nay” (Tạp
chí Triết học, số 2/1994) của GS.TS Nguyễn Tài Thư; “Tôn giáo và tín
ngưỡng trong đời sống văn hóa hiện nay” (Tạp chí cộng sản số 15/1999) của
GS.TS Đỗ Quang Hưng; “Vài suy ngh về Phật giáo dân gian Việt Nam”
(Tạp chí nghiên cứu Phật học, số 2/1997) của Hoàng Thị Lan; “Một vài đóng
góp của Phật giáo đối với văn hóa Việt Nam” (Tạp chí nghiên cứu Tôn giáo,
số 5/2005) của Lê Đức Hạnh; “Bàn thêm về ảnh hưởng của Phật giáo trong
đời sống xã hội Việt Nam hiện nay” (Tạp chí nghiên cứu tôn giáo, số
10/2007) của Lê Văn Đính; “Phật giáo Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới,
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” (Tạp chí nghiên cứu Phật học, số 3/2006) của
Hòa thượng Thích Thanh Tứ; “Nghiên cứu và ứng dụng các giá trị văn hóa
Phật giáo trong xã hội Việt Nam hiện nay” (Tạp chí nghiên cứu Tôn giáo, số
5/2008) của Nguyễn Hồng Dương; “Ảnh hưởng của “T m” trong Phật giáo
đối với văn hóa tinh thần của người Việt Nam hiện nay” (Tạp chí nghiên cứu
Tôn giáo, số 5/2008) của Ngô Thị Lan Anh…
Nhìn chung, có thể nhận xét khái quát các công trình nghiên cứu trên
đã tiếp cận Phật giáo và vai trò của Phật giáo dưới nhiều quan điểm và góc độ
khác nhau. Đồng thời, khẳng định Phật giáo có giá trị và ảnh hưởng sâu sắc
trong đời sống xã hội Việt Nam. Những tư tưởng cơ bản của Phật giáo kết
hợp với văn hóa truyền thống tạo nên sự đa dạng, phong phú của đời sống
tinh thần con người Việt Nam hiện nay. Chính vì vậy, trên cơ sở tiếp thu, kế
thừa những kết quả nghiên cứu của các công trình đã có, luận văn tập trung
vào việc phân tích, đánh giá những ảnh hưởng của Phật giáo đến lối sống của
người Việt Nam hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Trên cơ sở trình bày một số vấn đề lý luận chung về Phật giáo, lối sống

7
con người Việt Nam, luận văn làm rõ mộ số ảnh hưởng chủ yếu của Phật giáo
đến lối sống của người Việt Nam hiện nay và đưa ra một số khuyến nghị
nhằm phát huy ảnh hưởng tích cực và hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của Phật
giáo đến lối sống của người Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ
Để thực hiện được mục đích nghiên cứu trên, luận văn có nhiệm vụ:
Thứ nhất, phân tích những tư tưởng cơ bản của Phật giáo; quá trình du
nhập, phát triển của Phật giáo ở Việt Nam và lối sống của người Việt Nam.
Thứ hai, phân tích làm rõ một số ảnh hưởng chủ yếu của Phật giáo đến
lối sống con người Việt Nam hiện nay.
Thứ ba, đề xuất một số khuyến nghị nhằm phát huy ảnh hưởng tích cực
và hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của Phật giáo đến lối sống của người Việt
Nam hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Ảnh hưởng của Phật giáo đến lối sống của người Việt Nam hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phật giáo hàm chứa trong nó những tư tưởng rất rộng lớn về thế giới và
nhân sinh. Trong khuôn khổ của luận văn, tác giả tập trung nghiên cứu, giới
thiệu thế giới quan và nhân sinh quan Phật giáo, trong đó chứa đựng những
triết lý có ảnh hưởng đến lối sống con người Việt Nam.
Phạm trù lối sống cũng rất rộng, tác giả chọn ra 3 phương diện cơ bản
nhất và phân tích sự ảnh hưởng của Phật giáo đến các phương diện đó.
Về mặt thời gian, luận văn nghiên cứu ảnh hưởng chủ yếu của Phật
giáo đến một số phương diện thuộc lối sống của người Việt Nam từ khi đổi
mới (từ năm 1986) đến nay.

8
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh và quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về
vấn đề tôn giáo nói chung, Phật giáo nói riêng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu của triết học như: Phân
tích - tổng hợp, quy nạp – diễn dịch, so sánh, khái quát hóa…
6. Đóng góp của luận văn
- Luận văn góp phần vào việc phân tích, đánh giá ảnh hưởng của Phật
giáo đến một số phương diện của lối sống người Việt Nam hiện nay.
- Luận văn bước đầu đề xuất một số khuyến nghị cơ bản nhằm phát huy
ảnh hưởng tích cực, hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của Phật giáo đến lối sống
của người Việt Nam hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
7.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn góp phần vào việc nghiên cứu tư tưởng cơ bản của Phật giáo,
quá trình du nhập, phát triển của Phật giáo ở Việt Nam và ảnh hưởng của nó
đối với lối sống của người Việt Nam hiện nay.
7.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong việc giảng dạy,
nghiên cứu về vấn đề tôn giáo nói chung, Phật giáo nói riêng trong các trường
đại học, cao đẳng và cho những ai quan tâm đến vấn đề này.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
đề tài gồm 2 chương 7 tiết.

9
CHƢƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHẬT GIÁO
VÀ LỐI SỐNG CỦA NGƢỜI VIỆT NAM
1.1. Những tƣ tƣởng cơ bản của Phật giáo
Toàn bộ nội dung tư tưởng của Phật giáo được thể hiện Tam Tạng kinh
(Kinh Tạng, Luật Tạng và Luận Tạng). Kinh sách Phật giáo được viết bằng
hai thứ tiếng: tiếng Pali (ngôn ngữ bình dân, giản dị), tiếng Phạn (ngôn ngữ trí
thức, mẹo luật chặt chẽ tế nhị).
Cùng với sự biến đổi của lịch sử xã hội, Phật giáo cũng có nhiều biến đổi
về tổ chức cũng như giáo lý. Nhiều hệ phái tồn tại cho đến ngày nay là biểu
hiện của sự biến đổi đó. Mặc dù vậy, những nội dung, tư tưởng chủ yếu, những
triết lý về thế giới quan, về nhân sinh cùng con đường giải thoát khỏi bể khổ
của Phật giáo vẫn là cái chủ đạo, xuyên suốt trong quá trình biến đổi của Phật
giáo. Những tư tưởng đó ảnh hưởng sâu sắc đến lối sống của con người Việt
Nam
1.1.1. Thế giới quan Phật giáo
Thế giới quan là “tổng hợp tất cả những quan niệm, chính kiến về thế
giới, về cấu trúc và nguồn gốc của nó, ý ngh a và giá trị đời sống của con
người, lòng tin của con người trong hiện thực” [43,tr.167].
Từ điển Triết học định nghĩa: “Thế giới quan được hiểu là toàn bộ những
nguyên tắc, quan điểm và niềm tin định hướng hoạt động và quan hệ của từng
cá nhân, của một tập đoàn ã hội, của một giai cấp hay xã hội nói chung đối với
thực tại” [77,tr.539]
Như vậy, có thể hiểu thế giới quan là hệ thống quan điểm, quan niệm,
tư tưởng của con người về thế giới, về cuộc đời và vị trí của con người trong
thế giới đó.
Thế giới quan tôn giáo là hệ thống quan điểm, tư tưởng tôn giáo, thể

10
hiện niềm tin của con người vào sức mạnh của các lực lượng siêu nhiên, được

11
biểu hiện tập trung trong các kinh sách của các tôn giáo, được các chức sắc
tôn giáo truyền bá một cách tự giác.
Thế giới quan Phật giáo được thể hiện tập trung trong quan điểm về thế
giới, tư tưởng vô thường, thuyết nhân quả và thuyết duyên khởi. Những tư
tưởng này chứa đựng yếu tố duy vật và biện chứng, nó đối lập với định mệnh
luận và thần linh luận.
- Quan niệm của Phật giáo về thế giới
Theo GS.TS Nguyễn Hùng Hậu trong cuốn “Đại cương Triết học Phật
giáo Việt Nam - Tập 1: Từ khởi nguyên đến thế kỷ XIV”: Phật giáo thừa nhận
thế giới về đại thể có hai yếu tố cơ bản là Danh và Sắc. Khái niệm danh và sắc
có từ thời Upanishad để chỉ hiện tượng và cá thể nhưng đến thời đức Phật nó
ngụ ý là yếu tố tinh thần và yếu tố vật chất, nó chính là vật và tâm. Theo
thuyết “Chư pháp nhân duyên sinh” thì hai cái đó liên hệ khăng khít với nhau,
không tách rời nhau, không có cái này thì không có cái kia và ngược lại. Phật
giáo quan niệm: “Nhất thiết duy tâm tạo” tức là mọi sự vật hiện tượng từ
“tâm” mà sinh ra. Tâm là “sắc biên tế tướng” là cái ở giữa cái có và cái không
(vô cùng nhỏ bé) rất vi tế huyền diệu và vô thủy vô chung. Tâm có tên là
“Như Lai tạng tính”, “giáo diệu minh tâm”… và “Phật tính”. Cái gọi là thế
giới chẳng qua là thành lập trên quan hệ nhận thức giữa sáu căn và sáu cảnh,
ngoài ra thế giới đối với chúng ta không có một ý nghĩa nào khác vì không có
chủ quan thì cũng không có khách quan, mà không có khách quan thì cũng
không có chủ quan. Ngoài quan hệ chủ quan – khách quan ra cũng không có
thế giới, cái gọi là hết thảy cũng được thành lập trên quan hệ ấy. Như vậy,
theo tinh thần Phật giáo trong hai yếu tố vật và tâm thì tâm đóng vai trò chủ
đạo trong việc thành lập thế giới. Tất cả thế giới chỉ là một dòng biến hóa vô
thường, vô định, không có một vị thần nào sáng tạo ra vạn vật mà chỉ do nhân
quả nối tiếp nhau mà thành. Trên thế giới không có sự vật nào tồn tại độc lập

12
tuyệt đối, mọi sự vật hiện tượng đều nằm trong mối quan hệ phức tạp, tất cả
mọi cái đều phải nương tựa vào nhau.
Trong giáo lý của đạo Phật thì không gian là vô tận, thế giới nhiều như
cát sông Hằng. Không gian có Tam thiên thế giới gồm: Đại thiên thế giới,
trung thiên thế giới và tiểu thiên thế giới. Mỗi tiểu thiên thế giới có hàng chục
ngàn thế giới. Thời gian có “tam kiếp” gồm: đại kiếp, trung kiếp và tiểu kiếp.
Một đại kiếp bằng 4 trung kiếp. Một trung kiếp bằng 20 tiểu kiếp. Một tiểu
kiếp bằng hàng chục triệu năm. Thế giới trong không gian được gọi là thế
gian. Thế giới được chia thành 3 cõi lớn (Tam giới) là Dục giới (nơi lòng
dục thịnh); Sắc giới (dục tuy không thịnh nhưng chưa hoàn toàn thoát ly
khỏi sự trói buộc của vật chất); Vô sắc giới (hoàn toàn thoát ly khỏi sự trói
buộc của vật chất, chỉ có tinh thần). Theo Kimura Taiken, Tam giới của
nhà Phật được sinh ra từ trạng thái tinh thần trong giai đoạn thiền định.
“Dục giới lấy núi Tu Di làm trung tâm. Xung quanh núi Tu Di là cửu sơn
(Trì song, Trì dục, Diêm mộc, Thiên kiến, Mã nhĩ, Tượng nhĩ, Trì sơn,
Thiết luân), Bát hải. Giữa Trì song và Thiết luân có 4 châu: Nam là Diêm
phù đề châu, Đông là Đông thắng thần châu, Bắc là Bắc câu lư châu, Tây là
Tây ngưu hóa châu. Chúng ta đang ở châu Diêm phù đề. Trên núi Tu Di có
thần Dạ Xoa, Tứ Thiên vương, Kim cương Thủ và Trời Đạo Lợi, tầng thứ
33 có chủ nhân là Đế Thích.” [24, tr. 150].
Phật giáo còn có quan niệm Lục đại bao gồm: Địa ngục: có 8 đại địa
ngục ở nơi tận cùng thế giới hay dưới Diêm phù đề châu; Ngạ quỷ: kể cả
Diêm Ma, quỷ thần, Dạ xoa; Súc sinh; Atula (dưới đáy biển); nhân gian (có 4
châu nói trên); Thiên (Trời).
- Thuyết duyên khởi
Thích Thiện Châu trong tác phẩm “Phật tử” cho rằng: Cốt tủy của đạo
Phật là đạo lý duyên khởi. Đạo lý này nói rõ tương quan, tương duyên của tất

13
cả các hiện tượng vật lý và tâm lý. Sự hiện hữu của thế giới chỉ là tương quan
đồng thời của nhận thức chủ quan và đối tượng khách quan. Sự vật ở ngoài ta
và trong ta vốn sinh, diệt biến chuyển theo luật nhân quả mà không hề tiêu
diệt hoàn toàn, ấy là tương quan khác thời.
Trong cuốn “Triết học Phật giáo Việt Nam” của Nguyễn Duy Hinh có
viết: Theo Phan Văn Hùm trong cuốn “Phật giáo triết học” cho rằng Thuyết
duyên khởi trong Phật giáo gồm có nhiều thuyết: “Thuyết thứ 1 là Nghiệp
cảm duyên khởi. Thuyết thứ 2 là Alaida duyên khởi. Thuyết thứ 3 là Chân
như duyên khởi. Thuyết thứ 4 là Pháp giới duyên khởi. Thuyết thứ 5 năm là
Lục đại duyên khởi.” [26, tr.13]
+ Nghiệp cảm duyên khởi: “Đây là học thuyết có từ thế giới Phật giáo
nguyên thủy, rút ra từ Tứ diệu đế và Thập nhị nhân duyên” [26,tr.13]. Trong
quá trình luân hồi sinh tử, định luật và trật tự vận hành tạo nên vòng tròn sinh
hoá là luật nhân quả. Yếu tố chính của diễn trình nhân quả là lý thuyết về
nghiệp cảm. Nghiệp cảm là cái năng lực tâm lý tiềm tàng, vẫn tồn tại khi thân
xác bị chết đi. Nghiệp gồm có biệt nghiệp và cộng nghiệp. Biệt nghiệp tạo
nên cá thể và cộng nghiệp tạo nên thế giới. Còn nghiệp là còn hiện tượng
giới: “Sự hành vi của chúng ta hàng ngày, sinh ra tam nghiệp (thân nghiệp,
khẩu nghiệp, ý nghiệp) – Tam nghiệp cứ lớp trước tàn lớp sau nối, liên liên
như những khoen dây xích. Thân tâm ta bởi đó mà tiếp dẫn với chủ quan
giới và khách quan giới. Ấy gọi là Nghiệp cảm duyên khởi.” [26, tr 34].
Cho nên, dứt trừ được nghiệp là trở về với Chân như, Niết bàn, muốn giải
thoát phải diệt nghiệp.
+ Alaida duyên khởi: Theo phái Duy Thức, thức được chia thành 8
nhóm: tiền ngũ thức, ý thức, Manas (Mạt la thức) và Alaya (A lại da thức).
Thức thứ bảy – Manas là trung tâm hiện khởi của các ý tưởng vị ngã, ích kỹ,
tự ái, ảo tưởng, là trung tâm chấp ngã, ngã hoá. Trong khi đó, A lại da thức là

14
trung tâm tích tụ ý thể (nghĩa là thức), là nơi chứa nhóm các hạt giống (chủng
tử) của tất cả mọi hiện khởi và chúng được bộc lộ trong các hiện khởi đó.
Theo Duy thức tông, nguyên khởi của vạn pháp là hiệu quả của ý thể. Tàng
thức là trung tâm tích tụ của ý thể, là kho chứa hạt giống của mọi hiện hữu.
Khi chúng tiềm ẩn, ta gọi là chủng tử; khi chúng hoạt động ta gọi là hiện
hành. Những chủng tử cố hữu, những hiện hành và những chủng tử mới hỗ
tương phụ thuộc lẫn nhau tạo nên một vòng tròn mãi mãi tái diễn tiến trình
trước sau như nhất. Cái làm cho chủng tử phát khởi thành hiện hành, nghĩa la
động lực tạo ra dòng vận động của duyên khởi chính là ý thể - nghĩa là thức.
Đấy gọi là Alaida duyên khởi. Theo thuyết Alaida duyên khởi Nghiệp, Khổ
khởi nguyên từ nghiệp thức hay ý thể.
+ Ch n như uyên khởi: Thuyết này theo kinh Lăng già, kinh Đại bát
Niết Bàn, kinh Đại thừa khởi tín luận thuộc thời kỳ Đại thừa (khoảng đầu
công nguyên). Chân như là từ ngữ được dùng để diễn tả thực tại cứu cánh
vượt ngoài định danh và định nghĩa. Chân như trong nghĩa tĩnh thì phi không
gian, phi thời gian, bình đẳng, vô thuỷ, vô chung, vô tướng vô sắc. Chân như
trong nghĩa động có thể xuất hiện dưới bất cứ hình thức nào. Khi được điều
động bởi một nguyên nhân thuần tịnh, nó mang hình thức thanh thoát; khi
được điều động bởi một nguyên nhân ô nhiễm, nó mang hình thức hủ bại. Do
vậy, chân như có hai trạng thái: mặt tĩnh là tự thân chân như và mặt động là
những biểu lộ của chân như trong vòng sống chết.
+ Lục đại duyên khởi. Đây là chủ trương của Chân ngôn hay Mật tông.
Lục đại gồm địa, thủy, hỏa, phong, không, thức. “Địa, thủy, hỏa, phong,
không” thuộc về vật thể tức là sắc pháp còn “thức” thì thuộc về tâm tức là tâm
pháp. Chính sáu yếu tố này tùy duyên sinh khởi mà khởi sinh ra con người và
vũ trụ. Khi nói là vật và tâm nhưng thật ra bản thể của chúng vẫn là một,
không thể phân chia ra được. Vật là hình tướng và tâm là năng lực để hình

15
tướng có thể hoạt động. Do đó nếu tâm rời sắc thì năng lực chẳng tồn tại
được. Còn nếu sắc không nhờ tâm thì hình tướng không phát hiện được. Vậy
vật và tâm là hai phương diện của bản thể “nhất như”. Con người chúng ta có
được là do lục đại kết hợp mà thành. Con người cũng như vũ trụ là một sự
hoạt động không ngừng của Lục đại.
+ Pháp giới duyên khởi: Theo Hoa Nghiêm tông, “pháp giới” có nghĩa
là “những yếu tố của nguyên lý” và có hai sắc thái: trạng thái chân như hay
thể tánh; thế giới hiện tượng. Học thuyết Pháp giới duyên khởi chủ trương
rằng giới (tức vũ trụ, vạn hữu) là một duyên khởi lớn tức là các pháp làm
nhân duyên cho nhau, nương tựa, tương phản, dung thông nhau mà thành lập .
Tất cả hoà điệu trong một thế giới toàn vẹn. Nếu thiếu một, vũ trụ không hiện
hữu, nếu không có tất cả, cái một cũng không thể lập. Khi toàn thể vũ trụ hoà
điệu toàn, nó được gọi là nhất chân pháp giới.
- Thuyết vô thường
Trong tư tưởng của Phật giáo, quan điểm về cách nhìn nhận thế giới bên
ngoài còn có quan niệm về vô thường. Vô thường có nghĩa là không thường
còn, không có gì ổn định, bất biến. Phật giáo đưa ra hệ thống quan niệm về thế
giới, cho rằng tất cả sự vật hiện tượng xung quanh con người cũng như bản
thân con người là không tồn tại thực, chỉ là ảo, là giả, do vô minh (sự không
sáng suốt) của con người đưa lại. Mọi vật đều được cấu tạo bởi các yếu tố vật
chất (Sắc) và tinh thần (Danh). Danh và Sắc được gồm Ng u n (năm yếu tố)
là: sắc, thụ, tưởng, hành, thức. Trong đó, “Sắc” là yếu tố vật chất gồm tứ đại
(địa, thủy, hỏa, phong), còn “thụ”, “tưởng”, “hành”, “thức” là cảm giác, ấn
tượng tư duy nói chung và ý thức là những yếu tố tinh thần (Danh).
Theo thuyết vô thường, Danh và Sắc chỉ hội tụ lại với nhau trong một
thời gian ngắn rồi lại chuyển sang trạng thái khác. Bản chất của sự tồn tại của
thế giới là một dòng biến chuyển liên tục, không thể tìm ra nguyên nhân đầu

16
tiên, cũng không có kết quả cuối cùng (vô thủy, vô chung), không có gì là tồn
tại vĩnh hằng, bất biến, mọi vật đều biến đổi liên tục (vạn pháp vô thường),
không có gì là thường định. Thế giới biến đổi không ngừng, sự biến đổi diễn
ra trong khoảng khắc gọi là niệm vô thường và sự biến đổi diễn ra theo những
chu kỳ nhất định gọi là nhất kì vô thường. Phật giáo cho rằng con người cũng
không tồn tại – “vô ngã”, do đó cũng không tồn tại Atman (tiểu ngã). Phật
giáo cũng phủ định sự tồn tại của Brahman (đấng sáng tạo). Thế giới các sự
vật, hiện tượng luôn ở trong một chu trình biến hóa không ngừng là sinh – trụ
– ị – iệt (hoặc thành – trụ – hoại – không), ở con người là sinh – ão – ệnh
– tử Đó là quá trình biến hóa theo quy luật nhân quả mãi mãi.
Thuyết vô thường là một trong những thuyết cơ bản trong giáo lý của
Phật giáo, là cơ sở lý luận cho phương thức sống, cho triết lý sống của những
con người tu dưỡng theo giáo lý Phật.
- Thuyết nhân quả
Phật giáo trong quá trình giải thích sự biến hóa vô thường của vạn vật
đã xây dựng nên thuyết nhân quả. Nhân duyên là tư tưởng thể hiện quan điểm
của Phật giáo đối với đời người, với sự tồn tại và sinh mệnh, là một luận
thuyết tương đối hợp lý về sự hình thành và diễn biến và về bộ mặt vốn có
của thế giới; là thế giới quan độc đáo của Phật giáo và là đặc trưng cơ bản để
phân biệt đạo Phật với các tôn giáo khác.
Trong thuyết nhân duyên giải thích căn nguyên biến hóa vô thường của
vạn pháp, có ba khái niệm chủ yếu: nhân, quả và duyên. “Nhân” là nguyên
nhân (cái gì phát động ra ở vật gây ra một hay nhiều kết quả nào đó), là mầm
tạo ra “quả”. Cái gì tập lại từ nhân được gọi là “quả”. “Duyên” là điều kiện,
mối liên hệ giúp nhân tạo ra quả. Duyên không phải là cái gì đó cụ thể, xác
định mà nó là sự tương hợp, điều kiện để giúp cho sự chuyển biến của vạn
pháp. Tất cả các sự vật, hiện tượng trong vũ trụ đều không thoát được sự chi

17
phối của luật nhân quả. Mọi sự vật ra đời là do một nguyên nhân trước nó,
nhưng đồng thời nó lại trở thành nguyên nhân của cái sau nó. Cái nhân nhờ
cái duyên mới sinh ra quả; quả lại do duyên mà tạo thành nhân khác; nhân
khác lại nhờ duyên mà tại thành quả mới. Cứ như vậy, quá trình tương tác
nhân – quả nối tiếp nhau vô cùng, vô tận. Duyên chính là điều kiện trong mối
quan hệ tương tác đó. Phật giáo quan niệm: Nhân duyên hòa hợp là sự vật
sinh, nhân duyên tan rã là sự vật diệt. Với quan niệm này đạo Phật cho rằng:
không phải sự vật hiện tượng sinh ra mới gọi là sinh, mất đi mới gọi là diệt
mà trong cái sinh đã có mầm mống của cái diệt và trong cái diệt đã có mầm
mống của cái sinh. Sinh diệt là hai quá trình xảy ra đồng thời trong một sự vật
hiện tượng cũng như trong toàn thể vũ trụ rộng lớn. Như vậy, vạn vật trong
thế giới là một hệ thống nhân duyên, cứ sinh sinh diệt diệt mãi nối tiếp nhau
đến vô cùng vô tận. Vì thế giới vạn vật vô thủy vô chung là dòng biến hóa vô
thường, không có gì là cố định duy nhất.
Tư tưởng về thế giới quan nêu trên của Phật giáo chứa đựng những yếu
tố biện chứng khá sâu sắc. Nó làm cơ sở cho triết lý nhân sinh và con đường
giải thoát – nội dung cơ bản của Phật giáo.
1.1.2. Nhân sinh quan Phật giáo
“Nhân sinh” theo Từ điển Tiếng Việt được hiểu là “cuộc sống của con
người”,“quan niệm về cuộc đời, thành hệ thống bao gồm lý tưởng, lẽ sống, lối
sống…” [86, tr.764]. “Nhân sinh quan nói vắn tắt thì đó là cách người ta nhìn
cuộc đời hay là cái “đạo” làm người của người ta” [28, tr.5].
Như vậy, nghiên cứu vấn đề nhân sinh quan “tức là nghiên cứu vấn đề
bản chất, mục đích, thái độ và hành vi của đời sống con người” [28, tr.7].
Mỗi thời đại khác nhau con người có một nhân sinh quan khác nhau.
Nhân sinh quan tôn giáo được đặt trong mối quan hệ với thế giới quan
tôn giáo. Vì vậy, có thể hiểu nhân sinh quan Phật giáo như sau:

18
Nhân sinh quan Phật giáo được hiểu là toàn bộ những quan niệm chung
nhất của Phật giáo về con người, cuộc sống con người nhằm giải đáp cho con
người những vấn đề về lẽ sống và định hướng niềm tin vào sự giải thoát.
Phật giáo ra đời là tiếng nói chống lại chế độ phân chia đẳng cấp vô cùng
nghiệt ngã của xã hội Ấn Độ thời kỳ cổ đại. Nó là khát vọng giải phóng con
người thoát khỏi mọi khổ đau, đưa con người đến hạnh phúc chân thực. Chính
vì vậy, Phật giáo quan tâm nhiều đến vấn đề nhân sinh, bàn luận nhiều về con
người, cuộc đời con người, luân hồi, nghiệp báo… Đó chính là tư tưởng chủ
yếu trong nhân sinh quan của đạo Phật.
- Quan niệm về con người và đời người
Phật giáo quan niệm rằng: “Đời là bể khổ”, đời là tất cả những chuỗi bi
kịch liên tiếp. Quan niệm đó đặc biệt được thể hiện rõ: “Bốn phương đều là bể
khổ, nước mắt chúng sinh nhiều hơn nước biển, vị mặn của máu và nước mắt
chúng sinh mặn hơn nước biển” [16, tr.12]. Bởi vậy, mục đích của đạo phật
như Phật Thích Ca nói: Ta chỉ dạy có một điều: Khổ và Diệt khổ.
Từ quan niệm chung về cuộc đời, triết lý nhân sinh Phật giáo được trình
bày tập trung và chủ yếu trong “Tứ diệu đế” với ý nghĩa là bốn chân lý tuyệt
vời hay thiêng liêng. Tứ Diệu đế chính là trụ cột của nhân sinh quan Phật giáo.
Nội dung Tứ diệu đế gồm: Khổ đế, Tập đế, Diệt đế và Đạo đế.
- Khổ đế (Dukkha)
Đau khổ là tất yếu, là chân lý, là điều không thể tránh khỏi của con
người. Phật giáo quan niệm con người tồn tại trong thế giới này không có gì
ngoài đau khổ. Tồn tại là đồng nhất với đau khổ, bất hạnh và dù con người có
cảm nhận về hạnh phúc thì cái gọi là hạnh phúc ấy cũng không thường còn và
cũng kết thúc bằng cái khổ (tử khổ). Căn cứ theo kinh Phật, có thể chia làm ba
loại khổ (Tam khổ) hay tám thứ khổ (Bát khổ):
Ba loại khổ (Tam khổ) là: Khổ khổ, Hoại khổ và Hành khổ.
Tám thứ khổ (Bát khổ) gồm: Sinh khổ: con người sinh ra đã là khổ thể

19
hiện từ tiếng khóc chào đời; lão khổ: già yếu là khổ; bệnh khổ: bệnh tật là khổ;
tử khổ: chết là khổ thể hiện qua tiếng khóc vĩnh biệt nhau; ái ly biệt khổ: yêu
thương mà phải lìa xa là khổ; sở cầu bất đắc khổ: muốn mà không được là
khổ; oán tăng hội khổ: ghét nhau mà phải gần nhau là khổ; Ngũ thụ uẩn khổ:
ngũ quan của con người khi tiếp xúc với sự vật sinh ra nhu cầu, có nhu cầu là
khổ.
Như vậy, Phật giáo quan niệm cuộc đời con người chính là một bể khổ.
Phật giáo đã phân tích nỗi khổ đó ở nhiều khía cạnh khác nhau, có nỗi đau về
thể xác và có nỗi khổ về tinh thần. Với lòng từ bi, mong muốn giải thoát con
người khởi bể khổ cuộc đời Phật giáo đã chỉ ra nguyên nhân của nỗi khổ.
- Tập đế (Samudaya)
Tập đế là tập hợp những nguyên nhân dẫn tới sự đau khổ, bất hạnh của
con người. Phật giáo đã vạch ra những nguyên nhân sinh ra nỗi khổ đau bất
hạnh của con người, đó là “thập nhị nhân duyên” (12 nguyên nhân sinh ra đau
khổ) gồm:
Vô minh là không sáng suốt, không nhận thấy được thế giới này là ảo giả
mà cứ tưởng đó là thực.
Duyên hành là hành động có ý thức, ở đây đã có sự dao động của tâm, có
mầm mống của nghiệp.
Duyên thức: là ý thức, là biết. Do thức mà có danh sắc ấy. Thức là quả
của hành và làm nhân cho danh - sắc.
Duyên danh sắc: là sự tụ hợp của các yếu tố vật chất, tinh thần; với các
loài hữu tình thì sự hội nhập của danh sắc sinh ra các cơ quan cảm giác, lục
trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp.
Duyên lục nhập: Quá trình tiếp xúc với thế giới khách quan, lục căn tiếp
xúc với lục trần sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp.
Duyên xúc: là sự tiếp xúc phối hợp giữa lục căn, lục trần và thức xúc, là
quả của lục nhập, là nguyên nhân của thụ.
20
Duyên thụ: là cảm giác do tiếp xúc với thế giới bên ngoài mà sinh ra yêu
ghét, buồn, vui.
Duyên ái: là yêu nảy sinh dục vọng, mong muốn.
Duyên thủ: là giữ lấy cho mình. Thủ là quả của ái, là nhân của hữu.
Duyên hữu: tiến tới xác định chủ thể chiếm hữu (cái ta); từ đây chứng tỏ
có nguyên nhân chứa đựng nguyên nhân.
Duyên sinh: đã có tạo nghiệp là nhân tất yếu sẽ sinh ra quả; là hiện hữu
là tu sinh ra ở thế giới để làm ngừời hay súc sinh.
Duyên lão tử: đã có sinh tất yếu có già và có chết. Sinh – Lão- Bệnh- Tử là
kết thúc một chu kỳ, đồng thời là nguyên nhân của một chu kỳ tiếp theo, bắt đầu
một vòng luân hồi mới ; cứ như thế tiếp diễn ở trong vòng đau khổ sinh tử.
“Thập nhị nhân duyên” nối tiếp nhau, chuyển hóa hỗ trợ nhau vừa là
nhân vừa là quả của nhau. Nó như nước sông chảy không bao giờ cạn và
không bao giờ ngừng nên đạo Phật gọi là “duyên hà”. Các nhân duyên tụ tập
lại mà sinh ra mãi mãi gọi là duyên hà mãn. Từ vô minh đến già chết có 12
đoạn. Bởi 12 nhân duyên mà vạn vật cứ sinh hóa vô thường. Trong 12 nguyên
nhân thì Phật giáo cho rằng vô minh và ái dục là hai nguyên nhân chủ yếu gây
ra đau khổ của con người. Tham dục là biểu hiện sự vô minh, vô minh sinh ra
tham dục, tham dục nuôi dưỡng vô minh, cứ như vậy luân chuyển mãi trong
vòng đau khổ sinh tử.
- Diệt đế (Nirodha)
Diệt đế là giai đoạn cuối cùng của quá trình tu tập giải thoát. Diệt đế là
một sự thật khẳng định thành quả tu tập của bất cứ một hành giả nào có tín
tâm và tinh tu phạm hạnh. Sự giải thoát của con người hoàn toàn phụ thuộc
vào khả năng của chính mình mà không phải do một ai khác. Phật giáo khẳng
định rằng nỗi khổ của con người là có thể tiêu diệt được, chấm dứt được bằng
cách tiêu diệt vô minh và loại bỏ duyên ái. Muốn diệt trừ vô minh thì phải có

21
trí tuệ, có trí tuệ thì hết đam mê, trí tuệ là chiếc thuyền chắc chắn nhất vượt bể
sinh, lão, bệnh, tử, nghĩa là thoát khỏi được vòng luân hồi, thoát khỏi mọi đau
khổ, chứng ngộ Niết bàn.
Niết bàn (Nirvana) là từ được dịch âm từ gốc tiếng Phạn, với nghĩa “đã
bị thổi tắt”, “đã bị dập tắt” (một ngọn lửa). Qua đó mà thuật ngữ Niết
bàn cũng được dịch nghĩa là Diệt; Diệt tận; Diệt độ Tịch diệt; Bất sinh; Viên
tịch, và vì sự tịch diệt được hiểu là mục đích tối cao trong đạo Phật
nên nirvana cũng được dịch ý là Giải thoát, Vô vi, An ạc.
Tóm lược lại thì thuật ngữ Niết bàn có thể được hiểu là:
1. Tình trạng ngọn lửa phiền não đã bị dập tắt
2. Là động từ, có nghĩa là đã nhập niết-bàn
3. Là sự giải thoát, an lạc, vô vi
Niết bàn là mục đích tu hành cứu cánh của mọi trường phái Phật giáo.
Trong đạo Phật nguyên thủy, Niết bàn được xem là đoạn triệt luân hồi. Đó là
sự tận diệt gốc rễ của ba nghiệp bất thiện là tham, sân và si. Đồng thời Niết
bàn có nghĩa là không còn chịu sự tác động của nghiệp, không còn chịu quy
luật nhân duyên (duyên khởi).
Với sự xuất hiện của Đại thừa, người ta có một quan điểm mở rộng của
Niết bàn dựa trên khái niệm Bồ Tát (bodhisattva) và trên tính nhất thể của vạn
vật. Niết bàn được xem là sự thống nhất với cái nhất thể tuyệt đối, sự thống
nhất của luân hồi với “dạng chuyển hóa” của nó. Ở đây Niết bàn được xem
như sự lưu trú trong tính tuyệt đối, sự an lạc khi thấy mình cùng một thể với
tuyệt đối, khi thấy mình giải thoát khỏi mọi ảo giác, mọi biến tướng, mọi
tham ái. Nhiều người hiểu Niết bàn chỉ là một cõi hư vô tịch diệt. Ngay Phật
giáo nguyên thủy đã bác bỏ quan niệm đó. Trong nhiều kinh sách, người ta
miêu tả Niết bàn như một “ngọn lửa đã tắt”. Đó là một tình trạng không có
một vị trí địa lí, mà là một dạng siêu việt, xuất thếvà chỉ có những hành giả đã

22
đạt mới biết được. Vì vậy, trong đạo Phật nguyên thủy, Niết bàn hầu như
được hiểu là xa cách thế gian, giải thoát khỏi phiền não. Người nhập Niết bàn
vượt khỏi mọi định nghĩa, không ngôn ngữ nào có thể miêu tả được.
Trong một số kinh sách khác, Niết bàn được hiểu là sự “an lạc” nhưng
phần lớn được hiểu là sự giải thoát khỏi cái Khổ (dukkha). Vì không có ngôn
ngữ để diễn tả Niết bàn, đó là phạm vi nằm ngoài ngôn ngữ và lí luận, nên có
nhiều người hiểu Niết bàn theo quan niệm hư vô. Cách thức dễ tiếp cận nhất
về Niết bàn là hiểu sự “tồn tại” là một tình trạng đầy rẫy khổ đau và Niết bàn
là dạng tồn tại thiếu vắng sự khổ đau đó. Đối với hành giả Phật giáo thì định
nghĩa liệu Niết bàn là một dạng tồn tại thật sự hay chỉ là cõi tịch diệt không hề
quan trọng. Cũng một phần vì lí do này mà Phật Thích Ca từ chối mọi miêu tả
về Niết bàn.
- Đạo đế (Magga)
Đạo đế chính là con đường để tiêu diệt cái khổ. Kinh điển Phật giáo
phần lớn tập trung vào phương pháp tiêu diệt cái khổ bằng cách làm tăng các
yếu tố hướng đến giải thoát bằng cách rèn luyện trí tuệ để đạt lí tưởng cuối
cùng, Niết bàn. Thông qua “Tam học”, Phật giáo đưa ra quan niệm về con
đường giải thoát. Nội dung của “Tam học” gồm: “Giới”- “Định”- “Tuệ”.
Giới: (thuộc Chính ngữ, chính nghiệp, chính mệnh, chính tinh tiến). Giới
luật là những điều răn cấm, những quy định giúp con người trên đường tu
hành tránh được những lỗi lầm, trở nên trong sạch. Giới luật có những quy
định cụ thể cho từng đối tượng tu hành (ngũ giới - 5 điều răn):
- Bất sát: Không sát sinh, để cho mọi vật được sống trọn số kiếp của nó.
- Bất đạo: Không làm những điều phi nghĩa, trộm cắp, tàn ác, giả dối.
- Bất dâm: Không dâm gian, dâm dục.
- Bất vọng ngữ: Không bịa đặt, không nói dối, nói càn, không đặt điều
vu oan giáo họa cho ai.

23
- Bất ấm tửu: Không uống rượu, vì uống rượu sẽ say sưa, mất lý trí,
không giữ được tâm trí sáng suốt, suy nghĩ, nói năng và hành động không
đúng đắn, gây tại họa cho mình và cho mọi người.
Định: (thuộc Chính niệm, chính định) là phương pháp giúp cho người tu
hành không tán lạn thâm tâm, nhờ đó mà loại trừ được những ý nghĩ xấu, tư
tưởng xấu, tạo điều kiện cho trí tuệ bừng sáng.
Tuệ:(thuộc Chính kiến, chính tư uy): Người tu hành có trí tuệ sáng suốt
diệt trừ được vô minh, tham dục chứng ngộ được chân lý Phật giáo, do đó chỉ
nghĩ làm điều thiện mưu lợi ích cho chúng sinh.
Theo quan niệm của Phật giáo, trong “Tam học”thì “Giới” là quan trọng
nhất vì “có trì giới thì tâm mới định, tâm có định thì Tuệ mới phát sinh, Tuệ
có phát sinh thì mới diệt trừ được vô minh, phiền não, mới “Minh – Tâm -
Kiên - Tính” và thành Phật được”.[40, tr.21]
Nói tới Đạo đế, Đạo Phật thường đề cập tới “Bát chính đạo” - Tám con
đường chân chính để đạt đạo. “Bát chính đạo” là cụ thể, triển khai của “Tam
học”.
“Bát chính đạo” bao gồm:
- Chính kiến: Nhận thức cho đúng, cho biết rõ chân lý, phải trái, không
để những tà kiến, những điều sai trái che lấp sự sáng suốt của mình, khiến cho
sự tin tưởng của mình không sai lầm.
- Chính tư duy: Sự suy nghĩ chân chính theo đường đúng, đạt tới chân lý
hay sự giác ngộ.
- Chính ngữ: Không nói dối, không nói lời ác, không nói chia rẽ, không
nói lời vô nghĩa. Trái lại, chỉ nói lời chân thật, lời dịu hiền, lời đoàn kết, lời có
ích đối với người nghe.
- Chính nghiệp: Tức là hành vi không sát sinh, không lấy của không cho,
không tà dâm… thực hành việc tôn trọng sự sống, bố thí, sống trong sạch
không trái đạo lý.
24
- Chính mệnh: Sống chính đáng bằng nghề nghiệp chính đáng, lương
thiện. Nói rộng ra, tức là theo một nề nếp sinh hoạt lành mạnh, giúp cho sức
khỏe, tăng năng suất lao động, khiến thân tâm luôn được thư thái nhẹ nhàng.
- Chính tinh tiến: Đòi hỏi phải nỗ lực, siêng năng học tập, hành động
theo đường lối chân chính và phải đạt tới chân lý, giữ cho tâm lý ngay chính,
sáng suốt, không để cho những điều tham, sân, si, dục vọng làm giảm sự cố
gắng vươn tới.
- Chính niệm: Trong đầu con người luôn có ý niệm trong sạch ngay
thẳng, ghi nhớ những đạo lý chân chính, điều hay lẽ phải ở đời, chăm lo
thường xuyên niệm Phật.
- Chính định: Sự tập trung tư tưởng vào một việc chính đáng, đúng chân
lý, tĩnh lặng suy tư về tứ diệu đế của vô ngã, vô thường về nỗi khổ của con
người, là cơ sở cho chính kiến, chính tư duy ở trình độ cao.
“Bát chính đạo” thực ra là một thể thống nhất, sỡ dĩ chia làm tám hạng
mục để cho việc tiện thuyết minh, giảng giải mà thôi.
Cùng với “Bát chính đạo”, “Ngũ giới” của Phật giáo còn nêu ra “Lục
độ” (sáu phép tu) để chủ động thực hiện những điều tốt, đem lại lợi ích cho
người, cho mình là:
- Bố thí: là đem công sức, của cải, tài trí của mình ra cứu giúp người với
tấm lòng bác ái, vui vẻ thực sự, không phải là sự cầu lợi, ban ơn, khoe
khoang, cũng không phải là kẻ trên trông xuống, kể lể. Bố thí có hai thứ: một
là tài thí; hai là pháp thí.
- Trì giới: là giữ vững điều răn, ngăn những điều ác.
- Nhẫn nhục: là sự kiên nhẫn, nhường nhịn để tránh sự nóng nảy, giận
giữ mắc phải những sai lầm, đó là cách làm chủ mình. Nhẫn nhục có hai thứ,
đó là: sinh nhẫn và pháp nhẫn
- Tinh tiến: là sự cố gắng, nỗ lực hết mình để làm điều hay, lẽ phải tự

25
nhiên, không cầu lợi hay hại. Tinh tiến cũng có hai thứ, đó là tinh thiến thân
và tinh tiến tâm.
- Thiền định: là sự tập trung cao độ tư tưởng tâm trí vào điều ngay chính,
không bị những điều khác làm phân tán, che lấp.
- Bát nhã: là trí tuệ thấy rõ hết thảy, hiểu thấu suốt các lẽ trong thế gian.
Những phương pháp tu luyện trong đạo Phật rất nhiều nhất là ở các môn
phái khác nhau, song chủ yếu vẫn là “Bát chính đạo”, “Ngũ giới” và “Lục độ”.
Mục đích của việc tu hành trong giáo lý của Phật giáo là nhằm đạt tới sự
siêu thoát, hướng con người tới cõi Niết bàn. Khái niệm “Niết bàn” có nhiều
cách giải thích khác nhau, nhưng nhìn chung Niết bàn là trạng thái tâm hồn
đoạn trừ được những ràng buộc trần thế, những khổ đau phiền não do vô
minh, tham dục gây ra, một tâm hồn hoàn toàn giải thoát. Giáo lý của Phật
giáo chỉ rõ: Đối với người biết tu hành thì cái quả “Niết bàn” chỉ tự tạo nó ở
trong tương lai chứ không thể phát sinh trong hiện tại. Tuy vậy, các sách Phật
giáo còn đề cập đến hai hình thức cảnh giới Niết bàn, đó là “Hữu dư Niết
bàn” và “Vô dư Niết bàn”
“Tứ diệu đế” - “Tam học” - “Bát chính đạo” - “Ngũ giới” - “Lục độ” -
“Niết bàn” là những giáo lý thể hiện quan điểm nhân sinh và con đường giải
thoát con người khỏi sự trầm luân của bể khổ. Mặc dù còn có những hạn chế
nhất định nhưng những quan niệm về cuộc đời con người thể hiện tinh thần từ
bi, bác ái cao cả, tinh thần nhân văn sâu sắc vì con người và yêu thương con
người. Quan niệm về con người của Phật giáo có chứa đựng yếu tố duy vật và
biện chứng. Khi nói về sự tồn tại của con người, đạo Phật quan niệm con
người là một pháp đặc biệt của thế giới, được tạo bởi hai yếu tố: Sinh lý và
tâm lý. Hai thành phần ấy là kết quả hợp, tan của ngũ uẩn. Ng u n bao gồm:
“Sắc, thụ, tưởng, hành, thức”. “Sắc” là cái thể xác, cái tôi sinh lý. “Danh” là
cái tôi tâm lý, tinh thần, là những thành phần được tạo nên từ ngũ uẩn, chúng

26
chỉ hội tụ với nhau trong thời gian rất ngắn rồi lại chuyển sang trạng thái
khác. Theo quy luật nhân quả, Duyên hợp ngũ uẩn thì thành ta là ta (Thành),
Duyên tan ngũ uẩn thì ta không còn là ta (Diệt). Diệt không phải mất đi mà
trở về với ngũ uẩn. Cứ như thế, chúng luôn biến hóa, luôn vận động trong
vòng Sinh - Trụ - Dị - Diệt. Do vậy, không có cái tôi “vô ngã”. Cái tôi chỉ là
chấp trước tạm thời, là giả tưởng không có thật. Như vậy, Phật giáo chỉ ra
rằng, con người cũng như vạn vật sở dĩ tồn tại là do nhân duyên hòa hợp. Con
người chỉ là một cái tên, một giả danh để gọi cái hỗn hợp của ngũ uẩn mà
thôi. Khi đủ nhân duyên chúng hợp lại với nhau thì gọi là sống, khi tan thì là
chết. Không thường mà lại tưởng là có thường, không ngã mà lại tưởng là có
ngã. Đó chính là cái mê mờ lớn nhất của con người và cũng chính vì cái mê
mờ, vô minh ấy, con người đau khổ lại càng đau khổ hơn. Đây là tư tưởng
biện chứng của Phật giáo nhưng lại hạn chế là tuyệt đối hóa sự vận động mà
không quan tâm đến sự đứng yên của sự vật và từ đó Phật giáo đưa đến kết
luận mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới kể cả con người cũng đều chỉ là ảo
ảnh, không có thực. Điều này đôi khi dẫn đến tư tưởng bi quan, buông xuôi
của con người. Đây chính là điểm mấu chốt của sự chuyển hóa từ thế giới
quan duy vật sang nhân sinh quan có tính duy tâm của Phật giáo.
Theo Phật giáo, con người là sự giả hợp “vô thường”, “vô ngã” do đó
không thấy được nguồn gốc tự nhiên của con người, không thấy được con
người là sản phẩm tiến hóa lâu dài của giới tự nhiên, vì thế đạo Phật không
thể hiểu con người như một thực thể có sự thống nhất mặt sinh học và mặt xã
hội. Đạo Phật chỉ tập trung lý giải con người hướng nội, tìm cách giải thoát
cho con người trong tâm linh chứ không phải trong cuộc sống thực tế.
- Nghiệp và luân hồi
Phật giáo tiếp thu tư tưởng luân hồi và nghiệp của Upanisad, mọi sự vật
mất đi ở chỗ này và sinh ra ở chỗ khác, quá trình sinh tử luân hồi đó là nghiệp

27
chi phối theo nhân quả. Luân hồi nghiệp báo là giáo lý của Phật dựa trên luật
nhân quả.
Luân hồi chữ Phạn là Samsara, có nghĩa là bánh xe quay tròn. Đạo Phật
cho rằng sau khi một thể xác sinh vật nào đó chết thì linh hồn sẽ tách ra khỏi
thể xác, đó có thể là con người, loài vật, thậm chí cỏ cây. Cứ thế mãi do kết
quả, quả báo hành động của các kiếp trước gây ra. Đó cũng là cách lý giải căn
nguyên nỗi khổ của con người.
Luân là bánh xe; hồi là trở lại. Luân hồi cũng có nghĩa là chu kỳ. Hiện
hữu của con người là một chuỗi vô tận những kiếp sống, mỗi kiếp đều khởi
đầu bằng việc sinh ra và kết thúc bằng việc chết đi. Sinh tử, tử sinh liên tục
nối tiếp nhau như bánh xe cứ quay hoài, quay mãi không ngừng.
Thuyết luân hồi của Phật giáo lấy luật nhân quả làm nền tảng: Bất kỳ một
sự cố nào cũng đều là hậu quả của một dãy nguyên nhân xảy ra trước nó và
cũng là nguyên nhân cho một dãy hậu quả xảy ra sau nó. Theo Phật giáo, sự
hiện hữu của mỗi người là một cuộc sống dài vô tận gồm nhiều kiếp liên tiếp
nhau. Kiếp này kết thúc bằng cái chết để khởi đầu kiếp sau bằng việc sinh ra.
Nghiệp chữ Phạn là Karma, là cái do những hoạt động của ta, do hậu quả
việc làm của ta, do hành động của thân thể ta, được gọi là “thân nghiệp”, còn
hậu quả của những lời nói của ta gọi là “khẩu nghiệp”; hay do những ý nghĩ
của ta, do tâm dục của ta gây nên thì gọi là “ý nghiệp”. Tất cả những “khẩu
nghiệp”, “thân nghiệp”, “ý nghiệp” là do tham dục mà thành. Cuộc đời con
người là sự gánh chịu hậu quả của nghiệp đương thời và các kiếp sống trước
rồi nó tiếp tục chi phối cả đời sau. Nghiệp báo trong một đời là sự tổng hợp
của các nghiệp gây ra trong hiện tại cộng với các nghiệp gây ra trong quá khứ,
nó quyết định đời sau tốt hay xấu, thiện hay ác. Khi thân xác con người chết
thì được gọi là “chấp đoạn”, linh hồn sẽ được đầu thai vào kiếp khác sẽ được
gọi là “chấp trường”. Cứ như vậy, luân hồi, sinh tử không dứt. Thực chất

28
thuyết nghiệp của Phật giáo không phải là định mệnh vì tuy con người tạo ra
nghiệp, là chủ nhân của nghiệp là thừa tư của nghiệp nhưng không phải là “nô
lệ” của nghiệp.
Như vậy, với thuyết luân hồi nghiệp báo của đạo Phật thì bất kỳ một
hành vi thiện ác nào của con người dù nhỏ bé, dù được bưng bít, che đậy như
thế nào đi chăng nữa cũng không tránh khỏi quả báo. Trong hoàn cảnh khổ
đau, nghiệp trở thành cứu cánh tự an ủi cho con người. Giáo lý luân hồi cho
chúng ta thêm lòng tự tin, tự thấy mình là chủ nhân của đời mình, mình tạo
nghiệp nhân gì thì mình chịu nghiệp quả ấy, chứ không ai cần thưởng phạt,
ban phước, giáng họa cho mình cả. Như Đức Phật đã dạy: “Nghiệp ác của
ngươi, ngươi tự làm tự chịu” [31,tr.70]. Người cũng khẳng định rằng:
“Những kẻ tạo nghiệp ác dù có lên trời, xuống biển hay vào hang núi c ng
không nơi nào có thể trốn thoát” [24, tr.275].
Trong xã hội chiếm hữu nô lệ ở Ấn Độ, với sự thống trị của tư tưởng duy
tâm tôn giáo Bà la môn và chế độ phân biệt đẳng cấp hết sức khắt khe, nghiệt
ngã, đạo Phật ra đời là tiếng nói trong làn sóng phủ nhận uy thế của kinh Vê
đa và đạo Bà la môn, phản đối chế độ đẳng cấp, tố cáo chế độ xã hội bất công,
đòi tự do tư tưởng và sự bình đẳng trong xã hội.
Cũng giống như các môn phái khác ở Ấn Độ cổ đại, đạo Phật cũng cố
gắng tìm cách cải biến xã hội, xóa bỏ nỗi khổ trong đời sống của người dân
Ấn Độ dưới chế độ nô lệ và đã có những tư tưởng cải cách tích cực: khuyên
người ta sống từ bi bác ái, đạo đức… Đó là sự thể hiện tinh thần phản kháng
của quần chúng nhân dân đối với chế độ xã hội đương thời. Đó cũng là mặt
tích cực của đạo Phật trong lĩnh vực sinh hoạt xã hội. Song đạo Phật, nhất là
giai đoạn sau đã bộc lộ ra tính chất duy tâm và những mặt tiêu cực của nó.
Phật giáo đã không tìm ra được nguyên nhân của mọi nỗi khổ của nhân gian,
của nhân dân lao động trong chính các quan hệ kinh tế, quan hệ giai cấp, quan

29
hệ xã hội. Hơn thế đạo Phật không chỉ ra được con đường và biện pháp đích
thực để cải tạo xã hội, xóa bỏ sự đau khổ của quần chúng trong hiện thực
bằng hành động thực tiễn.
Đạo Phật cho rằng bằng con đường giáo dục và hoàn thiện đạo đức,
không kể đến lợi ích, địa vị giai cấp, tích cực tu dưỡng, hoàn thiện thế giới
nội tâm của mình thì người ta có thể thoát khỏi được nỗi khổ đạt đến cõi siêu
phàm – Niết bàn. Vì thế tuy trong đạo Phật chứa đựng ít nhiều yếu tố duy vật,
biện chứng tự phát nhưng vẫn mang nặng tính chất duy tâm chủ quan. Lý
thuyết nghiệp nhiều khi khiến con người chịu đựng nhẫn nhục về mặt hành
động, thủ tiêu đấu tranh cải tạo xã hội của quần chúng nhằm xóa bỏ mọi sự
bất công đau khổ trong xã hội.
1.2. Sự du nhập và phát triển của Phật giáo ở Việt Nam
Phật giáo đã có lịch sử hơn 2500 năm, ở mỗi nước khi được du nhập
vào Phật giáo lại có sự cải biến cho phù hợp với tập tục của từng địa
phương, từng dân tộc và mang những sắc thái khác nhau. Trong quá trình
phát triển của mình, Phật giáo đã có sự hòa quyện và góp phần hình thành
văn hóa, đạo đức và phong tục tập quán… của nhiều quốc gia trên thế giới
trong đó có Việt Nam.
Phật giáo du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, do có vị trí địa lý thuận lợi.
Nhà nghiên cứu Phật học Minh Chi cho rằng: Việt Nam ngay từ thời rất xa
xưa đã được các cao tăng Ấn Độ đến truyền giáo trực tiếp và thời điểm đó có
thể là xưa hơn thời điểm Phật giáo vào miền nam Trung Hoa khá nhiều. Phật
giáo vào Việt Nam bằng hai con đường chủ yếu đó là đường bộ từ phía Bắc
xuống mang tư tưởng Đại Thừa hay còn gọi là Phật giáo Đại Thừa, Phật giáo
Bắc Tông) và đường biển (từ phía Nam lên mang tư tưởng Tiểu thừa hay còn
gọi là Phật giáo Tiểu Thừa hay Phật giáo Nam Tông). Thời kỳ đầu truyền bá
Phật giáo vào Việt Nam chủ yếu trực tiếp từ Ấn Độ. Trong các nhà truyền

30
giáo đầu tiên đến Việt Nam tiêu biểu một số tăng sĩ như: Maha kì vực,
Khương Tăng Hội, Chi Cương Lương và một số nhà sư Trung Quốc là: Mâu
Bác (Mâu Tử), Du Pháp Lan, Du Đạo Toái, Đàm Hoằng... [7,tr.58]
Không bao lâu sau khi Phật giáo truyền vào nước ta, nhờ sự nỗ lực của
các nhà truyên giáo, Luy Lâu thủ phủ của Giao Chỉ lúc bấy giờ đã trở thành
một trung tâm Phật giáo lớn. Luy Lâu là nơi có nhiều đường thủy, đường bộ
quan trọng của Việt Nam lúc bấy giờ. Với vị trí giao thông thuận lợi như vậy
đã khiến Luy Lâu trở thành trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa sầm uất.
Chính nơi đây đã trở thành nơi hội tụ của các luồng văn hóa và rất thuận lợi
cho việc truyền đạo Phật vào Việt Nam. Tuy nhiên, Phật giáo Luy Lâu không
giống hoàn toàn Phật giáo Ấn Độ. Phật giáo Luy Lâu đã có nhiều biến đổi
nhằm thích nghi với phong tục tập quán cùng như điều kiện kinh tế - xã hội
của Việt Nam vào lúc bấy giờ. Trước hết, đó là sự kết hợp hai dòng tín
ngưỡng: Tín ngưỡng bản địa và tín ngưỡng Phật giáo Ấn Độ.
Từ thế kỷ X đến thế kỷ XIV là thời điểm cực thịnh của Phật giáo tại Việt
Nam. Đỉnh cao là Phật giáo ở thời Lý - Trần, Phật giáo đã trở thành quốc
giáo, mọi người dân đều hướng về Phật Giáo. Đây cũng là thời kỳ Phật giáo
thâm nhập vào tất cả các lĩnh vực mà thời này có sự thống nhất các tông phái
đưa đến sự phát triển của phái Thiền Trúc Lâm. Trong thời kỳ này, các vị cao
tăng giữ nhiều địa vị quan trọng trong triều đình và đã có những đóng góp
nhất định cho sự phát triển của đất nước. Nhiều các công trình chùa, tháp với
quy mô lớn, kiến trúc độc đáo đã được xây dựng. Sang đến thời Hậu Lê thì
Phật giáo bắt đầu suy tàn nhường bước cho Nho giáo. “Nhìn chung Phật giáo
thời Lý – Trần đã có bước phát triển cả chiều rộng lẫn chiều sâu. Nó là một
yếu tố của kiến trúc thượng tầng của xã hội Việt Nam từ thế kỷ X đến thế kỷ
XIV, được giai cấp phong kiến Việt Nam sử dụng trong quá trình xây dựng và
củng cố địa vị thống trị của mình và đã có ảnh hưởng sâu rộng tới mọi lĩnh vực

31
của đời sống xã hội như kinh tế, chính trị và văn hóa…” [54, tr.65 – 66]. Tuy
nhiên, do giáo lý mang tính duy tâm chủ quan về mặt nhận thức, nên càng về
sau Phật giáo càng tỏ ra kém hiệu lực trong việc giải quyết những vấn đề của
cuộc sống xã hội, đặc biệt là những vấn đề chính trị - xã hội.
Cuối thế kỷ XIV đầu thế kỷ XV, Phật giáo bị hạn chế, suy yếu dần và đi
vào dân gian. Từ thế kỷ XV, giai cấp phong kiến Việt Nam suy tôn Nho giáo,
lấy đó làm chỗ dựa về tư tưởng, chính trị và đạo đức. Phật giáo cung đình suy
tàn dần. Phật giáo dân gian mang yếu tố thần bí. Người Việt đã sáng tạo ra
hình ảnh Phật Bà nghìn mắt, nghìn tay thể hiện ước vọng được cứu vớt. Mặc
dù Nho giáo thay thế Phật giáo trên vũ đài chính trị, nhưng Phật giáo vẫn tồn
tại cùng Lão giáo hợp thành phức thể “Tam giáo đồng quy” trong đó, mỗi tôn
giáo đáp ứng một phương diện của cuộc sống. “Thời kỳ này có hai môn phái
Thiền ở Trung Quốc được truyền vào Việt Nam là thiền Tào Động (1570) và
thiền Lâm Tế (1712), song đều không gây được nhiều ảnh hưởng đối với Phật
giáo Việt Nam.” [54, tr.66]. Nhiều người Việt Nam trong giới thượng lưu từ
bỏ Phật giáo. Mặc dù vậy, ở nông thôn, làng xã Việt Nam Phật giáo vẫn được
duy trì tồn tại. Vì muốn đưa Nho giáo lên vị trí thống trị, triều đình nhà Lê đã
đề ra và thực hiện nhiều chính sách kiềm chế Phật giáo. Phật giáo cung đình
không còn tồn tại mà dần dần truyền bá vào dân gian.
Phật giáo lại phát triển dưới thời nhà Mạc thế kỷ XVI, các chùa mới
được mọc lên nhiều. Nhiều chùa cũ được xây dựng từ thờ Lý – Trần được
trùng tu to đẹp hơn. Thế kỷ XVIII, vua Quang Trung có quan tâm đến việc
chấn hưng Phật giáo. Thời kỳ này Phật giáo được coi trọng, được triều đình
quan tâm chú ý, thần dân tôn thờ. Vua xuống chiếu chỉnh đốn việc cất chùa,
chọn lựa các tăng nhân có đạo đức, có học thức để trông coi chùa, song việc
làm này ít thu được kết quả vì vua mất sớm. Ở vùng đồng bằng sông Hồng,
làng nào cũng có chùa, làng lớn thì có đến hai ba chùa, các thương nhân Việt

32
Nam tin vào Phật giáo hơn Nho giáo. Ở Đàng trong, Phật giáo cũng được phổ
biến rộng rãi.
Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX phong trào “chấn hưng Phật giáo” được
dấy lên bắt đầu từ các đô thị miền Nam. Sở dĩ có tình trạng này là do sự giao
lưu với văn hóa bên ngoài thúc đẩy. Các giáo hội Phật giáo miền Nam, Trung,
Bắc ra đời và Phật giáo có ảnh hưởng sâu sắc trong đời sống tinh thần con
người Việt Nam. Số tín đồ Phật giáo đông đảo hơn so với các tôn giáo khác.
Dưới sự cai trị của nhà Nguyễn (cả trước và sau khi Pháp xâm lược),
Phật giáo tiếp tục suy tàn. Vào những năm 30 của thế kỷ XX, một số nhà tu
hành cũng như một số nhân sĩ, trí thức đã đứng ra vận động phong trào “Chấn
hưng Phật giáo”. Kể từ đó, Phật giáo có sự khởi sắc. Một bộ phận Phật giáo đi
vào hoạt động có tổ chức, một số cơ sở đào tạo tăng tài lần lượt ra đời.
Thực dân Pháp đã tìm nhiều cách để lôi kéo, thao túng một số nhân vật và
tổ chức Phật giáo nhằm tạo cơ sở xã hội và chính trị cho chế độ thực dân. Tuy
nhiên, mưu toan đó đã không đạt được như mong muốn. Đại bộ phận tăng ni,
phật tử vẫn giữ được truyền thống yêu nước, gắn bó với dân tộc và ủng hộ
Chính phủ kháng chiến, kiến quốc. Nhiều nhà sư tự nguyện đứng vào hàng ngũ
anh bộ đội Cụ Hồ, nhiều đại biểu Phật giáo tham gia Mặt trận Việt Minh, Mặt
trận Liên Việt và nhiều nhà chùa trở thành cơ sở che dấu cán bộ cách mạng.
Từ khi đế quốc Mỹ thay chân thực dân Pháp ở miền Nam, Công giáo
được nâng đỡ và trở thành chế độ độc tài Ngô Đình Diệm. Dưới sự thống trị
hà khắc của bè lũ Mỹ - Diệm, Phật giáo bị chèn ép. Để tự bảo vệ mình, Phật
giáo đã xuống đường chống Mỹ - Diệm. Đó là bối cảnh của phong trào Chấn
hưng Phật giáo bắt đầu từ những năm 60 của thế kỷ XX.
Nhìn chung sau năm 1954, Phật giáo ở miền Nam có nhiều diễn biến
phức tạp và nổi lên mấy đặc điểm: Thứ nhất, xu hướng hiện đại hóa Phật giáo
với việc xây dựng và củng cố các hệ phái cả về tổ chức, đào tạo và cơ sở vật

33
chất. Thứ hai, xuất hiện nhiều hệ phái Phật giáo và cả sự phân rã của chúng
theo nhiều xu hướng chính trị khác nhau.
Vào đầu thế kỷ XX, phong trào chấn hưng Phật giáo phát triển mạnh trên
ba miền, đã tạo lập nên tổng thể Phật giáo Việt Nam hiện đại. Đất nước được
giải phóng vào năm 1975, mở ra một kỷ nguyên mới của nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam. Trong bối cảnh chính trị này, một cuộc vận động
được phát khởi nhằm thống nhất các tổ chức và các hệ phái Phật giáo ở hai
miền Nam và Bắc Việt Nam. Từ năm 1945 cho đến trước năm 1981, Tăng ni,
Phật tử nước nhà đã khởi xướng và tiến hành 4 cuộc vận động thống nhất Phật
giáo (những năm 1951, 1960, 1964, 1980) và đến ngày 7 – 11 - 1981, tại chùa
Quán Sứ, với sự hiện diện của 165 vị đại biểu đại diện cho 9 tổ chức hệ phái
Phật giáo cả nước, đó là: Hội Phật giáo thống nhất Việt Nam; Giáo Hội Phật
giáo Việt Nam thống nhất; Giáo Hội Phật giáo cổ truyền Việt Nam; Ban liên lạc
Phật giáo yêu nước thành phố Hồ Chí Minh; Giáo Hội Tăng già Nguyên thủy
Việt Nam; Hội đoàn sư sãi yêu nước miền Tây nam bộ; Giáo Hội Khất sĩ Việt
Nam; Giáo Hội Thiên Thai giáo quán tông; Hội Phật học Việt Nam. Các đại
biểu đã nhất trí hợp nhất chín hệ phái vào một với danh xưng là “Giáo hội Phật
giáo Việt Nam”, trong mái nhà chung của Phật giáo nước nhà. Đây là tổ chức
hợp pháp, duy nhất đại diện cho toàn thể Tăng ni và phật tử trong và ngoài
nước.
Giáo hội Phật giáo Việt Nam gồm có hai hội đồng là Hội đồng chứng
minh và Hội đồng trị sự.
Hội đồng chứng minh gồm các vị Hòa thượng tiêu biểu của các hệ phái
Phật giáo Việt Nam, có 70 tuổi đời, 50 tuổi đạo trở lên. Hội đồng chứng minh
có nhiệm vụ chứng minh các Hội nghị Trung ương và Đại hội Phật giáo Việt
Nam; hướng dẫn và giám sát các hoạt động của giáo hội về đạo pháp và giới
luật; phê chuẩn và tấn phong chức vị giáo phẩm Hòa Thượng, Thượng Tọa,
Ni trưởng, Ni Sư.
34
Hội đồng trị sự là cấp điều hành cao nhất của Giáo hội giữa hai kì Đại
hội, gồm có 10 ban là: Ban Tăng sự, Ban giáo dục Tăng Ni, Ban hướng dẫn
Phật tử, Ban Hoằng Pháp, Ban nghi lễ, Ban văn hóa, Ban kinh tế tài chính,
Ban từ thiện xã hội, Ban Phật giáo quốc tế, Viện nghiên cứu Phật học Việt
Nam. Ở các tỉnh, thành phố có các ban trị sự, dưới nữa có các Ban đại diện
Phật giáo quận, huyện, thị.
Hiện nay, Giáo hội Phật giáo Việt Nam lãnh đạo và tổ chức tất cả các
hoạt động Phật sự của khoảng 30.000 Tăng ni trong 15.000 tự Viện và 40
triệu Phật tử trong toàn nước. Bên cạnh Giáo hội trung ương, có 44 tỉnh,
thành hội Phật giáo. Phật giáo, trước năm 1975 chỉ có một trường Đại học thì
nay số trường, lớp tăng dần hàng năm. Năm 1993 có 22 trường thì đến năm
2001 có 34 trường. Giáo hội Phật giáo Việt Nam hiện có 4 Học viện Phật học
với trên 1.000 tăng, ni sinh; 35 lớp Cao đẳng và Trung cấp Phật học với trên
5.000 tăng, ni sinh; 1.076 cơ sở từ thiện và nhân đạo, trong đó có 950 lớp học
tình thương, xây dựng 25 bệnh viện miễn phí, 655 phòng phát thuốc, 196 lớp
học tình thương cho trẻ em đường phố, 116 nhà từ thiện. Phật giáo Nam tông
Khơ me có 2.500 các vị sư theo các lớp Cao cấp và Trung cấp Phật học Pali.
Đào tạo, bồi dưỡng chức sắc, nhà tu hành trong các tôn giáo đang mở rộng
theo hướng rút ngắn thời gian chiêu sinh, tăng số lượng, mở rộng loại hình
đào tạo. Học viện Phật giáo Hà Nội tiếp tục triển khai xây dựng giai đoạn 2.
Học viện Phật giáo thành phố Hồ Chí Minh và Học viện Phật giáo Nam tông
Khơ me tại Cần Thơ sau khi được cấp đất xây dựng mới đang tiếp tục hoàn
tất thủ tục để triển khai xây dựng. Hơn 100 Tăng ni sinh tốt nghiệp đang du
học tại các đại học nổi tiếng ở nước ngoài. Viện nghiên cứu Phật họcViệt
Nam đã tập hợp, dịch thuật và xuất bản hơn 27 tập kinh Pàli, và Hán ngữ
nhằm hình thành một bộ Đại Tạng Kinh Việt Nam cho Tăng ni Phật tử và các
nhà Phật học Việt Nam. Số sách báo Phật giáo đủ loại cứ tăng dần mỗi năm…
[ số liệu tham khảo trên trang phatgiao.org.vn].

35
Trước bối cảnh hội nhập quốc tế, Phật giáo Việt Nam có sự chuyển
mình về các phương diện như: gia tăng số lượng tín đồ, chức sắc, cơ sở tự
viện và cơ sở đào tạo; gia tăng các hoạt động hoằng dương đạo pháp; và đặc
biệt là gia tăng các hoạt động đối ngoại quốc tế của Giáo hội Việt Nam.
Phật giáo đã gắn bó, gần gũi với người dân Việt Nam trong suốt hơn 20
thế kỷ qua; những tư tưởng sâu sắc của nó được coi như sợi chỉ đỏ xuyên suốt
lịch sử hình thành nền văn hóa, đời sống dân tộc. Phải khẳng định rằng Phật
giáo rất gần gũi, thân thiết với nhiều người dân Việt Nam. Qua đây, ta có thể
thấy rằng sự khác biệt của Nho giáo và Phật giáo trong quá trình ảnh hưởng
đến đời sống người Việt là ở chỗ: Nho giáo là ý thức hệ tư tưởng của giai cấp
thống trị - giai cấp phong kiến Trung Quốc là một học thuyết chính trị - xã hội
– triết học với hệ thống “tam cương”, “ngũ thường”. Nho giáo phải thông qua
học vấn, giáo dục nhà trường, thông qua các thiết chế xã hội để đi vào đời
sống con người, chủ trương tổ chức và xây dựng mọt xã hội cụ thể. Còn Phật
giáo thông qua sinh hoạt tôn giáo trong giới Tăng ni, Phật tử và trong cả
những sinh hoạt gia đình của con người Việt Nam. Đó là “nhờ biết ứng dụng
phương tiện một cách linh động toàn hảo, trải qua bao thăng trần thay đổi của
lịch sử, Phật giáo Việt Nam vẫn tồn tạo sáng ngời với thời gian” [81,tr.139]
Như vậy, có thể thấy rằng Phật giáo dược du nhập vào Việt Nam từ rất
sớm do có vị trí địa lý thuận lợi giáp với biển Đông và có đường bờ biển dài
nằm trên con đường thủy thông thương giữa Đông và Tây, giữa Bắc và Nam,
giữa hai cái nôi của nền văn minh lớn ở phương Đông là Trung Hoa và Ấn
Độ, là nơi xuất phát về phía Nam có nhiều nhà buôn sứ giả Trung Hoa. Trải
qua nhiều lần gạn lọc và sự đào thải của lịch sử, Phật giáo tại Việt Nam đã
mang màu sắc bản địa rõ nét. Những ảnh hưởng tích cực cũng như những hạn
chế của Phật giáo đã tác động khá rõ nét trong lối sống của người Việt Nam,
góp phần tạo nên tính cách người Việt Nam trong lịch sử và hiện tại.

36
1.3. Lối sống của ngƣời Việt Nam
Trong quá trình đánh giá những ảnh hưởng của Phật giáo đến lối sống
của người Việt Nam, chúng ta không chỉ nắm vững, tìm hiểu những tư tưởng,
nội dung chủ yếu của Phật giáo mà còn phải có những nhận thức đúng về lối
sống của người Việt bởi tính chất, mức độ của sự tác động không chỉ phụ
thuộc vào chủ thể tác động mà còn phụ thuộc vào đối tượng chịu tác động. Do
vậy, không tìm hiểu lối sống của người Việt Nam hiện nay thì sẽ không có
được nhận thức đúng, sâu sắc về ảnh hưởng của Phật giáo đối với lối sống của
người Việt Nam.
1.3.1. Quan niệm về lối sống
Lối sống là thể thống nhất biện chứng giữa tự nhiên - cá nhân và xã hội.
Lối sống xuất hiện trong quá trình cá nhân tham gia vào các hoạt động: lao
động sản xuất, hoạt động chính trị xã hội và hoạt động văn hóa… đồng thời
chịu chi phối của tất cả những hoạt động đó.
Bản chất của con người trong tính hiện thực của nó, như C.Mác và
Ph.Ăngghen đã chỉ ra là “tổng hòa các quan hệ xã hội”. Các quan hệ xã hội tất
nhiên là rất đa dạng và phong phú song cũng có thể quy về hai phương diện
chính là đời sống sinh vật – xã hội và đời sống xã hội – văn hóa. Để có thể
tổng hòa được hai phương diện này con người phải hoạt động giao tiếp, ứng
xử với tự nhiên, với cộng đồng tộc người và với chính mình trong quá trình
bảo tồn và phát triển đời sống của cá nhân, cộng đồng lớn nhỏ. Có nhiều cách
thức bảo tồn và phát triển đời sống trong những điều kiện lịch sử cụ thể thuộc
các không gian và thời gian khác nhau. Các cách thức, các kiểu sống là kết
quả tác động tích cực của con người vào điều kiện và môi trường tự nhiên, xã
hội và đồng thời cũng chịu sự quy định khách quan của điều kiện và môi
trường ấy. Hoạt động của con người như thế nào thì họ là như thế ấy. Do đó,
họ là như thế nào điều đó ăn khớp với sản xuất của họ, với cái mà họ sản xuất

37
ra cũng như cách thức mà họ sản xuất. Vì vậy, những cá nhân là như thế nào
điều đó phụ thuộc vào những điều kiện vật chất của sự sản xuất của họ. Cho
nên, khi nghiên cứu về lối sống, tất nhiên cơ bản phải dựa vào việc tiếp cận
phương thức sản xuất. Khi nghiên cứu về lối sống, C.Mác và Ph.Ăngghen đã
đặt nó trong mối quan hệ với phương thức sản xuất và hình thái kinh tế - xã
hội mà trước hết là phương thức sản xuất. Trong tác phẩm “Hệ tư tưởng
Đức”, C. Mác và Ph. Ăngghen viết: “Không nên nghiên cứu phương thức sản
xuất ấy đơn thuần theo khái cạnh nó là sự tái sản xuất ra sự tồn tại thể xác của
các cá nhân, mà hơn thế nó đã là một hình thức hoạt động nhất định của họ”
[44]. Như vậy, C. Mác và Ph. Ăngghen đã khẳng định, sản xuất là yếu tố
quyết định sự tồn tại của cá nhân và phương thức sản xuất là hình thức hoạt
động cơ bản của con người, là phương thức sinh sống của con người, là mặt
cơ bản của lối sống. Lối sống chính là phương thức, là dạng hoạt động của
con người, nó chịu sự quyết định của phương thức sản xuất. Tuy vậy, lối sống
không phải là sản phẩm thụ động của lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và
những điều kiện sống khác bởi phạm vi của lối sống rộng hơn phương thức
sản xuất. Bởi lẽ, những hoạt động vật chất, con người còn có các hoạt động
chính trị, xã hội, nghệ thuật… Mặt khác, không thể có lối sống nói chung cho
mọi xã hội, cho mọi thời đại. Đặc biệt, trong xã hội có giai cấp thì lối sống
mang tính giai cấp rõ rệt. Bởi vậy, trong cùng một phương thức sản xuất có
thể tồn tại nhiều lối sống khác nhau, thậm chí đối lập nhau.
Lối sống phản ánh tính chủ thể bao gồm: nhận thức, tình cảm, động cơ,
hành vi, ứng xử, thể chế xã hội và cả những mối liên hệ giữa chúng. Có thể
nói, lối sống là sự khúc xạ hình thái kinh tế - xã hội trong nhận thức, tình cảm
thái độ và hoạt động xã hội, tổ chức đời sống và sinh hoạt cá nhân của con
người. Phạm vi của lối sống có thể tương ứng với phạm vi của hình thái kinh
tế - xã hội. Tuy nhiên, hai khái niệm lối sống và hình thái kinh tế - xã hội

38
cũng không đồng nhất với nhau. Hình thái kinh tế - xã hội là một xã hội cụ thể
thì bao gồm tất cả các hoạt động của con người, là một tồn tại khách quan,
độc lập với ý thức con người. Ngược lại, lối sống phản ánh hoạt động của chủ
thể của nó bao gồm nhận thức, tình cảm, thái độ, động cơ trong mọi hoạt động
của bản thân con người. C. Mác cho rằng ở những hình thái kinh tế - xã hội
khác nhau sẽ có lối sống khác nhau, đặc biệt trong hình thái kinh tế - xã hội
có giai cấp, lối sống mang tính giai cấp.
Lối sống bao hàm tất cả mọi lĩnh vực hoạt động của con người trong một
xã hội nhất định. Các mặt cơ bản của đời sống được biểu hiện qua các quan
hệ của con người với tự nhiên, con người với nhau trong lao động sản xuất,
chính trị, tư tưởng văn hóa xã hội và trong ứng xử giao tiếp hàng ngày.
Từ những điểm phân tích trên có thể quan niệm lối sống như sau:
Lối sống à phương thức sống của con người (cá nhân, nhóm, cộng đồng
xã hội) trong một xã hội nhất định và được biểu hiện trên các nh vực cơ ản
của đời sống như hoạt động ao động sản xuất, hoạt động chính trị xã hội,
hoạt động văn hóa tinh thần và hoạt động sinh hoạt hàng ngày.[82,tr.152]
Quan niệm trên đây được tác giả coi là điểm tựa để tiếp cận, phân tích
ảnh hưởng của Phật giáo đến lối sống con người Việt Nam.
Nói đến lối sống là nói đến tổng hòa những dạng hoạt động sống ổn định
của con người gắn liền với dân tộc, giai cấp, nhóm xã hội và các cá nhân
trong cộng đồng. Lối sống của xã hội phải được thể hiện thông qua hoạt động
của từng con người, trong đó hoạt động sản xuất là quan trọng nhất. Trình độ
phát triển năng lực của con người quyết định nội dung lối sống. Khi nói đến
năng lực của con người phải nói đến năng lực lao động, năng lực hoạt động
theo một loại lao động nhất định. Lao động là lĩnh vực hoạt động cơ bản của
con người. Điều đó không phải chỉ tạo ra tất cả những của cải cần thiết cho
con người mà còn vì những yêu cầu thích đáng đối với năng lực của con

39
người được phát triển và thực hiện trong quá trình lao động. Theo sự phát
triển của sản xuất và phân công lao động thì tính đa dạng của các nhu cầu của
của những phương thức làm thỏa mãn cũng phát triển theo. Cơ cấu nhu cầu có
hai loại. Một là, loại nhu cầu ít co giãn nhất, ít thay đổi nhất là những nhu cầu
sống đầu tiên (nhu cầu sinh lý, thể chất) mà việc thỏa mãn chúng là tiền đề
không thể thiếu của việc tái sản xuất sức lao động. Hai là, loại nhu cầu co
giãn hơn, linh hoạt hơn là các nhu cầu trí tuệ và xã hội. Việc thỏa mãn những
nhu cầu trí tuệ ngày càng trở thành điều kiện bắt buộc để tái sản xuất sức lao
động lành nghề. Như vậy, khi xác định nội dung lối sống thì điều hết sức quan
trọng là tìm hiểu xem con người quyết định cho mình mức độ quan trọng của
các nhu cầu khác nhau và phương thức thỏa mãn chúng như thế nào? (con
người làm gì? Làm như thế nào để thỏa mãn các nhu cầu?)
Như vậy, có nhiều yếu tố cấu thành nên lối sống, theo chúng tôi, có thể
kể ra một vài thành tố quan trọng nhất của nó như: Cách thức lao động, làm
ăn, kinh doanh; các phong tục tập quán; cách thức giao tiếp, ứng xử của con
người; quan niệm về đạo đức, nhân cách...
Lối sống chịu sự quy định của phương thức sản xuất và các điều kiện
sống của con người. Do đó, đặc trưng bản chất của lối sống trong toàn bộ đời
sống là hoạt động lao động sản xuất. Tổng hòa các khuôn mẫu ứng xử, các thể
chế xã hội được vận hành theo một bảng giá trị xã hội nào đó trong những
điều kiện kinh tế - xã hội nhất định là nội dung của lối sống. Bảng giá trị gồm
hệ thống các nhóm giá trị rất phong phú nhưng tương tác với nhau cơ bản
theo trục quy định của các chuẩn gía trị xã hội để trên cơ sở đó có tính chất tự
phát triển và tự chuyển hóa sang các giá trị hoặc nhóm giái trị mới. Bảng giá
trị bao gồm hệ thống các giá trị như: giá trị nhân văn biểu hiện ở sự tồn tại và
yêu thương con người, quyền phát triển tự do, giá trị đạo đức biểu hiện những
chuẩn mực quy định mối quan hệ giữa con người với nhau, con người với giới

40
tự nhiên và xã hội trên tinh thần yêu thương hay hận thù, tôn trọng hay không
tôn trọng, sự phát triển hay kìm hãm tài năng, tự do và hạnh phúc, giá trị văn
hóa gắn liền với sự phát triển của khoa học, kỹ thuật và công nghệ trên cơ sở
tiến bộ xã hội và biểu hiện đạo đức và lối sống có văn hóa cũng như sự phát
triển toàn diện của con người; giá trị chính trị, luật pháp biểu hiện thái độ với
việc giành giữ chính quyền, thể chế nhà nước; giá trị kinh tế hướng vào sự
hoạt động của nghề nghiệp, lao động, sản xuất kinh doanh… Lối sống nói
chung mang tính văn hóa bởi nó là tổng hòa những hành động xã hội, quan hệ
xã hội, thể chế xã hội, các khuôn mẫu ứng xử.
Khái niệm lối sống gần gũi với những khái niệm liên quan như nếp sống,
mức sống, kiểu sống. Lối sống không phải là nếp sống. Nếp sống là một mặt
của lối sống. “Nếp sống là một bộ phận của lối sống được lặp lại thành nếp,
thành thói quen,… nghĩa là được định hình, được xác lập thành một nét văn
hóa, được các cá nhân và cộng đồng thừa nhận, làm theo và được quy định
thành điều ước (quy ước hay hương ước) hoặc pháp luật” [83,tr.36-37]. Nhờ
có nếp sống mà những kinh nghiệm quý báu trong lối sống của xã hội và con
người được lưu lại và phát triển. Do đó, nếp sống là mặt ổn định của lối sống.
Nói tới nếp sống là nói tới một lối sống nhất định. Lối sống định hướng hoạt
động của con người có tính biến đổi từ chế độ xã hội này sang chế độ xã hội
khác. Nếp sống với tư cách là biểu hiện của lối sống lại thể hiện tính cụ thể, ở
những chuẩn mực, khuôn mẫu ứng xử của cả xã hội mà mỗi cá nhân đã tự ý
thức, tự biến đổi bản tính của mình thành những hoạt động ổn định, thường
xuyên mang tính chung của xã hội. So với lối sống, nếp sống có tính ổn định
bền vững hơn nhưng không có nghĩa là không biến đổi. Cùng với sự biến đổi
của lối sống, nếp sống cũng biến đổi nhưng chậm chạp và khó khăn hơn. Khái
niệm lối sống chung hơn và rộng hơn khái niệm nếp sống. Lối sống nói lên

41
tính định hướng, định tính chỉ ra phương hướng chính trị và tư tưởng của vấn
đề còn nếp sống nói lên tính định hình và định lượng.
Lối sống và mức sống là hai khái niệm có quan hệ mật thiết nhưng không
đồng nhất với nhau. Mức sống là chỉ báo về lối sống, “chỉ phản ánh phúc lợi
của dân cư và mặt tiêu dùng của cải vật chất và tinh thần và kết quả của tiêu
dùng ấy” [83, tr.54]. Mức sống là điều kiện quan trọng nhất cho hoạt động
sống của con người vì nó quy định việc con người có thể phát triển và áp
dụng năng lực của mình, thỏa mãn nhu cầu của mình như thế nào. Mức sống
là điều kiện và kết quả của hoạt động sống song mức sống không phải là điều
kiện duy nhất quyết định lối sống.
Kiểu sống là hình thức biển hiện cụ thể của lối sống theo cá tính và theo
thị hiếu của cá nhân hoặc theo điều kiện quy định cụ thể nào đó của môi
trường nhỏ. Những người có mức sống khác nhau có thể có những kiểu sống
khác nhau. Nhưng kiểu sống đó có đẹp, có đúng hay không lại phụ thuộc vào
một lối sống, một nếp sống nào đó. Kiểu sống chính là hình thức biểu hiện
của lối sống ở cấp độ nhỏ. Tuy mỗi cá nhân có một kiểu sống riêng nhưng lối
sống của mỗi cá nhân đều có tính chất xã hội và bao giờ cũng có những chuẩn
mực nhất định để từ đó có thể dễ dàng nhận thấy đâu là hành vi đúng chuẩn
và đâu là biểu hiện lệch chuẩn. Đó chính là sự lên tiếng của dư luận xã hội,
của đạo đức, của thẩm mỹ và chặt chẽ hơn là của pháp luật. Đó chính là cơ
chế điều chỉnh hành vi, ngôn ngữ, cử chỉ, lời nói theo hướng cải thiện, cái tốt,
cái đẹp trong lối sống.
Khác với lối sống, lẽ sống là sự chọn lựa chủ quan của con người về mặt
lối sống. Nó là sự phản ánh tính tất yếu khách quan của một lối sống vào đầu
óc con người. Nó là sự khẳng định về một lối sống, là mặt tự giác của lối sống
ấy. Lối sống là cơ sở đầu tiên để hình thành nếp sống và lẽ sống. Nếp sống
làm cho lối sống được ổn định và lẽ sống dẫn dắt lối sống ấy.

42
1.3.2. Đặc điểm lối sống của người Việt Nam truyền thống
Lối sống là tổng hòa các hình thức hoạt động và hành vi của con người
về lao động sản xuất, về sinh hoạt chính trị, sinh hoạt văn hóa tư tưởng. Hoàn
cảnh tự nhiên và phương thức sản xuất trong lịch sử là môi trường hoạt động
của con người Việt Nam từ đó tạo nên lối sống của họ. Lối sống tồn tại và thể
hiện theo đặc điểm của từng thời kỳ lịch sử, của từng dân tộc, của từng vùng
dân cư và của từng cá nhân. Do đó, ngoài tính chung có tính phổ quát, lối
sống còn biểu hiện tính riêng, tính đặc thù.
Lối sống của con người trong mỗi quốc gia, dân tộc được hình thành trên
cơ sở của điều kiện tự nhiên, bao gồm vị trí địa lý, đất đai, khí hậu, hệ động
thực vật, của các điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, tư tưởng, truyền
thống… Lối sống của người Việt Nam có nhiều nét đặc thù, có nhiều nét độc
đáo, khác biệt so với các dân tộc khác. Trải qua những thăng trầm của lịch sử,
dưới sự tác động của các yếu tố địa lý, kinh tế, văn hóa, xã hội, lối sống của
người Việt Nam mang những sắc thái đặc thù. Trong lối sống của người Việt
Nam hiện nay không chỉ có màu sắc dân gian mà còn chịu sự chi phối của tư
tưởng Tam giáo (Nho, Phật, Đạo) và lối sống của người phương Tây. Hiện
đại là sự tiếp nối của truyền thống, bởi vậy, trước khi nhận thức đúng về lối
sống của người Việt Nam hiện nay, chúng ta cần tìm hiểu lối sống của người
Việt Nam trong truyền thống.
Theo chúng tôi, lối sống của người Việt Nam truyền thống được thể hiện
rõ trên một số phương diện sau:
Một à, ao động sản xuất
Lao động sản xuất vật chất là hành động đầu tiên của con người, là hoạt
động làm ra của cải để nuôi sống con người và tạo điều kiện cho con người có
những hoạt động khác. Lao động sản xuất có vị trí đặc biệt trong lối sống
truyền thống của con người Việt Nam và cũng tạo ra cho lối sống đó những
nét riêng biệt.

43
Dưới thời kỳ phong kiến, dân tộc ta đã xuất hiện khái niệm “bách nghệ”
và thành ngữ “Nhất nghệ tinh, nhất thân vinh”, nhưng nghề nông là nghề cơ
bản và bao trùm lên tất cả các hoạt động khác của xã hội. Người ta nhận định:
“Dĩ nông vi bản”, “Phi nông bất ổn”. Nhưng người trực tiếp làm ra lúa gạo để
nuôi sống con người chỉ là người lao động chân tay.
Nền nông nghiệp lúc bấy giờ là nền nông nghiệp cá thể. Sản xuất được
tiến hành trong các hộ nông dân riêng lẻ. Do hạn chế về trình độ, công cụ sản
xuất nên của cải làm ra ít, không có điều kiện để tích lũy, năm mất mùa không
tránh khỏi đối kém lam lũ. Vì vậy, nhiều cảnh phiêu tán dân cư thường xuyên
xảy ra, xã hội luôn ở trong tình trạng không ổn định.
Sự thành bại của sản xuất nông nghiệp đến ngày nay còn phụ thuộc vào
tự nhiên. Thời tiết thuận hòa thì cây cối tốt tươi, cuộc sống no đủ. Thời tiết
thất thường thì mùa màng thất bát, cuộc sống đói khổ. Đối diện với sự biến
thiên của thiên nhiên, con người chỉ còn biết cầu mong ở trời, cố gắng thích
ứng và chống đỡ. Tâm trạng lo lắng về thời tiết bất lợi vẫn đeo đẳng ngày
đêm bên họ.
Đặc trưng của sản xuất nông nghiệp là sản xuất theo thời vụ. Đặc trưng
này đã đưa tới thời gian lao động và nghỉ ngơi khác nhau ở các vùng nông
thôn. Hiện tượng ngày mùa thì vất vả đầu tắt mặt tối, còn tháng Ba ngày Tám
thì có nhiều thời gian rảnh rỗi. Vùng có nghề thủ công thì người ta dùng thời
gian rỗi vào các ngành nghề. Còn vùng không có nghề thủ công cuộc sống
nhàn rỗi của người dân kéo dài. Do rỗi rãi, không có việc làm thúc giục đã
khiến con người có tác phong khoan thai, chậm chạp, không quản thời gian.
Tâm lý tự mãn, tự đắc đó đã để lại trở ngại cho xã hội công nghiệp sau này
khi cuộc sống đòi hỏi phải khẩn trương, phải nhanh chóng, kịp thời.
Lối sống trên cứ lặp đi lặp lại trong nhiều đời, đời sau không khác đời
trước bao nhiêu. Thời gian đã tạo ra cho xã hội một quan niệm tuần hoàn, một

44
thói quen đi theo nếp cũ. Chính lối sống đó là một trong những cơ sở để hình
thành nên các đặc trưng của sinh hoạt chính trị, sinh hoạt văn hóa tư tưởng.
Hai là, về đạo đức ứng xử
Đạo đức ứng xử trong xã hội truyền thống có vai trò nổi bật. Người ta
coi đạo đức là cái gốc của con người nên tư tưởng, hành vi đạo đức luôn được
xã hội coi trọng, luôn được đặt lên hàng đầu. Nếu có sự coi trọng giữa đức và
tài thì đức ở trên tài, giữa lễ và tri thức thì lễ ở trên tri thức (Tiên học lễ, hậu
học văn), giữa nết na và hình thể đẹp thì nết na ở trên (cái nết đánh chết cái
đẹp). Chuẩn mực đó như là điều bất di dất dịch.
Nghĩa vụ của bề dưới đối với bề trên là đạo đức cao nhất đối với con
người phong kiến Việt Nam. Chế độ phong kiến quân chủ tông pháp và học
thuyết Nho giáo đã dạy con người phải nghe theo bề trên và trung thành với
bề trên. Vì vậy, trong nhiều nguyên lý đạo đức của Nho giáo thì nguyên lý
“tam cương” và “tam tòng” là quan trọng hơn cả. Các nguyên lý khác như
nhân, lễ, nghĩa.. của Nho giáo hoặc từ bi, nhẫn nhục, bất sát … của Phật giáo
chỉ bổ trợ để con người hoàn thiện mà thôi.
Đạo đức trên là đạo đức của giai cấp phong kiến, có lợi cho sự thống trị
của giai cấp phong kiến. Tuy vậy, từ yêu cầu phát triển của dân tộc, từ khát
vọng của nhân dân trong thời kỳ phong kiến vẫn xuất hiện đạo đức mang ý
nghĩa nhân văn. Đạo đức đó được thể hiện tập trung ở nhân cách sống của con
người và đã tạo nên một số nhân cách tiêu biểu. Khi Nho giáo trở thành học
thuyết thống trị của triều đình Việt Nam thì trung và hiếu được chú trọng.
Trung và hiếu là nếp sống đẹp của con người Việt Nam trong truyền thống.
Sau này, chủ tịch Hồ Chí Minh đã kế thừa và phát huy tư tưởng trung hiếu
vốn có của dân tộc, nâng cao nội dung của khái niệm “trung”, “hiếu” bằng
quan niệm “Trung với Đảng, hiếu với dân”.
Các nhà Nho rất chú ý đến rèn luyện tính cách cứng cáp cho con người.
Đó là con người kiên trung, bất khuất trước uy vũ của kẻ thù và trước sự cám

45
dỗ của danh lợi. Một phương diện khác của người Nho học Việt Nam là lối
sống thanh cao, giữ đạo nghĩa. Họ sống theo quan niệm “Kiến lợi tư nghĩa”
(Thấy lợi thì nghĩ đến nghĩa) hoặc “Nước có đạo mà nghèo và hèn là điều sỉ
nhục, nước vô đạo mà giàu sang cũng là điều sỉ nhục”. Họ không vì danh lợi
mà làm mất phẩm giá con người.
Ba là, về phong tục, tập quán
Ở Việt Nam, nhiều phong tục, tập quán gắn với tôn giáo, tín ngưỡng.
Tôn giáo tín ngưỡng thuộc hình thái ý thức xã hội, là một lĩnh vực hoạt động
tinh thần của xã hội, tin ở một lực lượng siêu nhiên có thể chi phối cuộc sống
con ngươi và xã hội, cần phải thông qua các nghi lễ đối với thần để mong
được thần che chở, phù hộ. Tôn giáo là hình thức cao của tín ngưỡng, một
loại tín ngưỡng có giáo lý, có tổ chức và nghi lễ đầy đủ. Việt Nam có nhiều
tôn giáo, trong đó Nho giáo, Phật giáo và Đạo giáo là những tôn giáo lâu đời
và gắn bó chặt chẽ với các học thuyết của phương Đông.
Nho giáo truyền vào Việt Nam là Nho Hán, Nho Tống, quan điểm thần
bí của hai loại Nho giáo này vào Việt Nam gần như không có gì thay đổi. Mỗi
một hình thức tế trong Nho giáo có một ý nghĩa khác nhau. Tế trời là trọng
đại nhất và là chức năng của ông vua đương nhiệm. Tế trời là để quốc thái
dân an, để triều đại vững bền mãi mãi. Tế thánh hiền là nhiệm vụ của các Nho
thần, các nhà nho. Tế là để bày tỏ lòng trung thành vói đạo Nho, để tiếp nối
con đường mà tiên nho đã đề ra. Tế tông miếu, từ đường là nhiệm vụ của các
tông tộc, gia tộc. Tế là biểu hiện của sự hàm ơn, để nối nghiệp. Tế là để trừ tà,
trừ rủi ro, bệnh tật… Trong các loại tế lễ thì tế thánh hiền và tế tông tộc, gia
tộc là có ý nghĩa nhân văn hơn cả. Coi trọng việc học, coi trọng gia đình là nét
nhân văn đẹp của phương Đông nói chung và của Việt Nam nói riêng.
Khác với Nho giáo, Đạo giáo là một tôn giáo thuần túy. Đạo giáo được
truyền vào Việt Nam là Đạo giáo phù thủy, Đạo giáo thần tiên. Đạo giáo phù

46
thủy thông qua hình thức bùa chú, bắt quyết, trừ yểm tà ma để đưa lại hạnh
phúc cho con người. Đạo giáo thần tiên thông qua hình thức tế lễ để thực hiện
mong ước về khả năng của con người có thể kéo dài sự sống, có thể làm cho
đời sống được sung sướng, hạnh phúc. Trong lúc khoa học kỹ thuật còn chưa
phát triển, đời sống còn thấp kém thì các hình thức trên của Đạo giáo như là
một sự giải thoát cho cuộc sống còn nhiều khó khăn của con người.
Đi liền với Nho giáo, Đạo giáo là Phật giáo. Phật giáo có vai trò to lớn
trong nền văn hóa dân tộc. Có lúc người dân tự xem mình là Phật tử, có lúc triều
đình xem Phật giáo là quốc giáo. Ngày nay, một bộ phận đông đảo người Việt
Nam vẫn tin theo Phật giáo, nhiều chùa chiền được xây mới và trùng tu. Phật
giáo với những giáo lý, quan niệm nhân sinh đã có ảnh hưởng sâu sắc trong đời
sống xã hội Việt Nam. Trong lúc giáo lý phong kiến gò bó con người, bắt con
người trong tư duy và hành động đều phải theo cấp trên, theo những giáo điều
có sẵn thì nguyên lý của Phật giáo mở ra cho con người một hướng đi, một
phương tiện tự khẳng định mình, một cách suy nghĩ có lợi cho sự phát triển.
Nho giáo, Đạo giáo và Phật giáo là các tôn giáo có nội dung và tính chất
khác nhau song chúng lại gắn bó với nhau tạo thành một thể thống nhất, tạo
nên một sức mạnh đề kháng được với các văn hóa ngoại nhập.
“Tập quán là những thói quen được hình thành trong cuộc sống sinh hoạt
hàng ngày và được thực hành không mang tính bắt buộc” [61, tr.50], trong khi
đó, “phong tục là chuẩn mực sống đã được phong hóa thành nề, nếp sống lâu
đời và thường được tuân theo một cách tự giác” [61, tr.50]. Phong tục tập
quán là những thói quen, những tục lệ đã ăn sâu vào đời sống xã hội, được các
thế hệ trước truyền lại cho con cháu đời sau mà con người ngày nay vẫn còn
thừa nhận và thực hiện. Nguồn gốc phong tục tập quán Việt Nam trước tiên
bắt nguồn từ các tục lệ do điều kiện thời tiết, điều kiện sản xuất và sinh hoạt
của người Việt Nam tạo nên nhưng có những tục lệ ảnh hưởng từ bên ngoài.

47
Trong số những phong tục tập quán Việt Nam chịu ảnh hưởng là tục hiếu
kính cha mẹ, ông bà của Nho giáo. Tục này cho thấy, khi cha mẹ sống thì một
người con gọi là có hiếu không chỉ là nuôi nấng, lo cơm ăn áo mặc cho cha
mẹ khi về già mà phải có thái độ yêu thương kính trọng, phải lo hậu sự đầy đủ
khi cha mẹ chết, phải theo đúng tuần tiết cúng tế… Tư tưởng về hiếu kính từ
bao đời nay được chú ý thực hiện là một nét đẹp trong sinh hoạt, là một cơ sở
để củng cố tính bền vững của gia đình, tính cộng đồng của xã hội.
Xét mọi mặt, có thể khẳng định lối sống truyền thống của người Việt Nam
không còn là cách thức sinh hoạt đơn giản, mang tính bản năng, chỉ bó gọn
trong những tồn tại tối thiểu của con người mà đã là lối sống phong phú, diễn
ra trên nhiều mặt, từ cách thức lao động sản xuất đến đạo đức ứng xử, tín
ngưỡng, phong tục… Lối sống đó về cơ bản đã đạt đến trình độ cao của một cư
dân nông nghiệp có kinh nghiệm trồng lúa nước. GS. Phan Huy Lê cho rằng:
lối sống là một trong những yếu tổ biểu hiện của tâm lý dân tộc, góp phần khắc
họa bản sắc văn hóa dân tộc. Sống ở vùng Đông Nam Á, Việt Nam có nhiều
điểm chung về hoàn cảnh địa lý, về phương thức sản xuất với các nước ở
Đông Á và Đông Nam Á khác. Nhưng xét về lối sống, Việt Nam vẫn có
những nét riêng biệt. Con người Việt Nam đã tạo nên cho mình những đặc
điểm xác định về lối sống trong lịch sử phát triển hàng ngàn năm của dân
tộc… Lối sống của người Việt Nam hiện nay là sự “vượt- gộp” từ truyền
thống.
1.3.3. Sự biến đổi của lối sống và những vấn đề đặt ra trong xây dựng lối
sống của người Việt Nam hiện nay
Lịch sử hình thành và phát triển dân tộc Việt Nam cũng là lịch sử hình
thành và phát triển lối sống người Việt Nam. Nó được vun đắp được làm
phong phú và đậm đà thông qua hoạt đông lao động sản xuất, chiến đấu, học
tập, giao tiếp xã hội trong nội bộ quốc gia, trong đó quan trọng là sự giao lưu
văn hoá với các dân tộc khác. Trải qua quá trình giao lưu, tiếp biến văn hoá
48
mà văn hoá Việt Nam nói chung, lối sống người Việt Nam nói riêng được
phát triển và ngày càng phong phú, đa dạng. Với bản sắc truyền thống của
mình là nhẹ nhàng, tế nhị, kín đáo, giản đơn hoà với thiên nhiên, qua quá trình
tiếp biến các lối sống văn hoá phương Đông, phương Tây và văn hoá xã hội
chủ nghĩa, những nét đặc sắc của lối sống dân tộc Việt Nam truyền thống
được nâng cao trên nền văn hoá tổng hợp có tính quốc tế và đầy trí tuệ của
thời đại. Cũng như các lĩnh vực khác của đời sống tinh thần, lối sống người
Việt Nam cũng được làm giàu với tinh hoa văn hoá và lối sống của nhiều dân
tộc. Dù là một đất nước còn nghèo về kinh tế, nhưng ở đó, nó được hội đủ các
đặc điểm phẩm chất cũng như phong thái văn hoá, văn minh tiên tiến thế giới
tạo thành một lối sống vừa có tính nhân loại, vừa đậm đà bản sắc Việt Nam.
Giống như một số nước phương Đông khác, đời sống tinh thần xã hội
Việt Nam truyền thống dựa trên nền tảng vật chất là nền sản xuất nhỏ, nông
nghiệp trồng lúa nước. Trải qua hàng nghìn năm phát triển lối sống truyền
thống ít nhiều có sự biến đổi chứ không phải bất di bất dịch.
Từ sau cách mạng tháng Tám năm 1945 cho đến nay, dân tộc ta đã bước
vào thời kỳ bảo vệ độc lập dân tộc và phát triển đất nước. Sau khi giành được
độc lập, dân tộc ta đã tiến hành hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
(1945 - 1954) và đế quốc Mỹ (1955 - 1975) để bảo vệ nền độc lập, thống nhất
của Tổ quốc.
Lối sống thể hiện phổ quát nhất ở phương thức hoạt động kinh tế - xã
hội. Bước vào thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, lối sống của con người Việt Nam tất yếu
phải có sự thay đổi. Bước chuyển về mặt sản xuất vật chất xã hội đã phức tạp,
bước chuyển về mặt lối sống càng phức tạp hơn. Đặc biệt, lối sống truyền
thống vốn dựa trên nền sản xuất tiểu nông, có nhiều nhân tố không tương hợp
với tính chất của kinh tế thị trường. Có thể nói, ngoài mặt tích cực thì mặt trái

49
của kinh tế thị trường có tác động tiêu cực làm phai nhạt lối sống tình nghĩa,
làm rạn vỡ tinh thần tập thể, sự ổn định gia đình, đồng thời làm nảy sinh lối
sống cá nhân chủ nghĩa, lối sống gấp, trụy lạc… Những phương thức sản xuất
tiên tiến và hiện đại của thế giới đã mở mang và nâng cao tầm hiểu biết cũng
như phương thức hoạt động trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội, khắc phục tầm
tư duy và thao tác của nền sản xuất nông nghiệp, thủ công; nâng chúng lên
tầm tư duy và thao tác của nền sản xuất công nghiệp. Đây chính là cơ sở vững
chắc đưa phương thức sống, phương thức hoạt động của người Việt Nam lên
trình độ cao phù hợp với một phương thức sống hiện đại, hòa nhập với đời
sống các quốc gia dân tộc khác. Thông qua hội nhập kinh tế, giao lưu văn
hóa, khoa học công nghệ… với các phương tiện thông tin và giao thông hiện
đại, các mô hình kinh tế, các cách thức tổ chức, quản lý xã hội, các điển hình
công nghiệp tiên tiếncủa các nước phát triển đã đến với Việt Nam. Có thể nói,
đây là điều kiện thuận lợi cho việc làm phong phú và hiện đại hóa lối tư duy,
lối thao tác, lối sống cụ thể trong các hoạt động kinh tế, xã hội, văn hoá của
người Việt Nam.
Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá làm biến đổi mạnh mẽ cơ cấu
kinh tế - xã hội: Tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ tăng so với nông nghiệp và sản
xuất thủ công; dân số đô thị, nguồn lao động công nghiệp tăng so với nông
thôn và nông nghiệp. Điều đó làm biến đổi sâu sắc đời sống xã hội và cùng
với nó là biến đổi sâu sắc lối sống trong nhân dân nhất là khi chúng ta hòa
mạng internet, quá trình đa dạng hoá, đa phương hóa liên kết và hợp tác quốc
tế đã tạo điều kiện cho các giá trị và các lối sống của nhiều dân tộc khắp hành
tinh tác động tới lối sống từng cá nhân, gia đình và xã hội. Người Việt Nam
được hướng theo lối sống công nghiệp, hình thành phong cách quan hệ có
tính sòng phẳng, thiết thực, thậm chí có khi đề cao tính thực dụng. Tâm lý tự
chủ lập thân, lập nghiệp trong điều kiện kinh tế thị trường tạo ra lối sống tự do

50
theo pháp luật tự lo toan, làm giàu; lối tư duy táo bạo, khám phá, sáng tạo,
dám nghĩ, dám làm để nhanh chóng vươn lên trong cuộc sống. Đó là lối sống
năng động, lấy hiệu quả làm tiêu chí và chuẩn mực.
Trong thời kỳ cách mạng dân tộc, dân chủ trước đây, đạo đức xã hội
hướng tới việc đề cao ý thức cộng đồng, nhấn mạnh tinh thần hy sinh cá nhân
phục vụ lợi ích tập thể là “Trung với Đảng, hiếu với dân”, “cần, kiệm, liêm,
chính, chí công vô tư” là nét đẹp lý tưởng của con người có đạo đức mẫu
mực. Hiện nay, những chuẩn mực đạo đức đó vẫn được phát huy cho phù hợp
với thời kỳ mới. Đó là các khái niệm luân lý như “kính lão”, “tôn sư”, “trọng
trưởng”, “tín nghĩa”, “chung thủy”, “hiếu thảo”, các nhu cầu về quan hệ gia
đình, dòng họ, làng xóm, quan hệ trong làm ăn, cư trú... đang dần dần mang
thêm diện mạo mới.
Giá trị đạo đức được đánh giá không chỉ trên phương diện quan hệ giữa
người với người trong sinh hoạt đời thường, mà chuyển dần về cái gốc của nó là
quan hệ giữa con người với lao động sản xuất. Tài năng trong lao động được coi
trọng và được xem là phẩm chất đạo đức. Người tốt phải là người biết làm giàu
chính đáng cho mình, đồng thời giúp đỡ người khác thoát khỏi cảnh nghèo khó.
Sự quan tâm đến người khác không chỉ dừng ở lời nói, mà phải được thể hiện
thành hành động cụ thể. Đó chính là xu thế vận động tích cực của giá trị đạo
đức. Trong nền kinh tế thị trường, ý thức đạo đức đối với lao động đã thay đổi.
Bất cứ lao động nào, làm việc gì, nghề gì, bằng sức lao động của mình đem lại
hiệu quả cao đảm bảo được đời sống của bản thân và gia đình, đóng góp tích
cực cho xã hôi không trái với pháp luật đều được xem như là lao động có ích,
được thừa nhận và có giá trị xã hội như nhau về mặt đạo đức.
Một quan niệm mới về đạo đức và một lối sống mới hình thành, đó
là đạo đức hướng tới hành động, hướng vào hiệu quả công việc, hướng vào sự
hình thành và phát triển cá nhân. Như một chủ thể mang nhân cách khẳng

51
định cá nhân, cá tính, ý thức về vai trò chủ thể, con người làm quen với lối
sống thiết thực, khẩn trương, sáng tạo, tự chịu trách nhiệm, có trách nhiệm
với bản thân và xã hội.
Hiện nay, trong xã hội mới – xã hội chủ nghĩa, người được coi là có đạo
đức là người có tinh thần yêu nước, phải là người có năng lực để lao động tự
giác, làm việc hết mình vì trách nhiệm với mình và với xã hội. Đạo đức trong
xã hội mới còn có biểu hiện tích cực thông qua những hành động cụ thể như:
nghĩa cử đền ơn đáp nghĩa đối với những người có công, gia đình thương binh
liệt sĩ, những người cô đơn, những người mắc bệnh hiểm nghèo... đã nói lên
tình cảm đạo đức cao đẹp, sự cố kết cộng đồng của dân tộc ta.
Trên thực tế, đạo đức xã hội nước ta hiện nay vừa có mặt tích cực vẫn có
mặt tiêu cực, đang cản trở sự phát triển. Từ góc nhìn văn hóa, yếu tố tiêu cực
đang có xu hướng biểu hiện ngày càng tăng. Mặc dù, nó không hiện hữu
nhưng đang có tính phổ biến, có thể phá hủy, bào mòn những nền tảng tinh
thần đạo đức tốt đẹp của dân tộc. Đó là chủ nghĩa cá nhân và sự suy thoái
trong quan niệm sống trong một phận không nhỏ cán bộ đảng viên đang có
chiều hướng gia tăng. Từ đó, nó làm nảy sinh tâm lý sống thực dụng, đề cao
một chiều các giá trị vật chất, thói vụ lợi, vị kỷ, ích kỷ, xem đồng tiền là
thước đo của giá trị. Bên cạnh đó, những mặt trái của nền kinh tế thị trường
cũng đang có những tác động đến đạo đức lối sống trong toàn xã hội. Đặc
biệt, trong giai đoạn hiện nay là tệ quan liêu, tham nhũng, nhũng nhiễu, hách
dịch dân... của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên vì lợi ích cá nhân đã
làm xói mòn niềm tin của dân đối với Đảng, Nhà nước.
Hiện nay, nước ta đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa vì mục
tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh” tiến bước
vững chắc lên chủ nghĩa xã hội. Theo quan điểm của Đảng ta những đức tính
của con người Việt Nam cần phải xây dựng, phát triển trong giai đoạn cách

52
mạng mới là: có tinh thần yêu nước, bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất
đạo đức trong sáng, phấn đấu vì độc lập dân tộc, vì chủ nghĩa xã hội.
Những đức tính đó của con người mới không chỉ nhằm xây dựng nền
tảng tinh thần vững chắc của xã hội mà còn nhằm tạo ra một nguồn lực mạnh
mẽ, bền vững cho công cuộc xây dựng đất nước thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế.
Quá trình đổi mới và xây dựng lối sống mới trong gần 30 năm qua không
chỉ quy giản về quá trình chuyển từ truyền thống đến hiện đại mà cũng không
quy giản vế quá trình chuyển đổi từ mô hình chủ nghĩa xã hội kiểu cũ sang
mô hình chủ nghĩa xã hội kiểu mới như ngày nay. Bởi vì, sự chuyển đổi trong
thời kỳ đổi mới thực sự là một quá trình chuyển đổi kép: vừa từ truyền thống
đến hiện đại, vừa từ cơ chế bao cấp xã hội chủ nghĩa sang cơ chế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa. Do vậy, quá trình đổi mới lối sống của con
người Việt Nam ngày nay thực chất là quá trình kết hợp giữa hai quá trình
Việt Nam hóa và hiện đại hóa theo kiểu mới. Theo chúng tôi, lối sống mới
của người Việt Nam hiện nay có những đặc điểm nổi bật sau:
Một là, về thói quen.
Ranh giới giữa nông thôn và thành thị đang mờ dần đi đôi với việc mở
rộng của các đô thị. Cùng với quá trình giao thương hai chiều nông thôn - đô
thị là sự bành trướng của các hình thức văn hóa mới (văn hóa đô thị, công
nghiệp), điều đó khiến cho khuôn mẫu ứng xử và hành vi của những người
dân nông thôn hiện nay cũng pha trộn “thành thị hóa”. Nói chung, người dân
hiện nay có nhu cầu lớn trong việc gắn kết cộng đồng và giữ gìn bản sắc văn
hóa làng xã nông thôn, phát triển các hoạt động tâm linh như đi chùa, thờ
cúng, hội họp… những giá trị văn hóa truyền thống như trọng người già,
trọng đạo đức, trọng gia đình vẫn được đề cao. Những giá trị văn hóa mới,
nhu cầu hưởng thụ các hoạt động văn hóa tinh thần mới như du lịch, thể
thao… đang được tiếp nhận.

53
Ranh giới văn hóa giữa các quốc gia đang xích lại gần nhau. Trong quá
trình hội nhập hiện nay, sự tương tác giữa lối sống phương Tây và lối sống
phương Đông là tất yếu. Nhiệm vụ của chúng ta là nhận thức được những cái
hay, cải dở trong lối sống của dân tộc mình và nỗ lực hiện đại hóa nó.
Tuy nhiên, trong nền kinh tế thị trường đã và đang làm thay đổi khuôn
mẫu sống và hành vi ứng xử của người dân. Quan điểm thực dụng và văn hóa
tiêu dùng đang ngày càng gia tăng trong xã hội hiện nay. Tư tưởng tâm lý
thực dụng không hoàn toàn xấu song nó lại để lại những hành vi làm phá hoại
đạo đức truyền thống, hình thành nên kiểu sống cá nhân chủ nghĩa “sống chết
mặc bay, tiền thầy bỏ túi”[68], kiểu sống hờ hững, ích kỷ với những người
xung quanh. Thanh niên là người chịu nhiều ảnh hưởng của lối sống phương
Tây. Một bộ phận trong đó chạy theo lối sống văn hóa hiện đại, coi đó là mô
hình chuẩn để so sánh đánh giá với nền văn hóa khác. Họ thích chạy theo các
mốt thời trang kiểu Tây, hở hang, phô bày cơ thể không phù hợp với thị hiếu
thẩm mỹ của dân tộc. Họ thực dụng, ít hoặc không quan tâm đến lý tưởng
chính trị xã hội, thích lối sống phẳng hơn nghĩa tình. Đó là những biểu hiện
xa rời lối sống truyền thống của dân tộc, xa rời bản sắc dân tộc, chạy theo lối
sống lai căng, ngoại nhập vốn xa lạ với dân tộc Việt Nam. Đúng như nhận
định trong các Văn kiện của Đại hội Đảng rằng: Nội dung tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc về nhiều mặt chưa được định hình rõ nét trong lối sống văn
hóa, nếp sống văn hóa của người Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa,
hiện đại hóa. Môi trường văn hóa vẫn bị ô nhiễm bởi các tệ nạn xã hội, các
sản phẩm văn hóa, hoạt động văn hóa lai căng, thấp kém, thậm chí độc hại.
Hai là, chu n mực và giá trị
Chuẩn mực chính là nguyên tắc của khuôn mẫu ứng xử. Giá trị mang
tính khái quát cao hơn chuẩn mực. Trên thực tế cùng một giá trị có thể hỗ trợ
cho một số chuẩn mực gần nhau. Ví dụ như người Việt Nam quan niệm rằng

54
nghĩa tử là nghĩa tận, người nhà phải để tang hàng năm hay quan niệm rằng
thi thể người chết cần phải được đào sâu chôn chặt trong khi người dân ở Tây
Tạng - Trung Quốc lại tiến hành theo bốn phương thức là thổ táng, hỏa táng,
thủy táng và không táng.
Người dân Việt Nam hiện nay vẫn hướng tới chuẩn mực sống Chân -
Thiện - Mỹ, nhưng phương thức khác nhiều so với truyền thống. Hiện nay,
giá trị kinh tế đang nổi lên mạnh mẽ, vấn đề việc làm tốt, thu nhập cao, làm
giàu vật chất là nhu cầu của đại đa số nhân dân. Thực tế thì vật chất là cơ sở,
nền tảng xây dựng lối sống tốt đẹp hơn, trực tiếp ảnh hưởng tới mức sống,
chất lượng sống. Nếu không quan tâm đúng mức đến tăng trưởng kinh tế thì
mọi ý đồ xây dựng một lối sống đẹp trong thời đại hiện nay có thể rơi vào ảo
tưởng và duy ý chí song mọi giá trị vật chất không phải là yếu tố duy nhất
hoàn toàn chi phối lối sống.
Trong đời sống sinh hoạt, các cá nhân, gia đình đang cố gắng khắc phục
những biểu hiện của nếp sống tiểu nông như tác phong thủ công, lề mề, làm
ăn nhỏ… Các giá trị mới như trọng lý trong xã hội, hiệu quả, dân chủ, đề cao
ý thức cá nhân, ý thức sở hữu cá nhân đang được hình thành đặc biệt rõ nét
trong lối sống của tầng lớp thanh niên. Ngay ở nông thôn, khu vực giữ đậm
đặc nhất các giá trị chuẩn mực sống đã ăn sâu bám rễ vào tư duy và lối sống
của người Việt Nam thì sự hỗn dung văn hóa đang diễn ra sâu rộng. Truyền
thống tình làng nghĩa xóm, trong các giá trị cộng đồng vẫn là hạt nhân cơ bản
trong sự phát triển làng xã song sự áp chế của tính đồng nhất cộng đồng, sự
thanh nhàn, sự bằng lòng với cái nghèo không còn hiệu lực như xưa, xu
hướng vươn tới làm giàu, chú trọng đến lợi ích vật chất là một giá trị xã hội
ngày càng phổ biến hơn… Tính thiêng liêng của các giá trị tinh thần chung
của cộng đồng, các hình thái tôn giáo, tín ngưỡng nông nghiệp là giá trị văn
hóa được tôn trọng song đã bắt đầu bị giải thiêng ở một nhóm xã hội có nghề

55
nghiệp phi nông nghiệp, có sự di động xã hội cao, học vấn hơn truyền thống.
Sự đan xen hỗn dung giữa các giá trị chuẩn mực văn hóa truyền thống
với giá trị, chuẩn mực hiện đại tiên tiến đã và đang hiện hữu. Vấn đề là cần
định hướng cho sự hỗn dung này, hạn chế tối đa tình trạng xâm lược của các
yếu tố ngoại lai, chắt lọc sự tinh túy của giá trị văn hóa nước ngoài trên nền
tảng bản sắc dân tộc để tạo nên lối sống hiện đại mà vẫn thấm nhuần thuần
phong mỹ tục.
Ba là, phong tục tập quán
Có những phong tục, tập quán trong truyền thống còn được lưu lại song
cũng có cái mất đi như phong tục cắm cây nêu ngày tết hoặc có một số phong
tục bị “biến thái” sang một nghĩa tiêu cực trong nền kinh tế thị trường như
phong tục lì xì mùng tuổi ngày tết…
Trong lối sống hiện nay, những phong tục vẫn được lưu giữ nhất là ở
vùng nông thôn nhưng cũng có những hủ tục còn tồn tại (như trọng nam
khinh nữ, hủ tục trong ma chay, cưới hỏi, giỗ chạp…)
Các yếu tố của lối sống mới luôn có tính hai mặt tích cực và hạn chế. Ví
dụ như lối sống trọng tinh thần cộng đồng ở nông thôn hiện nay dẫn đến tâm
lý phủ định cá nhân, địa phương, cục bộ. Nguyên tắc sống “trọng tình” lại dẫn
đến thiếu duy lý, không logic, thiếu tinh thần pháp luật. Tư duy trọng kinh
nghiệm chủ nghĩa dẫn đến kém phát triển tư duy lý luận, tôn sùng tư
tưởng “sống lâu lên lão làng”, bảo thủ, trì trệ, độc đoán. Tính cần cù chịu
đựng dẫn đến kém tư duy kỹ thuật, không năng động, chậm đổi mới. Việc coi
trọng giá trị vật chất làm giàu nhanh chóng hơn người khác dẫn đến xem
thường những giá trị tinh thần truyền thống để lại.
Tuy nhiên, khu vực nông thôn vẫn là nơi bảo tồn rõ nét nhất lối sống
đậm đà bản sắc văn hóa tốt đẹp của người Việt Nam hiện nay. Người dân
sống đề cao chữ tình trong quan hệ ứng xử. Tình cảm làng xóm láng giềng

56
luôn được họ cẩn trọng giữ gìn vì nó như một thứ “giá đỡ” khi họ gặp khó
khăn (ốm đau, tang ma nhất là khi hệ thống an ninh xã hội ở nông thôn hiện
nay vẫn dựa chủ yếu vào an ninh truyền thống, dựa vào sự hỗ trợ của người
thân, họ hàng, dòng tộc, làng xã)
Đánh giá về thực trạng đạo đức, lối sống ở nước ta, Nghị quyết Trung
ương ần thứ 5 Ban Chấp hành Trưng ương Đảng (Khóa VIII) năm 1998
nhấn mạnh: “Tệ sùng bái nước ngoài, coi thường giá trị văn hóa dân tộc chạy
theo lối sống thực dụng, cá nhân, vị kỷ…đang gây hại đến thuần phong mỹ
tục của dân tộc”.
Nền tảng văn hóa là cốt lõi trong đời sống, lối sống hàng ngày, là sức
mạnh đoàn kết xã hội và phát triển nhưng hiện nay khi kinh tế hàng hóa phát
triển thì chữ “lý” (pháp luật) có vẻ áp đảo chữ “tình” đặc biệt khi chúng ta
giao thương với các nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Bên cạnh đó, quy luật giá
trị, hàng hóa là quy luật thâm nhập, chi phối mọi lĩnh vực xã hội. Trong điều
kiện này, phải làm cho chữ “lý” không trở thành thái quá, vô tình; làm cho
chữ “tình” không yếu thế, biến con người trong thời đại hiện đại trở thành cá
nhân nhu nhược, ba phải.
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định: “Văn hóa Việt Nam là ảnh hưởng
lẫn nhau của văn hóa Đông phương và văn hóa Tây phương chung đúc lại.
Đông phương và Tây phương có cái gì tốt, ta học lấy để tạo ra một nền văn hóa
Việt Nam. Đây là một tinh thần chọn lọc cái tốt, vận dụng cái đẹp của văn hóa,
lối sống nước khác, tinh lọc lấy hạt nhân hợp lý để làm nên lối sống, bản sắc
dân tộc Việt. ” [82,tr.75]
Trong xã hội hiện đại thì chữ “lý” có vẻ được thiên trọng hơn chữ “tình”.
Xã hội Việt Nam muốn phát triển được và hội nhập được với khu vực và quốc
tế thì người dân cũng phải khắc phục những nhược điểm trong lối tư duy trọng
tình mang lại. Điều này cũng được đưa vào trong lối sống. Vấn đề này, trong

57
công trình “Cơ sở văn hóa Việt Nam” , Trần Ngọc Thêm nhận định: Việt Nam
có thể tự điều chỉnh chuyển từ truyền thống hài hòa thiên về âm tính (tình) sang
khuynh hướng hài hòa thiên về dương tính (lý). Việc thiên về dương tính sẽ
hướng đất nước sang con đường phát triển; còn tính hài hòa sẽ đảm bảo cho sự
phát triển diễn ra vững chắc - phát triển trong dung hợp và tách hợp phương
Đông và phương Tây - văn hóa dân tộc và văn minh thế giới. Tuy nhiên, trong
quá trình thực hiện, tư duy và hành động không phải lúc nào cũng bắt kịp nhau.
Khi tư duy đã thay đổi thì một hệ thống những chuẩn mực, giá trị, khuôn mẫu,
hành vi cần được thay đổi theo, làm được điều này không phải nhanh chóng.
Lựa chọn những gì trong tư duy văn hóa để duy trì thành lối sống, nếp sống mới
điều đó không chỉ cần có thời gian mà cần cả sự sáng suốt lựa chọn và bản lĩnh
không chỉ của một cá nhân, một nhóm xã hội hay một cộng đồng, cần có sự
đồng tâm của toàn Đảng, toàn dân để tiến tới một lối sống mang đậm bản sắc
văn hóa dân tộc và hiện đại..
Xây dựng con người Việt Nam hoàn thiện về nhân cách, lối sống là một
công việc vừa rất cơ bản, chiến lược, vừa rất cấp bách, trong đó bốn giá trị
lớn là: Lý tưởng sống; Năng ực trí tuệ; Vẻ đẹp đạo đức; Bản nh văn hóa,
trở thành nền tảng nhân cách vững chắc của con người Việt Nam thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Trong bối cảnh có nhiều tác
động phức tạp hiện nay, truyền thống và bản lĩnh văn hoá dân tộc Việt Nam là
nền tảng vững chắc để xây dựng và vun đắp những giá trị truyền thống tốt đẹp
trong đời sống xã hội. Những giá trị của Phật giáo đã hội nhập vào văn hóa
Việt Nam, đã và đang tiếp tục ảnh hưởng đến lối sống của người Việt Nam
hiện đại.

58
Tiểu kết chƣơng 1
Phật giáo đã truyền vào Việt Nam gần hai ngàn năm và để lại nhiều dấu
ấn trong đời sống văn hóa tinh thần của dân tộc. Những giá trị truyền thống
của Việt Nam đã hòa cùng giá trị từ bi, nhân văn của Phật giáo. Tư tưởng về
thế giới, về nhân sinh của Phật giáo có nhiều điểm độc đáo, thể hiện một triết
lý sâu sắc về thế giới, con người, cuộc đời.
Do Phật giáo đã ăn sâu bắt rễ vào đời sống người dân Việt Nam nên
những tư tưởng về thế giới quan, nhân sinh quan đa có ảnh hưởng sâu đậm
đến lối sống của người Việt Nam trong lịch sử. Từ khi du nhập vào Việt Nam,
Phật giáo đã được người Việt tiếp nhận, cải biến và bổ sung, vận dụng trong
công cuộc xây dựng và phát triển đất nước về mọi mặt đồng thời nhằm xây
dựng, củng cố những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc và hình thành lối
sống có đạo đức, đậm tính nhân văn, nhân đạo của người Việt Nam.
Trong bối cảnh mới từ những năm đổi mới (1986), lối sống người Việt
Nam có nhiều thay đổi. Đó đây không ít những tình trạng tha hóa về đạo đức,
nhân cách, lối sống. Trong thế giới quan và nhân sinh quan Phật giáo có nhiều
tư tưởng tiến bộ, vẫn còn phù hợp với xã hội hiện đại. Biết phát huy những tư
tưởng tiến bộ đó và gạt bỏ những nét tiêu cực, hạn chế nhằm xây dựng lối
sống con người Việt Nam lành mạnh, tiến bộ là một trong những vấn đề quan
trọng ở nước ta hiện nay.

59
CHƢƠNG 2
NHỮNG ẢNH HƢỞNG CHỦ YẾU CỦA PHẬT GIÁO ĐẾN LỐI
SỐNG CỦA NGƢỜI VIỆT NAM HIỆN NAY

2.1. Ảnh hƣởng của Phật giáo trong cách thức lao động sản xuất và tổ
chức cuộc sống của ngƣời Việt Nam hiện nay
2.1.2. Những ảnh hưởng tích cực
Xuất phát từ quan niệm cho rằng Phật giáo là một tôn giáo quan tâm
nhiều đến kiếp sau hơn là những vấn đề của cuộc sống hiện tại nên đã có
không ít người cho rằng Phật giáo hầu như không quan tâm nhiều đến việc lao
động sản xuất, kinh doanh, nếu có cũng chỉ mang tính chất đáp ứng nhu cầu
tối thiểu mà thôi. Đây là một tư tưởng sai lầm, bởi Phật giáo quan niệm nếu
chúng ta có một đời sống chánh kiến thì hạnh phúc đến với chúng ta không
những trong đời này mà còn trong đời sau. Phật giáo luôn nhấn mạnh về cuộc
sống đạo đức và lương thiện trong đời hiện tại hơn là đợi đến kiếp sau. Thậm
chí ngay cả Niết bàn, sự khát khao giải thoát cuối cùng cả người Phật tử cũng
có thể đạt được ngay chính trong cuộc sống này. Vì giáo lý nhà Phật chủ
trương “vô thường” với quan niệm “thiểu dục tri túc” khuyên con người bớt
ham muốn dục vọng và biết đủ. Nhiều hiện tượng tiêu cực trong xã hội xảy ra
là do không kìm nén được ham muốn, không tiết chế được dục vọng cá nhân.
Việc tiết dục, sự điều độ và biết đủ trong đời sống sinh hoạt là hạnh phúc theo
quan điểm của Phật giáo và làm cho người ta thoát khỏi những ham muốn vô
tận và bất thiện.
Trong các kinh điển Phật giáo, không có một chương hay phần nào nói
về kinh tế một cách độc lập, trực tiếp mà nó được đề cập đến trong rất nhiều
bộ kinh khác nhau. Phật giáo đã đề cập đến những nhu cầu cơ bản của con
nười là ăn, mặc, ở, đi lại và giáo dục. Chỉ cần nhu cầu cơ bản không đáp ứng

60
được thì sự phát triển về thể chất và tinh thần là điều không thể: “Vì thiếu hụt
nhu cầu sống cơ ản, thực ph m trống rỗng, sự nghèo đói đã an tràn trong ã
hội. Từ đó, nảy sinh trộm cướp, bạo lực, giết người, vu khống, mại dâm, lừa
dối, tham am, ác t m, phóng đãng, trụy lạc cuối cùng dẫn tới sụp đổ đạo làm
con hay lòng mến mộ đạo pháp. Những điều trái đạo đức như thế sẽ sinh sôi
nảy nở trong chốn nh n gian” [50, tr. 76]
Trong quá trình du nhập và phát triển ở Việt Nam, Phật giáo được xem là
một trong những nhân tố quan trọng góp phần định hình nên các quan niệm,
chuẩn mực, hệ giá trị đạo đức trong xã hội; ảnh hưởng không nhỏ đến cách
thức lao động sản xuất và tổ chức cuộc sống của người Việt Nam. Bên cạnh
những giá trị đặc thù như bảo vệ niềm tin tôn giáo thiêng liêng, nhân sinh quan
Phật giáo còn đề cập đến những chuẩn mực đạo đức mang tính xã hội được
biểu hiện trong lối sống, cách thức lao động sản xuất giúp người dân Việt Nam
luôn hướng tới sự trung thực trong sản xuất kinh doanh, tránh xa sự gian dối,
điêu ngoa làm hại người…
Theo quan điểm của Phật giáo, lao động có chức năng rất khác nhau để
hoàn thành cho người lao động cơ hội để sử dụng và phát triển khả năng của
mình; giảm cái tôi của mỗi người bằng cách cộng tác với những người khác
trong một nhiệm vụ chung. Điều này khác hẳn với quan niệm của kinh tế học
hiện đại khi cho rằng lao động như là một “điều chẳng đặng đừng phải làm”;
càng ít lao động trong quy trình sản xuất thì càng tốt. Các chức năng này có ý
nghĩa sâu sắc đối với những sự gắn kết kinh tế và xã hội. Trên thực tế, chất
lượng công việc của một cá nhân có thể có tác động sâu sắc đến sự tồn tại của
họ. Tuy nhiên, sự tự động hóa và phân chia lao động đã làm giảm ý nghĩa mà
một cá nhân có thể nhận được từ công việc của mình. Đề cao lao động, đề cao
quá trình sản xuất ra vật chất nhằm ổn định xã hội theo quan điểm của đạo
Phật thì việc coi trọng phát minh mới trong sản xuất đã góp phần nâng cao

61
nhận thức của người dân trong việc phải phát triển khoa học kỹ thuật và ứng
dụng nó trong lao động sản xuất để làm cho đời sống của người dân ngày
càng được cải thiện. Nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước, người lao động đã không ngừng nâng cao trình độ để phù
hợp với nhu cầu phát triển sản xuất của xã hội, tránh được sự đào thải gay gắt,
từng bước tiến tới thành công trong cuộc sống. Trong thời đại mà khoa học và
công nghệ phát triển nhanh chóng như hiện nay, đây vừa là cơ hội nhưng cũng
là thử thách cho Việt Nam. Con người Vệt Nam đã phát huy tinh thần lao
động chăm chỉ, cần cù và sáng tạo của mình. Có rất nhiều loại máy móc đã
được chúng ta cải tiến mà giá thành lại rẻ hơn các sản phẩm cùng loại của
nước ngoài. Tin học là một lĩnh vực phát trển rất mạnh trong những năm gần
đây. Người Việt Nam bằng tài năng và trí tuệ của mình đã đạt được nhiều giải
thưởng, nhiều công trình có tính ứng dụng cao. Việt Nam đã vượt lên để trở
thành một trong những đối tác về phần mềm của nhiều công ty lớn trên thế
giới, cạnh tranh với Trung Quốc và Ấn Độ. Trong những năm qua,
ROBOCON châu Á - Thái Bình Dương được tổ chức, chúng ta đã đạt giải cao.
Điều đáng nói là chúng ta đã phát huy được phẩm chất cần cù, sáng tạo trong
điều kiện vật chất của chúng ta còn thua kém hơn nhiều nước trong khu vực.
Xuất phát điểm là một nước sản xuất nông nghiệp với tính chất khắc
nghiệt của điều kiện tự nhiên như thiên tai, hạn hán, mất mùa vì vậy, từ xưa
đến nay người Việt Nam luôn mang trong mình phẩm chất đạo đức truyền
thống tốt đẹp trong sản xuất kinh doanh đó là đoàn kết, gắn bó cộng đồng, yêu
thương giúp đỡ lẫn nhau. Trong quá trình sinh hoạt tại các đạo tràng, đi lễ
chùa đã sớm hình thành những nhóm, câu lạc bộ giúp nhau, tương trợ nhau
trong đời sống, phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo… Ở các vùng nông
thôn Việt Nam, tinh thần đoàn kết, nhân ái của Phật giáo đã phần nào len lỏi
vào trong lối sinh hoạt sản xuất nông nghiệp trong các làng xã, làm cho sự cố

62
kết cộng đồng ngày càng bền chặt. Nông thôn Việt Nam chiếm đến 80% và
nghề nghiệp chủ yếu là làm nông nghiệp. Chính sự gắn kết với nền nông
nghiệp lúa nước khiến cho lối sống cư dân vùng nông thôn thể hiện rõ nét tính
chất văn hóa làng xã. Ở đây họ rất đoàn kết, tính cộng đồng cao, họ thường
xuyên giúp đỡ nhau trong công việc, trong sinh hoạt hàng ngày. Mỗi thành
viên trong làng ngoài các công việc của gia đình mình còn hỗ trợ với nhau
trong sản xuất. Trong lịch sử nông nghiệp Việt Nam từ xưa đến nay vẫn rất
chú trọng và đề cao vai trò của đổi công trong sản xuất nông nghiệp. Điều này
là hết sức cần thiết để tập trung huy động tối đa sức người trong việc giải
quyết nhanh những công việc đồng áng, phù hợp với tính mùa vụ cao của
nông nghiệp Việt Nam. Hơn nữa, việc đổi công còn thể hiện sự thắt chặt mối
tình giao hảo giữa anh em làng xóm, láng giềng, giúp đỡ lẫn nhau trong lúc
khó khăn hay trong lúc rủi ro bất trắc. Chẳng hạn như khi một gia đình nào đó
có người ốm đau hoặc không có nhân lực lao động thì hình thức đổi công sẽ
khỏa lấp chỗ trống đó. Không những vậy, trong cuộc sống của người dân ở
các làng xã, tình đoàn kết còn thể hiện ở việc mỗi khi họ hàng, làng xóm có
việc hiếu, hỉ, mọi người cùng nhau đến để làm giúp. Hoạt động này diễn ra
luân phiên và thường xuyên, làm cho cuộc sống của người dân mang đậm tình
làng, nghĩa xóm, gắn bó và đoàn kết hơn. Khi cùng nhau tham gia sinh hoạt
Phật giáo, nhân dân đoàn kết giúp đỡ nhau, tương trợ nhau và cùng nhau học
hỏi mô hình sản xuất mới, phù hợp với đời sống kinh tế và nhịp sống thời đại.
Ở nhiều nơi bà con có các chương trình như tương trợ vốn, hùn vốn giúp nhau
trong sản xuất nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, và buôn bán nông sản…
Ngoài ra, khi hiểu đạo Phật, bà con cũng hiểu được truyền thống của đạo Phật
và lịch sử dân tộc đó là “Phật giáo đồng hành cùng dân tộc” nên nhân dân có
tinh thần xây dựng cùng với chính quyền các cấp thực hiện tốt các chủ
trương, chính sách của Nhà nước trong phát triển kinh tế xã hội địa phương.

63
Muốn kinh tế phát triển, Phật giáo cho rằng cần phải lập kế hoạch kinh
doanh một cách cẩn thận. Phật giáo đề nghị một kế hoạch như vậy cho từng
cấp độ hay quy mô như cá nhân - gia đình; quốc gia - lãnh thổ. Việc lập một
kế hoạch kinh doanh muốn chắc chắn thành công phải có bốn đặc điểm sau:
“Một à, có năng lực và nghị lực; Hai là, có sự thận trọng; Ba là, hợp tác với
những người có tài, người có tinh thần xây dựng, có phẩm chất đạo đức tốt;
Bốn à, cuộc sống được cân bằng.” [14,tr.83]
Đức Phật cho rằng “Để thành công trong cuộc sống thế tục à gì? Giả ụ
như có người sinh sống ằng uôn án, nuôi gia súc, àm công chức hay ất
cứ nghề nghiệp hay công nghiệp nào khác, người đó phát triển sự hiểu iết và
khả năng trong nghề nghiệp của mình, có khả năng tổ chức, thực hiện những
công việc cần thiết ở đúng thời điểm và trình ày được các kế hoạch, tìm tòi
các phương tiện phát triển t n tiến Đó à cái mà ta gọi à chánh tinh tấn”
[49, tr.61]. Như vậy, ngoài những yếu tố trên thì yếu tố “thời cơ” cũng là
nhân tố không thể thiếu dẫn đến thành công, tức là phải biết làm chủ thời
gian, phải tiến hành “tu dưỡng tinh thần” – yếu tố cốt lõi đầu tiên trong quá
trình rèn luyện để làm chủ mọi vật trong giới tự nhiên. Nói cách khác, đó
chính là sự nhất thể của tâm và vật giúp con người tìm đến sự thành công
trong sản xuất, kinh doanh cũng như trong đời sống xã hội.
Đối với Phật giáo, của cải không phải là một điều xấu, điều quan trọng là
làm thế nào tạo ra và sử dụng nó. Ngay cả khi của cải được tạo ra trong một
phương cách có đạo đức và sử dụng cho bản thân mình và người khác, thì
người ta cũng không nên có một thái độ tham lam quá mức đối với của cải.
Kinh Pháp Cú, Ph m Tham Ái 355 có nói: Của cải hại kẻ ngu; không hại
được người cố tìm bến giác; kẻ ngu ham tiền bạc; tự hại mình, hại người.
Trong một đoạn kinh Phật có một đoạn thơ ca nói về việc sử dụng đồng tiền
mà mình kiếm được của một anh chàng nông dân: “phần đầu anh ta sử dụng

64
để chi tiêu vào những nhu cầu thiết yếu trong cuộc sống như thức ăn, quần
áo... Hai phần kế tiếp dùng để tái sản xuất, nhằm sinh lợi bằng các hoạt động
như chăn nuôi hay buôn bán.” [14, tr.51]. Như vậy, một nửa thu nhập nên
dùng vào việc kinh doanh sinh lời hay chi cho các hoạt động có ý nghĩa.
Những hoạt động như thế sẽ làm cho tài chính gia tăng, không gây ra gánh
nặng cho người khác. Những hoạt động ý nghĩa bao gồm đầu tư phát triển kỹ
năng, giáo dục hay cung ứng các nhu cầu vật chất. Và phần còn lại, anh ta để
dành phòng khi gặp tai nạn hay ốm đau. Như vậy, theo tinh thần Phật dạy, số
tiền tích lũy chỉ bằng ¼ số tiền kiếm được mà vẫn đảm bảo được nhu cầu thiết
yếu của cuộc sống như thực phẩm, quần áo, thuốc men, giáo dục… và chúng
ta cũng thấy rằng những thực phẩm thiết yếu này bắt buộc phải được sản xuất
ngay trong nước chứ không phải dựa vào nguồn nhập khẩu từ nước ngoài vì
chỉ có như vậy mới tránh được tình trạng thiếu hụt lương thực gây bất ổn xã
hội. Phần thứ tư của tổng thu nhập được dành cho tích lũy, dự trữ. Phật giáo
luôn khuyến khích con người tiết kiệm tiền của bởi mỗi chúng ta không tránh
khỏi những lúc gặp khó khăn, ốm đau, bệnh tật. Vì vậy, nếu không có của cải
tích trữ thì con người chúng ta sẽ rơi vào nợ nần và không đáp ứng được nhu
cầu cuộc sống thuận lợi. Đức Phật dạy rằng: “Tài sản nên được tích cóp một
cách chính đáng, không dùng những phương tiện bạo lực hay xấu xa để làm
giàu; tài sản tích lũy đó nên được sử dụng phục vụ nhu cầu bản thân; tài sản
tích lũy chính đáng đó cũng được dùng để hỗ trợ những người khác; của cải
tạo ra được dùng để phục vụ cuộc sống, không nên dính chặt vào nó, không
nên si mê vì nó, không nên vì nó mà làm điều tội lỗi, phải tỉnh táo đối với mối
nguy hiểm tiềm tàng cũng như hậu quả mà chúng sẽ mang lại. Của cải nên
được chi tiêu một cách khôn khéo cho mục đích cá nhân cũng như giúp đỡ tha
nhân. Không nên tích cóp như người keo kiệt.” [14,tr. 63 – 64]. Trong kinh
Tăng Chi Bộ, đức Phật dạy về cách chi tiêu tài sản cá nhân một cách hợp lý,

65
đúng pháp như sau: Chi tiêu cho những nhu cầu sống cơ bản, đầu tiên là thực
phẩm; Dùng để nuôi vợ con và tôi tớ; Làm việc từ thiện; Làm các việc hữu
ích: giúp đỡ họ hàng thân thích và bạn bè; lo việc ma chay, cúng giỗ; cúng
dường cho những bậc thánh hiền; đóng thuế cho nhà nước. Cho đến ngày nay,
những tư tưởng của Phật giáo đã và đang ảnh hưởng sâu sắc tới nhận thức
chung của nhân dân, Phật tử. Một trong những mặt ảnh hưởng trực tiếp nhất
là việc xây dựng và chăm lo cho đời sống kinh tế gia đình. Khi nhân dân hiểu
đạo Phật thì sẽ hạn chế việc chi phí cho các nghi lễ tốn kém như cúng giỗ
rườm rà, giết trâu mổ bò để cúng giàng, cúng thần linh, ma quỷ… biết cách
tiết kiệm, chăm lo xây dựng đời sống kinh tế để ổn định sản xuất, biết cách
khắc phục và vượt qua các khó khăn trước mắt, để tiếp tục ổn định sản xuất
và phát triển kinh tế lâu dài, bền vững. Giáo lý đạo Phật, cụ thể áp dụng lời
Phật dạy trong việc chi tiêu cá nhân, xây dựng đời sống kinh tế gia đình như:
khi có tiền thì mỗi gia đình, cá nhân phải biết cách chi tiêu đời sống hàng
ngày, một phần tiết kiệm đề phòng bất trắc hoặc tình huống khẩn cấp xảy ra
và hai phần để kinh doanh và đầu tư sinh lời.
Sau năm 1975, với tinh thần đẩy mạnh việc “đem đạo vào đời”, khá
nhiều chùa thuộc hệ phái Bắc tông, tịnh xá của hệ phái Khất sĩ đã tạo điều kiện
để tự túc lương thực, đẩy mạnh hoạt động kinh tế cho nhà chùa. Qua 5 nhiệm kỳ
của Giáo hội Phật giáo Việt Nam từ 1981 đến nay, nhiều chùa đã đã hoàn toàn
tự túc được lương thực. Đại đa số các tăng, ni thuộc hệ phái Bắc tông đều vừa
tu hành vừa tự lao động kiếm sống. Nhiều chùa đã tạo thêm thu nhập qua việc
sản xuất các mặt hàng thủ công mỹ nghệ, may mặc, đan lát, làm đồ chay, trồng
cây ăn trái, hoặc trồng rừng theo quy mô nhỏ. Công ty cổ phần Thiện Tài (ở
Thành phố Hồ Chí Minh) do Ban Kinh tế, Tài chính của Giáo hội Phật giáo Việt
Nam thành lập và lãnh đạo đã hoạt động có hiệu quả gần 20 năm nay, góp phần
cơ bản giải quyết kinh phí cho hoạt động chung của Giáo hội.

66
Trong giáo lý Phật giáo có đưa ra năm oại hình kinh oanh ảnh hưởng
đến sức khỏe, nh n ph m và đưa đến rối oạn ã hội như: “Chế tạo và buôn
bán vũ khí, các thiết bị dùng để chiến tranh; Sản xuất các hóa chất độc hại; Sản
xuất, phổ biến và kinh doanh rượu, các chất gây nghiện nguy hiểm; Nuôi động
vật cho mục đích săn bắn; Kinh doanh xác thịt (hoạt động mại dâm)” [14, tr.5].
Theo quan điểm của Phật giáo, việc lao động sản xuất, kinh doanh nhằm mục
đích an sinh và công bằng xã hội được “nhất thể hóa” với bảo vệ môi trường.
Nói cách khác nếu bất chấp sản xuất kinh doanh mà phá hủy môi trường thì
hậu quả khó lường. Phật giáo chỉ ra rằng khi tạo ra một sản phẩm nào đó để
phục vụ con người thì nhất thiết phải lấy con người làm trung tâm. Một sản
phẩm không thể tạo ra chỉ vì chạy theo lợi nhuận mà quên đi sự ảnh hưởng
của sản phẩm đó đến người tiêu dùng. Đạo đức kinh oanh phải được đặt lên
hàng đầu và chỉ tham gia một hoạt động kinh tế nếu không vi phạm các điều
sau: “Khai thác bóc lột sức lao động của người khác; Gia tăng lợi nhuận của
mình mà cướp đi nhu cầu cơ bản của người khác; Không tham gia vào năm
thứ kinh doanh như đã đề cập trên; Không sử dụng lãng phí và làm mất cân
bằng tài nguyên thiên nhiên hoặc phá hủy môi trường sinh thái.” [14, tr. 10]
Do đó, tư tưởng kinh tế của Phật giáo rất có giá trị. Nó đòi hỏi một hoạt
động kinh doanh phải đem lại hạnh phúc, thỏa mãn vật chất, lợi ích cho đa số
dân chúng. Một hoạt động kinh tế cũng là một hành động có ý chí (nghiệp)
dẫn đến kết quả hạnh phúc hay đau khổ của chính người tạo ra nó. Vì thế, chỉ
nên hoạt động kinh doanh để gặt hái kết quả hạnh phúc trong đời này và đời
sau. Nghiệp là một năng lực tác động đến sự hiện hữu của con người trong
đời sống. Con người chịu sự chi phối của tính di truyền, của môi trường tự
nhiên, môi trường xã hội, ý thức hệ và của nghiệp lực quá khứ. Nhưng cũng
có thể không bị bất kỳ cái nào trong số đó tác động hay chi phối. Với lòng
khát khao cộng với ý chí tự do, con người có thể thoát khỏi các yếu tố ràng

67
buộc trên. Nghiệp lực cũng như các nhân tố kia có thể quyết định chúng ta
sinh trong một gia đình giàu sang hay nghèo đói. Nhưng điều đó không có
nghĩa là người nào đó sẽ luôn sinh ra trong sự giàu có hay nghèo đói mãi mãi.
Chính hành động thiện hay bất thiện của mình trong hiện tại sẽ quyết định số
phận trong tương lai. Phật giáo luôn nhấn mạnh đến điều này. Điểm mấu chốt
của sự phát triển kinh tế nằm ở quy tắc sau: Hãy lưu ý, sự siêng năng cần cù
luôn gặt trái ngọt.
Các hoạt động kinh tế theo tư tưởng của Phật giáo có thể hiểu rõ hơn
thông qua học thuyết về công đức. Cốt lõi của học thuyết này là tích lũy công
đức qua việc tham gia các hoạt động kinh tế có lợi ích cho chính bản thân
cũng như người khác, không những cho con người, mà còn cho các loài sinh
vật và môi trường sống xung quanh. Nhiều tín đồ Phật giáo thấm nhuần
thuyết “vô thường”, “vô ngã” và “lý duyên khởi” đã nhanh chóng bắt nhịp với
đời sống kinh tế - xã hội của đất nước, năng động, sáng tạo trong lao động sản
xuất và tổ chức cuộc sống làm giàu cho bản thân, gia đình và cho đất nước.
Điều răn không tham của nhà Phật được các nhà tu hành và các phật tử tiến
bộ hiện nay hiểu và vận dụng theo ý nghĩa rất tích cực đó là, cần làm giàu để
có điều kiện giúp đỡ, bố thí cho người khác.
Sự bằng lòng với những gì mình có là điểm cốt yếu trong cuộc sống của
người phật tử. Nó được xem như là tài sản quý nhất của con người. Tuy
nhiên, sự bằng lòng cuộc sống hiện tại luôn bị giải thích một cách lệch lạc và
sai lầm rằng đó là sự chấp nhận số phận an bài, không cần phải phấn đấu, một
ý nghĩa tiêu cực. Theo sự giải thích này thì sự vận động, sự phát triển của con
người bị triệt tiêu, không tồn tại. Ý nghĩa của sự bằng lòng theo tư tưởng Phật
giáo rộng hơn thế, không có nghĩa là chỉ biết chấp nhận và thỏa mãn những gì
mình đang có và không bao giờ nỗ lực để cải thiện chính mình tốt hơn.

68
Phật giáo tuy không tác động trực tiếp vào việc hoạch định đường hướng
phát triển kinh tế xã hội của mỗi địa phương song khi có sự tác động của Phật
giáo thì vai trò của Phật Giáo sẽ có những ảnh hưởng tích cực tới đời sống
kinh tế xã hội tại những vùng đó: Tác động làm thay đổi nhận thức về tư duy
xây dựng kinh tế vì mục đích của Phật giáo là xây dựng đời sống an lạc và
giải thoát, nhưng muốn an lạc thì đời sống kinh tế phải vững mạnh, phát triển
kinh tế bền vững và hài hòa…
Do vậy, giúp nhân dân ở một số vùng từ đó từ bỏ các tập tục gây dựng
kinh tế mà làm phương hại đến môi trường, sinh thái… Tác động đến tiết
kiệm chi phí, giảm bớt các kinh phí đầu tư cho các tục lệ, hủ tục rườm rà, tốn
kém; qua đó gây dựng nguồn vốn để đầu tư cho sản xuất, góp phần xóa đói,
giảm nghèo, tập trung phát triển kinh tế. Một trong những sự thay đổi dễ nhận
biết nhất đó là trước đây thì các hủ tục như ma chay dài ngày, cưới hỏi nhiều
thủ tục, nghi lễ và các hủ tục tốn kém đã dần được thay thế bởi các nghi lễ
Phật giáo trang trọng, đơn giản.
Tinh thần Từ, Bi, Hỷ, Xả của Phật giáo cũng tham gia đáng kể và việc
khắc phục mặt trái của kinh tế thị trường. Xây dựng về Tứ Vô Lượng Tâm
(Từ, Bi, Hỷ, Xả), Phật giáo muốn nhấn mạnh vào cái Tâm con người – đó là
cái đạo đức, lòng người, trí tuệ. Cái tâm theo nghĩa này cũng là đặc trưng
không chỉ của Phật giáo mà còn là đặc trưng của người phương Đông nói
chung. Cái tâm của con người nằm trong mối quan hệ biện chứng với xã hội,
ảnh hưởng đến mình và xã hội. Cội nguồn của tinh thần từ bi trong Phật giáo là
triết lý Phật tính bình đẳng nơi chúng sinh. Đức Thích Ca đã từng nói “Không
có đẳng cấp trong dòng máu cùng đỏ. Không có đẳng cấp trong nước mắt cùng
mặn” [53, tr.49]. Cách đây hơn hai ngàn năm, tư tưởng đó thật sự tiến bộ, mới
mẻ, đáp ứng được khát vọng của người dân Ấn Độ đang phải sống trong chế
độ phân biệt đẳng cấp nghiệt ngã. Điều này làm chúng ta liên tưởng đến
“Tuyên ngôn
69
độc lập” của nước Mỹ ngày 4/7/1776 khi Tuyên ngôn đó nói rằng: mọi người
sinh ra đều có quyền được sống, được tự do, được mưu cầu hành phúc. Trong
“Tuyên ngôn độc lập” của nước Việt Nam dân chủ Cộng hoà, Hồ Chí Minh
đã tiếp thu những tư tưởng nhân văn từ bản “Tuyên ngôn độc lập” của nước
Mỹ, khẳng định lại những quyền tự nhiên, căn bản của con người: “Tất cả
mọi người sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không
ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy, có quyền được sống,
quyền được tự do và quyền được mưu cầu hạnh phúc” . Một sự liên tưởng
như vậy để thấy rằng, những tư tưởng nhân văn Đức Phật Thích Ca mặc dù
ra đời từ cổ đại, song trong đời sống xã hội hiện đại ngày nay, tư tưởng đó
vẫn còn nguyên giá trị.
Việt Nam bước vào cơ chế thị trường đã được gần ba mươi năm, đất
nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, đã có sự thay đổi toàn diện và
cơ bản. Tuy nhiên, mặt trái của kinh tế thị trường khiến cho khoảng cách giàu
nghèo ngày càng tăng. Đời sống của nhiều người lao động, đặc biết là nông
thôn, vùng sâu, vùng xa vẫn còn nhiều khó khăn. Nạn thất nghiệp, thiếu việc
làm còn khá phổ biến. Bên cạnh một lớp người giàu lên nhanh chóng do có
vốn, có năng lực, do nắm bắt được cơ hội và cả những người làm giàu bất
chính, thì những cảnh khổ trong xã hội vẫn còn nhiều. Họ thuộc nhóm những
người yếu thế không thể không cần sự cứu giúp. Đó là những trẻ em, người
già không nơi nương tựa, những người không may mắc phải hoạn nạn, bệnh
tật…. Với phương châm cứu khổ, cứu nạn, Phật giáo thực sự đã dang rộng
vòng tay, góp phần với xã hội làm vơi đi nỗi khổ của con người. Các chùa,
các phật tử đều tham gia tích cực vào công tác từ thiện xã hội bằng những
việc làm cụ thể, thiết thực: nuôi dưỡng người già cô đơn, không nơi nương
tựa, trẻ em mổ côi, cứu giúp đồng bào bị thiên tai, hoạn nạn, các nạn nhân
chất độc màu da cam, khám chữa bệnh miễn phí cho người nghèo… Có

70
những tín đồ phật tử sẵn sàng vào làm việc tại các trại phong, tận tình giúp đỡ
những bệnh nhân mắc bệnh hiểm nghèo. Những việc làm đó đã có tác dụng
lan toả vào trong cộng đồng, thức tỉnh mọi người hãy quên mình, hạn chế bớt
nhu cầu vật chất của mình để nghĩ đến đồng loại. Từ trong truyền thống, tinh
thần từ bi, cứu khổ của Phật giáo đã hòa vào tinh thần tương thân tương ái của
người Việt Nam và thực sự trở thành nguồn sức mạnh của dân tộc.
Trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay, Phật giáo thực sự đã chung
tay với xã hội, với các cấp chính quyền trong việc góp phần xoá đói giảm
nghèo, kiến tạo công bằng xã hội. Những việc làm thiết thực, cụ thể giàu lòng
nhân ái của Phật giáo góp phần khắc phục một phần sự tha hóa, bù đắp cho
con người trên phương diện hiện thực. Nhà Phật dạy bố thí (tài thí, pháp thí,
vô úy thí), không chỉ đơn thuần là giúp đỡ về mặt vật chất mà cao hơn là sự
cảm thông chia sẻ, yêu thương con người. Theo quan niệm của đạo Phật, mỗi
chúng ta sinh ra trong cõi đời là đã bị xiết cứng bởi vành đai khắc nghiệt
Tham, Sân, Si. Sự tham lam tiền của, vật chất là ngọn lửa thiêu đốt tâm can
con người không bao giờ tắt. Do đó, bố thí giúp cho con người bỏ dần tính vị
kỉ, dạy con người bớt xén hưởng thụ, sống tiết kiệm không hoang phí, có lòng
thương cảm với người khác.
Trên tinh thần giải thoát với tâm Từ, Bi, Hỷ, Xả, Phật giáo Việt Nam
hiện nay đã thực sự gắn bó với đời, cụ thể hoá những triết lý của Phật giáo
vào trong đời sống. Ý nghĩa của sự giải thoát đã bớt phần cao siêu mà gắn liền
với hiện thực, cứu giúp những nỗi khổ đau cụ thể của con người đang hiện
hữu. Thiết nghĩ, trên con đường đi tìm thứ hạnh phúc siêu việt, Phật giáo đã
có cái nhìn ngày càng đổi mới, gắn đạo với đời, mang lại hạnh phúc giản dị
cho con người ngay nơi trần thế. Phật giáo Việt Nam ngày càng hội nhập vào
cộng đồng, có những đóng góp tối ưu cho sự nghiệp xoá đói giảm nghèo, xây
dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Lý tưởng nhân bản của phật

71
giáo đã hướng đến những mục tiêu thiết thực và cụ thể là giải phóng con
người khỏi mọi khổ đau của đói nghèo, lạc hậu. Như vậy, Phật giáo đã không
xa lạ với chủ nghĩa xã hội mà đồng hành với chủ nghĩa xã hội trên con đường
kiến tạo một xã hội no ấm, phồn vinh và hạnh phúc.
Kinh tế thị trường đem lại cho con người Việt Nam một cái nhìn mới về
mối quan hệ giàu nghèo. Trước đây đã có thời kỳ chúng ta quan niệm nghèo
là tốt, ngay trong lời nói hàng ngày đã thể hiện quan niệm này như người giàu
thì gọi là kẻ giàu. Nhưng ngày nay quan niệm này đã trở nên lỗi thời vì không
thể xây dựng một đời sống đạo đức tốt đẹp trong điều kiện đời sống tinh thần
còn khó khăn. Chính vì thế con người Việt Nam ngày nay không ngừng hăng
say lao động để làm giàu cho mình, cho quê hương đất nước. Làm giàu chính
đáng cho quê hương đất nước đã trở thành một điểm nhấn trong đời sống đạo
đức con người Việt Nam hiện nay. Chúng ta đã công nhận ngày 10/3 hàng
năm là ngày của doanh nhân để ghi nhận những thành tựu tầng lớp này trong
cuộc đổi mới xây dựng và làm giàu đất nước. Làm giàu chính đáng cũng
chính là một trong những biểu hiện của lòng yêu nước. Phật giáo đã tạo niềm
tin và tác động sâu sắc đến lối kinh doanh và triết lý kinh doanh của người
Việt Nam. Với lợi nhuận thu được trong kinh doanh, nhiều người đã thực hiện
nhiều biện pháp phúc lợi xã hội. Ngoài ra, với tư duy sắc sảo, nhạy bén, tại
một số địa phương đã gắn kết được du lịch tâm linh Phật giáo trong hoạt động
du lịch. Hình thức kinh doanh này đã góp phần tạo nên thu nhập cho người
dân đồng thời cũng đáp ứng nhu cầu về tinh thần cho người dân do sức ép của
quá trình phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế.
2.1.2. Một số ảnh hưởng tiêu cực
Bên cạnh những ảnh hưởng tích cực thì Phật giáo cũng có những ảnh
hưởng tiêu cực đến cách thức lao động sản xuất và tổ chức cuộc sống của
người Việt Nam.

72
Một là, nét đặc trưng của kinh tế nông thôn Việt Nam đó là kinh tế tiểu
nông, manh mún. Ruộng đất bị chia năm, xẻ bảy, ít gia đình nào có thể tập
trung ruộng đất để quy hoạch sản xuất. Vấn đề phân chia ruộng đất này không
chỉ xảy ra trong quá khứ mà hiện nay vẫn còn đang tồn tại ở nhiều địa
phương. Hiện nay, ở một số địa phương đã xuất hiện quá trình các hộ nông
dân thỏa thuận bán ruộng đất cho nhau theo hợp đồng dài hạn hoặc đổi ruộng
cho nhau để có thể tập trung sản xuất. Điều này giải phóng và tạo vốn cho
các gia đình muốn bỏ sản xuất nông nghiệp để chuyển sang kinh doanh các
ngành nghề khác, đồng thời tạo điều kiện quy hoạch phát triển sản xuất tập
trung cho một số hộ nông dân. Hiện tượng ruộng đất manh mún là sự phản
ánh tư tưởng bình quân chủ nghĩa và tính cộng đồng khép kín của người
Việt. Qua đó cho thấy tính ôn hòa, ít cạnh tranh và tư tưởng bình quân của
Phật giáo ít nhiều được hiện ra. Giống như tư tưởng hài hòa của Phật giáo,
người nông dân Việt Nam thường không muốn ai nghèo hơn mình cũng
không muốn ai giàu hơn mình.
Hai là, theo quan điểm của Phật giáo thì thực phẩm cần thiết phải được
sản xuất ngay trong nước để tránh tình trạng thiếu hụt lương thực gây bất ổn
xã hội. Hoạt động kinh tế ở nông thôn Việt Nam chủ yếu là tự cung tự cấp,
nền kinh tế khép kín, năng lực dư thừa, thị trường khó phát triển. Mỗi làng
tự đáp ứng nhu cầu cho cuộc sống của mình; mỗi nhà có vườn rau, chuồng
gà, ao cá, tự đảm bảo mọi nhu cầu về ăn, có bụi tre, gốc mít... tự đảm bảo
nhu cầu về ở. Khuôn viên kinh tế hộ gia đình có nhiều nét giống như kinh tế
tư viện thời xưa. Ngôi chùa với kinh tế hộ gia đình có nhiều nét tương đồng.
Như vậy, cách thức lao động và tổ chức cuộc sống của người Việt ở
vùng Bắc Bộ đã phản ánh tâm lý tiểu nông, nền kinh tế tự cung, tự cấp và
trong đó có sự ảnh hưởng nhất định của quan niệm Phật giáo. Bên cạnh đó,
một ảnh hưởng tiêu cực của Phật giáo trong cách thức lao động và tổ chức

73
cuộc sống nữa là ảnh hưởng của tính an phận thủ thường của giáo lý nhà Phật.
Phật giáo nhìn cuộc đời là bể khổ vô tận. Quan niệm đó có ảnh hưởng nhất
định đến cách nhìn cuộc đời và cách thức tổ chức cuộc sống của người Việt.
Một bộ phận không nhỏ người Việt tin rằng, cuộc đời là thoáng qua, phù hoa,
giả tạo nên không muốn dấn thân, không muốn đua chen. Ở các vùng Phật
giáo trọng điểm, đa phần các tín đồ đều cảm thấy luôn tự hài lòng với những
gì mình có, an phận với cuộc sống thanh đạm, nhàn nhã. Nó làm cho một bộ
phận không nhỏ người dân có thái độ tự thỏa mãn, chấp nhận số phận, địa
phương cục bộ, che giấu thông tin, nghi kị những yếu tố đổi mới, e ngại sự
giao lưu, kết nối với bên ngoài, đặt lệ làng cao hơn phép nước, đưa các mối
quan hệ dòng tộc vào việc chung. Tính an phận thủ tường trong Phật giáo làm
cho nhiều vùng đồng bào tín đồ Phật giáo thường có trình độ kinh tế thấp hơn
mặt bằng chung của xã hội. Điều này thể hiện rõ nét trong vùng đồng bào
Khơ me theo đạo Phật ở vùng Tây Nam Bộ. Các sư tăng vẫn sống hoàn toàn
dựa vào sự bố thí của tín đồ mặc dù nhiều chùa, nhiều sư có khả năng làm
kinh tế tốt. Vì vậy, người Khơ me hiện nay chỉ thích đi làm thuê, sống tạm
qua ngày. Với quan niệm “Phúc dày thỏa sức mà ăn”, nhiều người Khơ me
chỉ lo làm việc thiện, làm phúc mà không tính toán đến xây dựng đời sống
hiện thực.
Nhìn chung ảnh hưởng của Phật giáo trong các vùng nông thôn Việt
Nam là tính hài hòa, an nhàn, thảnh thơi và ổn định. Điều này làm cho kinh tế
nông nghiệp, nông thôn chậm phát triển.
Ba là, thời đại ngày nay là thời đại phát triển không ngừng của kinh tế và
các mặt khác của đời sống xã hội. Phát triển có nghĩa là sự tăng trưởng nhanh
chóng về kinh tế, đời sống vật chất và văn hóa. Đảng và Nhà nước đã chỉ ra
nhiệm vụ là làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng và văn
minh. Để đạt được mục tiêu đó, nước ta cần có đội ngũ có những con người

74
năng động, lạc quan, tin tưởng, sáng tạo, nhiệt huyết… Những phẩm chất này
phần lớn trái với giáo lý nhà Phật vì mục đích trái với cấm dục, vô dục, ly dục
của Phật giáo. Theo Phật giáo, con người trở nên không có tham vọng tiến
thân, bằng lòng với những gì mà mình đã có, sống nhẫn nhục, không đấu
tranh, hướng tới cõi Niết bàn khi cuộc sống trần gian chấm dứt. Như vậy,
Phật giáo đã tách con người ra khỏi điều kiện thực tiễn, làm cho con người có
thái độ chấp nhận, chạy trốn nhu cầu bản năng chứ không phải là cải tạo thế
giới, chế ngự tự nhiên bắt nó phục vụ cho mình, cải tạo điều kiện sống. Phật
giáo chủ trương diệt dục triệt để bằng ý chí, coi dục là căn nguyên của mọi tội
lỗi, khẳng định mô hình lý tưởng cho mọi người lao động, coi lao động là nhu
cầu sống chứ không phải phương tiện sống, lao động không còn là nguồn gốc
của khổ đau, nghèo đói…
Hiện nay, nền kinh tế thị trường cũng bộc lộ những mặt trái: kinh tế thị
trường chú trọng những nhu cầu có khả năng thanh toán, không chú ý đến nhu
cầu của xã hội; đặt lợi nhuận lên hàng đầu; phân biệt giàu nghèo rõ rệt.Sự
cạnh tranh khốc liệt của các chủ thể kinh tế đã dẫn đến sự cô lập, thâu tóm,
triệt tiêu lẫn nhau giữa các tập đoàn, công ty sản xuất kinh doanh… Điều này
làm cho nhiều doanh nghiệp, công ty rơi vào tình trạng vỡ nợ, phá sản, nhiều
gia đình tan nát, ly tán, nhiều cá nhân tự tử… Vì vậy, nhấn mạnh đến hoạt
động kinh doanh, Nguyên tổng Bí thư Lê Khả Phiêu nhấn mạnh: “Kinh doanh
có văn hóa là lối kinh doanh có mục đích và theo phương thức đạt tới cái lợi,
cái thiện và cái đẹp. Kinh doanh vô văn hóa là lối kinh doanh sẵn sàng chà
đạp lên mọi giá trị, không từ bất cứ thủ đoạn bỉ ổi nào, miễn là kiếm được
càng nhiều lợi nhuận càng tốt. Để đạt được lợi nhuận ngày càng cao, họ sẵn
sàng cho ra đời những hàng kém chất lượng, hàng giả, hàng nhái, những hàng
có chất độc hại ảnh hưởng đến sức khỏe của người tiêu dùng, thậm chí sức
khỏe của trẻ em. Họ chà đạp lên chuẩn mực văn hóa trong kinh doanh, họ

75
thiếu hẳn chữ “tâm” trong kinh doanh” [30, tr.113 - 114]. Phật giáo với quan
niệm về “nghiệp”, “nhân quả” sẽ góp phần cảnh tỉnh con người.
Tóm lại, Phật giáo đã có ảnh hưởng sâu tới lối sống, cách thức lao động
sản xuất, cách thức kinh doanh và tổ chức cuộc sống của người Việt Nam,
đặc biệt trong nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế hiện nay. Những giá
trị tích cực của Phật giáo đã giúp người dân Việt Nam giữ được nét đẹp
truyền thống trong sản xuất kinh doanh như trung thực, đoàn kết và nhân ái;
giúp đỡ nhau khi gặp hoàn cảnh khó khăn cũng như góp phần hình thành
nhiều hình thức sản xuất kinh doanh đậm giá trị nhân văn.
2.2. Ảnh hƣởng của Phật giáo đến phong tục, tập quán
2.2.1. Phật giáo góp phần củng cố, duy trì các phong tục, tập quán của
người Việt Nam
Phong tục tập quán thể hiện đặc sắc và tính đặc thù về văn hóa của mỗi
dân tộc. Thông qua phong tục tập quán, người ta lại thấy được những giá trị
văn hóa mang bản chất truyền thống của các dân tộc. Đối với con người Việt
Nam, những phong tục tập quán chịu ảnh hưởng của Phật giáo là khá rõ nét
trong một số phong tục tập quán phổ biến của người Việt .
Lịch sử thế giới đã chứng minh rằng hầu hết các tôn giáo được truyền đi
bằng con đường chính trị, được áp đặt bằng vũ lực, bằng chiến tranh hoặc làm
công cụ cho các thế lực xâm lược. Ngược lại đã hai mươi sáu thế kỉ qua trên
bước đường truyền bá khắp thế giới, Phật giáo chưa bao giờ để lại một vết máu
do xung đột, điều đó xuất phát từ bản chất từ bi hỷ xả, vị tha của đạo Phật.
Trước khi Phật giáo du nhập, nước ta đã có một hệ thống tín ngưỡng,
phong tục vô cùng phong phú. Họ quan niệm rằng: “Ông trời ở trên cao có thể
nhìn thấy mọi việc dưới đất, biết trừng phạt kẻ làm ác, giúp đỡ kẻ làm lành.
Ông trời có những thuộc hạ gần xa. Gần thì có ông Sấm, bà Sét, xa thì có Sơn
Tinh, Thủy Tinh, thần cây đa, ông Táo, ông Địa… Rồi con người không hẳn

76
là bất diệt nhưng có thể tồn tại một thời gian khá lâu, quanh quẩn bên xác
người chết và có thể ở chung với người còn sống trong một thời gian để che
chở, bảo hộ” [34, tr.50].
Khi Phật giáo vào Việt Nam, tuy giáo lý nhà Phật không chấp nhận có
một đấng ở trên cao có thể nhìn thấy mọi vật ở dưới đất, nhưng thuyết nhân
quả, nghiệp báo của đạo Phật, phù hợp với quan niệm ông Trời muốn trừng
phạt kẻ ác, thuyết luân hồi phù hợp với quan niệm tồn tại sau khi xác thân tiêu
hoại, cho nên Phật giáo ứng nghiệm ngay với quan niệm nhân gian.
Trần Ngọc Thêm trong cuốn “Cơ sở văn hóa Việt Nam” đã hệ thống tín
ngưỡng dân gian thành ba yếu tố: tín ngưỡng phồn thực, tín ngưỡng sùng bái
tự nhiên và tín ngưỡng sùng bái con người. Những tín ngưỡng trên là sản
phẩm của nhân dân hình thành trong chiều dài của lịch sử trên cở sở kinh
nghiệm, sự sùng bái và trí tưởng tượng của con người, vì thế nó trở thành hệ
thống chặt chẽ tất nhiên nhưng thiếu cơ sở vững chắc.
Khác với Nho giáo, Phật giáo được truyền vào Việt Nam bằng phương
tiện hòa bình chứ tuyệt nhiên không phải là công cụ cho những thế lực xâm
lược, cộng với phương châm từ, bi, hỉ, xả, trí tuệ vị tha và nền giáo lý phù hợp
với tín ngưỡng truyền thống, nên “đạo Phật thấm vào nền văn minh Giao
Châu dễ dàng như nước thấm vào lòng đất” (Nguyễn Lang).
Cho nên trong đời sống thường ngày, chúng ta không lạ gì với những biểu
tượng của Phật giáo. Những hình ảnh đó được thể hiện trong đời sống một cách
tự nhiên, đó là hình ảnh ông Bụt, mái chùa, nhà sư, tiếng chuông…
Trong tâm thức của người dân Việt Nam, chùa không chỉ là nơi thờ Phật
mà còn là nơi thờ Thần, thờ Mẫu, thờ các vị anh hùng dân tộc. Trước khi đạo
Phật vào Việt Nam thì dân tộc ta đã có tín ngưỡng thờ Mẫu. Ngày ấy, cư dân
Việt đã thờ ba bà mẹ sáng tạo ra muôn vật: Mẫu Thượng Thiên, Mẫu Thượng
Ngàn, Mẫu Thoải. Trong tâm linh của cư dân Việt cổ, ba vị này là chủ thể

77
sáng tạo ra ba địa bàn hoàn chỉnh của đất nước: vùng trời, vùng đất (kể cả
rừng núi), vùng biển (kể cả sông ngòi). Bên cạnh tín ngưỡng thờ ba bà mẹ,
dân tộc ta còn có tục lệ thờ các vị thần nông nghiệp, các vị thần về hiện tượng
tự nhiên… Tất cả việc thờ cúng này mang ý nghĩa duy vật thô sơ. Không lấy
làm lạ là trong kho tàng truyện cổ dân gian Việt Nam, chúng ta thường bắt
gặp hình ảnh các bà mẹ: Mẹ Âu Cơ với cái bọc trăm trứng - biểu tượng cho sự
khai sinh ra dân tộc; Mẹ Âu Cơ dạy dân trồng lúa, trồng dâu nuôi tằm dệt vải
- biểu tượng cho sự sáng tạo văn hóa; Mẹ của Thánh Gióng - biểu tượng cho
người sản sinh ra vị anh hùng khổng lồ trong công cuộc bảo vệ đất nước; Mẹ
Man Nương với hòn đá phát sáng (Thạch Quang) ở gốc cây thiêng Dung Thụ,
đưa mẹ Man Nương thành Phật Mẫu và các con là các nữ thần Mây, Mưa,
Sấm, Chớp cùng hệ thống chùa Tứ pháp (Pháp Vân, Pháp Lôi, Pháp Điện,
Pháp Vũ) gắn liền với đời sống của cư dân nông nghiệp lúa nước phương
Nam. Những hình ảnh người mẹ ấy đã phản ánh một chặng đường dài phát
triển của lịch sử dân tộc với quá trình dựng nước và giữ nước, đảm bảo cho
dân tộc Việt Nam khắc phục được cả thiên tai và địch họa. Truyện xảy ra vào
thế kỷ thứ II, biểu hiện sự giao tiếp văn hóa Việt Ấn (mẹ Việt: Man Nương
chân chất, cha Ấn: Khâu Đà La siêu phàm). Cũng từ mốc văn hoá này mà
chùa Việt Nam bên cạnh thờ Phật còn có cả thờ Mẫu (Tiền Thánh hậu Phật).
Đó cũng chính là truyền thống và tư tưởng yêu nước, nhân đạo của dân
tộc. Chính vì vậy, người dân đến chùa không chỉ lễ Phật mà còn lễ Mẫu, lễ
Thần, tưởng nhớ các anh hùng dân tộc. GS. Trần Quốc Vượng đã đánh giá:
“Nếu đặc điểm tôn giáo Việt Nam là sự thờ thần (tha lực siêu nhiên) mà con
người cúng và cầu để nhờ vả và “Phù hộ độ trì” thì Phật hay Quan Âm cũng
trở thành một loại thần Phật Điện; tính tâm linh Ấn Độ nhường bước cho tính
tình cảm Việt Nam (hơn đâu hết, tôn giáo Việt Nam nặng nề về tình cảm hơn
là giáo lý, giới luật, đoàn thể tôn giáo), sự suy tưởng nội tâm (Thiền định)

78
nhường bước cho sự “van vái, co kéo” Thần, Phật xuống gần “cõi người ta”
để “cứu khổ, cứu nạn” cho đời” [ 84,tr.140].
Như vậy, có thể thấy, Phật giáo đã và đang góp phần rất lớn vào việc
củng cố, duy trì phong tục thờ thần – một giá trị văn hóa truyền thống lâu đời
của dân tộc Việt Nam. Hay nói cách khác, Phật giáo đã và đang góp phần vào
việc duy trì, chuyển tải đạo lý uống nước nhớ nguồn của dân tộc Việt. Bởi đa
phần các vị thần trong tâm thức dân gian Việt Nam đều là những người có
công với làng xã, đất nước được cộng đồng tôn vinh.
2.2.2. Phật giáo ảnh hưởng đến tập tục đi lễ chùa, cúng Rằm, mùng Một
Hệ thống chùa tháp, một bộ phận cấu thành giá trị văn hóa vật chất của
di sản văn hóa dân tộc được thiết kế mang dáng vẻ thanh thoát, trầm mặc,
đậm sắc thái riêng của phương Đông. Không một tỉnh thành nào trên đất nước
Việt Nam không có hình ảnh của các ngôi chùa. Mái chùa đã đi vào đời sống
của dân tộc ta, là nơi sinh hoạt văn hóa tinh thần của nhân dân nhất là ở các
vùng quê. Chùa là nơi thể hiện quan niệm Từ - Bi - Hỷ - Xả… gợi cho con
người hướng thiện, hướng đến sự tĩnh lặng trong tâm hồn. Chùa ở miền quê là
“Đất vua chùa làng phong cảnh Bụt”. Chùa do dân làng tạo dựng, lời kệ câu
kinh ngân nga thoát tục, tiếng chuông chùa vang vọng khắp thôn quê, những
nông dân chân bùn tay lấm với buổi trưa hè nghỉ mát dưới lũy tre xanh. Tiếng
chuông ngân khiến lòng người lắng dịu thoảng quên đi bao nỗi nhọc nhằn vất
vả, chùa bỗng dưng có một sức thu hút lạ thường, khiến cho con người muốn
gần gũi, hướng về:
“Mái chùa che chở hồn dân tộc
Nếp sống muôn đời của tổ tông” [68]
Đi chùa lễ Phật đã trở thành nếp sống quen thuộc không thể thiếu trong
đời sống tâm linh của rất nhiều người dân Việt Nam. Người Việt Nam còn đi
lễ chùa theo truyền thống:

79
“Dù ai uôn án ở đ u,
Đến ngày Phật Đản năm ch u c ng về
Dù ai uôn án trăm nghề,
Đến ngày Phật Đản ta về chùa ta” [62]
Người Việt Nam đến chùa với lòng thành tâm của mỗi người, để cầu
bình an, phúc lộ cho bản thân và gia đình. Có người đến chùa để xám hối,
nhưng có người đến để vãn cảnh chùa. Ngày nay, ngoài ngày rằm, mùng một,
vào các ngày rằm tháng giêng, rằm tháng tư (lễ Phật Đản), rằm tháng Bảy (lễ
Vu Lan) số lượng người đến chùa ngày càng đông. Trước cánh của thiền môn,
những Phật tử, khách thập phương đều giữ cho mình sự trang nghiêm, thành
kính để dâng lên Đức Phật và các bậc thánh hiền tấm lòng chân thành của
mình. Trong số đông đảo những con người quỳ trước Đức Phật ấy, không
phải ai cũng đến chùa vì lý do tín ngưỡng thuần túy. Nhiều người đến chùa
chỉ đơn giản muốn xem lễ hội hoặc chiêm ngưỡng kiến trúc và khung cảnh
thanh tịnh nơi cửa Phật. Nhưng khi đã nhập hội, trước sự trang nghiêm, tĩnh
tại chốn chùa, cửa Phật dường như họ cũng trở nên đĩnh đạc và trầm tĩnh hơn,
cái tâm trong sáng trở về bên họ, hướng họ tới suy nghĩ tốt đẹp. Những ngày
lễ hội lớn trong năm bắt đầu từ Phật giáo như lễ Phật Đản, lễ Vu Lan, lễ tắm
Phật… thực sự đã trở thành một trong những ngày hội văn hóa của người dân
Việt Nam. Điều này phù hợp với nếp sinh hoạt cộng đồng, một sinh hoạt
truyền thống ở vùng đất mới. Đặc biệt đối với đồng bào Khơ me Nam Bộ,
chịu ảnh hưởng sâu sắc của Phật giáo Nam Tông, còn có những lễ dân tộc
mang đậm nét Phật giáo như lễ mừng năm mới (Chol–chơ-nam Thơ-mây) vào
các ngày 13, 14, 15 tháng 4 âm lịch; lễ cúng ông bà tổ tiên (Donta) vào ngày
30 tháng 8 dương lịch; lễ cúng trăng (Okcombok) ngày 15 tháng10 âm lịch…
đã trở thành những ngày hội vô cùng sôi nổi và đặc sắc của đồng bào Khơ me.
Những ngày đại lễ Phật giáo vừa nêu trên đã là chất keo gắn bó những người

80
dân với nhau, nâng cao tình yêu thương đồng loại và nảy nở lòng hy sinh, tính
vị tha, củng cố lòng hiếu kính với ông bà, cha mẹ.
Theo đúng truyền thống, tập tục cúng Rằm, mùng Một là tập tục cúng
sóc vọng tức là ngày mặt trời mặt trăng thông suốt nhau. Cho nên thần thánh,
tổ tiên có thể liên lạc, thông thương với con người, sự cầu nguyện sẽ đạt tới
sự cảm ứng và sự cảm thống sẽ được thiết lập là ngày trong sạch để các vị
tăng kiểm điểm hành vi của mình, gọi là ngày Bồ tát và ngày sám hối, người
tín đồ về chùa để tham gia sự sám hối, cầu nguyện bỏ ác làm lành và sửa đổi
thân tâm. Quan niệm ngày sóc vọng là có nguồn gốc ảnh hưởng của Phật giáo
Đại thừa. Ngoài việc đi chùa sám hối, ở nhà vào ngày rằm và mồng một, họ
thắp nến, thắp nhang, hương hoa để dâng cúng Tam bảo và tổ tiên Ông bà, thể
hiện lòng tôn kính, thương nhớ với những người đã mất trong họ hàng và gia
đình. Đó cũng là sự cụ thể hóa hành vi tu tâm dưỡng tính và giáo dục con
cháu về đạo lý “uống nước nhớ nguồn” của họ. Với người Việt Nam, quan
niệm chỉ cần có lòng thành thì dù tu hay không tu thì con người đều có thể trở
thành Phật, bởi Phật ở trong tâm mỗi người. Cũng chính từ quan niệm này
cho nên bằng tấm lòng chân thành, từ bi mà tục lệ bố thí, phóng sinh đã ăn
sâu vào đời sống sinh hoạt của quần chúng. Cầu siêu, giải hạn cũng là nếp
sống quen thuộc. Những ngày lễ hội lớn như Phật đản, lễ Vu Lan… đã trở
thành đại lễ của đông đảo người dân Việt. Thông qua đây cũng là dịp giáo dục
con người phải biết sống tốt, sống đẹp, nảy nở đức hy sinh, lòng vị tha. Từ đó,
họ cảm thấy gắn bó với nhau trong tình yêu thương đồng loại, tình yêu quê
hương đất nước được khơi dậy (ân đất nước), nhớ tổ tiên, ông bà, cha mẹ đã
có công nuôi lớn, dưỡng dục mình (âncha mẹ). Nếp sống của con người Việt
Nam nghiêng về nội tâm, hướng nội. Ngày nay, sau khi trải qua nhiều hy sinh,
mất mát trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ,
người dân Việt Nam rất nhạy cảm trước mọi niềm vui, nỗi buồn của mọi
người, sẵn sàng sẻ chia, đồng cảm cộng khổ với những người xung quanh.

81
Bởi vậy, trong việc giải quyết các mối quan hệ xã hội, người Việt Nam đề cao
và lấy cái tâm làm gốc, thiên về tình cảm.
2.2.3. Phật giáo ảnh hưởng trong tục ăn chay, phóng sinh và bố thí
Việc ăn chay niệm Phật vào các ngày mồng một, rằm… hàng tháng cũng
là nếp sống của một bộ phận không nhỏ trong dân chúng. Về ăn chay, hầu
như tất cả người Việt Nam đều chịu ảnh hưởng nếp sống văn hóa này. Ăn
chay hay ăn lạt xuất phát từ quan niệm từ bi của Phật giáo. Đạo Phật không
muốn sát sinh hại vật mà trái lại phải thương yêu mọi loài. Số ngày họ ăn
chay tuy có khác nhau trong từng tháng (có người ăn hai ngày là ngày mùng
một và ngày rằm mỗi tháng; có người ăn mỗi tháng bốn ngày là ngày 01,14,
15 và 30, nếu tháng thiếu ăn chay ngày 29; có người ăn chay mỗi tháng 6
ngày là những ngày mùng 8, 14, 15, 23, 29 và 30 (nếu tháng thiếu thì ăn chay
ngày 28, 29); đôi khi có những người đi phát tâm ăn trường chay giống như
người xuất gia) nhưng cùng giống nhau ở quan điểm từ bi, hỷ, xả của Đạo
Phật. Do hiệu quả của việc ăn chay giúp cho cơ thể tăng cường sức khỏe,
chống lại bệnh tật, nên người Việt Nam dù là Phật tử hay không là Phật tử, dù
sinh sống ở đâu cũng đều thích ăn chay.
Ăn chay và thờ phật là việc đi đôi với nhau của người Việt Nam. Nhiều
người không phải là Phật tử cũng dùng tượng Phật hay tranh ảnh có yếu tố
Phật giáo để chiêm ngưỡng và trang trí cho cảnh nhà thêm đẹp và trang
nghiêm. Theo quan niệm của nhóm người này, Phật giáo là một thành tựu về
tư tưởng văn hóa của dân tộc và nhân loại. Với ngườiViệt Nam, quan niệm
chỉ cần có lòng thành thì dù tu hay không tu thì con người đều có thể trở
thành Phật bởi Phật ở trong tâm mỗi người.
Cũng chính vì quan niệm “Phật tại tâm” cho nên bằng tấm lòng chân
thành, từ bi của đạo Phật mà tục lệ bố thí, phóng sinh đã ăn sâu vào đời sống
sinh hoạt của quần chúng. Ngày rằm, mùng một, nhiều người Việt thường

82
mua chim, cá, ốc, rùa… về chùa chú nguyện rồi đem phóng sinh. Nhất là
những gia đình có người lâm bệnh nặng, họ làm việc này hàng ngày vào các
buổi sáng sớm để mong có thể đem lại điều may mắn cho người bệnh. Người
việt cũng thích làm phúc, bố thí và sẵn sàng giúp đỡ người nghèo khó, hoạn
nạn, vào các ngày lễ lớn họ thường tập trung về chùa. Tuy nhiên, trong xã hội
ngày nay thì những biểu hiện mang tính chất hình thức trên càng bị thu hẹp.
Ngày nay, thay vào đó nhà chùa và các Phật tử tham gia vào những đợt cứu
trợ, tiếp tế cho các đồng bào bị thiên tai, hoạn nạn, hoàn cảnh sống khó khăn
đúng với truyền thống đạo lý của dân tộc “lá lành đùm lá rách”.
Cùng với tục thờ Phật, tục thờ cúng tổ tiên của dân tộc Việt Nam có từ
lâu đời. Tục này xuất phát từ lòng hiếu kính đối với ông bà, cha mẹ, tổ tiên và
được xem là một dạng tín ngưỡng quan trọng nhất của dân tộc. Tín ngưỡng
này được một số người dân nhập làm một với đạo Phật, vì trong Phật giáo có
nhiều kinh đề cập đến vấn đề này như kinh Vu Lan, kinh Báo Phụ Mẫu Ân…
Vào những ngày rằm, mồng một, những gia đình không theo đạo Phật cũng
mua hoa quả, thắp nhang trên bàn thờ tổ tiên.
Như vậy, có thể thấy, trải qua quá trình lịch sử lâu dài tồn tại và phát
triển ở Việt Nam, Phật giáo đã được bổ sung, được làm mới bằng nhiều giá trị
văn hóa của dân tộc Việt. Đến lượt mình, nó lại góp phần củng cố, duy trì và
chuyển tải các phong tục mang giá trị văn hoá truyền thống Việt Nam. Những
phong tục mang giá trị văn hóa truyền thống ấy chính là một phần quan trọng
trong nền tảng văn hóa tinh thần để dân tộc ta tiến hành xây dựng một nền
văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc trong thời đại mới.
2.2.4. Phật giáo ảnh hưởng đến nghi thức ma chay, cưới hỏi
Hiện nay, đối với việc cưới hỏi, người Việt Nam nhiều nơi đưa cô dâu,
chú rể tới chùa để các thầy sư làm lễ “Hằng thuận quy y” nhằm chúc phúc cho
cô dâu, chú rể và khuyên dạy họ một số nguyên tắc đạo đức Phật giáo làm

83
hành trang cho họ trong cuộc sống vợ chồng. Đặc biệt, ngày nay nhiều đôi
bạn trẻ khi yêu nhau, mến mộ nhau thường dẫn nhau tới chùa để cùng nhau
khấn nguyện cho mối lương duyên của mình ngày một bền vững. Họ tin rằng,
trước sự thành kính của mình, Đức Phật sẽ thấu tỏ và phù hộ cho.
Trong hình thức ma chay, người Việt Nam cũng chịu ảnh hưởng của
Phật giáo. Theo phong tục của người Việt, việc ma chay trước đây rất tốn
kém. Tuy nhiên, trong những năm gần đây với sự dẫn dắt của các chư tăng
tang lễ diễn ra đơn giản và trang nghiêm hơn. Khi trong gia đình theo đạo
Phật có người qua đời thì thân quyến đến chùa thỉnh các chư tăng về nhà để
giúp đỡ phần tang lễ. Thông thường các nghi thức trong tang lễ diễn ra tuần tự
như sau: Nghi thức nhập niệm người chết; lễ phát tang; lễ tiễn linh (lễ cúng
cơm); khóa lễ kỳ siêu cho hương linh; lễ cáo triều tổ (cáo tổ tiên, ông bà trước
giờ di quan); lễ di quan và hạ huyệt; đưa lư hương, long vị, bình vong về chà
hoặc chùa; lễ an sang; tứ thất (tụng kinh, cầu siêu và cũng cơm cho hương
linh 49 ngày); lễ tiểu tường (sau ngày hương linh mất 1 năm); lễ đại tường (lễ
xóa tang, sau ngày hương linh qua đời hai năm). Nhiều người dù không theo
đạo Phật song do tin Phật, một lòng hướng tới Đức Phật mà họ đã mời các
tăng ni đến tụng kinh để cầu siêu cho hương hồn người khuất. Dường như họ
cảm thấy an tâm hơn, trách nhiệm hơn đối với ngời đã mất khi gửi gắm phần
hồn của họ lên chùa.
Cũng như các tôn giáo khác, Phật giáo là niềm an ủi cho con người bằng
một sự đền bù hư ảo hay là đem lại sự thỏa mãn nhu cầu tâm linh một cách ảo
tưởng, coi sự giải thoát khỏi thế giới trần tục cứu cách cho cuộc đời đau khổ
của mình. C.Mác đã từng nói “Tôn giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp
bức, là trái tim của thế giới không có trái tim, cũng giống như nó là tinh thần
của những trật tự không có tinh thần. Tôn giáo là thuốc phiện của nhân
dân”[42, tr.569 - 570]. C. Mác xem tôn giáo như một thuốc an thần ở mà đó

84
quần chúng nhân dân tìm thấy sự an ủi, con đường giải thoát cho mình. Phật
giáo đem đến cho con người sự thanh thản, niềm hy vọng vào một cuộc sống
tốt đẹp ở cõi Niết bàn. Con người tin và theo đạo Phật và nhờ đó nhu cầu tâm
linh của họ được an ủi, đền đáp. Nhưng Phật giáo là một tôn giáo bởi nó có
nghi lễ, cũng lễ, cầu nguyện và khi gặp khó khăn được Phật tổ cứu giúp. Với
người Phật tử, Đức Phật hay ông Bụt đều là hình tượng của sự sáng suốt, lòng
nhân từ bao dung độ lượng luôn cứu với và ban phước lành cho con người.
Phong tục tập quán tại Việt Nam trong quá trình tồn tại và phát triển đã
chịu nhiều tác động của trào lưu văn hóa khác nhau, nhất là từ Trung Quốc,
trong đó Phật giáo đã dự phần quan trọng trong việc định hình và duy trì
không ít các tập tục dân gian mà chúng ta thấy vẫn còn tồn tại cho tới ngày
nay. Tuy nhiên, không phải các tập tục có sự ảnh hưởng của Phật giáo là tốt
tất cả, mà trong đó có tập tục cần phải chắc lọc lại... Song song với việc duy
trì các phong tục mang giá trị văn hoá truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt,
Phật giáo cũng đã và đang góp phần không nhỏ vào việc duy trì các hủ tục lạc
hậu làm cản trở quá trình xây dựng lối sống mới ở Việt Nam.
Ngày nay, nhiều nơi chùa chiền lại trở thành ốc đảo, nơi nương náu cho
những người luôn khiếp sợ với sự biến động của thời đại. Họ an phận thủ
thường quay mặt về quá khứ, quay lưng với thời đại, coi chốn chùa là nơi tốt
nhất để ẩn náu, để thanh lọc cõi tâm, rời xa hồng trần. Hòa thượng Thích
Thanh Từ đã từng phản ánh: “Thời gian này, đa số người ta ở chùa đều do
thất chí và thi rớt, thất tình vì bị người bạc đãi, già nua, bệnh hoạn… vào chùa
làm tăng ni”. [75, tr.97]
Chính vì muốn cho tâm hồn của mình khỏi xao động, sống một cuộc đời
khép kín mà thành ra cửa chùa không còn là chốn thiêng liêng mà trở thành
nơi để nhiều kẻ “núp bóng từ bi làm kế sống”. Từ đó xuất hiện những cách
hiểu lệch lạc về tầng lớp tăng ni, phật tử như:

85
“Yên th n àm sãi ở chùa
Tụng kinh niệm Phật oản thừa sãi ơi”
Các hình thức như cúng sao giải hạn, tục đốt vàng mã, xin xăm bói quẻ,
xem giờ, xem ngày… đang bị lợi dụng rất nhiều trong các chùa. Nó không chỉ
đơn thuần xuất phát từ tấm lòng thành, từ trong cái tâm của mỗi người. Nó đã
mang trong đó tính vụ lợi, mưu cầu lợi ích cá nhân bằng cách tầm thường hóa
các nghi lễ Phật giáo. Nhiều Phật tử đã bị mê hoặc bởi lợi ích vật chất và bỏ
quên chức trách của mình, sa vào “vọng tâm” đánh mất “chân tâm”, gây ảnh
hưởng xấu tới hình ảnh của Phật giáo Việt Nam. Ngày nay, tục đốt vàng mã
bị coi là hủ tục mang tính mê tín, dị đoan và vô lý, người Phật tử chân chính
sẽ không chấp nhận điều này. Bởi theo Phật chúng sinh tùy nghiệp thiện, ác
mà theo đó thác sinh cõi lành, cõi dữ. Người chết cũng theo nghiệp thiện, ác
mà thọ sinh vào sáu cõi chứ không chờ đốt vàng mã để đi qua cửa âm phủ
như người sống nghĩ. Theo Phật giáo, có nhiều cách thể hiện tình cảm với
người đã mất như trước lúc người thân mất đi, thân quyến thực hiện phát tâm
bố thí, phát sanh, cúng dường, làm nhiều điều thiện để người chết được thọ
sinh vào cảnh giới an lành. Thông thường người dân thường tránh các ngày
05, 14, 23 nhưng theo Phật giáo chỉ cần chúng ta luôn làm điều thiện thì ngày
nào, tháng nào cũng đều tốt cả.
Nhiều khi để cho tâm hồn được hóa giải, lòng thành kính có đường đi,
lối về với Phật tổ, nhiều chùa vẫn tổ chức hình thức xin xăm bói quẻ, cúng
sao giải hạn. Nó diễn ra rầm rộ vào các dịp dầu năm mới hoặc các ngày lễ lớn.
Thường ở các chùa làng có thờ Quan Thánh đế Quân thì hay có việc xin xăm.
Người muốn xin xăm thì phải tới lạy Phật sau đó đến bàn quan Thánh khấn
xin một quẻ xăm. Saukhi lắc ống xăm gồm 100 thẻ lấy một thẻ rớt ra và mang
thẻ đó tới nhờ thầy giải đáp cho vận mạng của mình. Thực ra, người xưa có
câu: “phước chí tâm linh, hoa lai thần ám”, nghĩa là khi gặp lúc phước đến mở

86
quẻ ra thì tốt, khi họa tới, mở quẻ thì xăm nào cũng xấu cả. Cho nên bản thân
con người phải dựa vào chính mình mới mong tốt, xấu, trông chờ vào thần
linh hiển thị thì sẽ hao tổn tâm trí mà lại không có kết quả. Vì vậy, tốt hay xấu
vẫn là do bản thân mình quyết định, cần phải có cái nhìn, nhận thức đúng đắn
trong mọi hành động của mình sao cho phù hợp với các thang giá trị đạo đức.
Đó chính là nền tảng, là cơ sở để biến “vọng tâm” thành “chân tâm” nơi mỗi
cá nhân, khi đó tự ta đã đắc đạo và trở thành Phật tánh.
Có thể nói, sự dung hoà giữa Phật giáo và hệ thống tín ngưỡng bản địa
đã góp phần duy trì nhiều giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc nhưng cũng
dễ làm cho Phật giáo ngày càng bị pha tạp. Trong bối cảnh mới, với tâm lý
thực dụng, vụ lợi của người đi lễ, chùa Phật giáo trở thành môi trường dung
chứa cho mê tín, dị đoan phát triển. Thực trạng này đã và đang gây ra những
khó khăn không nhỏ cho công tác quản lý nhà nước trên lĩnh vực tôn giáo và
làm tăng chiều hướng tâm lý mê tín dị đoan trong xã hội. Đặc biệt trong bối
cảnh hiện nay, nền kinh tế của đất nước có bước phát triển vượt bậc, đời sống
con người được nâng cao, nhu cầu của con người cũng vì thế mà ngày càng
được phát triển. Chính vì vậy, việc cúng lễ ngày càng có có xu hướng gia
tăng. Cùng với việc cúng, lễ, các vật phẩm phục vụ cho việc thờ cúng cũng
ngày càng được tiêu thụ nhiều hơn. Những tập tục không còn phù hợp với sự
phát triển nói trên rất cần thiết phải được loại bỏ dần trong quá trình xây dựng
lối sống mới ở Việt Nam hiện nay. Khi đông đảo nhân dân trong xã hội hiểu
được rằng, Phật không phải ở chùa to, tượng đẹp, ở sính lễ nhiều tiền, ở việc
chăm thực hành nhi thức cầu cúng, mà Phật ở trong tâm mỗi người thì các
sinh hoạt Phật giáo sẽ góp phần phát huy được nhiều hơn những nét hay, nét
đẹp trong giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc.

87
2.3. Ảnh hƣởng của Phật giáo đến phƣơng thức ứng xử, triết lý sống của
ngƣời Việt Nam
Hơn 2.000 năm tồn tại ở Việt Nam, Phật giáo đã để lại dấu ấn sâu đậm
trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Nó không chỉ tác động sâu sắc tới
cách thức lao động sản xuất và tổ chức cuộc sống, phong tục tập quán của
người dân Việt mà còn có ảnh hưởng khá đậm nét trong cách thức giao tiếp,
ứng xử, triết lý sống của người Việt Nam. Hay nói cách khác, Phật giáo đã góp
phần hình thành những giá trị, chuẩn mực trong lối sống của người Việt Nam.
Theo GS.TS Nguyễn Hùng Hậu, cấu trúc tư duy truyền thống của người
Việt Nam gồm 4 yếu tố chính: cái bản địa, Nho, Phật, Lão. Sự hòa quyện của
bốn yếu tố này tạo nên cho con người Việt Nam một quan niệm sống, một
triết lý sống, một lối tư duy tương đối hoàn chỉnh. Về hình thức, bốn yếu tố
trên khác nhau nhưng chúng lại thống nhất, hòa quyện vào nhau tạo nên một
chỉnh thể, đó là tư duy người Việt Nam. Trong bốn yếu tố đó, Nho mạnh về
học thuyết chính trị xã hội nên nghiêng nhiều đến đối nhân xử thế; Lão đề cao
lối sống hòa đồng với tự nhiên, nên có phần nghiêng về lối sống; Phật giáo
với những giáo lý như từ bi, cứu khổ cứu nạn…nó nghiêng về triết học, tâm
linh. Trong những yếu tố này, những giáo lý của nhà Phật tỏ ra gần gũi, gắn
bó với đời sống người Việt nhiều hơn cả. Quan niệm, học thuyết về khổ của
Phật giáo đã ảnh hưởng đến tư duy, lối sống người Việt khá sâu đậm, nó làm
cho người Việt Nam có sức chịu đựng vô cùng dẻo dai, một đức tính nhẫn
nại, bền bỉ, cam chịu. Nếu không có những đức tính như vậy thì sau 1000 năm
Bắc thuộc, nhất là sau cuộc đàn áp đẫm máu của Mã Viện thì liệu dân tộc ta
có còn tồn tại được hay không? Nhưng điều quan trọng hơn là trong nỗi khổ
mà Phật giáo chỉ ra bằng thực tiễn và suy nghĩ của mình, người Việt đã phát
hiện ra một nỗi khổ bao trùm nhất, cao nhất mà không một nỗi khổ nào có thể
sánh được đó là nỗi khổ mất nước. Bởi vậy, trong Phật giáo Việt Nam, đánh

88
giặc cứu nước cũng là Thiền, cũng là một con đường đi đến giác ngộ.
Những quan niệm ở hiền gặp lành, gieo gió gặp bão, nhân nào quả ấy,
đời cha ăn mặn, đời con khát nước, cha mẹ hiền lành để đức cho con… của
người Việt đã thể hiện rõ tính nhân sinh của đạo Phật. Nó hướng con người
sống thiện, làm việc thiện tu nhân tích đức cho mình và con cháu. Những câu
chuyện cổ tích như “Tấm Cám”, “Thạch Sanh”, “Cây tre trăm đốt”… luôn có
hình ảnh ông Bụt hiện lên giúp đỡ người hiền lành khi học gặp khó khăn. Kết
thúc có hậu của các câu chuyện, người hiền tất sẽ gặp lành, còn kẻ ác không
tránh được quả báo, khuyên con người sống nhân ái, yêu thương, giúp đỡ mọi
người khi gặp khó khăn. Những câu chuyện đó mang hồn Việt nhưng thấp
thoáng trong đó là tinh thần của Phật giáo. Như vậy thì bản chất từ, bi, hỷ, xả
trong tư tưởng Phật giáo đã thấm sâu vào đời sống tinh thần dân tộc, hướng
mọi tầng lớp nhân dân vào con đường thiện nghiệp tư dưỡng đạo đức vì dân
vì nước. Có tác giả đã nhận xét: cái sống đời đời trong đạo đức Phật giáo là từ
bi cứu khổ cứu nạn. Nó vượt thời gian, không gian, bởi nó nhằm bảo vệ, phát
huy, duy trì nhân bản “làm điều lành”, “hướng về điều lành” hoặc ít nhất
“đừng làm ác”, “đừng hướng về cái ác”.
Luật nhân quả theo Phật giáo đề cập đến sự biến động, sinh diệt nối tiếp
nhau, đã chỉ cho các tín đồ điều kiện để đạt đến đỉnh cao của trí tuệ thì người
tu hành phải có đức độ, lòng từ bi mà không ỷ lại hay tự ti với chính mình. Tư
tưởng này là nguồn động lực thôi thúc con người hành động, vững tin vào
cuộc sống. Luật nhân quả còn khẳng định rằng khi chúng ta gieo nhân tức là
đã gây nghiệp, gây nghiệp lành được quả lành, gậy nghiệp dữ bị quả dữ. Vì
vậy, đã hướng con người vào việc thiện, xa lánh điều ác. Nếu chúng ta gạt bỏ
yếu tố thần bí về kiếp người trong luật nhân quả, sẽ thấy được tinh thần nhân
bản trong việc giáo dục con người sống lành mạnh, làm việc tốt, từ đó góp
phần vào xây dựng xã hội yên bình và có nhân tính hơn. Ngoài ý nghĩa tích

89
cực trong việc giáo dục và xây dựng gia đình tốt, một xã hội yên bình, Phật
giáo nhấn mạnh sự nỗ lực là yếu tố quyết định của mỗi con ngời trong quá
trình tu tập đi đến giác ngộ. Giáo lý nhân quả của Phật giáo không ra lệnh
cũng không trừng phạt mà đưa con người về vị trí thực sự của họ, không tách
khỏi ý thức trách nhiệm vai trò vị trí của mình trong gia đình và xã hội, không
ngừng tự giáo dục theo các chuẩn mực đạo đức, đạt đến sự hoàn thiện của bản
thân. Không những vậy, giáo lý nhân quả còn góp phần trong việc phòng
ngừa ý định, hành vi vi phạm pháp luật của con người khi còn chưa bộc lộ,
con người trước nguy cơ trở thành tội phạm thì lương tâm thường hay cắn rứt,
dày vò. Trong suy nghĩ ban đầu của họ luôn có sự đắn đo, đấu tranh tư
tưởng… Do đó, nếu như họ sợ bị quả báo trừng phạt, quả báo có thể ứng ngay
với bản thân mình thậm chí còn chịu hậu quả lâu dài về sau thì họ sẽ ăn năn
hối cải, từ đó có hành động tích cực để chuộc lỗi lầm tạo nghiệp.
Phật dạy chỉ có chính ta mới là chủ nhân thực sự cuộc sống của ta nên ta
phải gắng sức rèn luyện để trở thành người tốt mà không trông chờ ở một thế
lực siêu tự nhiên nào ngoài bản thân mình. Đức Phật dạy rằng: “Hãy tự mình
là ngọn đèn soi sáng cho mình, hãy tự tạo cho mình một chỗ nương tựa và
đừng nương tựa vào ai khác ngoài bản thân mình” [4, tr.63]
Đạo Phật là “Đạo Tâm”, nó khuyến khích con người luôn hướng vào bên
trong tìm tới cái tâm thiện, diệt trừ cái tâm ác, sống một cuộc đời an lạc, thanh
tao. Hơn nữa, nếu muốn trở thành một người quản lý giỏi nhất phải là người
thu phục được nhân tâm, làm cho cái “tâm” của mỗi con người luôn được tỏa
sáng. Người Việt đã dùng chữ “lòng” thay cho chữ “tâm” trong Phật giáo để
chỉ tâm tư, tình cảm, ý chí, tinh thần, lý chí, cảm xúc… Điều này phản ánh
đặc trưng trong tâm lý người Việt đó là thiên về tình cảm, về việc mô tả cảm
xúc, tình cảm của con người. Trong ca dao, tục ngữ Việt Nam đã diễn tả rất rõ
điều này:

90
“Ở chi hai dạ, hai lòng
Dạ cam thì ngọt, dạ òng thì chua” [68]
“Rừng cây, rung rỗi, rung cành
Rung sao cho chuyển lòng anh với nàng” [68]
Do sự ảnh hưởng của Phật giáo nên người Việt có xu hướng hướng thiện
nhiều hơn, tìm về với cái tốt, xa rời cái xấu, cái ác. Nếu xem xét công việc
của một người, chúng ta thường thấy các giai đoạn sau: 1. Sự chuẩn bị thể
hiện dưới dạng ý tưởng, ý đồ, ý định suy nghĩ kế hoạch trong đầu; 2. Hành
động thực hiện về mặt vật chất những ý đồ trên; 3. Kết quả hành động kéo
theo một tâm trạng nào đó. Phật giáo đề cao giai đoạn một, tức là tất cả thiệc
ác đều phụ thuộc vào “tâm”. Khác với các tôn giáo khác, Phật giáo ngăn chặn
tội ác ở dạng mầm mống, ngăn chặn từ gốc rễ, trừ trong tâm, trong suy nghĩ
của mỗi người. Những giáo lý của Phật giáo luôn hướng tới cái thiện, cái
nhân đức, từ bi từ ngay trong nếp nghĩ và được biểu hiện ra hành động là cứu
nhân độ thế, thương người như thể thương thân… Trong Truyện Kiều,
Nguyễn Du viết:
“Thiện căn ởi tại lòng ta
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài” [9]
Theo Nguyễn Du, ở mỗi người, chữ “tâm” mới thực sự quan trọng và
cần thiết. Nó chính là cái gốc của mọi hành vi, cách ứng xử của con người
trong cuộc sống.
Người Việt Nam trong suy nghĩ của mình luôn luôn nghĩ rằng nếu ai
luôn làm những điều bất lương, tráo trở, trái với đạo lý, không xuất phát từ
tấm lòng thì sớm muộn cũng bị tai ương, quả báo, bị trời đầy, thánh phạt. Cho
nên người Việt Nam luôn nhắc nhở con cháu mình sống hiếu thuận, làm điều
thiện, mọi hành động, việc làm đều phải xuất phát từ trong chính tâm mình
mà ra. Chỉ có sự chân thành, bắt nguồn từ chính lòng mình thì mọi việc làm

91
cử chỉ, hành vi của mình mới thật sự đem lại niềm vui, niềm hạnh phúc cho
người khác và cho chính mình, mới mong có được sự thanh thản trong lòng,
sự an lạc trong cuộc đời.
Ngày nay trong cuộc sống hiện đại, trước sự bùng nổ của thông tin, sự
phát triển của khoa học kỹ thuật, sự lớn mạnh của nền kinh tế thị trường,
nhưng Phật giáo vẫn ảnh hưởng, tác động, chi phối tới cách nghĩ của người
Việt. Ngay trong thể thao, trước mỗi kỳ thi đấu các vận động viên bao giờ
cũng nắm chặt tay nhau thể hiện sự quyết tâm, sự hợp lực, trong suy nghĩ của
mỗi người luôn khát khao sự chiến thắng, ai cũng mong muốn chiến thắng
đến với đội của mình và hình như trong họ cũng mong chờ một sự che chở,
phù hộ của Trời, Phật để mang lại vinh quang cho đội mình. Không chỉ có thể
thao mà trong kinh doanh buôn bán, người ta coi trọng yếu tố tâm linh, lòng
thành. Họ đi lễ chùa với lòng thành kính dâng lên Đức Phật với mong muốn
sẽ được ngài giúp đỡ làm ăn phát đạt, gia đình yên vui… Chỉ có hành động
xuất phát từ tấm lòng mới giúp con người tồn tại trong xã hội, đứng vững
trong cuộc đời.
Trong suy nghĩ của người Việt Nam, tình người luôn chan chứa, họ luôn
mong mỏi những điều tốt đẹp nhất sẽ đến với người thân yêu của mình và đến
với đồng loại. Người con bao giờ cũng mong cầu cha mẹ mình mạnh khỏe,
sống lâu, bình an, cố gắng không làm cha mẹ phiền lòng vì những việc làm
của mình. Cha mẹ bao giờ cũng mong con cái của mình lớn khôn thành
người, trở thành người có ích cho xã hội. Mọi người thì mong cho nhau điềm
lành, điềm tốt trong cuộc sống. Bảo ban nhau, che chở nhau khi hoạn nạn, khó
khăn, chia sẻ cho nhau khi đói lòng… là những suy nghĩ luôn thường trực
trong mỗi người dân Việt Nam. Không chỉ có thế mà họ còn luôn nhường
nhịn nhau, biết cư xử sao cho thấu tình đạt lý, không để mất lòng nhau.
Nếu ngôn ngữ là cái vỏ vật chất của tư duy, thì cái vỏ vật chất của tư duy

92
người Việt có yếu tố thể hiện sự ảnh hưởng của Phật giáo. Trong lời nói, bao
giờ người Việt Nam cũng coi trọng sự thật, đó là cơ sở để giữ cho lòng của
mỗi người được ngay thẳng:“Ăn mặn nói ngay còn hơn ăn chay nói dối”
Ngay trong năm giới luật mà Phật giáo nêu ra, giới thứ tư quy định: Không
được nói sai sự thật, đã cho thấy tầm quan trọng của lời nói chân thật bởi nó
góp phần xây dựng nên một con người ngay thẳng, thật thà.
Với người Việt Nam không chỉ có lời nói chân thật, mà lời nói phải tế
nhị, khéo léo để người nghe đón nhận nó một cách hài hòa, vui vẻ. Vì thế dân
gian có câu:
“Lời nói chẳng mất tiền mua
Lựa lời mà nói cho vừa òng nhau”
“Nói ời phải giữ lấy lời
Đừng như con ướm đậu rồi lại ay”
Lời nói bắt nguồn từ trong tâm tư của mỗi con người, vì thế chúng ta cần
phải suy nghĩ chín chắn trước khi phát ngôn, để mỗi lời mình nói ra có trọng
lượng thể hiện mình là con người có đạo đức, có văn hóa. Lời nói chỉ hay, chỉ
tốt khi chúng ta biết phân biệt đúng sai, thiện ác rõ ràng tức là chúng ta biết
mình phải cư xử như thế nào cho phù hợp với đạo làm người. Muốn làm được
điều đó, thì ở mỗi người phải có cái tấm lòng trong sáng, dùng chính cái tâm
để mà chỉ đạo mọi hành động của chính mình.
Trong tư duy của người Việt Nam, chốn chùa cửa Phật là nơi gần gũi,
thân quen với nhân dân nên ai cũng có thể tìm đến để bày tỏ lòng thành của
mình. Chỉ cần có tấm lòng hướng Phật thì ai cũng có thể tìm thấy cho mình sự
che chở, an ủi về mặt tinh thần. Mặc dù mỗi người Việt Nam đi theo đạo Phật
bởi những lý do khác nhau, nhưng họ đều chung mục đích rất dân dã, đời
thường. Người dân Việt Nam đến với đạo Phật chủ yếu để giải quyết nhu cầu
tinh thần, được biệt yếu tố “tâm” được xem trọng. Họ tin vào sự nhân từ của

93
Đức Phật sẽ giúp họ có một cuộc sống thanh thản, phúc đức, những khổ đau
mà họ gặp phải trong cõi đời sẽ vơi bớt đi ít nhiều. Vì thế mà trong ý nghĩ của
mình, người dân luôn thường trực niềm tin gửi vào Đức Phật. Hễ gặp chuyện
gì lớn nhỏ, khó dễ chưa giải quyết được, người dân thường tự nhủ với mình
rằng “lạy trời, lạy Phật giúp con thế này… giúp cho con thế kia…” dường
như, nó đã trở thành câu cửa miệng thường trực trong mỗi người dù cho
người đó có phải là đệ tử của Phật giáo hay không phải đệ tử của Phật giáo.
Trong các mối quan hệ, người Việt Nam luôn tỏ rõ tính cộng đồng, sự
yêu thương, đùm bọc lẫn nhau khi hoạn nạn, khó khăn. Nó chính là nên tảng
để xây dựng khối đại đoàn kết trong toàn dân, tạo nên sức mạnh tổng hợp
giúp dân tộc Việt Nam chiến thắng mọi kẻ thù, vượt gian khó, từng bước tiến
lên chủ nghĩa xã hội.
Lấy con người làm trung tâm, thấy được nỗi khổ của chúng sinh và
mong muốn chúng sinh thoát khỏi vòng trầm luân biển khổ. Bằng chủ trương
cứu nhân độ thế,Phật giáo hướng con người tu tập nhân tâm, vượt qua mọi
cám dỗ để hoàn thiện nhân cách. Với đạo lý “thương người như thể thương
thân” của người Việt được thể hiện qua hành động của từng cá nhân và lối
sống của cộng đồng. Trong năm 2005 - 2006, chương trình truyền hình liên
tục đưa tin về những hoạt động nhân đạo Phật giáo như: việc làm của 21 sư
nữ ở chùa Lâm Quang, Thành phố Hồ Chí Minh nhận nuôi 56 cụ già cô đơn,
không nơi nương tựa, bị con cháu bỏ rơi (Chương trình “Người đương thời”-
VTV3 ngày 04/12/2005). Việc nhận nuôi 200 cháu mồ côi của ni cô Cẩm Tú,
Chùa Bảo Sơn- Huế (Chương trình“Gõ cửa ngày mới” - VTV1, ngày
29 08 2007)…Cũng chính vì ảnh hưởng của quan niệm này mà rất nhiều nhà
hảo tâm đã dang cánh tay mình che chở cho nhiều gia đình khó khăn, nhiều
trẻ em và người già có hoàn cảnh éo le. Theo báo cáo tổng kết của Giáo hội
Phật giáo Việt Nam, trong nhiệm kỳ VI (2007 – 2012), Giáo hội Phật giáo

94
Việt Nam đã vận động, ủng hộ được gần 3000 tỷ đồng để làm từ thiện, cứu
trợ, ủng hộ đồng bào nghèo, ủng hộ những vùng thiên tai, bão lũ. Giáo hội
Phật giáo Việt Nam đã hỗ trợ 22.028 ca mổ đục thủy tinh thể, 200 căn nhà
tình nghĩa, 1.876 căn nhà tình thương, 422 căn nhà đại đoàn kết, 30 lớp học
tình thương, 3 trường Mẫu giáo, ủng hộ và nuôi dưỡng trên 100 bà Mẹ Việt
Nam anh hùng, xây 250 cây cầu bê tông, đổ 27.000m đường xi măng, 370
chiếc xuồng, khoan 1.510 giếng nước sạch, tặng 1.326 xe lăn, 165 xe lắc, 100
xe trợ đi, 1000 xe đạp, 180 bộ máy vi tính cho học sinh; hàng trăm ngàn tấn
gạo, trợ cấp học bổng cho học sinh, sinh viên nghèo hiếu học, nuôi cô nhi, trẻ
khuyết tật, khiếm thị, cụ già neo đơn, trợ cấp lương giáo viên các lớp học tình
thương; xây 2 lò hỏa táng từ thiện, trợ giúp hỏa táng trên 2.300 ca... Cho tới
cuối năm 2012, cả nước có 165 Tuệ Tĩnh đường, hàng trăm phòng thuốc
chuẩn trị y học dân tộc, châm cứu, bấm huyệt, vật lý trị liệu, khám và phát
thuốc nam, thuốc bắc; có trên 10 phòng khám Tây y, Đông – Tây y kết hợp đã
khám và phát thuốc từ thiện cho hàng trăm ngàn lượt bệnh nhân với kinh phí
lên đến hàng chục tỷ đồng… [số liệu tham khảo trên trang vietnamnet.vn].
Nếu không phải xuất phát từ lòng yêu thương con người, từ tấm lòng, cái
tâm trong sáng thì học sẽ không bỏ công sức, tiền của ra làm những điều
thiện như vậy.
Xuất phát từ chính cái “tâm” của mỗi người hay từ tấm lòng chân thành
của mỗi cá nhân mà biểu hiện ra hành động một khác nhau. Song, tựu chung
đều lấy tinh thần sống thiện, sống tốt làm phương thức sống cho bản thân mỗi
người. Ngay trong quá trình lao động sản xuất, để mang lại những giá trị vật
chất, tinh thần con người có thể bất chấp mọi thủ đoạn nhưng với người Việt
Nam con số ấy không nhiều. Đa phần người Việt lấy chữ tín làm đầu, chất
lượng của công việc và sản phẩm là yếu tố quan trọng trong sản xuất. Để đạt
được thành quả trong lao động, người Việt Nam luôn cần cù, chịu khó, biết

95
vươn lên bằng chính sức lực và trí tuệ của mình. Chính từ tình yêu lao động,
yêu công việc mà người Việt Nam hôm nay đã làm nên những trang sử vàng
về nhiều lĩnh vực khoa học khiến thế giới nể phục như trong y học, khoa học
công nghệ, kỹ thuật quân sự… Những người nông dân một nắng hai sương
gắn với đồng ruộng, họ không hiểu được những lý thuyết cao siêu nhưng
những triết lý sống của đạo Phật đã ngấm vào máu thịt của họ.
Từ chính lòng mình, xuất phát từ tâm của mình mà người Việt Nam luôn
mong muốn có một cuộc sống sung túc, tốt đẹp hơn; vì thế, họ tìm tòi, sáng
tạo trong lao động, cải tiến những công cụ lao động không chỉ giải phóng cho
bản thân họ mà còn cho người khác… Đó là biểu hiện của lối sống cao đẹp,
sống vì mình và vì người khác để góp phần xây dựng xã hội phồn vinh hơn.
Sự phát triển của kinh tế thị trường trong thời gian qua đã góp phần to
lớn vào việc giải phóng sức sản xuất, tạo tiền đề vật chất nâng cao đời sống
tinh thần của nhân dân. Ở thời kỳ trước đây, do chúng ta phải đấu tranh giành
độc lập dân tộc thống nhất tổ quốc, đạo đức xã hội thường hướng vào việc đề
cao ý thức cộng đồng nhấn mạnh tinh thần hy sinh cá nhân phục vụ lợi ích tập
thể. Khi chuyển sang thời kỳ hòa bình, xây dựng những chuẩn mực đạo đức
đã được hình thành từ trước kia vẫn được phát huy, có nhiều phạm trù đạo
đức được mở rộng cho phù hợp với điều kiện mới. Con người trở về với cuộc
sống thường nhật của mình với tất cả nhu cầu đa dạng của nó. Các nhu cầu dó
thể hiện trong mối quan hệ gia đình, dòng họ, xóm làng… Các luân lý đạo
đức như kính lão, tôn sự trọng đạo, chung thủy, hiếu thảo mang dần thêm diện
mạo mới tích cực.
Những giá trị đạo đức tuyền thống tốt đẹp của dân tộc như cần cù chăm
chỉ và sáng tạo trong lao động, yêu nước, thương yêu con người… không
ngừng được phát huy. Trong những năm gần đây, đất nước ta gặp rất nhiều
thiên tai, dịch bệnh như H1N1, H5N1… Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã đứng

96
ra kêu gọi cả nước cùng chung tay góp sức đóng góp giúp đỡ chia sẻ bớt khó
khăn cho đồng bào vùng bị nạn. Những tấm áo, tấm chăn khi đông về giá trị
vật chất không lớn chính là những nghĩa cử thể hiện truyền thống lá lành đùm
lá rách của dân tộc, nó ngày càng được phát huy.
Như vậy, sự ảnh hưởng của Phật giáo đã góp phần tạo nên triết lý sống
của người Việt. Người Việt Nam vốn ưa chừng mực, thích ổn định, bình yên,
thiên về âm tính, trọng tình hơn trọng lý, trọng tinh thần hơn vật chất, trọng
tĩnh hơn động. Cách tư duy này vừa có điểm hay, vừa có điểm hạn chế nhất
định của nó mà trong sự nghiệp đổi mới nhằm thực hiện mục tiêu “dân giàu,
nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”chúng ta cần khắc phục
những hạn chế này, phát huy và nâng cao mặt tốt, mặt tích cực lên một trình
độ mới cả về chất lẫn lượng. Nó sẽ là một yếu tố giúp người Việt Nam ngày
càng sống tốt hơn.
Trong quá trình Phật giáo tồn tại và phát triển ở Việt Nam, nó đã gắn bó
mật thiết với dân tộc. Những giáo lý của nhà Phật như đã ngấm sâu vào máu
thịt của người dân nơi đây. Cho nên, dù ít dù nhiều, trực tiếp hay gián tiếp
người Việt đều chịu ảnh hưởng ít nhiều của Phật giáo, đặc biệt là trong cách
thức giao tiếp, ứng xử.
Phật giáo đã xây dựng được cho mình một hệ thống giáo lý đạo đức khá
hoàn chỉnh. Trong đạo đức Phật giáo, trách nhiệm của mỗi người với những
hành vi thiện ác của thân, tâm mình rất được đề cao. Đức Phật dạy rằng “Làm
dữ ở nơi ta mà ô nhiễm cũng bởi ta; làm lành bởi ta mà thanh tịnh cũng bởi ta
chứ không ai có thể làm cho ai thanh tịnh được”. Bát chính đạo với tám con
đường giải thoát mà Đức Phật đã chỉ ra chính là cách thức để phá bỏ sự mê
muội, thoát khỏi vô minh, đạt trí tuệ bát nhã. Đức Phật đã dùng thuyết nhân
quả, luân hồi, nghiệp báo để lý giải cái khổ của con người qua các kiếp sống
khác nhau. Bên cạnh đó, Ngài còn đưa ra một hệ thống các phạm trù đạo đức

97
được thể hiện qua Lục độ, Lục hòa, Thập thiện, Tứ ân, từ bi, hỉ ả .Những
chuẩn mực trong hệ thống đạo đức Phật giáo rất gần gũi với giá trị đạo đức
truyền thống của người Việt Nam, nên chúng đã nhanh chóng được người dân
Việt Nam đón nhận. Trải qua quá trình lâu dài đồng hành cùng dân tộc, Phật
giáo với những giá trị nhân văn, nhân bản của nó đã góp phần hình thành lối
sống của con người Việt Nam trong lịch sử cũng như hiện nay.
Thực tế lịch sử dân tộc đã chứng minh rằng, sự khoan dung, hiếu hoà, độ
lượng trong đường lối trị quốc của các triều đại Lý - Trần (giai đoạn mà Phật
giáo giữ vai trò là hệ tư tưởng chủ đạo của xã hội) là có sự đóng góp rất lớn
của Phật giáo. Các giai đoạn lịch sử sau này, mặc dù Phật giáo không còn là
hệ tư tưởng chủ đạo của xã hội nhưng nó vẫn có những ảnh hưởng không nhỏ
đến việc điều chỉnh hành vi cách ứng xử của con người Việt Nam. Các phạm
trù, như “từ bi, hỉ ả”, “vô ngã, vị tha”, “cứu nhân độ thế”, “tu nhân tích
đức”, “sống nhân từ để phúc cho đời sau” đã không còn là những thuật ngữ
nguyên nghĩa của riêng Phật giáo, mà đã trở thành một phần trong lẽ sống của
người Việt. Hình ảnh Đức Phật được hoá thân thành ông Bụt nhân từ, đôn hậu
trong văn học dân gian Việt Nam từ lâu đã thấm đượm vào nếp sống, nếp
nghĩ của người dân Việt và ngày nay nó vẫn có ý nghĩa giáo dục rất lớn đối
với nhiều thế hệ người Việt Nam. Thuyết nhân quả, nghiệp báo của nhà Phật
gặp gỡ với tín ngưỡng thác sinh của người Việt từ lâu đã lan toả thành nếp
sống, nếp nghĩ “ở hiền gặp lành”, “ác giả ác báo”, “nhân nào quả ấy”...
trong nhân dân. Tuy có những hạn chế nhất định là đã tạo ra ý thức về định
mệnh, nhưng xét dưới góc độ đạo đức, lý thuyết này của nhà Phật đề cao việc
tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cá nhân, hướng mọi người đến những ý nghĩ và
hành động thiện, bài trừ cái ác, cái xấu, đề cao ý thức trách nhiệm của mỗi
người với bản thân và xã hội. Bên cạnh đó, cùng với Nho giáo và Lão giáo,
thuyết Tứ ân của nhà Phật đã hoà nhập với tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của

98
người Việt và nâng tín ngưỡng này lên thành một đạo lý có tính bền chắc, tồn
tại qua nhiều thế hệ người Việt.
Cách thức giao tiếp, ứng xử của người Việt Nam cũng chịu ảnh hưởng
rất lớn bởi các quan niệm của Phật giáo. Trong Bát chính đạo của nhà Phật,
có chính ngữ (giữ cho lời nói được đúng mực), đó chính là một trong các điều
kiện để con người có thể ứng xử phù hợp với tha nhân. Trong nhiều kinh điển
của nhà Phật có nhắc đến việc chúng sinh phải nói lời hòa nhã, nói lời tử tế,
không nói lời cay độc, không nói lời giả dối, không nói tâng bốc hay mạt sát.
Những tư tưởng đó còn được thể hiện cụ thể bằng các giới cấm
trong Ng giới, những điều nên làm như trong Thập thiện, như không nói dối,
không nói lời thêu dệt, không nói hai chiều, không nói ác khẩu... Trong giao
tiếp với người khác, Đức Phật dạy rằng, không được đề cao thái quá cũng
không được hạ thấp tận cùng. Điều gì bạn muốn nói có thể gây đau khổ mà
không đúng sự thật, thì không nên nói. Điều gì hữu ích mà không đúng sự thật
thì cũng không nên nói. Điều gì có thể gây đau khổ nhưng đúng với sự thật thì
cũng đừng nên nói. Điều gì mang lại lợi ích và đúng với sự thật thì hãy đợi
đúng lúc mà nói. Những quan niệm này của Phật giáo đã có ảnh hưởng nhất
định đến cách thức ứng xử, giao tiếp của người Việt Nam. Dân gian Việt Nam
có câu: “Lời nói không mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”.
Ngoài ra, những quy định về cách ứng xử trong Lục độ, Lục hoà của nhà
Phật không chỉ có ý nghĩa đối với cuộc sống của tăng đoàn, mà còn có ý
nghĩa rất lớn trong xây dựng một thế ứng xử hoà hợp, tương thân trong một
cộng đồng, một xã hội, một quốc gia và toàn nhân loại. Những chuẩn mực
này ít nhiều đều đã có ảnh hưởng đến cách thức ứng xử, giao tiếp của người
Việt Nam hiện nay.
Về ứng xử, giao tiếp trong gia đình, Phật giáo luôn đề cao sự hoà thuận
và trách nhiệm của các bậc làm cha, làm mẹ. Đức Phật dạy rằng, vợ chồng

99
phải thương yêu, chung thuỷ với nhau. Chất keo gắn bó giữa vợ chồng không
phải chỉ có chữ tình mà còn có chữ nghĩa “Đã rằng là nghĩa vợ chồng, Dầu
cho nghiêng núi, cạn song chẳng dời.”[68]. Cha mẹ phải có trách nhiệm
khuyên bảo con làm điều thiện, ngăn chặn con làm điều ác, dạy cho con nghề
nghiệp, lo việc cưới vợ gả chồng cho con và trao truyền sự thừa kế cho con
vào thời gian thích hợp: “Phải tránh cho con rời vào ác đạo; dạy con cái làm
những công việc hữu ích; đem lại cho con cái một sự giáo dục tốt đẹp; cưới
vợ gả chồng cho con cái thành hôn với con em những gia đình lương hảo, đến
một lúc thích hợp thì phân chi tài sản cho các con” [49, tr.145]. Đồng thời,
Phật giáo cũng đề cao sự hiếu thuận của con cái với ông bà, cha mẹ thông qua
thực việc hiện Tứ ân. Người Việt luôn nhớ đến công lao của cha mẹ. Công
cha nghĩa mẹ như núi, mênh mông như biển cả làm sao mà đền đáp được:
“Công cha như núi Thái Sơn
ngh a mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một òng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới à đạo con” [68]
Trong kinh Đại áo phụ mẫu trọng n của nhà Phật có nên mới công lao
của người mẹ là: “Chín tháng cưu mang khó nhọc; Sợ hãi, đau đớn khi sinh;
Nuôi con đành cam cực khổ; Nuốt cay, mớm ngọt chon con; Chịu ướt nhường
ráo cho con; Sức nước, nhai cơm cho con; Giặc đồ bẩn cho con; Nhớ con khi
con xa nhà; Có thể tạo tội vì con; Nhịn đói cho con được no”.
Điều răn thứ sáu trong mười ốn điều răn của Phật ạy có ghi: Tội lỗi
lớn nhất của đời người là bất hiếu. Phật đã dạy các đệ tử rằng, cùng tột các
điều kiện không gì bằng bất hiếu, cùng tột các điều ác không gì bằng bất hiếu.
Trong gia đình, Phật dạy mọi tín đồ phải có hiếu với ông bà, cha mẹ: “Phụng
dưỡng cha mẹ, khi cha mẹ già yếu, thay mặt cha mẹ thực hiện những việc khi
cần thiết thuộc bổn phận của cha mẹ; duy trì bảo vệ làm vẻ vang cho truyền

10
thống gia đình, giữ gìn tài sản của gia đình do cha mẹ tích lũy được, sau khi
cha mẹ mất làm lễ thành phục theo đúng lễ, tổ chức an táng trọng thể”
[49,tr.175). Có như vậy sau này mới mong muốn con cháu đời sau hiếu nghĩa
với chính mình và chăm sóc mình như chính mình chăm sóc, đối đãi với cha
mẹ mình. Trong kho tàng ca dao, tục ngữ của người Việt Nam có nhiều câu ca
dao thể hiện sự biết ơn đối với cha mẹ. Người Việt có truyền thống hiếu thảo
với cha mẹ, Phật giáo đã làm cho truyền thống đó đậm nét hơn. Người mẹ sẵn
sàng làm tất cả vì con luôn nhận về mình những khó nhọc “chỗ ướt mẹ nằm,
chố giáo phần con”. Câu tục ngữ này chính là được rút từ kinh Phật Đại báo
phụ mẫu trọng ân.
Việc thực hiện nghĩa vụ của con cái đối với cha mẹ không phải chỉ là
trách nhiệm và phải xuất phát từ tâm, từ chính tình cảm của mình. Không ít
tấm gương hiếu thảo của con cái đối với cha mẹ được người đời nhắc đến.
Câu chuyện sự tích “Bánh chưng ánh giày” đã bày tỏ công lao sinh dưỡng
của cha mẹ. Lang Liêu vị hoàng tử thứ mười tám đã dâng lên vua cha thứ
bánh tượng trưng cho đất trời với ý nghĩa xem công lao cha mẹ tựa trời biển.
Với tấm lòng hiếu thảo ấy của mình, Lang Liêu đã được nhà vua truyền ngôi
cho. Tiền bạc, châu báu và những của ngon vật lạ khác dâng lên đều bị vua từ
chối. Hiếu nghĩa ấy như mạch nước ngầm ngày càng lan rộng trong lòng dân
tộc. Đó là một Chử Đồng Tử hết lòng vì cha, một Thúy Kiều sau những đắn
đo “Bên tình bên hiếu bên nào nặng hơn” đã chọn chữ “hiếu”, gạt chữ “tình”
sang một bên, nàng đã bán mình chuộc cha. Bên cạnh ảnh hưởng của tư tưởng
Nho giáo cũng chịu ảnh hưởng của Phật giáo. Đó chẳng phải cái gì khác mà là
báo hiếu với cha mẹ, là đạo làm con:“Nặng đầu chữ hiếu, nhẹ vai chữ tình”
Với đạo Phật, làm tròn bổn phận của con cái đối với cha mẹ cũng là tu chân
rồi. Đi tu đâu cứ phải lên chùa, đâu cứ phải đắc đạo thành tên Phật, chăm sóc
cha mẹ chu đáo là đạt tới chân tu:

10
“Tu đ u cho ằng tu nhà
Thờ cha kính mẹ ấy à chân tu”
Phật giáo cho rằng, lễ Phật mà không kính cha mẹ ấy là lừa Phật, đồng
thời không có Phật thì mẹ là Phật, tâm hiếu là tâm Phật, hạnh hiếu là hạnh
Phật. Trong quan hệ giữa cha mẹ và con cái, tinh thần của đạo Phật có ảnh
hưởng tới cách cư xử của người Việt, làm sâu sắc thêm truyền thống hiếu
nghĩa của dân tộc.
“Tu tại gia cho thờ cha kính mẹ
Đạo àm người hiếu để àm đầu
Dù cho công tướng khanh hầu
Bất trung ất hiếu khó cầu Phật tiên”
Một gia đình hoàn mỹ, theo quan niệm Phật giáo, phải lấy tình thương
yêu làm trọng và các thành viên trong gia đình phải vừa tự mình vượt khổ,
vừa giúp nhau thoát khổ để đạt hạnh phúc. Tục ngữ, ca dao Việt Nam cũng đề
cập đến rất nhiều cách thức giao tiếp, ứng xử hoà thuận, hiếu nghĩa của các
thành viên trong gia đình: “Chị ngã, em nâng”; “Môi hở răng lạnh”; “Máu
chảy ruột mềm”; “Anh em chém nhau đằng sống”... Đạo Phật đề cao chữ
“tâm”, mọi hành động đều xuất phát từ cái tâm mình. Điều đó hoàn toàn
phù hợp với cách sống, cách ứng xử trọng nghĩa tình của người Việt Nam.
Trong quan hệ với anh em thì đó là tình cảm ruột thịt, yêu thương giúp đỡ
nhau “anh em như thể tay chân”. Tình cảm anh em “một giọt máu đào hơn
ao nước lã” nhưng luôn phải có nghĩa với nhau. Người Việt Nam đặc biệt
coi trọng chữ nghĩa trong cách cư xử:
“Người ưng có ngãi, ta đãi người ưng
Anh em không ngãi thì đừng anh em” [68]
Như vậy, những lối ứng xử này của người Việt là kết quả được hình
thành từ sự tổng hợp của nhiều yếu tố trong truyền thống văn hoá Việt Nam.

10
Mặc dù trong đó chúng ta không thể định lượng được mức độ ảnh hưởng của
Phật giáo, nhưng có thể nói rằng, cùng với Nho giáo và Lão giáo, Phật giáo đã
góp phần không nhỏ vào việc hình thành cách thức giao tiếp, ứng xử nói trên.
Trong giao tiếp, ứng ử với cộng đồng, Phật giáo chủ trương thiết lập
quan hệ bình đẳng giữa các cá nhân. Đức Phật dạy rằng, mọi cá nhân đều bình
đẳng như nhau, vì trong mỗi người đều có tính Phật, nếu biết cách tu tập, con
người sẽ đoạn trừ được vô minh, tham ái đạt giải thoát. Theo quan niệm của
nhà Phật, trong giao tiếp hoàn toàn không có sự phân biệt thành phần xuất
thân và điều kiện sống. Ngài đã từng nói rằng, “ta là Phật đã thành còn các
ngươi là Phật sẽ thành” [49, tr.70]. Đức Phật còn chỉ rõ, trong giao tiếp với
người khác, mỗi cá nhân không được cầu lợi cho mình. Trong mười điều Phật
dạy và được con người Việt Nam lĩnh hội : “Thi n đừng cầu đền đáp vì cầu
đền đáp à thi n có mưu tính” [64, tr.43]. Nhìn chung, theo quan niệm nhà
Phật, lời nói được sử dụng trong giao tiếp không chỉ nhằm mục đích đạt được
hiệu quả giao tiếp, mà quan trọng hơn còn là xây dựng, củng cố tình thương
giữa con người với nhau. Trong dân gian, người Việt cũng vẫn thường nhắn
nhủ nhau rằng, “Một điều nhịn, chín điều lành”, “Đời cha ăn mặn, đời con
khát nước”, “Lá lành đùm lá rách”, “Thương người như thể thương thân”...
Có thể nói, đây là những quan niệm của Phật giáo đã được Việt hóa, trở thành
những giá trị văn hoá truyền thống, thành thói quen giao tiếp ứng xử cộng
đồng của người dân Việt Nam. Trong quan hệ hàng xóm láng giềng là tình
thần tương thân tương ái, sẵn sàng giúp đỡ nhau.
Từ khi đổi mới, nhiều giá trị luân thường đạo lý, ứng xử xã hội có nhiều
biến chuyển đổi thay song sự ảnh hưởng của tư tưởng Phạt giáo đã tác động
tích cực đến giao tiếp của người dân Việt Nam thể hiện bằng lòng nhân ái,
khoan dung, tinh thần hiếu nghĩa, đề cao hòa bình trong cách sống. Bên cạnh
đó, cũng thật khó để có thể khẳng định các câu thành ngữ của người Việt, như

10
“Lời chào cao hơn mâm cỗ”, “Lời nói gói vàng, lời nói đọi máu”; “Một con
ngựa đau, cả tàu không ăn cỏ”; “Bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác
giống nhưng chung một giàn”... có nguồn gốc xuất phát từ đâu, nhưng rõ ràng
chúng ta có thể tìm thấy sự tương đồng của những tư tưởng đó trong quan
niệm của Phật giáo và một số tôn giáo khác ở Việt Nam.
Không chỉ chú trọng cách thức giao tiếp trong quan hệ giữa người với
người, Đức Phật còn chú trọng đến cả cách thức ứng ử của con người với
môi trường thiên nhiên. Từ trong giáo lý nguyên thủy của mình, Đức Phật đã
khuyên con người nên chung sống hài hòa với thiên nhiên. Hạn chế dục vọng,
sống hòa mình với muôn loài cỏ cây, hoa lá, chim muông, yêu thương cả con
sâu, cái kiến... đã trở thành những chuẩn mực trong đạo đức Phật giáo. Một
trong những điều răn trong “Ng giới” của Phật giáo là “cấm sát sinh”, tức
không chỉ cấm giết người mà còn cấm giết các loài động vật khác. Mùa An cư
kiết hạ hàng năm mà Giáo hội Phật giáo các nước đang thực hiện cũng bắt
nguồn từ lời răn của Đức Phật là không làm hại các sinh linh khác. Ngay từ
buổi đầu mới du nhập vào Việt Nam, quan niệm sống hài hoà với thiên nhiên
của Phật giáo đã nhanh chóng được người dân Việt đón nhận, vì nó phù hợp
với điều kiện và môi trường sống của người Việt. Tôn trọng tự nhiên, sống
hài hòa với tự nhiên đã trở thành một trong những lẽ sống của người Việt. Lẽ
sống ấy đã đi vào thi ca, nhạc họa và trở thành một phần tất yếu trong cuộc
sống của người Việt Nam.
Tuy nhiên, bên cạnh những ảnh hưởng tích cực của Phật giáo đến triết lý
sống, phương thức ứng xử vẫn còn tồn tại những ảnh hưởng tiêu cực.
Với quan niệm về con người cho rằng con người là kết hợp động của
những yếu tố (ngũ uẩn) nên không có gì định hình được nó và như thế nó
cũng là vô ngã (không có cái tôi). Cho nên, mọi sự vật chỉ là giả danh, không
thực. Từ đó, con người nhận thức về thế giới cũng chỉ là hư hư, thực thực như

10
ảo mộng. Chính vì cái mê lầm (vô minh) ấy mà con người lại càng đau khổ
thêm. Đây là điểm mấu chốt để dẫn đến tư tưởng bi quan, tiêu cực và buông
xuôi của con người từ nhận thức trên lập trường duy vật về thế giới, về con
người sang lập trường duy tâm trong quan niệm về cuộc đời con người.
Như vậy, trong triết lý sống, phương thức ứng xử của người Việt, do
chịu ảnh hưởng của Phật giáo nên họ xuất phát từ lòng mình, từ chính cái
“tâm” mình để giải quyết mọi công việc. Đặc biệt, trong quan hệ giữa con
người với con người, người Việt Nam bao giờ cũng lấy chữ “nghĩa” làm
trọng, chữ “tâm” làm đầu. Chính vì coi trọng tình hơn lý, nên coi nhẹ sự tìm
tòi, khám phá, không ham chuộng sự chính xác. Vì thế mà tư duy phân tích,
mổ xẻ của họ cũng không phát triển bằng tư duy tổng hợp, trực giác. Do đó,
họ chú ý nhiều tới tổng thể, tổng quan, quan hệ nhiều hơn là đi sâu phân tích
tính thực thể, bản thể, cá nhân. Con người chỉ thấy cá nhân con người thuộc
các giai cấp trong xã hội, vì vậy không thấy được nguyên nhân xã hội đưa đến
sự khổ ải của con người, không thấy được sự cần thiết phải đấu tranh chống
áp bức, bóc lột vì thế quan niệm từ bi, bác ái trong một số trường hợp bất lợi
cho sự đấu tranh giải phóng giai cấp, chống áp bức; do hướng vào cái tâm bên
trong mà từ đó phần nào xao nhãng cuộc sống bên ngoài, ít quan tâm đến
khoa học - kỹ thuật, lao động sản xuất…; nhấn mạnh cái khổ về tinh thần, ít
chú ý đến cái khổ về vật chất, cái khổ do xã hội đưa lại, ít quan tâm đến làm
thế nào cho của cải vật chất ngày càng tăng… Bên cạnh đó, nó khiến cho con
người không hướng vào hiện thực mà hướng vào nghiệp, vào quả báo, vào
thần linh để mong chờ được phù hộ, độ trì. Và một khi tư duy, triết lý sống
như vậy thì không cần gì đến sự tìm tòi khám phá, sáng tạo và hành động.
Trong quá trình đi từ tăm tối tới ánh sáng để có thể đắc đạo thành Phật,
Phật giáo khuyên con người phải biết “tu tâm dưỡng tính”, dẹp bỏ “vọng tâm”
để hướng tới “chân tâm”, tức là phải diệt dục, loại bỏ những tham, sân, si. Chỉ

10
khi nào con người thật sự hướng thiện, khi đó con người mới thực sự hình
thành Phật tính. Trong thực tế, nếu con người xuất phát từ chính tấm lòng của
mình để thực hiện những lời Phật dạy sẽ góp phần làm nên một đời sống đạo
đức cho toàn dân tộc, một lối sống cao đẹp.
Song không phải lúc nào và bao giờ con người cũng tự nguyện hành
động từ chính tấm lòng, từ chính cái tâm của mình, nhất là trong điều kiện
nền kinh tế thị trường hiện nay, sức nặng của vật chất, đặc biệt của giá trị
đồng tiền đã che lấp đi cái tâm của nhiều người. Họ đã làm những việc làm
sai trái, phạm vào những luân thường đạo lý ở đời như: con cái bỏ rơi cha mẹ
khi về già, thậm chí còn bạc đãi cha mẹ; nhiều bà mẹ, ông bố vì lợi mà đem
con đi bán, vứt bỏ, trốn tránh trách nhiệm, anh em thì sát hại lẫn nhau, nạn
tham ô, tham nhũng… cảnh dân bị lừa, bị mua phải hàng rởm, hàng kém chất
lượng ngày một nhiều. Trong số đó, không ít người vẫn thường lui tới cửa
Phật để khấn cầu điều may nhưng lại làm toàn điều ác. Nguyên nhân có phần
là do phương pháp Phật giáo đưa ra vẫn còn mang nặng tính tự giác, chưa thật
sự buộc chặt con người phải hành động đúng với tấm lòng, cái tâm thanh tịnh
của con người.
Cùng với sự phát triển của kinh tế thị trường, vai trò của đồng tiền tăng
lên. Khi coi đồng tiền là mục đích cuối cùng nó sẽ trở thành ma lực cuốn hút
con người. Vì nó nhiều người sẵn sàng làm tất cả bất chấp mọi luân lý, mọi
giá trị đạo đức. Nó hình thành nên trong xã hội tâm lý sùng bái đồng tiền. Lối
sống sùng bái đồng tiền đã làm cho con người quên hết tình nghĩa. Truyền
thống nhân ái, nhân đạo của dân tộc đang bị mai một đi trước lối sống đó.
Tựu chung tại thì mặt tích cực góp phần làm cho họ có cuộc sống lành mạnh,
trong sạch, giản dị, có tấm lòng nhân ái, khoan dung, yêu thương đồng loại,
biết cảm thông, quan tâm đến nỗi khổ của người khác, cứu người trong lúc
gặp khó khăn hoạn nạn… mọi hành động ấy đều được bắt đầu từ tâm, từ tính

10
tự giác. Những tư tưởng của Phật giáo đã góp phần nâng cao và làm phong
phú hơn những giá trị văn hóa, đạo đức truyền thống của dân tộc. Chúng hòa
quyện vào nhau, tạo nên sức mạnh chiến thắng của dân tộc Việt Nam. Trên cơ
sở phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của Phật giáo, Đảng và Nhà
nước đã phát động phong trào tương thân tương ái, lá lành đùm lá rách, lá
rách ít đùm lá rách nhiều trong quần chúng nhân dân.
2.4. Một số khuyến nghị nhằm phát huy ảnh hƣởng tích cực, hạn chế ảnh
hƣởng tiêu cực của Phật giáo đến lối sống của ngƣời Việt Nam hiện nay.
Có thể nói, ngày nay (nhất là từ năm 1986 trở lại đây) trong lối sống
của người Việt Nam có nhiều thay đổi. Sự thay đổi, biến đổi trong lối sống
của người Việt Nam hiện nay do nhiều nguyên nhân với những biểu hiện tích
cực và tiêu cực. Vì vậy, để góp phần xây dựng, củng cố và phát triển lối sống
có văn hóa, có đạo đức cho người Việt Nam, góp phần xứng đáng vào công
cuộc xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc cần đưa ra và
thực hiện những giải pháp chủ yếu có tính khả thi nhằm phát huy hơn nữa
những ảnh hưởng tích cực và hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của Phật giáo đến
lối sống người Việt Nam hiện nay. Tác giả xin đưa ra một số khuyến nghị chủ
yếu sau:
2.4.1. Không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân
và đồng bào Phật tử nhằm xa rời mê tín dị đoan, tiếp nhận những tư tưởng
tích cực của Phật giáo.
Để phát huy những giá trị tích cực của Phật giáo, việc nâng cao đời sống
vật chất và tinh thần cho nhân dân là hết sức cần thiết. Bởi lẽ, muốn nhân dân
có hướng đi đúng trong các hoạt động tôn giáo, ngoài việc nâng cao trình độ
nhận thức của nhân dân và các tín đồ thì đều quan tâm quan trọng hơn cả là
nâng cao mọi mặt trong đời sống của họ, nhất là đời sống vật chất. Với đồng
bào Phật giáo, chủ trương xóa đói giảm nghèo là điều kiện để đưa Phật giáo

10
Việt Nam phát triển đúng hướng, phục vụ cho dân tộc trong công cuộc xây
dựng đất nước. Thực tế cho thấy, ở đâu có đói nghèo tồn tại thì ở đấy sự lợi
dụng hình ảnh Đức Phật để mê hoặc quần chúng. Người dân vẫn tin vào sự
che chở, ban phát của các vị thần thánh để xóa bỏ sự nghèo hèn đang hiện hữu
quanh họ. Họ tìm đến cửa Phật để cúng lễ, mang theo cả niềm tin mù quáng
mong chờ đức Phật sẽ giúp họ thoát nghèo. Vì thế không ít kẻ xấu lợi dụng cửa
chùa để hành nghề bói toán, mê tín, cúng giải hạn… Nhất là trong nền kinh tế
thị trường hiện nay, nhiều phật tử, tăng ni do ham danh lợi đã lâm vào tình
trạng suy thoái đạo đức. Họ đã biến chốn linh thiêng cửa chùa thành nơi tà đạo.
Cho nên không ít người cố tình xuống tóc đi tu để làm giàu bất chính cho bản
thân. Bởi vậy, cần đẩy mạnh phát triển nền kinh tế để tạo công ăn việc làm cho
nhân dân cũng như đồng bào Phật giáo, giúp họ có thu nhập, đời sống ổn định.
Đây cũng là điều kiện tốt để phát triển con người một cách toàn diện trên các
mặt Đức - Trí
- Thể - Mỹ. Để làm được điều này Đảng và Nhà nước đã xác định đi lên xây
dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là nền kinh tế
trong đó việc tăng trưởng kinh tế gắn liền với việc phát triển văn hóa xã hội,
từng bước thực hiện công bằng xã hội, cải thiện đời sống nhân dân. Khi đời sống
no đủ sẽ cơ hội và phương tiện để con người làm việc đức, việc thiện nhiều
hơn, tham gia nhiều hơn vào các chương trình từ thiện xã hội...
Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong đó kinh
tế nhà nước vươn lên giữ vai trò chủ đạo cùng kinh tế tập thể trở thành nền
tảng của nền kinh tế quốc dân. Đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa trong
việc phát triển nền kinh tế thị trường là chúng ta đã thực hiện được mục tiêu
cao cả thiêng liêng của nhân dân ta. Đảng ta đã nhiều lần chỉ rõ: “Xây dựng
một nước Việt Nam độc lập, thống nhất, đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; chủ nghĩa xã hội gắn liền vói
độc lập dân tộc”. [27, tr.90]
10
Đây là vấn đề có tính nguyên tắc, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ đường
lối cách mạng nước ta. Chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta xây dụng là một xã
hội do nhân dân lao động làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực
lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu; có
nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc; con người được giải
phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động,
có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân,
các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; có quan
hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới. Cũng có thể
diễn đạt mục tiêu ấy trong giai đoạn hiện nay là: “Xây dựng một nước Việt nam
dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh” [82, tr.74]
Chúng ta đang phát triển kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa nhằm mục
đích phát triển sản xuất xã hội, tạo ra nhiều sản phẩm cho xã hội, nâng cao đời
sống cho nhân dân. Và chỉ khi nào cuộc sống của con người không còn đói
nghèo và trong xã hội không còn áp bức bất công khi đó thì cõi Niết bàn cũng
giảm bớt sự hấp dẫn. Vì vậy, thực hiện các chương trình phát triển kinh tế - xã
hội, nâng cao đời sống nhân dân về mọi mặt là trách nhiệm của công tác tôn
giáo, để bên cạnh niềm tin vào Phật giáo là niềm tin có cơ sở thực tế vào
đường lối, chính sách của Đảng, Pháp luật của Nhà nước.
Phát triển kinh tế đất nước, hạn chế phân hóa giàu nghèo trong xã hội sẽ
phát huy được giá trị của Phật giáo. Kinh tế phát triển sẽ tạo điều kiện cho văn
hóa, xã hội tiến bộ, góp phần nâng cao trình độ nhận thức của nhân dân. Sự phát
triển không ngừng về kinh tế, văn hóa xã hội chủ nghĩa, hoàn thiện mọi mối
quan hệ, phát triển lối sống xã hội chủ nghĩa… là điều kiện tiên quyết để phát
huy tốt những giá trị ảnh hưởng của Phật giáo, lấy đạo pháp phục vụ dân tộc,
xóa bỏ những hoạt động mê tín dị đoan, góp phần ổn định chính trị xã hội, củng
cố niềm tin của quần chúng nhân dân vào Đảng và Nhà nước.

10
Những việc làm trên sẽ có tác động tích cực trở lại, góp phần xây
dụng đời sống vật chất và tinh thần phong phú. Vì vậy, cần có cơ chế,
chính sách phát huy nỗ lực của nhân dân, tạo ra phong trào quần chúng
mạnh mẽ, rộng khắc và thường xuyên tham gia phát triển văn hóa, xây
dựng nếp sống văn minh, bảo vệ nền văn hóa dân tộc cũng nhu bồi đắp cá
tính con người Việt Nam.
2.4.2. Phát huy vai trò tích cực của các tổ chức Phật giáo, tổ chức Phật tử
trong đời sống xã hội
Sự tồn tại và phát triển của tôn giáo nói chung và Phật giáo ở nước ta nói
riêng hiện nay đã cho thấy, Phật giáo còn là nhu cầu tinh thần của một bộ
phận quần chúng nhân dân. Phật giáo vẫn tồn tại và ảnh hưởng đến lối sống
của người Việt với cả mặt tích cực và tiêu cực. Phát huy những giá trị ảnh
hưởng của Phật giáo là yêu cầu khách quan trong sự nghiệp đổi mới đất nước.
Cùng với những giải pháp khác thì việc phát huy vai trò tích cực của các tổ
chức Phật giáo trong đời sống kinh tế - xã hội là điều kiện để thực hiện thắng
lợi yêu cầu khách quan này.
Thực tế ở nước ta đã xuất hiện những giáo phái mới như Thanh Hải Vô
Thượng Sư, Long Thọ Bồ Tát, Long Hoa Di Lặc… những hoạt động mê tín dị
đoan diễn ra khắp nơi, trong mọi lứa tuổi và trong mọi tầng lớp dân cư bởi họ
muốn tìm nhanh đến cuộc sống hạnh phúc, thoát khỏi sự đau thương, khổ ải
nơi trần thế. Thực trạng này đòi hỏi công tác quản lý tôn giáo của Đảng và
Nhà nước phải được tăng cường hơn nữa. Trong đó, việc tăng cường đào tạo
đội ngũ cán bộ công tác tôn giáo, xây dựng phát huy vai trò tổ chức tôn giáo
là việc làm cần thiết. Để phát huy vai trò tích cực của các tổ chức Phật giáo sẽ
giúp Phật giáo phát triển đúng hướng, phù hợp với đời sống hiện đại; thực
hiện và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, chú trọng giải quyết những lợi
ích thiết thân kể cả quyền tự do tín ngưỡng của các Phật tử. Qua đó, giúp đỡ

11
đồng bào nâng cao trình độ mọi mặt có nhiều đóng góp tích cực và lớn lao
vào sự nghiệp cách mạng nước ta.
Đại biểu của các tín đồ tôn giáo trong đó có giới Tăng ni, Phật tử có mặt
trong thành phần quốc hội, tham gia vào các cơ quan quyền lực nhà nước.
Trong việc phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của các hoạt động của
Phật giáo thì các vị chức sắc, lãnh đạo giáo hội, giáo đoàn có vai trò rất lớn. Họ
có vai trò, ảnh hưởng rất lớn trong việc ngăn chặn kịp thời các hành vi vượt
khởi khuôn khổ của giáo luật cũng như luật pháp của số tín đồ lợi dụng chính
sách, tự do tôn giáo, tín ngưỡng để gây rối làm mất an ninh, trật tự xã hội,
ngăn chặn thế tực phản động bên ngoài lợi dụng Phật giáo trong diễn biến hòa
bình. Ngoài ra, các nhà sư, Tăng ni còn có ảnh hưởng rất lớn đối với một số
hoạt động trong đời sống xã hội. Chỉ với những buổi nói chuyện của các nhà
sư có thể giảng giải cho các tín đồ và nhân dân thấy được việc đốt vàng mã lan
tràn như hiện nay là không tốt, chỉ cần đốt mang tính tượng trưng mà thôi.
Điều này góp phần tích cực trong việc xây dựng lối sống mới hiện nay. Mặt
khác, các vị chức sắc, nhà tu hành cũng phải tuân theo nghĩa vụ của người công
dân. Họ cũng bị pháp luật xử lý nếu tham gia các hoạt động gây rối, mất trật tự
ổn định xã hội, chống phá sự nghiệp đổi mới, đi ngược lại với lợi ích của dân
tộc. Công việc này đòi hỏi phát huy sức mạnh tổng hợp của nhiều người, nhiều
cấp, nhiều ngành, của cả hệ thống chính trị. Trong công tác quản lý các hoạt
động tôn giáo chúng ta cần phải hết sức thận trọng để tránh có sự hiểu lầm,
không để kẻ xấu lợi dụng và bảo vệ vững chắc khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Để phát huy tốt vai trò của các tổ chức phật tử, chúng ta cần phải thực
hiện tốt đường lối, chủ trương và các chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà
nước. Trong đó, việc loại trừ mọi mặc cảm, thành kiến trong đồng bào có đạo,
không có đạo, tăng cường khối đại đoàn kết trong cộng đồng dân cư, đồng
thời tạo điều kiện để người tu hành có thể tham gia tốt hơn vào công tác quóc

11
kế dân sinh. Đảng và Nhà nước cần tạo điều kiện thuận lợi để giới tăng ni,
phật tử được tham gia vào hoạt động lao động sản xuất, hoạt động chính trị xã
hội, hoạt động văn hóa tư tưởng.
2.4.3. Nâng cao hiệu quả tổ chức và quản lý đối với các hoạt động tín
ngưỡng, tôn giáo nói chung, Phật giáo nói riêng
Việt Nam là một quốc gia đa tôn giáo, do đó để hoạt động tôn giáo diễn
ra thuận lợi, góp phần vào sự phát triển của đất nước, Đảng và Nhà nước ta
phải đề ra quan điểm chỉ đạo đường lối, chính sách phù hợp đối với công tác
tôn giáo trước đây cũng như hiện nay. Đặc biệt, chúng ta cần vận dụng tư
tưởng Hồ Chí Minh về tín ngưỡng, tôn giáo trong điều kiện hiện nay.
Đối với Phật giáo, việc thực hiện tốt các chính sách, quan điểm của Đảng
và Nhà nước về công tác tín ngưỡng, tôn giáo sẽ giúp Phật giáo Việt Nam
không xa rời mục tiêu, lý tưởng của Đảng, pháp luật của Nhà nước, các tăng
ni, phật tử có điều kiện thực hành hoạt động tôn giáo của mình, gắn hoạt động
đó với đời, thể hiện được tư tưởng, mong muốn của Đức Phật là cứu độ chúng
sinh, hướng chúng sinh tới con đường thoát khổ, thực hành tu dưỡng, rèn
luyện bản thân để hướng tới những hành vi có đạo đức.
Chúng ta cần thực hiện nhất quán tư tưởng tôn trọng và bảo đảm trên
thực tế quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu ra
đối với nhân dân. Người luôn nhấn mạnh: Nhà nước ta tuyệt đối không can
thiệp vào nội bộ các tôn giáo mà chỉ đặt ra những vấn đề chính trị và pháp
luật đối với tôn giáo. Nhà nước quản lý tôn giáo bằng pháp luật theo nguyên
tắc đoàn kết, tự do, không khuyến khích, tài trợ, song cũng không ngăn cản
các hoạt động tôn giáo mà pháp luật cho phép.
Vì vậy, trước hết cần phải tuyên truyền, giảng giải để quần chúng nhân
dân nắm được quyền lợi khi tham gia hoạt động tôn giáo theo đúng quy định
của Đảng và Nhà nước. Các cơ quan chính quyền địa phương phải tăng cường

11
hơn nữa đội ngũ những người tham gia vào trong các tổ chức chỉ đạo hoạt
động tôn giáo ở tất cả các cấp từ xã, huyện, tỉnh; để vừa quản lý tốt các hoạt
độn tôn giáo của người dân, vừa hướng dẫn họ tham gia thực hành tôn giáo
đúng pháp luật, không bị kẻ xấu lợi dụng.
Đồng thời, tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của nhân dân, khuyến khích
nhân dân gắn hoạt động tôn giáo với đời sống xã hội, góp phần vào công cuộc
xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Kêu gọi nhân dân hòa hợp
giữa các tôn giáo, không có sự phân biệt, kì thị giữa các tôn giáo. Phải có biện
pháp nghiêm khắc để ngăn cấm việc ép buộc dân theo đạo hoặc bỏ đạo, lợi
dụng quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo để phá hoạt hòa bình, độc lập, thống
nhất đất nước, kính động bạo lực, tuyên truyền những nội dung trái pháp luật,
trái với chính sách của Nhà nước, gây chia rẽ khối địa đoàn kết dân tộc, chia
rẽ tôn giáo, gây mất trật tự công cộng, xâm hại tới tính mạng, sức khỏe, nhân
phẩm và danh dự, tài sản của người khác cùng các hoạt động mê tín dị đoan…
Phật giáo là một trong những tôn giá lớn nhất ở Việt Nam với số lượng
tín đồ đông đảo chưa kể để số lượng nhân dân yêu mến và có cảm tinh với
đạo Phật nhiều hơn thì việc quán triệt các Nghị định, Nghị quyết, Pháp lệnh
về tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta tới các tín đồ là hết sức cần
thiết. Nó sẽ góp phần tạo nên sự ổn định trong xã hội, thúc đẩy xã hội Việt
Nam không ngừng phát triển và không đi lệch con đường xã hội chủ nghĩa do
Đảng và chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn.
Đối với Phật giáo, việc thực hiện tốt các chính sách, quan điểm của Đảng
và Nhà nước về công tác tín ngưỡng, tôn giáo sẽ giúp Phật giáo Việt Nam
không xa rời mục tiêu, lý tưởng của Đảng, pháp luật của Nhà nước, các tăng
ni, phật tử có điều kiện thực hành hoạt động tôn giáo của mình, gắn hoạt động
đó với đời, thể hiện được tư tưởng mong muốn của Đức Phật là cứu độ chúng
sinh, hướng chúng sinh tới con đường thoát khổ, thực hành tu dưỡng bản thân
để hướng tới một lối sống tốt đời, đẹp đạo với tinh thần “Đạo pháp – Dân tộc
– Chủ nghĩa xã hội”.

11
Tiểu kết chƣơng 2
Phật giáo với tư cách là một tôn giáo, một hiện tượng tinh thần sẽ còn
tồn tại lâu dài ở Việt Nam, đã và đang có ảnh hưởng rất lớn đến lối sống của
người Việt Nam trên cả hai mặt tích cực và tiêu cực. Những phương diện của
lối sống chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi các triết lý của Phật giáo như: cách thức
lao động sản xuất và tổ chức cuộc sống; phong tục tập quán; phương thức ứng
xử và triết lý sống của người Việt.
Hiện nay, đời sống kinh tế của người dân ngày một nâng cao, người dân
có điều kiện đi lễ chùa nhiều hơn, chuyên tâm thực hành giáo lý (với những
người là Phật tử) và thực hiện những lời dạy của Đức Phật, thực hiện bố thí
(từ thiện), tu phúc, tu tuệ. Hiện nay cả nước ước tính có khoảng 10 triệu Phật
tử (những người quy y chính thức). Trên thực tế, số người tin vào đạo Phật,
chăm đi lễ chùa, tự nguyện thực hành một số điểm trong giáo lý Phật giáo
nhiều hơn rất nhiều. Do đó, để đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo cho
nhân dân, hướng niềm tin vào các hoạt động tôn giáo của họ theo đường lối,
chính sách của Đảng và Nhà nước, đặc biệt, trong quá trình xây dựng lối sống
mới hiện nay chúng ta cần đưa ra những giải pháp phù hợp nhằm phát huy
những ảnh hưởng tích cực, hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực trong quá trình
ảnh hưởng của Phật giáo lối sống con người Việt Nam. Các giải pháp đưa sẽ
góp phần không nhỏ vào việc xây dựng nếp sống văn minh, bảo vệ văn hóa
dân tộc, cùng hướng tới mục tiêu xây dựng xã hội dân giàu, nước mạnh,dân
chủ, công bằng, văn minh.

11
KẾT LUẬN
Phật giáo là một trong những học thuyết triết học – tôn giáo lớn trên thế
giới với hệ thống giáo lý đồ sộ và số lượng Phật tử đông đảo được phân bố
rộng khắp ở nhiều nước trên thế giới. Trong quá trình phát triển của mình,
Phật giáo đã thâm nhập vào đời sống các dân tộc khác và tìm được cho mình
chỗ đứng nhất định trong đời sống tinh thần của các dân tộc. Khi vào Việt
Nam, Phật giáo đã hội nhập với văn hóa, tín ngưỡng Việt Nam để tìm phương
thức bén rễ lâu dài trên mảnh đất này. Thế giới quan và nhân sinh quan Phật
giáo là một hệ thống những triết lý sâu sắc, độc đáo và hấp dẫn con người qua
bao thế hệ. Phật giáo đã dung hợp cùng những giá trị truyền thống Việt Nam,
thể hiện được khát vọng sống thiện, yêu thương, nhân nghĩa và có hậu của
con người Việt Nam. Lối sống ấy đã hòa nhập vào nhịp sống của dân tộc và
đã có ảnh hưởng lên mọi bình diện của lối sống người Việt. Trải qua quá trình
hội nhập và phát triển, thông qua sự chọn lọc, tiếp thu của các thời đại, Phật
giáo Việt Nam không ngừng lớn mạnh và phát triển. Phật giáo đã ăn sâu bén
rễ vào trong lòng dân tộc, là mạch nguồn hòa chảy vào suối nguồn dân tộc.
Phật giáo đã có những ảnh hưởng không nhỏ tới lối sống người Việt
Nam trong lịch sử cũng như hiện nay, biểu hiện trên một số phương diện cơ
bản như cách thức lao động sản xuất và tổ chức cuộc sống, phong tục tập
quán, triết lý sống, phương thức ứng xử… Mỗi phương diện đều có chiều sâu
ảnh hưởng khác nhau, song nhìn chung ảnh hưởng của Phật giáo đều hướng
con người làm thiện, tạo điều phúc để hưởng hạnh phúc mai sau. Phật giáo đã
góp phần hình thành ở người Việt Nam lối sống bình dị, chất phác, thật thà,
rất đỗi thủy chung, có nghĩa có tình, có trước có sau, hướng con người vào
thực hành cái thiện, tránh xa cái ác, đem lại sự thanh thản trong tâm hồn mỗi
con người. Từ đó, định hướng cho mỗi chúng ta một hướng đi, một lối sống
nhân văn, một quan niệm sống vững chắc trước mọi hoàn cảnh khó khăn,

11
đồng thời giúp ta làm chủ cuộc đời. Bên cạnh đó, Phật giáo còn có một số ảnh
hưởng tiêu cực đến lối sống con người Việt Nam: khao khát một đời sống
bình yên, chậm biến đổi, bằng lòng với thực tại, đôi khi lại thụ động do tin
vào nhân quả, nghiệp… Kế thừa và phát huy tư tưởng Hồ Chí Minh về lương
giáo đoàn kết tín ngưỡng tự do, trong thời kỳ đổi mới, Đảng và Nhà nước ta
luôn xác định rõ các quan điểm chính sách tôn giáo thể hiện tư duy mới về tôn
giáo: Tôn giáo là vấn đề còn lâu dài, tín ngưỡng tôn giáo là nhu cầu tinh thần
của một bộ phận nhân dân, đạo đức tôn giáo có nhiều điều phù hợp với công
cuộc xây dựng xã hội mới, thừa nhận những giá trị văn hóa tinh thần trong tôn
giáo khuyến khích mọi người giữ gìn và phát huy đoàn kết tôn giáo, đoàn kết
toàn dân tộc, tích cực đóng góp sức lực và trí tuệ vào công cuộc xây dựng xã
hội mới, đồng thời tăng cường hợp tác giữa các tôn giáo Việt Nam với các tôn
giáo các quốc gia trên thế giới vì mục tiêu hòa bình, phát triển và tiến bộ xã
hội. Với quan điểm trên, Phật giáo sẽ phát huy những mặt tích cực góp phần
quan trọng xây dựng một đời sống tinh thần lành mạnh, bảo tồn các giá trị tốt
đẹp cũng như có những biến đổi cho phù hợp với xu thế thời đại. Phát huy
mặt tích cực và đồng thời hạn chế mặt tiêu cực trong ảnh hưởng của Phật giáo
lối sống của con người Việt Nam hiện nay là một yêu cầu khách quan cùng
với quá trình xây dựng lối sống mới trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã
hội và sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

11
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ngô Thị Lan Anh (2011), Ảnh hưởng của “T m” trong Phật giáo đối với văn
hóa tinh thần của người Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ Triết học, Học
viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
2. Lê Hữu Ái (2009), “Phát huy vai trò của văn hóa truyền thống”, Tạp chí
Lý luận chính trị (12), tr.57- 62.
3. Nguyễn Thị Bảy (1997), Văn hóa Phật giáo và lối sống của người Việt ở
Hà Nội và châu thổ Bắc Bộ, Nxb Thông tin, Hà Nội.
4. Thích Hạnh Bình (dịch) (2007), Phật giáo và cuộc sống, Nxb Phương Đông.
5. Minh Chi, Hà Thúc Minh (1993), Đại cương ịch sử triết học phương
Đông, Nxb TP. Hồ Chí Minh.
6. Minh Chi (2001), “Về xu thế thế tục hoá và dân tộc hoá của Phật giáo”,
Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo (3), tr. 26 - 29.
7. Minh Chi (2004), “Vài suy nghĩ về sự hội nhập của Phật giáo vào nền văn
hóa Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo (4), tr.58 - 61.
8. Đoàn Trung Còn (2007), Lịch sử nhà Phật, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
9. Nguyễn Du (Tái bản 1996), Truyện Kiều, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
10. Mai Thị Dung (2003), Ảnh hưởng của nh n sinh quan Phật giáo trong đời
sống tinh thần của con người Việt Nam và sự iến đổi của nó trong quá
trình đổi mới hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
11. Nguyễn Đăng Duy (1999), Phật giáo và văn hóa Việt Nam, Nxb Hà Nội,
Hà Nội.
12. Nguyễn Hồng Dương (2008), “Nghiên cứu và ứng dụng các giá trị văn hóa
Phật giáo trong xã hội Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo
(5), tr. 23-26.

11
13. Lê Văn Đính (2007), “Bàn thêm về ảnh hưởng của Phật giáo trong đời
sống xã hội Việt Nam hiện nay”, Tạp chí nghiên cứu tôn giáo (10), tr.16 -
24.
14. Thích Tâm Đức (2008), Quan điểm của Phật giáo về kinh tế và công bằng
xã hội, Nxb Viện Nghiên cứu Phật học, TP. Hồ Chí Minh.
15. Trần Văn Giàu (1975), Giá trị tinh thần truyền thống của n tộc Việt
Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
16. Trần Văn Giàu (1986), Đạo Phật và một số vấn đề của lịch sử tư tưởng Việt
Nam
(in trong Phật giáo và tư tưởng Việt Nam), Viện Triết học xuất bản, Hà Nội.
17. Trần Văn Giàu (1993), Đạo đức Phật giáo trong thời hiện đại, Nxb TP.
Hồ Chí Minh.
18. Trần Văn Giàu (1997, 1998), Sự phát triển của tư tưởng Việt Nam từ giữa thế
kỷ XIX đến cách mạng tháng Tám ( tập), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
19. H. Thông tin khoa học xã hội chuyên đề (1997 – 1998), Tôn giáo và đời
sống hiện đại (tập 1,2,3), Hà Nội.
20. Lê Đức Hạnh (2005), “Một vài đóng góp của Phật giáo với văn hóa Việt
Nam”, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo (5), tr.16 - 25.
21. Nguyễn Hùng Hậu (1990), “Ảnh hưởng của Phật giáo đối với tư duy và
cách ứng xử của người Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Xã hội học (4), tr.70 -
80.
22. Nguyễn Hùng Hậu (1994), “Phật giáo và sự hình thành nhân cách con
người Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Triết học (2), tr. 18 -21.
23. Nguyễn Hùng Hậu (1996), “Một số suy nghĩ về ảnh hưởng của Phật giáo
đối với tư duy người Việt”, Tạp chí Triết học (5), tr.24 - 26.
24. Nguyễn Hùng Hậu (2002), Đại cương triết học Phật giáo Việt Nam, tập 1,
Nxb Khoa học xã hội.
25. Nguyễn Hùng Hậu (2004), Triết ý trong văn hóa phương Đông, Nxb Đại

11
học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội.

11
26. Nguyễn Duy Hinh (2006), Triết học Phật giáo Việt Nam, Nxb Văn hóa
thông tin và Viện Văn Hóa Hà Nội.
27. Dương Phú Hiệp (chủ biên) (2001), Tiến ên chủ ngh a ã hội ỏ qua chế
độ tư ản chủ ngh a ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
28. Dư Minh Hoàng (1954), người dịch Trần Quang, Nhân sinh quan mới,
Nxb Sự thật, Việt Nam.
29. Học viện Phật giáo Việt Nam (2008), Phật giáo nhập thế và phát triển,
Nxb tôn giáo, Hà Nội.
30. Tạ Chí Hồng (2004), Ảnh hưởng của đạo đức Phật giáo trong đời sống
đạo đức ã hội Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ triết học, Học viện
Chính trị Quốc gia HCM, Hà Nội
31. Nguyễn Đăng Huy (1999), Phật giáo với văn hóa Việt Nam, H. Nxb Hà Nội.
32. Phan Văn Hùm (1943), Phật giáo triết học, Nxb Tân Việt.
33. Đỗ Quang Hưng (1999), “Tôn giáo và tín ngưỡng trong đời sống văn hóa
hiện nay”, Tạp chí Cộng sản (15), tr.17 -21.
34. Hoàng Thị Lan (1997), “Vài suy nghĩ về Phật giáo dân gian Việt Nam”,
Tạp chí nghiên cứu Phật học (2), tr.10 -14.
35. Nguyễn Lang (1992), Việt Nam Phật giáo sử luận (tập 1,2,3), Nxb Văn
học, Hà Nội
36. Lịch sử tư tưởng Việt Nam - Văn tuyển (2004), tập 2, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
37. Lịch sử Phật giáo Việt Nam (1998), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội
38. Thiền sư Định Lực, cơ sở Nhất Tâm (2003), Phật giáo Việt Nam và thế
giới, H. Văn hóa Thông tin.
39. Mấy vấn đề về Phật giáo và lịch sử tư tưởng Việt Nam (1986), Ủy ban
Khoa học xã hội, Viện Triết học, Hà Nội.
40. Một số tôn giáo ở Việt Nam (1995), Phòng Thông tin tư liệu Ban Tuyên giáo
Chính phủ, Hà Nội.

12
41. C.Mác và Ph.Ăng ghen toàn tập, tập 1, Nxb Sự thật, Hà Nội.
42. C.Mác và Ph.Ăng ghen toàn tập (2002), tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
43. C.Mác và Ph.Ăng ghen toàn tập (1995), tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
44. C.Mác và Ph.Ăng ghen tuyển tập (1980), tập 1, Nxb Sự thật, Hà Nội.
45. Thiện Nguyên (2009), Triết lý giải thoát của Phật giáo đối với đời sống hiện
nay.
46. Phân viện nghiên cứu Phật học (2000), Phật giáo và văn hóa n tộc, Thư
viện Phật học xuất bản.
47. Thích Đạo Quang (2003), Đại cương triết học Phật giáo, Nxb Thuận
Hóa, Huế.
48. Basnagoda Rahula (2010), Lời dạy của Đức Phật về sự thành tựu trong gia
đình, nơi sông sở, ngoài xã hội, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
49. Walpola Rahula (1999), Lời giáo huấn của Phật đà, NXB Tôn giáo, Hà Nội.
50. Nadasena Ratnapala (Thích Huệ Pháp dịch - 2011), Xã hội học Phật giáo,
Nxb Văn Hóa Sài Gòn.
51. Peter D. Santina (Thích Tâm Quang dịch), Nền tảng của đạo Phật, Nxb
Thành phố Hồ Chí Minh.
52. Phạm Văn Sinh (1994), Về vai trò Phật giáo ở Việt Nam (qua triều đại
nhà Lý), Luận án PTS khoa học Triết học, Hà Nội.
53. Trần Đăng Sinh (2002), “Phật giáo và ý thức cội nguồn của người Việt
Nam”, Tạp chí nghiên cứu Phật học (3), tr.30 -34.
54. Trần Đăng Sinh và Đào Đức Doãn (2002), Giáo trình Tôn giáo học,
Nxb Sư phạm, Hà Nội.
55. Daisetz Teitaro Suzuki (Trúc Thiên dịch – 1971), Cốt tủy của đạo Phật,
Nxb An Tiêm, Sài Gòn.
56. Junjiro Takakusu (Tuệ Sỹ dịch – 2008), Tinh hoa triết học Phật giáo,
Nxb Phương Đông, Hà Nội.
57. Trường Tâm và Thanh Long, Phật giáo một góc đạo và đời, Nxb Văn

12
Hóa, Sài Gòn.

12
58. Trường Tâm và Thanh Long, Đạo Phật đi vào cuộc sống, Nxb Văn hóa, Sài
Gòn.
59. Lê Mạnh Thát (1982), Nghiên cứu về Mâu Tử, Tập 2, Tu thư Vạn hạnh.
60. Lê Mạnh Thát (1999), Lịch sử Phật giáo Việt Nam, tập 1, Nxb Thuận Hóa,
Huế.
61. Trần Ngọc Thêm (2004), Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Tổng
hợp, TP Hồ Chí Minh.
62. Lê Như Thỉnh, Trung Hậu (Sưu tập – 2002), Ca dao tục ngữ Phật giáo
Việt Nam , Nxb TP. Hồ Chí Minh.
63. Hoàng Thị Thơ, “Tư duy hướng nội của Phật giáo và vai trò của nó trong
tư duy của người Việt”, Tạp chí Triết học (5), tr.47 - 55.
64. Hoàng Thị Thơ (2000), “Vấn đề con người trong đạo Phật”, Tạp chí Triết
học (6), tr. 41 - 44.
65. Hoàng Thị Thơ (2001), “Giá trị nhân bản của Phật giáo trong truyền thống
và hiện đại”, Tạp chí triết học (6), tr.19 - 24.
66. Hoàng Thị Thơ (2005), Lịch sử tư tưởng Thiền từ Veda Ấn Độ tới Thiền
tông Trung Quốc, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội
67. Hoàng Thơ (2002), “Đạo đức Phật giáo với kinh tế thị trường”, Tạp chí
Triết học (7), tr. 28 - 33.
68. Phương Thu (sưu tầm và biên soạn - 2004), Ca dao tục ngữ Việt Nam,
Nxb Thanh niên, Hà Nội.
69. Nguyễn Tài Thư (chủ biên) (1998), Lịch sử Phật giáo Việt Nam, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
70. Nguyễn Tài Thư (chủ biên) (1997), Ảnh hưởng của các hệ tư tưởng và tôn
giáo đối với con người Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
71. Nguyễn Tài Thư (1993), “Phật giáo và sự hình thành nhân cách con người
Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Triết học (4), tr.48 - 53.
72. Nguyễn Văn Trung (1993), Một số hiểu biết về tôn giáo. Tôn giáo ở Việt

12
Nam, H. Quân đội nhân dân, Hà Nội.
73. Lê Hữu Tuấn (1998), Ảnh hưởng của tư tưởng triết học Phật giáo trong
đời sống văn hóa tinh thần ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Triết học, Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
74. Thích Thanh Tứ (2006), “Phật giáo Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới,
xậy dựng và bảo vệ Tổ quốc”, Tạp chí nghiên cứu Phật học (3), tr.9 -11.
75. Thích Thanh Từ (1995), Phật giáo và dân tộc, Thành hội Phật giáo TP.
Hồ Chí Minh xuất bản.
76. Từ điển bách khoa (1983), Moskva.
77. Từ điển triết học (1984), Nxb Tiến bộ, Moskva.
78. Từ điển bách khoa thư triết học mới (2001), Moskva
79. Đặng Nghiêm Vạn (1994), Những vấn tôn giáo hiện nay, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội.
80. Đặng Nghiêm Vạn (2001), “Vài nét về đời sống tôn giáo qua lịch sử Việt
Nam”, Nghiên cứu tôn giáo (4), tr. 31 - 39.
81. Viện Triết học (1986), Phật giáo và lịch sử tư tưởng Việt Nam, Ủy ban
Khoa học xã hội Việt Nam, Hà Nội.
82. Viện văn hóa và phát triển – Học viện Chính trị hành chính quốc gia Hồ
Chí Minh (2006), Giáo trình Lý luận văn hóa và đường lối văn hóa của
Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
83. Huỳnh Khái Vinh (2001), Một số vấn đề về lối sống, đạo đức, chu n giá
trị xã hội, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
84. Trần Quốc Vượng (1992), Vài nét về Phật giáo dân gian Việt Nam, Nxb Hà
Tây.
85. Phạm Thị Xê (1996), Ảnh hưởng của tư tưởng Phật giáo trong lối sống
của người Huế hiện nay, Luận văn Thạc sĩ Triết học, Học viện Chính trị
Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
86. Nguyễn Như Ý (1996), Từ điển Tiếng Việt thông dụng, Nxb Giáo dục, Hà

12
Nội.

12

You might also like