You are on page 1of 29

Tiểu luận môn Triết học i

LỜI CẢM ƠN

Lời đầu tiên, tác giả xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn của Tiến sĩ Lại Văn
Nam giảng viên Trường Đại Học Tài Chính – Marketing. Với sự hướng dẫn và giúp đỡ
của Thầy, tôi đã hoàn thành Tiểu luận môn học “TRIẾT LÝ NHÂN SINH PHẬT
GIÁO VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ ĐẾN TRIẾT LÝ NHÂN SINH CỦA NGƯỜI
VIỆT NAM”.
Đồng thời, tác giả chân thành cảm ơn các Thầy cô Trường Đại Học Tài Chính –
Marketing. Chính các Thầy cô đã cung cấp cho tôi những kiến thức, nền tảng và
chuyên môn để tôi có thể hoàn thành đề tài này một cách tốt nhất.
Tuy nhiên, vì kiến thức chuyên môn còn hạn chế và bản thân chưa có nhiều kinh
nghiệm nên nội dung đề tài không thể tránh khỏi những sai sót. Vì vậy, tác giả rất
mong nhận được sự thông cảm, những lời góp ý và chỉ bảo tận tình của Quý thầy cô
để đề tài được hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
Nguyễn Văn Lâm

Người thực hiện: Nguyễn Văn Lâm GVHD: Tiến sĩ Lại Văn Nam
Tiểu luận môn Triết học 2

MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN..................................................................................................................i
MỤC LỤC.......................................................................................................................2
MỞ ĐẦU.........................................................................................................................3
1. Lý do chọn đề tài........................................................................................................3
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài...............................................................................3
3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu................................................................3
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu..............................................................4
5. Những đóng góp của đề đài.......................................................................................4
6. Kết cấu của tiểu luận được chia thành 2 chương:...................................................5
CHƯƠNG 1: TRIẾT LÝ NHÂN SINH PHẬT GIÁO................................................6
CHƯƠNG 2: ẢNH HƯỞNG CỦA TRIẾT LÝ NHÂN SINH PHẬT GIÁO ĐẾN
TRIẾT LÝ NHÂN SINH CỦA NGƯỜI VIỆT NAM...............................................11
2.1 Ảnh hưởng của phật giáo đến thế giới quan và nhân sinh quan của người Việt
Nam xưa kia..................................................................................................................11
2.2 Ảnh hưởng của phật giáo đến thế giới quan và nhân sinh quan của người Việt
ngày nay........................................................................................................................17
2.3 Ảnh hưởng của phật giáo đến thế giới quan và nhân sinh quan của thế hệ trẻ
Việt Nam.......................................................................................................................19
KẾT LUẬN...................................................................................................................26

Người thực hiện: Nguyễn Văn Lâm GVHD: Tiến sĩ Lại Văn Nam
Tiểu luận môn Triết học 3

MỞ ĐẦU

1.Lý do chọn đề tài


Phật giáo là một trong những học thuyết triết học - tôn giáo lớn nhất trên
thế giới và đã tồn tại rất lâu đời với hệ thống giáo lý rất đồ sộ, được du nhập vào nước
ta khoảng thế kỷ II - SCN từ Trung Quốc, Ấn Độ.
Lịch sử Phật giáo Việt Nam trải qua 4 giai đoạn: Từ đầu công nguyên đến hết
thời kỳ Bắc thuộc, hình thành và phát triển rộng khắp; Thời nhà Lý - nhà Trần, phát
triển cực thịnh; Từ đời Hậu Lê đến cuối thế kỷ XIX, suy thoái; Từ đầu thế kỷ XX đến
nay, phục hưng.
Trong thời kỳ đổi mới. Ngoài những thành tựu đã đạt được về mặt kinh tế - văn
hóa - xã hội là mặt trái của nền kinh tế thị trường. Nó đã làm nảy sinh nhiều tiêu cực
gây ra những ảnh hưởng không nhỏ đến các mặt của đời sống xã hội. Trong bối cảnh
đó, nghiên cứu về triết lý nhân sinh Phật giáo cùng với quá trình du nhập, tồn tại, phát
triển của nó tại Việt Nam sẽ làm nổi bật được những ảnh hưởng đến đời sống tinh thần
nói người dân nước ta.
Với ý nghĩa thiết thực như trên nên tôi quyết định chọn đề tài nghiên cứu của
mình là: “Triết lý nhân sinh Phật giáo và ảnh hưởng của nó đến triết lý nhân sinh của
người Việt Nam”.

2. Tình hình nghiên cứu của đề tài


Cho đến nay, các vấn đề liên quan đến tư tưởng nhân sinh của phật giáo và ảnh
hưởng của nó đối với triết lý nhân sinh Việt Nam đã được nghiên cứu và trình bày
trong các buổi giảng pháp, tọa đàm của các chùa tại nhiều tỉnh trong cả nước, các bài
tạp chí khoa học,.... Tuy nhiên, các bài nghiên cứu đó còn mang tính riêng lẻ từng địa
phương, từng thời kỳ mà chưa phân tích tổng quan đối với con người Việt Nam nói
chung từ khi du nhập vào cho đến nay.

3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu


Mục đích nghiên cứu:

Người thực hiện: Nguyễn Văn Lâm GVHD: Tiến sĩ Lại Văn Nam
Tiểu luận môn Triết học 4

Tác giả nghiên cứu tư tưởng nhân sinh của phật giáo và ảnh hưởng của nó đối
với triết lý nhân sinh của người Việt Nam
Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên đây, tiểu luận có nghiệm vụ nghiên cứu:
- Nhận thức đầy đủ và sâu sắc hơn những vấn đề trong tư tưởng nhân sinh của
phật giáo.
- Làm rõ sự ảnh hưởng, ưu điểm, nhược điểm, nguyên nhân ảnh hưởng đối
với triết lý nhân sinh của người Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi nghiên cứu của tiểu luận, tác giả tập trung giải quyết những
nghiên cứu khái niệm cơ bản trong tư tưởng nhân sinh của Phật giáo và tóm lượt cơ
bản sự ảnh hưởng nó đối với triết lý nhân sinh của người Việt Nam từ khi du nhập vào
Việt Nam cho đến nay.

4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu


Cơ sở lý luận
Tác giả dựa trên bản thể luận trong triết học phật giáo
Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả sử dụng các phương pháp lịch sử, phân tích,
tổng hợp, so sánh, hệ thống hóa,… Thông qua đó, tư tưởng nhân sinh và ảnh hưởng
của nó đối với triết lý nhân sinh của người Việt Nam được xem xét, đánh giá từ nhiều
góc độ khác nhau, bảođảm tính đầy đủ, toàn hiện, có hệ thống và xác thực theo những
nội dung cụ thể trong tiểu luận.

5. Những đóng góp của đề đài


Bài tiểu luận phần nào giúp chúng ta nhận thấy được tầm quan trọng của tư
tưởng nhân sinh phật giáo trong triết lý nhân sinh của người Việt Nam từ khi du nhập
cho đến nay. Bên cạnh đó là gìn giữ, phát triển những ưu điểm và hạn chế, loại bỏ
những ảnh hưởng tiêu cực sao cho phù hợp với tình hình xã hội Việt Nam hiện nay.

Người thực hiện: Nguyễn Văn Lâm GVHD: Tiến sĩ Lại Văn Nam
Tiểu luận môn Triết học 5

6. Kết cấu của tiểu luận được chia thành 2 chương:


Mở đầu
Chương 1: Triết lý nhân sinh Phật Giáo
Chương 2: Ảnh hưởng của triết lý nhân sinh Phật Giáo đến triết lý nhân sinh
người Việt nam
2.1 Ảnh hưởng của phật giáo đến thế giới quan và nhân sinh quan của người
Việt Nam xưa kia.
2.2 Ảnh hưởng của phật giáo đến thế giới quan và nhân sinh quan của người
Việt ngày nay.
2.3 Ảnh hưởng của phật giáo đến thế giới quan và nhân sinh quan của thế hệ trẻ
Việt Nam.
Kết luận

Người thực hiện: Nguyễn Văn Lâm GVHD: Tiến sĩ Lại Văn Nam
Tiểu luận môn Triết học 6

CHƯƠNG 1: TRIẾT LÝ NHÂN SINH PHẬT GIÁO


Phật giáo ra đời trong điều kiện kinh tế-chính trị-xã hội, tiền đề nhận thức tư
tưởng Ấn Độ rất phức tạp. Khoảng thế kỷ VI-TCN đã xuất hiện nhà nước chiếm hữu
nô lệ với chế độ phân chia đẳng cấp khắc nghiệt, có 4 đẳng cấp chính là: Bà la môn
(Brhmanes); Sát-đế-ly (Kastryas); Phệ-xá (Vaisyas); Thủ-đà-la (Suddra); Và 4 trào lưu
tư tưởng là: Bà- la-môn giáo chính thống; Trào lưu tín ngưỡng tập tục; Trào lưu triết
học; Trào lưu phản Phệ-đà.
Người sáng lập ra đạo Phật là Đức Thích Ca Mâu Ni - “đấng giác ngộ”, họ tên
là Gauthanma Shiddartha, sinh 8/4/566 (hay 663) TCN tại Kapilavatsu. Năm 19 tuổi,
ngài kết hôn, có một con trai. 29 tuổi ngài xuất gia, 35 tuổi đắc đạo, Đức Phật tịch lúc
80 tuổi.
Quá trình phát triển của Phật giáo được chia làm 3 thời kỳ: Thế kỷ III-TCN đến
thế kỷ IV-SCN, phát triển trong nước và các nước khác; Đầu thế kỷ XIII, suy thoái;
Thế kỷ XIX, chấn hưng Phật giáo. Quan niệm về triết lý nhân sinh, ở phương Đông đã
kết luận bản tính tự nhiên của con người. Ở phương Tây thì kết luận con người được
cấu tạo nên từ vật chất. Còn theo triết học Mác-Lê Nin, quan niệm về con người: Con
người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh học với mặt xã hội; Trong tính hiện
thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội; Con người là chủ
thể và là sản phẩm của lịch sử.
Đạo Phật quan niệm về triết lý nhân sinh thể hiện trong thuyết “Thập nhị nhân
duyên”. Trong mười hai nhân duyên thì vô minh là căn bản. Từ nhân quá khứ sang quả
hiện tại, quả hiện tại lại làm lại nhân cho quả tương lai. Cũng theo Phật giáo nguồn gốc
vũ trụ và con người không do lực lượng siêu nhiên sáng tạo ra mà cho rằng thế giới là
vô cùng, vô tận. Ngoài thế giới mà chúng ta đang sống còn có nhiều thế giới khác.
Điều này được thuyết minh trong kinh “Hoa Nghiêm”, kinh “Khởi thế nhân bổn”
(Nikàya), kinh “Tiểu duyên” (Agama).
Phật giáo cho rằng sự tồn tại của con người là đau khổ, điều này được đề
cập trong “Khổ đế” (Dukkha):

Người thực hiện: Nguyễn Văn Lâm GVHD: Tiến sĩ Lại Văn Nam
Tiểu luận môn Triết học 7

Chân lý về sự khổ, cho rằng mọi dạng tồn tại đều mang tính chất khổ não,
không trọn vẹn, cuộc đời con người là một bể khổ. Phật xác nhận đặc tướng của cuộc
đời là vô thường, vô ngã và vì vậy mà con người phải chịu khổ. Có 8 nỗi khổ là : sinh
khổ, lão khổ, bệnh khổ, tử khổ, thụ biệt khổ (yêu thương nhau phải xa nhau), oán tăng
hội (ghét nhau phải gần nhau), sở cầu bất đắc (mong muốn mà không đạt được) và ngũ
thụ uẩn (do 5 yếu tố tạo nên con người).
Như vây, cái khổ về mặt hiện tượng là cảm giác khổ về thân, sự bức xúc của
hoàn cảnh, sự không toại nguyện của tâm lý về bản chất. Về phương triết học, khổ đau
là một thực tại như thực đối với con người. khổ đế là một chân lý khách quan hiện
thực. khổ hay hình thái bất an là kết quả hàng lọat nhân duyên được tạo tác từ tâm
thức. Như vậy tri nhân thực tại là một cách trực tiếp đi vào soi sáng mọi hình thái khổ
đau của con người. Để thấu hiểu triệt để cái căn nguyên của khổ đau, con người không
thể dừng lại ở sự thật của đau khổ, hay quay mặt chạy trốn, mà phải đi vào soi sáng cái
bản chất nội tại của nó.
Đạo Phật cho rằng đời là bể khổ, nỗi đau khổ là vô tận, là tuyệt đối. Do đó, con
người ở đâu, làm gì cũng khổ. Cuộc đời là đau khổ không còn tồn tại nào khác. Ngay
cả cái chết cũng không chấm dứt sự khổ mà là tiếp tục sự khổ mới. Phật ví sự khổ của
con người bằng hình ảnh: “Nước mắt của chúng sinh nhiều hơn nước biển”.
Phật giáo cũng chỉ ra nguyên nhân của đau khổ, được thuyết minh trong
“Tập đế” (Samudaya).
Là triết lý về sự phát sinh, nguyên nhân gây ra sự khổ. “Tập” là tụ hợp, kết tập
lại. Nguyên nhân của khổ là sự ham muốn, tìm sự thoả mãn dục vọng, thoả mãn được
trở thành, thoả mãn được hoại diệt… Các loại ham muốn này là gốc của luân hồi. Đạo
Phật cho rằng nguyên nhân sâu xa của sự khổ, phiền não là do “thập nhị nhân duyên”,
tức 12 nhân duyên tạo ra chu trình khép kín trong mỗi con người. “Thập nhị nhân
duyên” gồm:
Vô minh (không sáng suốt): đồng nghĩa với mê tối, ít hiểu biết, không sáng
suốt. Không hiểu được đời là bể khổ, không tìm ra nguyên nhân và con đường thoát

Người thực hiện: Nguyễn Văn Lâm GVHD: Tiến sĩ Lại Văn Nam
Tiểu luận môn Triết học 8

khổ. Trong mười hai nhân duyên, vô minh là căn bản. Nếu không thấu hiểu Tứ diệu đế
cũng được gọi là Vô minh.
Duyên hành: là ý muốn thúc đẩy hành động.
Duyên thức: tâm từ trong sáng trở nên u tối.
Duyên danh sắc: sự hội tụ các yếu tố vật chất và tinh thần sinh ra các cơ quan
cảm giác (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân thể và ý thức).
Duyên lục nhập: là quá trình xâm nhập của thế giới xung quanh vào các giác
quan cảm giác, lúc đó thân sẽ sinh ra sáu cửa là: nhãn, nhĩ, tỳ, thiệt, thân để thiêu hủy,
đón nhận.
Duyên xúc: là sự tiếp xúc của thế giới xung quanh sinh ra cảm giác. Đó là sắc,
thinh, hương vị, xúc và pháp khi tiếp xúc, đụng chạm vào.
Duyên thụ: là sự cảm thụ, sự nhận thức khi thế giới bên ngoài tiếp xúc với lục
căn sinh ra cảm giác.
Duyên ái: là yêu thích mà nảy sinh ham muốn, dục vọng trước sự tác động của
thế giới bên ngoài.
Duyên thủ: do yêu thích quyến luyến, không chịu xa lìa, rồi muốn chiếm lấy,
giữ lấy không chịu buông ra.
Duyên hữu: cố để dành, tồn tại để tận hưởng cái đã chiếm đoạt được.
Duyên sinh: sự ra đời, sinh thành do phải tồn tại.
Duyên lão tử: khi đã sinh thì xác thân phải tiêu hoại mỏi mòn, trẻ rồi già, ốm
đau rồi chết.
“Thập nhị nhân duyên” có nhiều cách giải thích khác nhau nhưng nhìn chung
đều cho rằng chúng có quan hệ mật thiết với nhau, cái này là nhân, làm duyên cho cái
kia, cái này là quả của cái trước, đồng thời là nhân cho cái sau. Cũng có lời giải thích
là 12 yếu tố tích luỹ đưa đến cái khổ sinh tử hiện tại mà yếu tố căn đế là ái và thủ,
nghĩa là tham lam, ích kỷ, còn gọi là ngã chấp. Mười hai nguyên nhân và kết quả nối
tiếp nhau tạo ra cái vòng lẩn quẩn của nổi khổ đau nhân loại.
Nguyên nhân sâu hơn và căn bản hơn chính là vô minh, tức là si mê không thấy
rõ bản chất của sự vật hiện tượng đều nương vào nhau mà sinh khởi, đều vô thường và

Người thực hiện: Nguyễn Văn Lâm GVHD: Tiến sĩ Lại Văn Nam
Tiểu luận môn Triết học 9

chuyển biến, không có cái chủ thể, cái bền vững độc lập ở trong chúng. Chúng ta có
thể nhận thấy một cách rõ ràng, khổ hay không là do lòng mình. Hay nói cách khác,
tùy theo cách nhìn của mỗi người đối với cuộc đời mà có khổ hay không. Nếu không
bị sự chấp ngã và dục vọng, vị kỹ hay phiền não khuấy động, chi phối, ngự trị trong
tâm thì cuộc đời đầy an lạc hạnh phúc.
Tuy nhiên, Phật giáo cũng đưa ra khả năng để khắc phục sự đau khổ đó là
“Diệt đế” (Nirodha Dukkha).
Là chân lý về diệt khổ. Phật giáo cho rằng mọi nỗi khổ điều có thể tiêu diệt
được để đạt tới trạng thái “niết bàn”. Một khi gốc của mọi tham ái được tận diệt thì sự
khổ cũng được tận diệt. muốn diệt khổ phải đi ngược lại 12 nhân duyên, bắt đầu từ
diệt trừ vô minh.
Vô minh bị diệt, trí tuệ được bừng sáng, hiểu rõ được bản chất tồn tại, thực
tướng của vũ trụ là con người, không còn tham dục và kéo theo những hành động tạo
nghiệp nữa, tức là thoát khỏi vòng luân hồi sinh tử. Nói cách khác diệt trừ được vô
minh, tham dục thì hoạt động ngũ uẩn dừng lại, tu đến niết bàn, tịch diệt khi ấy mới hết
luân hồi sinh tử.
Phật Giáo cho rằng, một khi người ta đã làm lắng dịu lòng tham ái, chấp thủ, thì
những nỗi lo âu, sợi hải, bất an giảm dần, thâm tâm của bạn trở nên thanh thản, đầu óc
tĩnh táo hơn; lúc đó nhìn mọi vấn đề trở nên đơn giản hơn, rộng lượng hơn. Đó là một
hình thức hạnh phúc, cũng nhờ vậy tâm trí không bị chi phối bởi những tư tưởng chấp
thủ, nhờ không bị nung núng bởi các ngọn lửa phiền muộn, lo lắng sợ hải mà tâm lý
của bạn trầm tĩnh và sáng suốt hơn, khả năng nhận thức sự vật hiện tượng sâu sắc hơn,
chính xác hơn, thâm tâm được chuyển hóa, thái độ ứng xử của bạn với mọi người xung
quanh rộng lượng và bao dung hơn. Tùy vào khả năng giảm thiểu lòng tham, vô minh
đến mức độ nào thì đời sống của bạn sẽ tăng phần hạnh phúc đến mức độ ấy
Để thoát khỏi đau khổ và đạt tới cõi Niết Bàn cần có con đường đi, đó
chính là “Đạo đế” (Magga).
Là chân lý về con đường dẫn đến diệt khổ. Đây là con đường tu đạo để hoàn
thiện đạo đức cá nhân. Khổ được giải thích là xuất phát Thập nhị nhân duyên, và một

Người thực hiện: Nguyễn Văn Lâm GVHD: Tiến sĩ Lại Văn Nam
Tiểu luận môn Triết học 10

khi dứt được những nguyên nhân đó thì ta có thể thoát khỏi vòng sinh tử. Chấm dứt
luân hồi, vòng sinh tử đồng nghĩa với việc chứng ngộ niết bàn. Có 8 con đường chân
chính để đạt sự diệt khổ dẫn đến niết bàn gọi là “Bát chính đạo”. “Bát chính đạo” bao
gồm:
Chính kiến: hiểu biết đúng đắn và gìn giữ một quan niệm xác đáng về Tứ diệu
đế và giáo lí vô ngã.
Chính tư duy: suy nghĩ luôn có một mục đích đúng đắn, suy xét về ý nghĩa của
bốn chân lí một cách không sai lầm.
Chính ngữ: nói năng phải đúng đắn, không nói dối hay nói phù phiếm.
Chính nghiệp: giữ nghiệp đúng đắn, tránh phạm giới luật, không làm việc xấu,
nên làm việc thiện.
Chính mệnh: giữ ngăn dục vọng đúng đắn, tránh các nghề nghiệp liên quan đến
sát sinh.
Chính tinh tiến: cố gắng nổ lực đúng hướng không biết mệt mỏi để phát triển
nghiệp tốt, diệt trừ nghiệp xấu.
Chính niệm: tâm niệm luôn tin tưởng vững chắc vào sự giải thoát, luôn tỉnh giác
trên ba phương diện Thân, Khẩu, Ý.
Chính định: kiên định, tập trung tư tưởng cao độ suy nghĩ về tứ điệu đế, vô ngã,
vô thường, tâm ý đạt bốn định xuất thế gian .
Theo con đường bát chính đạo nói trên, con người có thể diệt trừ vô minh, đạt
tới sự giải thoát, nhập vào niết bàn là trạng thái hoàn toàn yên tĩnh, sáng suốt, chấm
dứt sinh tử luân hồi.
Ngoài ra Phật giáo còn đưa ra 5 đều nhằm răn đe đem lại lợi ích cho con người
và xã hội. Chúng bao gồm: bất sát (không sát sinh), bất dâm (không dâm dục), bất
vọng ngữ (không nói năng thô tục, bậy bạ), bất âm tửu (không rượu trà) và bất đạo
(không trộm cướp).
Như vậy, ngay từ đầu Phật giáo đã đặt ra mục đích giải quyết vấn đề cơ bản của
Triết học một cách biện chứng và duy vật. Phật giáo đã gạt bỏ vai trò sáng tạo thế giới
của các “đấng tối cao” của “Thượng đế” và cho rằng bản thể của thế giới tồn tại khách

Người thực hiện: Nguyễn Văn Lâm GVHD: Tiến sĩ Lại Văn Nam
Tiểu luận môn Triết học 11

quan và không do vị thần nào sáng tạo ra cả. Cái bản thể ấy chính là sự thường hằng
trong vận động của vũ trụ, là muôn ngàn hình thức của vạn vật trong vận động, nó có
mặt trong vạn vật nhưng nó không dừng lại ở bất kỳ hình thức nào. Nó muôn hình vạn
trạng nhưng lại tuân hành nghiêm ngặt theo luật nhân quả. Phật giáo nguyên thuỷ có tư
tưởng vô thần, có yếu tố duy vật và tư tưởng biện chứng của thế giới. Phật giáo khuyên
con người suy nghỉ thiện và làm việc thiện nhằm góp phần hoàn thiện đạo đức cá nhân.
Tuy nhiên trong triết lý nhân sinh và con đường giải phóng của phật giáo vẫn mang
nặng tính chất bi quan không tưởng và duy tâm về xã hội. Phật giáo không chủ trương
giải phóng bằng cách mạng xã hội. Mặc dù Phật giáo lên án rất gay gắt chế độ người
bóc lột người, chống lại chủ nghĩa duy tâm của Bàlamôn giáo. Đó là một trong những
nhược điểm đồng thời cũng là ưu điểm nửa vời của Đạo phật. Đứng trước bể khổ của
chúng sinh Phật giáo chủ trương cải tạo tâm linh chứ không phải cải tạo thế giới hiện
thực.
Qua các giáo lý trên của Phật giáo ta thấy rõ những giá trị nhân văn mà Phật
giáo đã đạt đến, đó là: Đứng trước phật tính mọi người đều bình đẳng; Coi con người
chiếm địa vị độc tôn trên thế giới; Luôn tôn trọng sự sống, xem sự sống trên tất cả; Coi
cái “ngã” là con người lớn để biểu thị chân lý tự do, tự tại của con người trong trời đất;
Phật giáo có mục đích đưa con người trở về với chân-thiện-mỹ.

CHƯƠNG 2: ẢNH HƯỞNG CỦA TRIẾT LÝ NHÂN SINH PHẬT GIÁO ĐẾN
TRIẾT LÝ NHÂN SINH CỦA NGƯỜI VIỆT NAM

2.1 Ảnh hưởng của phật giáo đến thế giới quan và nhân sinh quan của người Việt
Nam xưa kia.
Đạo Phật truyền vào nước ta khoảng thế kỷ II sau công nguyên, do cầu tính (có
một trung tâm rồi lan tỏa) nên nó mau chóng trở thành một trong những hệ tư tưởng.
Tôn giáo có sức sống lâu dài, tồn tại cho đến mãi ngày nay, đã ảnh hưởng sâu sắc đến
đời sống xã hội và tinh thần của người Việt Nam.

Người thực hiện: Nguyễn Văn Lâm GVHD: Tiến sĩ Lại Văn Nam
Tiểu luận môn Triết học 12

Vào lúc này, mặc dù đang phải chống lại các thế lực thực dân phương bắc, nhân
dân Việt Nam vẫn đủ thông minh, tỉnh táo để tiếp nhận Đạo Phật đến với dân tộc ta
bằng tinh thần hoà bình, hữu nghị.
Sự tiếp nhận đạo Phật trong hoàn cảnh như vậy, không thể bỏ qua vấn đề nội
dung của đạo phật. Điều đó có nghĩa là bản thân đạo phật phải có những nội dung nào
đó mà nhân dân Việt Nam có thể chấp nhận được. Ở đây chính là nội dung của hai nền
tín ngưỡng có nét giống nhau, có lẽ do những nét giống nhau mà có sự hợp nhất tạo
nên các chùa pháp Vân, pháp Vũ, pháp Nôi, pháp Điện. Tức là tín ngưỡng phật và tín
ngưỡng thần của Việt Nam khi đó có sự hợp nhất. Hình ảnh phật đã trở thành hình ảnh
bụt.
Một điều thể hiện đặc biệt phổ quát mà nhiều người đã nhắc đến là Phật giáo
vốn dễ hoà hợp với tín ngưỡng dân gian ở những nơi nó được truyền bá đến . Ở bắc
Việt Nam đặc điểm đó càng nổi bật. Nếu đặc điểm tôn giáo Việt Nam là sự thờ cúng tổ
tiên (linh hồn người thân đã khuất) thì phật hay quan âm cũng được coi là một thứ tổ
tiên (trong tâm thức dân gian việt cổ, phật hay quan âm không phải là người “ngoại
quốc ‘người khác tộc). Nếu đặc điểm của tôn giáo Việt Nam là sự thờ thần (thế lực
siêu nhiên) mà con người cũng cầu để nhờ sự “phù hộ độ trì” thì phật hay quan âm
cũng trở thành một loại thần, phật điện cũng trở thành một thứ thần điện, tính tâm linh
ấn độ nhường bước cho tính tính Việt Nam (hơn đâu hết, tôn giáo Việt Nam nặng về
tính tình cảm hơn là giáo lý, giỏi luật, đoàn thể, tôn giáo).
Bụt người Việt Nam không phải thuần tuý là việc phiên âm thuật ngữ Bonddha.
Hình ảnh bụt của người Việt Nam là sự sáng tạo từ hai nguyên liệu tín ngưỡng phật và
tín ngưỡng thần linh đương thời của người Việt Nam. Bụt có những nét giống và khác
Phật. Bụt giống phật ở lòng từ bi, bác ái, vị tha đối với những người bị áp bức bóc
lột.Nhưng bụt khác phật ở chỗ bất kỳ người nghèo nào gặp tai nạn, gặp áp bức bất
công mà cần tới bụt, bụt lập tức xuất hiện ngay để cứu vớt. Đối với những người bị áp
bức trời ở quá xa, kêu trời khó thấu, còn các thần linh gần gũi, công bằng. Phật không
hề chia cấp bậc. Có lẽ ngày xưa chưa có một người dân bình thường nào nghĩ đến khái

Người thực hiện: Nguyễn Văn Lâm GVHD: Tiến sĩ Lại Văn Nam
Tiểu luận môn Triết học 13

niệm bình đẳng. Nhưng đối với Phật họ cũng có thể có mặc cảm sâu xa rằng Phật có
cái nhìn ngang bằng với tất cả chúng sinh. Với Phật, không ai tiểu nhân, không ai quân
tử. Cũng không có quân, không có dân, chia cắt nhau bằng các hàng rào cấp bậc giai
cấp. Với Phật, còn cả một niềm từ bi bác ái, không có hằn học, oán ghét, phục thù. Đó
cũng là điều phù hợp với bản chất dân tộc Việt Nam. Tiếp đó phật kêu gọi sự tự giác,
giác tha không những để giải quyết nỗi khổ của mình mà còn phải cứu nhân độ thế .
Chắc chắn trong tư duy của người dân bình thường, chưa ai băn khoăn tìm hiểu thế nào
là bản ngã là chân theo nghĩa sâu xa của phật học. Người ta chỉ thấy ở đây một chủ
nghĩa nhân đạo lớn lao và có phần tích cực. Có thực hiện được hay không là vấn đề
khác mà chúng ta cần xem xét, để phê phán giá trị của học thuyết này. Nhưng ở đây thì
rõ ràng đó là những điểm chính yếu làm cho Phật giáo gắn bó được với quần chúng.
Tâm lý dân gian Việt Nam ta thiên về sự cân bằng, sự bù đắp. Nỗi khổ hôm nay
phải được đền bù bằng sự sung sướng ngày mai. Cô Tấm trong cổ tích trải qua bao
gian nan cuối cùng vẫn được hưởng hạnh phúc. Phật giá cũng hứa hẹn với con người
sự đền bù không do quyền phép nào, chỗ dựa nào của nho giáo, cũng không do cán cân
phúc tội của đạo gia, mà do chính nỗ lực của bản thân mình. Người dân bình thường ở
xứ ta ở phần bản chất cũng có quan niệm nhận thức như vậy, mà chăc chắn không phải
vì do họ quán triệt thuyết bát chánh đạo của nhà thiền. Mặc dù bát chánh đạo không có
gì là thần bí, nhưng dễ đã có mấy ông sư nhớ đủ tám đường mà phật tổ đã đề ra. Vấn
đề là ở cái tinh thần quàn xuyến rút từ bát chánh đạo.Tinh thần ấy là sự cố gắng tu
dưỡng, vun thêm cho bản thân mình. Và họ cũng mong mỏi một sự đền bù này, khi
thấy phật tổ vạch ra cho họ và khẳng định điều tất nhiên sẽ đến . Tuy nhiên, không
phải Phật giáo đi được vào quần chúng,có một sự gắn bó sâu sa nhất định, mà không
một sự thẩm định, chọn lựa nào có lựa chọn để chối bỏ hoặc đồng hoá nữa. Đối với
Phật giáo sự lựa chọn này bao hàm cả ý nghĩa phê phán. Ngày nay, chúng ta có thể chỉ
ra được nhiều khuyết điểm của nho, phật, lão ở góc độ chính trị hay tư tưởng triết
học.Dân gian xưa không có điều kiện hay trình độ để làm việc ấy, song khi họ chấp
nhận, chối bỏ hoặc biến hóa những giáo lý để thích nghi với trình độ tư duy, với cách

Người thực hiện: Nguyễn Văn Lâm GVHD: Tiến sĩ Lại Văn Nam
Tiểu luận môn Triết học 14

sinh hoạt của họ tức là họ đã lộ cái ý đồng hay không đồng. Có thể nói rằng văn hoá
Việt Nam hoá Phật hơn là Phật hoá. Phật giáo đến Việt Nam dù là phật giáo nguyên
thuỷ hay đa dạng sau này bởi tiểu thừa hay đạo thừa thì vẫn nhất phải nhập với tín
ngưỡng bản địa. Để biến Man Nương thành Phật mẫu, Ỷ Lan thành quan âm mà không
cần phải tạo ra xung quanh nhân vật ấy những gì huyền bí thần kỳ cho lắm.
Phật giáo còn là một sự kiện văn hoá, Phật giáo từ Ấn Độ được truyền vào Việt
Nam vốn không phải một sự kiện đơn độc mà kéo theo nó là cái ảnh hưởng của tổng
thể văn hoá Ấn Độ đối với Việt Nam cổ. Mặc dù chúng ta còn ít nghiên cứu và hiểu
biết về văn hoá Việt - Ấn nhưng chắc chắn ảnh hưởng của văn hoá Ấn Độ lên Việt
Nam diễn ra trên nhiều lĩnh vực: Nông nghiệp, y dược, âm nhạc vũ đạo ngôn ngữ.

Điều quan trọng là văn hoá Việt Nam cổ tiếp thu một liều lượng quan trọng văn
hoá Ấn Độ qua ngả đường phật giáo, vào suốt thời bắc thuộc và chống bắc thuộc, khi
ảnh hưởng văn minh Trung Hoa tràn lan đất nước Việt Nam và mang khuynh hướng
đồng hoà rõ rệt.
Về khách quan, ảnh hưởng của văn hoá Ấn Độ là một đối trọng của văn hoá
Trung Hoa trên đất Việt. Nó có tác dụng trung hoà ảnh hưởng quá mạnh mẽ của văn
hoá Trung Hoa. Nó góp sức cùng nền văn hoá Việt Nam cổ ngăn chặn sự đồng hoá của
văn minh Trung Hoa, nó hội nhập và làm giàu làm nên cái khác của văn hoá việt với
văn hoá Trung Hoa.
Ví dụ: Như ở Thăng Long thời Lý: Hoàng thành Long Phượng mở bốn cửa nếu
cửa phía bắc thờ thành trần vũ - trần võ là một vị thần linh trung hoa được nhập nội
vào đất việt, thì của tây long thành được mang tên “quảng phúc môn “mở ra phía tây
để mong phúc lớn rộng “phúc đẳng hà sa của Đức Phật ở Tây Thiên.
Cũng vậy, Đạo Phật từ Ấn Độ được truyền bá vào đất Việt ở buổi đầu thời kỳ
Bắc thuộc về khách quan mà nói là một đối tượng của Nho giáo. Đạo nho cũng bắt đầu
phát huy ảnh hưởng ở đất Việt từ buổi đầu công nguyên với việc mở trường nhằm
“giáo lễ nghĩa Trung Hoa” cho người Việt. Ta không thể phủ nhận các mặt tích cực
của Nho giáo, góp phần làm tăng tri thức người dân, nhấn mạnh vào Nhân, Nghĩa, ái.

Người thực hiện: Nguyễn Văn Lâm GVHD: Tiến sĩ Lại Văn Nam
Tiểu luận môn Triết học 15

Nhưng dù sao đi nữa Nho giáo vẫn là một công cụ của tầng lớp thống trị Trung Hoa
nhằm nô dịch người nông dân Trung Quốc và các dân tộc vùng ngoại vi để chế Trung
Hoa lấn áp. Sao chăng nữa, dù có đề cao Nhân, Trí, Dũng là những giá trị con người
muôn thủa thì Nho giáo vẫn đặt cược cơ bản vào Lễ, mà Lễ là gì nếu không phải thực
chất là trật tự “ Tiên học lễ hậu học văn”, nghĩa là trước hết và trên hết phải học tập để
tôn trọng và duy trì trật tự đẳng cấp, trật tự trên dưới: Vua - tôi, cha - con, chồng - vợ
(tam cương). Nếu hoàn toàn chấp nhận Nho giáo trong thời Bắc thuộc thì nói chung
chẳng còn gì là chống Bắc thuộc cả. Hãy cúi mình trước thiện mệnh trừu tượng và
thiên tử Trung hoa cụ thể:
Song người Việt cổ, tổ tiên chúng ta vốn có một nội lực tự sinh quật cường, bất
khuất, thích lối sống riêng tự do thuần phác từ thời Bắc thuộc, một lối sống không quá
ngăn cách giữa vua và dân, một lối sống khá bình đẳng giữa cha và con, bình đẳng
giữa vợ và chồng. Bởi vậy người Việt cổ khó lòng chấp nhận nổi trật tự “Cương
thường” của Nho gia. Nhưng người Việt bình dân cũng khó lòng “cãi lý” nổi với
những nho sĩ, Nho gia “Bụng đầy chữ nghĩa”. Họ chỉ còn biết dựa vào các sư sãi vừa
có chữ nghĩa vừa bảo vệ họ. Đạo Phật đã chủ trương bình đẳng, Phật là đức Phật đã
thành, chúng sinh là Đức Phật sẽ thành, chúng sinh đều có Phật tính, đều bình đẳng
trước Phật. Nếu như Nho giáo Việt Nam dựng ra cái Đình ở làng quê với một “tiểu
triều đình” trọng nam khinh nữ thì dân quê Việt Nam dựng và bảo vệ chùa, chùa làng
của dân gian và trước hết là giới đàn bà được loại khỏi sinh hoạt ở Đình có thể sinh
hoạt thậm chí trở thành lực lượng quan trọng trong sinh hoạt chùa làng.
Mặt khác, điều kiện xã hội con người xưa kia cũng mở rộng cho Phật giáo dễ
dàng du nhập so với Trung Quốc. Phật giáo khi du nhập Trung Quốc đã bị phản ứng
mãnh liệt của tâm lý dân tộc, truyền thống văn hoá, đặc biệt là ý thức hệ Nho giáo.
Trong khi đó Phật giáo vào Việt Nam tương đối thuận lợi, phát triển nhanh chóng, hầu
như không bị phản ứng sâu sắc trừ một số ít Nho sỹ thời Trần, Hồ. Xã hội Việt Nam
khi tiếp nhận Phật giáo từ Ấn Độ hay Trung Quốc sang chưa có sự phân chia gay gắt
và đối kháng kịch liệt, mối quan hệ của Tông tộc gia đình chưa chịu ảnh hưởng của lý
thuyết Tam cương nặng nề. Điều này khiến Phật giáo khi thâm nhập không bị phản

Người thực hiện: Nguyễn Văn Lâm GVHD: Tiến sĩ Lại Văn Nam
Tiểu luận môn Triết học 16

đối. Song lý do chính có lẽ là do Phật giáo khi vào đây chưa gây một đảo lộn, một biến
cách, không phủ nhận những giá trị tinh thần, phong tục tập quán của từng người, từng
gia đình, của xã hội. Vì vậy người Việt bình dân đã khá dễ dàng hấp thụ cái triết lý
nhân sinh quan của Đạo Phật, không biết có quá không nhưng một nhà Phật học của
Việt Nam đã nói có phần đúng rằng ở thời Bắc thuộc Đạo Phật đã thấm vào lòng người
dân Việt như nước thấm vào lòng đất.
Dòng Phật giáo có ảnh hưởng sâu sắc và lâu dài trong xã hội Việt Nam là Thiền
Tông. Thiền Tông có một số đặc điểm mà dân gian dễ chấp nhận.
+ Phật giáo Thiền Tông ít bàn về lý luận mà chuyển sang tông phong phong
cách tu hành. Thiền Tông chủ trương “Bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền trực chỉ
nhân tâm, kiến tính thành phật, tức tâm thị Phật”. Như vậy chủ chương của Thiền tông
là lôi kéo thế giới Tây Phương cực lạc về trần thế, đặt nó trong lòng con người, tâm thị
Phật.
+ Thiền tông chủ trương lao động theo thanh qui của Bách Trượng: “Nhất nhật
bất tác, nhất nhật bất thực” (một ngày không làm, một ngày không ăn) và lấy việc phục
vụ xã hội làm điều kiện tu hành. Điều này khiến cho các tăng nhân không phải là một
tầng lớn ăn bám xã hội.
Thiền tông lại chấp nhận sự bần khổ coi sự chịu đựng bần khổ cũng là cách tu
hành.
Chấp nhận bần khổ và lao động là điều khiến Thiền Tông dễ đi vào nông thôn,
dễ bám vào làng xã, đứng được trong làng quê.
+ Thiền tông có khi còn đi xa hơn nữa, cho phép sát sinh, giết người, giết mội
người mà cứu được muôn người quả là điều phúc. Phật tử không hoàn toàn là người bị
động mà có thể vùng lên chống áp bức bóc lột. Do vậy ở Việt Nam thời phong kiến
cũng có nhiều cuộc nổi dậy giành chính quyền do nhà sư lãnh đạo.
Phật giáo lại biết bám lấy làng xã bằng nhiều hoạt động cụ thể có tổ chức, kết
hợp với tín ngưỡng bản địa, hội hè. Nhà sư và ngôi chùa có vai trò quan trọng trong
đời sống dân gian cổ truyền. Ở Bắc Bộ trước đây hầu như làng nào cũng có chùa.

Người thực hiện: Nguyễn Văn Lâm GVHD: Tiến sĩ Lại Văn Nam
Tiểu luận môn Triết học 17

Ngoài thờ Phật, chùa còn thêm tín ngưỡng dân gian thờ thần tiên, thờ các vị tướng có
công với nước. Ngôi chùa trở thành một trung tâm văn hoá ở nông thôn. Có thể nói
Phật giáo đã góp phần làm phong phú thêm nền văn hoá dân tộc. Nho giáo về mặt nào
đó làm cho tư tưởng văn hoá khô cứng thì Phật giáo có phần làm mền hơn, phong phú
và sinh động hơn. Hội chùa cũng như hội làng là tiêu biểu cho sự hồ hởi của công xã,
là một dịp để con người được giải phóng tình cảm, hoà cái ta của mình vào cái ta của
làng xã, không bị giáo lý khuôn phép gò bó và toả chiết tâm hồn. Dưới mái nhà chùa
mà vẫn được phép giao lưu tình cảm. Bao nhiêu câu chuyện tình duyên đằm thắm đã
xảy ra bên cạnh cửa thiền. Thế ra cửa từ bi không hề nghiêm ngặt như chốn sân Trình
cửa Khổng. Phật chứng nhận cho cuộc sống hồn nhiên của làng xã.
Do Phật giáo bám sâu vào làng xã nên có sức sống lâu bền và tương đối ổn
định. Vào thời kỳ Lý Trần Phật giáo thịnh vượng nhất, được nhà nước nâng đỡ, từ thời
Hồ và Lê sơ về sau Phật giáo bị giảm sút (Nho giáo ở vị trí thống trị và chi phối),
nhưng Phật giáo vẫn cứ duy trì và mở rộng khắp nông thôn, bởi lẽ Phật giáo có sơ sở
làng xã vững vàng.
Phật giáo Việt Nam đã trải qua một vận mệnh thịnh suy, Nhà Phật đâu có sợ “
thịnh suy” mà “thịnh” theo cái nghĩa được nhà nước quân chủ Lý Trần nâng đỡ bảo
trợ.... Cũng chính vì Phật giáo được chính quyền quá ưu ái mà sinh hoạt nhà chùa trở
nên xa hoa, sa đoạ, trái ngược với đời sống Đức Phật; chối bỏ sinh hoạt cung đình, trái
ngược với giới luât Bách Trượng tự lao động mà sinh sống giản dị để dự bị giờ phút
“đốn ngộ thành Phật”. “Suy” theo nghĩa cơ bản là mất sự ủng hộ của chính quyền.
Nhưng suy ở thượng tầng thì lại toả ra dân chúng ở làng quê ở các cơ sở hạ tầng, nếu
đừng quá khắt khe và cứng độ trong nguyên lý thì có thể khái quát rằng Phật giáo Lý
Trần là Phật giáo quý tộc, còn Phật giáo Lê - Nguyễn về sau là Phật giáo dân gian. Từ
chỗ trở thành dân tộc từ trước, sau thế kỷ X, Phật giáo Việt Nam đã trở thành dân gian,
nhân gian - hay là đã được dân gian hoá sau thế kỷ XV.
Đạo phật có thể mất đi, như mọi hiện tượng vô thường. Song cái tinh tuý của
văn hoá Phật giáo đã được dân tộc hoá và dân gian hoá thì mãi mãi trường tồn.

Người thực hiện: Nguyễn Văn Lâm GVHD: Tiến sĩ Lại Văn Nam
Tiểu luận môn Triết học 18

2.2 Ảnh hưởng của phật giáo đến thế giới quan và nhân sinh quan của người Việt
ngày nay.
Ngày nay, ngoài ba tôn giáo chính như: Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo còn có
rất nhiều tôn giáo xuất hiện ở Việt Nam như Thiên chúa giáo, Đạo Cao Đài, Hoà Hảo,
Cơ đốc giáo... Nhưng Phật giáo vẫn giữ một vai trò hết sức quan trọng trong đời sống
xã hội và tinh thần người Việt Nam. Nhìn vào đời sống xã hội và tinh thần người Việt
Nam trong thời gian qua, ta thấy có nhiều biểu hiện cho thấy rằng Phật giáo đang được
phục hồi và phát triển. Ở nhiều vùng đất nước số người theo Phật giáo ngày càng đông,
số gia đình Phật tử xuất hiện ngày càng nhiều, lễ hội Phật giáo và sinh hoạt Phật giáo
ngày một có vị trí cao trong đời sống tinh thần xã hội, số sư sãi được đào tạo từ các
trường Phật học ngày càng nhiều, số kinh sách xuất bản hàng năm cũng tăng, ta có thể
tham khảo bảng số liệu ở một số tỉnh thành, cụ thể như sau:

Hơn lúc nào hết trong mấy chục năm trở lại đây người Phật tử Việt Nam rất
chăm lo đến việc thực hiện các nghi lễ của đạo mình. Họ hay lên chùa trong các ngày
sóc, cọng, họ trân trọng thành kính trong khi thi hành lễ, họ siêng năng trong việc thiền
định, giữ giới, làm việc thiện. Việc ăn chay hàng tháng trở thành thói quen không thể
thiếu của người theo Đạo phật. Mặt khác nhà chùa sẵn sàng thực hiện các yêu cầu của
họ như cầu siêu, giản oan,... Tất cả những điều này đã củng cố niềm tin vào giáo lý,
vừa quy định tư duy và hành động của họ, tạo cơ sở để hình thành những nhân cách
riêng biệt.
Ngày nay, đất nước ta đang từng bước phát triển về mọi mặt, đồng nghĩa với
việc đời sống của người dân ngày càng được cải thiện. Trình độ nhận thức tư tưởng
của con người về thế giới tự nhiên và xã hội cũng tiến bộ hơn, có cơ sở khoa học hơn.
Con người Việt Nam ngày nay hầu như không còn bị chi phối bởi thế giới tâm linh
huyền bí, mơ hồ, không tưởng. Phật giáo vẫn còn ảnh hưởng đến đời sống tinh thần
của người Việt nhưng không còn sâu đậm như xưa kia. Khái niệm Bụt, Tiên… chỉ còn
là trong thế giới cổ tích. Con người sống thực tế hơn chứ không tìm hạnh phúc ở cõi
niết bàn. Mặc dù vậy, những tinh hoa tốt đẹp của đạo Phật vốn đã in sâu vẫn còn tiếp

Người thực hiện: Nguyễn Văn Lâm GVHD: Tiến sĩ Lại Văn Nam
Tiểu luận môn Triết học 19

tục được thắp lửa ở dân tộc ta trải qua bao thế hệ. Đấy là những quan điểm sống từ bi,
bác ái, hướng thiện… Nhiều người Việt Nam vẫn tin vào nhân duyên, số phận, vào
quan hệ nhân - quả… của đạo Phật khi quan niệm “Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ
- Vô duyên đối diện bất tương phùng”, “Gieo gió gặp bão”, “Ác giả ác báo”… Điều
đáng buồn là thực tế hiện nay nhiều người Việt do không hiểu rõ triết lý sâu xa của đạo
phật đã lợi dụng chính nó để mưu cầu tư lợi. Đi chùa, cúng bái… không phải để hướng
thiện mà là để cầu xin danh tước tiền tài. Lại có những kẻ lợi dụng tín ngưỡng của Phật
tử mà tiến hành “âm mưu diễn biến hòa bình” làm mất ổn định chính trị đất nước.
Tóm lại, hiện nay, sự ảnh ảnh hưởng của đạo phật đến thế giới quan và nhân
sinh quan của người Việt Nam không còn sâu đậm như xưa nhưng vẫn biểu hiện ở
nhiều phương diện và bộ phận tầng lớp nhân dân. Điều quan trọng là chúng ta - những
người Việt Nam cần hiểu rõ về đạo Phật và nên biết lắng nghe, lựa chọn những ảnh
hưởng tích cực, tiến bộ của nó.

2.3 Ảnh hưởng của phật giáo đến thế giới quan và nhân sinh quan của thế hệ trẻ
Việt Nam.
Ngày nay ở nước ta Phật giáo không còn ở vị trí chính thống Nhà trường, ở các
cấp học phổ thông không có chương trình giảng dạy lịch sử, triết lý, đạo đức Phật giáo
một cách hệ thống. Số gia đình Phật tử cũng không còn đông như trước đây. Sinh viên
các trường Đại học chỉ nhận được rất ít kiến thức sơ bộ về Phật giáo thông qua bộ môn
“lịch sử triết học Phương Đông”, trừ những khoa chuyên ngành Triết học. Vì thế phần
lớn những hiểu biết của chúng ta về Phật giáo trước hết là chịu ảnh hưởng tự nhiên của
gia đình, sau đó là từ bạn bè, thầy cô và những mối quan hệ xã hội khác. Trong đó ảnh
hưởng của gia đình có tác động lớn lên mỗi chúng ta. Nếu trong mỗi gia đình mọi
người đều theo đạo Phật hoặc không theo một tôn giáo nào nhưng vẫn giữ tập tục quan
trọng đi lễ chùa vào những ngày quan trọng như ngày Tết, lễ, rằm... Người già thường
nói chuyện với con cháu về Đức Phật, Bồ Tát, về đạo lý làm người dựa vào các giáo lý
Phật giáo. Những suy nghĩ quan niệm này có thể phai nhạt, thậm chí đi ngược lại khi ta
gặp một trào lưu tư tưởng mới, đem lại một thế giới quan mới. Từ trong môi trường gia
đình, chúng ta phần nào đó chịu ảnh hưởng của đạo Phật nhưng không sâu sắc như các

Người thực hiện: Nguyễn Văn Lâm GVHD: Tiến sĩ Lại Văn Nam
Tiểu luận môn Triết học 20

triều đại trước và mục đích tìm đến đạo Phật không còn mang tính hướng đạo chân
chính như trước kia nữa. Do nhiều nguyên nhân nhưng trước hết do sự xâm nhập của
nhiều trào lưu tư tưởng, học thuyết Phương Tây vào nước ta cách đây vài ba thế kỷ.
Đặc biệt là sự giác ngộ lý luận Mác - Lênin, chủ nghĩa cộng sản của giai cấp công
nhân và quần chúng nhân dân lao động đã tạo tiền đề xây dựng hệ thống tư tưởng,
nguyên tắc hành động cho phong trào cách mạng của nhân dân Việt Nam, lấy đó làm
vũ khí chính trị kết hợp với đấu tranh vũ trang. Đảng ta rất chú trọng việc truyền bá
học thuyết này cho quần chúng nhân dân nhất là đối tượng thanh thiếu niên, những
người chủ tương lai của đất nước. Chính vì vậy, thanh thiếu niên, chúng ta ngày nay
khi rời ghế nhà trường được trang bị không những kiến thức để làm việc mà còn cả
kiến thức về lý luận chính trị. Điều này giúp ta nhận thức được về cơ bản giữa mô hình
lý tưởng nhân đạo của Phật giáo và chủ nghĩa cộng sản là: Một bên là duy tâm, một
bên duy vật. Một bên diệt dục triệt để bằng ý chí và coi dục là căn nguyên của mọi tội
lỗi, bên kia thì cố gắng thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng của con người bằng lao động
với năng suất và chất lượng cao nhằm cải tạo thế giới, coi đó là tiêu chuẩn đánh giá
tính nhân đạo thực sự tiến bộ của xã hội, một bên hứa hẹn một mô hình niết bàn bình
đẳng tự do cho tất cả mọi người, từ bi bác ái như nhau, không còn bị ràng buộc bởi các
nhu cầu trần tục, còn bên kia khẳng định mô hình lý tưởng cho mọi người lao động,
coi lao động là nhu cầu sống chứ không phải phương tiện sống, lao động không còn là
nguồn gốc của khổ đau, qua lao động con người hoàn thiện cả bản thân và hoàn thiện
cả xã hội.
Đấy là những tư tưởng tiến bộ của chủ nghĩa Mác - Lê nin. Nó phù hợp với xu
thế phát triển của thời đại, của xã hội. Do đó, nó nhanh chóng được thanh niên ủng hộ,
tiếp thu. Do có một số quan điểm ngược lại nên tất yếu Phật giáo không còn giữ một
vai trò như trước đây nữa.
Mặt khác, với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, mọi lĩnh vực
trong đời sống con người đều có bước nhảy vọt. Xu thế toàn cầu hoá thể hiện ngày
càng rõ nét. Điều kiện đó đòi hỏi con người phải hết sức năng động, nhanh nhạy nắm
bắt vấn đề trong cuộc sống. Trong khi đó, theo giáo lý nhà Phật con người trở nên

Người thực hiện: Nguyễn Văn Lâm GVHD: Tiến sĩ Lại Văn Nam
Tiểu luận môn Triết học 21

không có tham vọng tiến thân, bằng lòng với những gì mình đã có, sống nhẫn nhục,
không đấu tranh, hướng tới cõi niết bàn khi cuộc sống trần gian đã chấm dứt. Như vậy
đạo đức Phật giáo đã tách con người ra khỏi điều kiện thực tiễn của con người xã hội,
làm cho con người có thái độ chấp nhận chứ không phải là cải tạo thế giới. Đạo đức
xuất thể của Phật giáo là chạy trốn nhu cầu bản năng chứ không phải chế ngự thiên
nhiên, bắt nó phục vụ cho mình. Các chương trình xã hội của Phật giáo không phải cải
tạo lại điều kiện sống mà chỉ để cố san bằng xã hội bằng đạo đức, trong xã hội đó ai
cũng từ bi, bác ái, hỉ xả, nhẫn nhục... Đạo đức nhà Phật bị giảm mất giá trị nhân đạo do
chính thái độ yếu thế này, khi những nhu cầu về thể xác bị coi là trần tục, kém đạo
đức. Nhất là trong cuộc sống ngày nay, khi mà con người đã đạt được một trình độ
nhất định, quan niệm trên càng không thể chấp nhận được. Do đó, ảnh hưởng của Phật
giáo càng xa rời thế hệ trẻ.
Chúng ta cũng nhận thấy rằng, ngày ngay những người đi chùa hầu hết không
có đủ tri thức về Phật giáo cho nên khó có thể giáo dục đạo Phật một cách tự giác, tích
cực trong xã hội và gia đình. Phật giáo bác học cũng bị mai một nhiều, không còn phát
huy vai trò hướng đạo. Các cao tăng chưa ý thức được hết vai trò của họ trong việc xây
dựng hoàn thiện nhân cách con người Việt Nam. Chẳng hạn các buổi giảng kinh đàm
đạo các buổi lễ trên chùa chưa được tổ chức theo tinh thần khai thác những tinh tuý
của đạo lý Phật giáo, mà phần nhiều theo thị hiếu như: cầu an, giải hạn, cầu lộc... của
giới bình dân. Phật giáo bình dân cũng sa sút. Người dân lên chùa thường quá chú
trọng đến lễ vật, đến các ham muốn tầm thường. Do không được giáo dục đầy đủ,
đúng đắn giáo lý nhà Phật, số đông thanh thiếu niên đã đua theo thị hiếu của mọi
người. Họ đến chùa cúng bái, thắp hương vái xin phật, Bồ Tát, La Hán phù hộ độ trì
cho họ đạt được mong muốn của mình. Những mong muốn ấy thường là chuyện học
hành, tình cảm, sức khoẻ, vật chất... hoặc hơn nữa, họ coi đến chùa chỉ là hình thức đi
chơi, giải trí với bạn bè kèm theo đó là sự thiếu nghiêm túc trong ăn mặc, đi đứng, nói
năng. Số lượng học sinh, sinh viên nói riêng cũng như số lượng người dân đi chùa gần
đây càng đông, song xem ra ý thức cầu thiện, cầu mạnh về nội tâm còn quá ít so với
những mong muốn tư lợi. Có rất ít người đến chùa để tìm sự thanh thản trong tâm hồn,

Người thực hiện: Nguyễn Văn Lâm GVHD: Tiến sĩ Lại Văn Nam
Tiểu luận môn Triết học 22

để tu dưỡng nghiền ngẫm đạo lý làm người, về thiện - ác. Như vậy mục đích đến chùa
của người dân đã sai lầm, tầm thường hoá so với điều mà giáo lý nhà Phật muốn
hướng con người ta vào.
Nhưng ta cũng có thể thấy rằng những tư tưởng Phật giáo cũng có ảnh hưởng ít
nhiều đến đời sống của thanh thiếu niên hiện nay. Như ở các trường phổ thông, các tổ
chức đoàn, đội luôn phát động các phong trào nhân đạo như “Lá lành đùm lá rách”,
“quỹ giúp bạn nghèo vượt khó”, “quỹ viên gạch hồng”... Chính vì vậy ngay từ nhỏ các
em học sinh đã được giáo dục tư tưởng nhân đạo, bác ái, giúp đỡ người khác mà cơ sở
của nền tảng ấy là tư tưởng giáo lý nhà Phật đã hoà tan với giá trị truyền thống của con
người Việt Nam. Lên đến bậc THTP và vào Đại học, những thanh thiếu niên có những
hoạt động thiết thực hơn. Việc giúp đỡ người khác không phải hạn chế ở việc xin bố
mẹ tiền để đóng góp mà có thể bằng chính kiến thức, sức lực của mình. Sự đồng cảm
với những con người gặp khó khăn, những số phận bất hạnh cô đơn, cộng với truyền
thống từ bi, bác ái đã giúp chúng ta, những học sinh, sinh viên còn ngồi trên ghế nhà
trường có đủ nghị lực và tâm huyết để lập ra những kế hoạch, tham gia vào những hoạt
động thiết thực như hội chữ thập đỏ, hội tình thương, các chương trình phổ cập văn
hoá cho trẻ em nghèo, chăm nom các bà mẹ Việt Nam anh hùng... Hình ảnh hàng ngàn
thanh niên, sinh viên hàng ngày vẫn lăn lội trên mọi nẻo đường tổ quốc góp phần xây
dựng đất nước, tổ quốc ngày càng giàu mạnh thật đáng xúc động và tự hào. Tất cả
những điều đó chứng tỏ thanh niên, sinh viên ngày nay không chỉ năng động, sáng tạo
đầy tham vọng trong cuộc sống mà còn thừa hưởng những giá trị đạo đức tốt đẹp của
ông cha, đó là sự thương yêu, đùm bọc lẫn nhau giữa mọi người, lòng thương yêu giúp
đỡ mọi người qua cơn hoạn nạn mà không chút nghĩ suy, tính toán. Và ta không thể
phủ nhận Phật giáo đã góp phần tạo nên những giá trị tốt đẹp ấy. Và ta càng phải nhắc
đến giá trị đó trong khi cuộc sống ngày nay ngày càng xuất hiện những hiện tượng tiêu
cực. Trong khi có những sinh viên còn khó khăn đã dồn hết sức mình để học tập cống
hiến cho đất nước thì vẫn còn một số bộ phận thanh niên ăn chơi, đua đòi, làm tiêu tốn
tiền bạc của cha mẹ và đất nước. Tối đến, người ta bắt gặp ở các quán Bar, sàn nhảy
những cô chiêu, cậu ấm đang đốt tiền của bố mẹ vào những thú vui vô bổ. Rồi những

Người thực hiện: Nguyễn Văn Lâm GVHD: Tiến sĩ Lại Văn Nam
Tiểu luận môn Triết học 23

học sinh, sinh viên lầm đường lỡ bước vào ma tuý, khiến cho bao gia đình tan nát, biết
bao ông bố bà mẹ cay đắng nhìn những đứa con của mình bị chịu hình phạt trước pháp
luật. Thế hệ trẻ ngày nay nhiều người chỉ biết chạy theo vật chất, bị cuốn hút bởi
những thứ ăn chơi sa đoạ làm hại đến gia đình và cộng đồng. Hơn bao giờ hết việc
giáo dục nhân cách cho thế hệ trẻ trở nên rất quan trọng và một trong những phương
pháp hữu ích là nêu cao truyền bá tinh thần cũng như tư tưởng nhà Phật trong thế hệ
trẻ. Đó thực sự là điều cần thiết hiện nay.
Như vậy trong cả quá khứ, hiện tại và tương lai, Phật giáo luôn luôn tồn tại và
gắn liền với cuộc sống của con người Việt Nam. Việc khai thác hạt nhân tích cực hợp
lý của Đạo Phật nhằm xây dựng nhân cách con người Việt Nam, đặc biệt là thế hệ trẻ,
là một mục tiêu chiến lược đòi hỏi sự kết hợp giáo dục tổng hợp của xã hội - gia đình -
nhà trường - bản thân cá nhân, một sự kết hợp tự giác tích cực cả truyền thống và hiện
đại. Chúng ta tin tưởng vào một thế hệ trẻ hôm nay và mai sau cường tráng về thể chất,
phát triển về trí tuệ, phong phú về tinh thần, đạo đức tác phong trong sáng kế thừa
truyền thống cha ông cũng như những giá trị nhân bản Phật giáo sẽ góp phần bảo vệ và
xây dựng xã hội ngày càng ổn định, phát triển.

Quá trình du nhập Phật giáo vào Việt Nam được chia làm 3 thời kỳ chính: Thời
kỳ từ đầu công nguyên; Thời kỳ độc lập tự chủ (938) qua các triều dại Đinh, Lê, Lý,
Trần đến triều nguyễn; Thời kỳ Pháp thuộc và sau 1954.
Ở thời kỳ đầu công nguyên: Phật giáo được xác định là du nhập vào nước ta thế
kỷ II-SCN bằng đường biển và đường bộ từ Ấn Độ và Trung Quốc tại Giao Chỉ và
Chăm Pa; Trước nhà Đường xuất hiện dòng thiền đầu tiên là Tì-Ni-Đa-Lưu-Chi (do
ngài Tì-Ni-Đa- Lưu-Chi người Ấn Độ sáng lập) ở nhà nước Vạn Xuân của Lý Nam
Đế, với tư tưởng thiền là “Tức tâm tức phật”; Thời nhà Đường xuất hiện dòng thiền
thứ hai là Vô Ngôn Thông (do ngài Vô Ngôn Thông người Trung Quốc sáng lập), Với
tư tưởng “Tức tâm tức phật” và có bổ sung phần y báo đức Phật trong tâm. Điểm nổi
bật của dòng thiền này là sự xuất hiện hình thức Cư sĩ-Thiền sư.

Người thực hiện: Nguyễn Văn Lâm GVHD: Tiến sĩ Lại Văn Nam
Tiểu luận môn Triết học 24

Ở thời kỳ độc lập tự chủ, trải qua các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần đến triều
Nguyễn: Nhà Đinh và Tiền Lê đã đưa Phật giáo lên thành quốc giáo với chức tăng
thống và thiền sư có vai trò cố vấn cho các nhà vua; Thời nhà Lý, Phật giáo phát triển
cực thịnh, là quốc đạo và xuất hiện dòng thiền thứ ba là Thảo Đường (do ngài Thảo
Đường người Trung Quốc sáng lập). Điểm nổi bật của dòng thiền này là vai trò của
giới cư sĩ được khẳng định một cách chính thức. Giai đoạn này có sự hiện diện của cả
3 dòng thiền và Phật giáo có xu hướng nhập thế mạnh mẽ; Nhà Trần là triều đại của
Phật giáo với vai trò nổi bật của Trần Nhân Tông-Người sáng lập ra dòng thiền Trúc
Lâm Yên Tử. Tư tưởng của dòng thiền này là phát triển đỉnh cao quan niêm “Tức tâm
tức phật”; Thời Hậu Lê Phật giáo chính thức bước vào thời kỳ suy thoái với nhiều
nguyên nhân, trong đó nổi bật là do Hồ Quý Ly ra sức phát triển Nho giáo vào cuối thế
kỷ XIV và nhà Minh xâm lược Đại Việt vào đầu thế kỷ XV; Sau khi Mạc Đăng Dung
cướp ngôi nhà Lê thì nước ta chia cắt thành xứ đàng trong (vua Lê-chúa Trịnh) và
đàng ngoài (chúa Nguyễn). Xứ đàng trong Phật giáo phát triển mạnh trên cơ sở một
nền học lý mới nhờ vai trò của chúa Nguyễn Phúc Chu (được ví là Trần Nhân Tông
thứ hai trong lịch sử Phật giáo), nền học lý mới đó là dòng Tào Động, dòng Lâm Tế.
Xứ đàng ngoài ảnh hưởng mạnh mẽ dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử. Khi Gia Long lên
ngôi vào đầu thế kỷ XVIII, xã hội Việt Nam lâm vào cuộc khủng hoảng tư tưởng trầm
trọng, đất nước rơi vào họa ngoại xâm, phật tử và nhân dân tự đứng dậy khởi nghĩa.
Ở thời kỳ Pháp thuộc và sau năm 1954: Thời Pháp thuộc, Thiên Chúa giáo được
hậu thuẫn và Phật giáo bị khủng bố, đàn áp gắt gao vì thế Phật giáo giai đoạn này có
xu hướng nhập thế và chấn hưng mạnh mẽ; Sau 1954, trên cả hai miền Nam Bắc, Phật
giáo đều chưa có cơ hội để phát triển, nhưng sau 1975 nhờ chính sách tự do tôn giáo
của Đảng và nhà nước, Phật giáo có điều kiện phát triển mạnh mẽ và dần lấy lại vị thế
của mình.
Người Việt Nam có tình yêu quê hương, đất nước, yêu thương con người sâu
sắc, rộng lớn cùng với thái độ tôn trọng, đề cao những giá trị tốt đẹp của con người đã
rất phù hợp với các quan niệm của Phật giáo. Vì thế mà từ lâu Phật giáo đã chiếm một
vị trí hết sức quan trọng trong đời sống tinh thần người dân Việt.

Người thực hiện: Nguyễn Văn Lâm GVHD: Tiến sĩ Lại Văn Nam
Tiểu luận môn Triết học 25

Biểu hiện đầu tiên của sự ảnh hưởng đó chính là đời sống chính trị và pháp luật.
Dưới thời Lý, do ảnh hưởng tinh thần từ bi, trí tuệ của Phật giáo, các vị vua nhà Lý đã
xây dựng một nền pháp lý thuần từ và tiến bộ; Dưới triều Trần, áp dụng chính sách
thân dân, xem trọng vai trò của người dân và các vị vua thường nhường ngôi cho con,
chỉ ở địa vị thái thượng hoàng mà thôi, đây là biểu hiện việc thông tỏ phật pháp; Thời
hiện đại, trong suốt thế kỷ XX, phật tử và nhân dân hăng hái tham gia kháng chiến
chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI, sự có mặt của
các thiền sư trong quốc hội và việc áp dụng chính sách pháp luật khoan hồng là những
biểu hiện sinh động ảnh hưởng của Phật giáo trong đời sống chính trị và pháp luật.
Sự ảnh hưởng tiếp theo là trong lĩnh vực văn học, ca dao dân ca. Trong phạm vi
văn học chữ Nôm, sự ảnh hưởng của Phật giáo rất mạnh mẽ, biểu hiện: Đầu thế kỷ
XVIII, với tác phẩm Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều, ảnh hưởng triết lý
ba pháp ấn là vô thường, vô ngã và khổ; Đầu thế kỷ XIX, nổi bật vai trò của đại thi hào
Nguyễn Du với tác phẩm bất hủ Đoạn trường tân thanh, ảnh hưởng thuyết khổ đế,
nhân quả, nghiệp báo luân hồi; Cuối thế kỷ XIX với tác phẩm Hương sơn phong cảnh
ca của Chu Mạnh Trinh, ảnh hưởng thuyết nhân quả, cõi Niêt Bàn; Đầu thế kỷ XX, nổi
bật là vai trò của thi sỹ Hàn Mặc Tử với những từ ngữ đượm màu sắc Phật giáo. Và
với Vũ Hoàng Chương, mượn ngay giáo lý nhà phật để diễn tả nội dung tác phẩm với
thuyết khổ đế, nhân quả, luân hồi,… Ảnh hưởng qua ca dao dân ca biểu hiện ở quan
niệm hiếu hạnh, tri ơn và báo ơn; Quan niệm nhân quả; Ngôi chùa cùng với tiếng
chuông chùa… Ngoài ra còn chịu ảnh hưởng bởi ngôn ngữ nhà phật, như; Từ bi, nhân
duyên, tội nghiệp,…
Tiếp đến là ảnh hưởng đến quan niệm đạo lý, tư tưởng. Về quan niệm, đầu tiên
là quan niệm từ bi, tiếp theo là tứ ân. Về tư tưởng, lớn nhất là tư tưởng duyên khởi, tứ
diệu đế và bát chánh đạo.
Một ảnh hưởng nữa là phong tục, tập quán, tín ngưỡng. Trước tiên biểu hiện
qua nghi thức ma chay, cưới hỏi. Tiếp đến là phong tục ăn chay, thờ phật, phóng sinh,
bố thí. Qua tập tục cúng rằm, mồng một và lễ chùa. Và những tập tục khác như; Xin

Người thực hiện: Nguyễn Văn Lâm GVHD: Tiến sĩ Lại Văn Nam
Tiểu luận môn Triết học 26

xăm bói quẻ, cúng sao giải hạn, đốt vàng mã, coi ngày giờ,… tuy nhiên, đây là những
hủ tục cần được loại bỏ trong đời sống ngườ dân.
Ảnh hưởng đến ý thức thẩm mỹ, nghệ thuật. Biểu hiện qua nghệ thuật sân khấu
như hát chèo, hát bội, cải lương, kịch nói,… Biểu hiện qua nghệ thuật tạo hình như
kiến trúc (nhà chữ Công, chữ Tam, chữ Đinh, Nội công ngoai quốc,…), điêu khắc, hội
họa,…
Ngoài ra, Phật giáo còn có ảnh hưởng đến văn hóa kinh doanh của người Việt
Nam, biểu hiện qua việc lập bàn thờ tại nơi làm việc, các nhà kinh doanh thường đi lễ
chùa để cầu xin đức phật gia hộ, cạnh tranh lành mạnh, làm từ thiện vì chịu ảnh hưởng
thuyết nhân quả, luân hồi nghiệp báo,…
Trong cuộc sống hiện đại, đời sống vật chất được nâng cao nhưng xu hướng suy
giảm các giá trị đạo đức ngày càng phát triển. Vì thế, việc chắt lọc mặt tích cực của
triết lý nhân sinh Phật giáo để áp dụng vào điều chỉnh hành vi, lối sống của nhân dân
nói chung và thế hệ trẻ nói riêng là rất cần thiết. Trước tiên đó là áp dụng mặt tích cực
của thuyết nhân quả, luân hồi, từ bi hỷ xả,… để giáo dục nhân cách lối sống của người
dân. Sau đó là vận dụng tinh thần vô ngã, vô thường vào việc điều chỉnh thái độ sống
có phần tiêu cực của giới trẻ, giúp thế hệ trẻ có cái nhìn mới về con người, về cuộc
sống, làm họ thấy rõ cần phải có tính vị tha, nhân ái và sống hết mình vì cộng đồng,
chung tay xây dựng một xã hội tốt đẹp và tiến bộ.

Người thực hiện: Nguyễn Văn Lâm GVHD: Tiến sĩ Lại Văn Nam
Tiểu luận môn Triết học 27

KẾT LUẬN
Với đề tài “Một số vấn đề về Phật giáo và ảnh hưởng của nó đến thế giới quan
và nhân sinh quan của người Việt Nam”, tiểu luận đã đi vào tìm hiểu, trình bày và làm
rõ một số nội dung cơ bản như: nguồn gốc ra đời, nội dung tư tưởng triết học của Phật
giáo cũng như quá trình du nhập, phát triển của nó trên thế giới và Việt Nam. Nội dung
trọng tâm thứ hai của tiểu luận là làm rõ ảnh hưởng của Phật giáo đến thế giới quan và
nhân sinh quan của người Việt Nam, đặc biệt là đến thế hệ trẻ.
Qua đề tài này cho chúng ta thấy rõ vấn đề có ý nghĩa quan trọng, đó là vấn đề
xây dựng hình thành nhân cách và tư duy con người Việt Nam trong tương lai với sự
hỗ trợ của những giá trị đạo đức nhân văn của Phật giáo, cũng như một số tư tưởng tôn
giáo khác.
Qua quá trình nghiên cứu ta thấy dù đạo Phật còn những khuyết điểm, hạn chế
song chúng ta không thể phủ nhận những giá trị đạo đức to lớn mà nó đã mang lại. Đặc
trưng hướng nội của Phật giáo giúp con người tự suy ngẫm về bản thân, cân nhắc các
hành động của mình để không gây ra đau khổ bất hạnh cho người khác. Nó giúp con
người sống thân ái, yêu thương nhau, xã hội yên bình. Bước sang thế kỷ XXI, chuẩn
mực nhân cách của một người đòi hỏi phải hoàn thiện cả về mặt thể chất lẫn tinh thần,
phải có đủ khả năng chinh phục cả thế giới khách quan lẫn thế giới nội tâm. Do vậy có
thể khai thác sự đóng góp tích cực của Phật giáo để giáo dục đạo đức nhân văn toàn
diện hơn, tự giác cao hơn. Vì sang thế kỷ XXI, bên cạnh sự phát triển kỳ diệu của
khoa học, những mâu thuẫn, chiến tranh giành quyền lực rất có thể sẽ nổ ra và dưới sự
hậu thuẫn của khoa học, các loại vũ khí sẽ được chế tạo hiện đại, tàn nhẫn hơn, dễ
dàng thoả mãn cái ác của vài cá nhân và nguy cơ gây ra sự huỷ diệt sẽ khủng khiếp
hơn. Khi đó đòi hỏi con người phải có đạo đức, nhân cách cao hơn để nhận ra được cái
ác dưới một lớp vỏ tinh vi hơn, “sạch sẽ” hơn.
Đây là công trình nghiên cứu đầu tiên của người viết về Phật giáo - một vấn đề
khá nhạy cảm trong đời sống tinh thần của người Việt. Bằng tất cả sự đam mê, người
viết đã nỗ lực tìm tòi, nghiên cứu những vấn đề liên quan để thực hiện tiểu luận tốt
nhất. Tuy nhiên, đây là một vấn đề rộng lớn cả về mặt đồng đại và lịch đại. Hơn thế

Người thực hiện: Nguyễn Văn Lâm GVHD: Tiến sĩ Lại Văn Nam
Tiểu luận môn Triết học 28

nữa đây là một trong những nội dung nghiên cứu của Triết học. Vì thế với khả năng và
kinh nghiệm có hạn chắc chắn tiểu luận vẫn còn nhiều vấn đề để ngỏ. Mong muốn của
người viết là những độc giả có hứng thú về vấn đề này sẽ tiếp tục mở rộng, đi sâu vào
những nội dung khác của vấn đề để chúng ta có thể gìn giữ và phát triển những ảnh
hưởng tích cực của đạo Phật đến đời sống tâm hồn người Việt.

Người thực hiện: Nguyễn Văn Lâm GVHD: Tiến sĩ Lại Văn Nam
Tiểu luận môn Triết học 29

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. PGS.TS. Lương Minh Cừ (2015), “Triết học chương trình sau đại học”, Nhà xuất
bản Đại học quốc gia TP.HCM.
2. Tuyển tập báo cáo Hội nghị sinh viên nghiên cứu khoa học lần thứ 7 đại học Đà
Nẵng năm 2010.
3. Website chùa vinhnghiemvn.com

Người thực hiện: Nguyễn Văn Lâm GVHD: Tiến sĩ Lại Văn Nam

You might also like