You are on page 1of 32

Trường Đại học Kiến trúc Đà Nẵng

Khoa Kinh tế
Nghành Quản trị kinh doanh
----------

Đề tài 5:

ẢNH HƯỞNG CỦA TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO ĐẾN ĐỜI


SỐNG TINH THẦN CỦA NGƯỜI DÂN VIỆT NAM
Môn: Triết học Mác-Lênin

Lớp: 21KH1
GVHD: Th.S Phan Trọng Toàn
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Vân Ánh
Lê Trần Quốc Đạt (TT1)
Lê Nguyễn Trà Linh (NT)
Nguyễn Hoàng Thảo Nhi
Trần Thị Như Quỳnh (TT2)
Vũ Mạnh Trường
Nguyễn Lê Thảo Uyên

Đà Nẵng, tháng 2 năm 2023


LỜI MỞ ĐẦU
Đạo Phật là một trong những học thuyết Triết học tôn giáo lớn nhất trên thế giới,
tồn tại rất lâu đời. Hệ thống giáo lý của nó rất đô sộ và số lượng phật tử đông
đảo được phân bố rộng khắp. Đạo phật được truyền bá vào nước ta khoảng thế
kỷ II sau Công nguyên và đã nhanh chóng trở thành một tôn giáo có ảnh hưởng
sâu sắc đến đời sống tinh thần của con người Việt Nam, bên cạnh đó đạo Nho,
đạo Lão, đạo Thiên chúa. Tùy từng giai đoạn lịch sử dân tộc ta đều có một học
thuyết tư tưởng hoặc một tôn giáo nắm vai trò chủ đạo, có tác động mạnh nhất
đến nếp sống, thói quen, suy nghĩ của con người, như Phật giáo ở thế kỷ thứ X -
XIV, Nho giáo thế kỷ thứ XV - XIX, học thuyết Mác - Lênin từ giữa thập kỷ 40
của thế kỷ XX cho đến nay.
Trong công cuộc xây dựng đất nước quá độ lên Chủ Nghĩa Xã Hội (CNXH), chủ
nghĩa Mác - Lênin là tư tưởng chủ đạo, là vũ khí lý luận của chúng ta nhưng bên
cạnh đó, bộ phận kiến trúc thượng tầng của xã hội cũ vẫn có sức sống dai dẳng,
trong đó giáo lý nhà Phật đã ít nhiều in sâu vào tư tưởng tình cảm của một số bộ
phận lớn dân cư Việt Nam. Việc xóa bỏ hoàn toàn ảnh hưởng của nó là không
thể thực hiện được nên chúng ta cần vận dụng nó một cách hợp lý để góp phần
đạt được mục đích của thời kỳ quá độ cũng như sau này. Vì vậy, việc nghiên
cứu lịch sử, giáo lý, và sự tác động của đạo Phật nói chung và tư tưởng triết học
của Phật giáo nói riêng đối với thế giới quan, nhân sinh quan của con người là
hết sức cần thiết. Theo đạo để làm điều thiện, tránh cái ác, hình thành nhân cách
con người tốt hơn chứ không trở nên mê tín dị đoan, cúng bái, lên đồng, gây ảnh
hưởng xấu đến sức khoẻ, niềm tin của quần chúng nhân dân. Chính vì vậy,
chúng ta cùng tìm hiểu Tư tưởng triết học của Phật giáo và sự ảnh hưởng của nó
đến đời sống văn hóa tinh thần của người Việt.
Với những lý do trên nhóm chúng em chọn chủ đề 5 “Ảnh hưởng của triết học
Phật giáo đến đời sống tinh thần của người dân Việt Nam” để làm đề tài nghiên
cứu của mình.

1
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU...................................................................................................1
1. Triết học Phật giáo:......................................................................................3
1.1. Điều kiện ra đời của triết lý đạo Phật:................................................3
1.2. Điều kiện ra đời của triết lý đạo Phật ở Việt Nam:............................6
1.3. Quan điểm triết học Phật giáo qua từng thời kì tại Châu Á:..............7
1.4. Quan điểm triết học Phật giáo qua từng thời kì tại Việt Nam:.........12
1.4.1. Thời kỳ du nhập vào cho đến thế kỷ X:......................................12
1.4.2. Thời kỳ độc lập tự chủ qua triều Đinh, Lê, Lý, Trần, Nguyễn:. .13
1.4.3. Thời kỳ Lê Sơ đến nhà Nguyễn:.................................................16
1.4.4. Thời kì Phật giáo thế kỷ XX và hiện nay:...................................17
2. Ảnh hưởng của triết học phật giáo đến đời sống tinh thần con người Việt
Nam: ..........................................................................................................19
2.1. Ảnh hưởng tích cực đến đời sống tinh thần con người Việt Nam:. .19
2.1.1. Góp phần kiến tạo một xã hội bình đẳng, bác ái:........................19
2.1.2. Góp phần tạo nên bản sắc văn hóa dân tộc:................................20
2.1.3. Khuyên mọi người sống lương thiện, tu tâm dưỡng tính:...........21
2.1.4. Góp phần giáo dục đạo đức con người:......................................22
2.1.5. Ảnh hưởng tích cực đến các mối quan hệ gia đình, xã hội:........23
2.2. Ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống tinh thần con người Việt Nam:. .25
2.2.1. Hạn chế trong nội tại tư tưởng:...................................................25
2.2.2. Tiêu cực là do tác động bên ngoài:.............................................25
2.2.3. Ý thức của người dân:.................................................................26
3. Tổng kết nội dung:.....................................................................................27
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN...................................................................29

2
1. Triết học Phật giáo:
1.1. Điều kiện ra đời của triết lý đạo Phật (nói chung):
-Phật giáo là một trào lưu triết học tôn giáo xuất hiện vào khoảng cuối thế kỷ VI
trước công nguyên ở miền Bắc Ấn Độ, phía Nam dãy Hymalaya, vùng biên giới
giữa Ấn Độ và Nê Pan bây giờ. Đạo Phật ra đời trong phong trào phản đối sự
ngự trị của đạo Bàlamôn và chế độ đẳng cấp, lý giải căn nguyên nỗi khổ và tìm
con đường giải thoát con người khỏi nỗi khổ triền miên, đè nặng trong xã hội nô
lệ tại Ấn Độ với tư cách là một trong những hệ tư tưởng tiên phong chống phân
chia giai cấp, kì thị màu da và đồng cảm với nỗi khổ của nhân dân Ấn Độ nói
riêng, với con người nói chung.
-Về đặc điểm ra đời, Ấn Độ có những điều kiện tự nhiên tạo thuận lợi cho sự ra
đời của triết học Phật giáo. Ấn Độ là một bán đảo lớn – một “tiểu lục địa”, nằm
ở miền Nam châu Á; hai mặt Đông Nam và Tây Nam giáp Ấn Độ Dương, phía
Bắc là dãy Hymalaya hùng vỹ, án ngữ theo một vòng cung dài 2.600 km. Theo
tiếng Phạn (Sanscrit) chữ Hymalaya có nghĩa là “xứ sở của tuyết”. Từ xa xưa,
nơi đây đã từng là chốn tu hành, nơi khổ luyện của những đạo sĩ và theo trí
tưởng tượng của người Ấn Độ cổ Hymalaya là nơi trú ngụ của các đấng thần
linh. Tiếp xuống phía Nam là vùng đồng bằng Ấn – Hằng. Các con sông như
sông Ấn (Indus hay còn gọi là Sindhu), chạy về phía Tây, qua những vùng di
tích cổ nổi tiếng của nền văn minh sông Ấn như Harappa, Monhenjo-Daro đổ ra
vịnh Oman; sông Hằng (Gange) tuy bắt nguồn gần sông Ấn nhưng chảy theo
hướng ngược lại, về phía Đông, ra vịnh Bengale. Sông Hằng (còn có nghĩa là
con gái của Hymalaya) được coi là dòng sông linh thiêng của Ấn Độ. Nó chảy
qua thành phố Vanasari (tức Benares), từ ngàn đời nay đã trở thành nơi hành
hương thiêng liêng của người dân Ấn Độ. Ngoài ra còn con sông Brahmapoutra,
cũng xuất phát từ Hymalaya, cùng với sông Ấn và sông Hằng, ngày đêm mang
nguồn nước và phù sa về tưới cho cả một vùng đồng bằng rộng lớn ở miền Bắc
Ấn Độ, tạo điều kiện cho sự phát triển nông nghiệp. Giữa miền Bắc Ấn và miền
Nam Ấn được phân chia bởi dãy núi Vindhya và vùng sa mạc Thar rộng lớn.
Miền Nam Ấn là cao nguyên Dekkan, có nhiều rừng núi, sông ngòi chảy qua đổ
3
ra Ấn Độ Dương. Do địa hình hiểm trở nên mực nước các con sông ở đây không
ổn định và chảy với tốc độ lớn. Điều kiện tự nhiên và khí hậu của Ấn Độ rất
phức tạp. Địa hình vừa có nhiều núi non trùng điệp, vừa có nhiều sông ngòi với
những vùng đồng bằng trù phú; có vùng kí hậu nóng, ẩm, mưa nhiều, có vùng
lạnh giá, quanh năm tuyết phủ, lại cũng có những vùng sa mạc khô cằn, nóng
nực. Tính đa dạng, khắc nghiệt của điều kiện tự nhiên và khí hậu là những thế
lực tự nhiên đè nặng lên đời sống và ghi dấu ấn đậm nét trong tâm trí người Ấn
Độ cổ. Xuất phát từ điều kiện tự nhiên như vậy đã hình thành nên các nền văn
hóa sông Ấn, thời kỳ Véda, chế độ đẳng cấp ... Thời kỳ Véda cũng là thời kỳ
hình thành các tôn giáo lớn mà tư tưởng là tín ngưỡng của nó ảnh hưởng đậm
nét tới đời sống tinh thần xã hội Ấn Độ cổ đại, như đạo Rig-Vesda, đạo
Bàlamôn và sau đó là đạo Phật.
-Trong lĩnh vực đời sống tinh thần của xã hội, các trào lưu triết học, mà thực
chất là các hệ tư tưởng của các tầng lớp khác nhau trong xã hội, xuất hiện đa
dạng nhưng chia thành hai hệ thống chính đối lập nhau: chính thống và không
chính thống. Hệ tư tưởng chính thống với thế giới quan duy tâm, tôn giáo của
kinh Veda và giáo lý Bàlamôn trở thành hệ tư tưởng của giai cấp thống trị.
Nhưng hệ tư tưởng không chính thống với đạo Phật, đạo Jaina và phong trào đòi
tự do tư tưởng, đòi bình đẳng xã hội ở vùng Đông ấn lại ăn sâu vào mọi tầng lớp
nhân dân.
-Đạo phật đã hình thành ở Ấn Độ vào khoảng thế kỷ VI trước công nguyên,
người sáng lập ra đạo Phật là Thích Ca Mâu Ni có tên thật là Siddhattha (Tất
Đạt Đa) họ là Cù Đàm (Gautama), con đầu vua Tịnh Phạn (Suddhodana) dòng
họ Sakya, có kinh đô là thành Ca-tì-la-vệ (Kapilavatthu). Phật Thích ca sinh
ngày 8 tháng 4 năm 563 trước công nguyên và mất năm 483 trước công nguyên.
Năm 29 tuổi, ông quyết định từ bỏ cuộc đời vương giả đi tu luyện tìm con
đường diệt trừ nỗi khổ của chúng sinh. Sau 6 năm liền tu luyện, Tất Đạt Đa đã
“ngộ đạo”, tìm ra chân lý “Tứ diệu đế” và “Thập nhị nhân duyên”. Siddhattha
Gautama đã trở thành Phật Thích Ca Mâu Ni. Khi đó Ngài vừa tròn 35 tuổi.
Thái tử Tất Đạt Đa (Sidharta) là con vua Tịnh Phạn (Sudhodana) nước Ca Tỳ La
4
Vệ (Kapila vastu). Truyền kể vào năm 624 trước công nguyên, hoàng hậu MaDa
(Maya) sinh hạ một hoàng tử tuấn tú tại vườn ngự uyển Lâm Tỳ Ni (Lumbini)
dưới gốc cây Ưu Bát La, thường gọi là cây Vô Ưu (asokaa) có hoa với sắc màu
rực rỡ. Thái tử sinh vào ngày trăng tròn tháng Vésaka, nhằm ngày rằm tháng tư
âm lịch và được đặt tên là Tất Đạt Đa. Lớn lên, thái tử văn võ toàn tài, vợ là
công chúa Da Du Đà La (Yasodava) con vua Thiện Giác, cuộc sống rất đầy đủ,
sung sướng. Nhưng những điều mắt thấy tai nghe về những nỗi đau khổ của con
người đã ám ảnh tâm tư thái tử. Một ngày kia, thái tử ra đi, tương truyền ngài
đến dòng A Nô Ma cắt tóc làm đạo sĩ. Ngài rủ năm người đến vùng Uruvela tu
khổ hạnh trong 6 năm. Nhưng sau 6 năm học đạo và khổ hạnh, thái tử thấy kẻ
hưởng lạc sẽ bê tha thối nát, còn tu hành khổ hạnh chỉ chuốc thêm khổ thân, chỉ
có con đường trung đạo mới mong thành chính quả. Bởi thế, Thái tử đã bỏ 5 anh
em ông Kiều Trần Như, dùng bát sữa của mục nữ Tu Xá Đề (Sajata), xuống
sông Ni Liên tắm rửa, rồi lên thiền quán dưới gốc cây pipal (cây Tất Bát La, xứ
Ba La Nại) lớn và ngồi dưới gốc cây suy nghĩ. Tương truyền là qua 49 ngày,
ngài đã chứng tam minh tức là Túc mạng minh, Thiên nhân minh và Lậu tận
minh, thành Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni, năm 36 tuổi. Gốc cây chỗ ngài ngồi
gọi là Bồ đề đạo dưỡng (Bodhimanda) hay Kim cương tọa (Vadjrasana). Sau đó,
ngài tìm 5 người bạn trước đây, giác ngộ cho họ, rồi cùng họ trong suốt 40 năm
còn lại của cuộc đời đi truyền bá tư tưởng của mình. Có những câu chuyện đã
thành huyền thoại về Phật như Phật đã dừng chân bên vệ đường xâu kim cho bà
già mù lòa, săn sóc, dọn dẹp ô uế cho người bệnh, nhận cơm thừa của một tiện
nữ dâng cúng... Từ những việc nhỏ nhất, tất cả đều thể hiện lòng từ bi bác ái của
Ngài và đạo của Ngài. Sau Phật Niết bàn, các đệ tử Phật kiết tập 4 lần. Qua cuộc
kiết tập lần thứ hai, do quan điểm bất đồng, Phật giáo chia thành hai phái:
Thượng tọa bộ và Đại chúng bộ. Thượng toạ bộ chủ trương bảo thủ y nguyên
Phật giáo ban đầu, đọc kinh bằng tiếng Pali. Đại chúng bộ có tư tưởng cấp tiến,
phóng khoáng đọc kinh bằng tiếng Sanskrit. Dị biệt tiếp tục phát triển, về sau
giáo đoàn Phật giáo cho làm hai hệ là Nam truyền và Bắc truyền. Thượng toạ bộ
chi phối Nam ấn và Phật giáo Nam truyền liên tục hưng thịnh. Đại chúng bộ chi
5
phối Bắc ấn, nhưng mãi đến thời Bồ Tát Mã Minh (Asvaghosha) 5 thế kỷ sau
Phật niết bàn, mới mở màn hưng thịnh và sáng rỡ nhất là thời kỳ Bồ Tát Long
Thọ (Nagarjuna) đầu thế kỷ II sau công nguyên.
1.2. Điều kiện ra đời của triết lý đạo Phật ở Việt Nam:
- Phật giáo Nam truyền lan đến các nước phía Nam ấn: Tích Lan, Thái Lan,
Miến Điện, Lào, Campuchia và đa số trở thành quốc giáo. Phật giáo Bắc truyền
lan đến các vùng phía Bắc ấn (Tây Tạng, Trung Quốc, Nhật Bản, ...) mà mỗi
nước lại có màu sắc riêng. Trung Hoa đã làm cho Phật giáo Bắc truyền thêm rực
sáng. Sau này còn gọi Phật giáo Nam truyền là Phật giáo Tiểu Thừa, còn Phật
giáo Bắc truyền là Phật giáo Đại Thừa. Với hai con đường thuỷ và bộ Phật giáo
cũng vào Việt Nam những thế kỷ đầu công nguyên.
- Phật giáo vào Việt Nam bằng con đường dân giã và mang tính tự phát thông
qua các thương nhân Ấn Độ và các nhà truyền giáo Trung Quốc. Công lao đầu
tiên của việc Phật giáo du nhập vào Việt Nam phải kể đến vai trò của các thương
nhân Ấn Độ. Từ những năm đầu công nguyên người Ấn Độ đã đi buôn bán với
nhiều nước trong vùng Địa Trung Hải, Trung Đông đế quốc La Mã. Họ đi nhiều
nơi để tìm nguyên liệu, hàng hóa. Chính trong quá trình đó, họ đã tới Đông Nam
Á, trong đó có đất Giao Chỉ. Nhiều nhà nghiên cứu chỉ ra rằng, trung tâm Phật
giáo đầu tiên ở Việt Nam - Luy Lâu- được hình thành trước tiên là do sự viếng
thăm của các thương nhân người Ấn. Họ đến Việt Nam trước cả các tăng sĩ, họ
đến mang theo cả những kỹ thuật canh tác, y thuật, phong tục tập quán và sinh
hoạt tôn giáo của người Ấn Độ (Bà la môn giáo và phật giáo). Những đặc điểm
văn hóa này đã có ảnh hưởng đến đời sống của người dân bản địa Việt Nam.
Như vậy, các thương nhân Ấn Độ đã tham gia một cách tự phát vào quá trình
truyền bá Phật giáo vào các xứ phương Đông, trong đó có Việt Nam hay nói
cách khác họ đã đem Phật giáo đến Việt Nam bằng một cách tự phát không có
chủ đích. Tuy nhiên, Phật giáo ở Giao Chỉ thời kỳ này mới chỉ là sự là những
sinh hoạt tín ngưỡng đơn sơ giới hạn trong sự đọc Tam quy, cúng dường Phật
pháp, bố thí chứ chưa có kinh điển.

6
- Tiếp sau cách tăng sĩ Ấn Độ là các nhà sư người Trung Quốc. Lúc này nước
Việt Nam đang chịu sự đô hộ Trung Hoa. Các nhà sư Trung Quốc đến Việt Nam
truyền đạo lúc này chưa phải do được người Việt mời, thỉnh mà cũng hoàn toàn
mang tính tự phát. Chỉ đến khi nước Việt Nam bước vào thời kỳ tự chủ, vua Lê
Đại Hành mới cho người sang Trung Hoa mời sư về thỉnh kinh.
- Phật giáo vào Việt Nam chủ yếu bằng con đường hòa bình, ít gây ra xung đột
với văn hóa bản địa. Phật giáo đến với dân tộc Việt Nam một cách rất tự nhiên.
Ngay từ buổi đầu mới du nhập, Phật giáo đã nhanh chóng được người Việt đón
nhận mà hầu như không gặp phải bất kỳ một trở ngại nào. Thậm chí, nó còn
được tiếp nhận một cách nhanh chóng vì bản thân nó có nhiều điểm phù hợp với
hệ thống tín ngưỡng của người Việt cổ. Người Việt thời kỳ này tin tưởng có ông
trời ở trên cao, nhìn tháo mọi việc dưới đất, trừng phạt kẻ ác, giúp đỡ người
thiện. Linh hồn con người không chết đi cùng thể xác mà nó vẫn còn tồn tại
xung quanh người thân để che chở, bảo vệ, phù hộ họ… Trong bối cảnh như
vậy, Phật giáo với thuyết Nhân quả nghiệp báo luân hồi, với những quan niệm
về công đức, Tam Bảo… không những không đi ngược với tín ngưỡng của
người Việt mà còn rất phù hợp nên nó được tiếp nhận nhanh chóng. Đồng thời,
trong hoàn cảnh bị đô hộ bởi thế lực ngoại bang người Việt đã tìm thấy ở Phật
giáo một nền tảng tư tưởng để củng cố bản sắc dân tộc.
1.3. Quan điểm triết học Phật giáo qua từng thời kì tại Châu Á:
-Giảng luận về triết học Phật giáo thường được bắt đầu với triết học của Phật
giáo Ấn Độ, và về phương diện này, theo dấu sự phát triển của tư tưởng Phật
giáo ở Ấn Độ, nơi mà nó đã hưng thịnh suốt 1500 năm, là điều quan trọng.
Edward Conze một triết gia và một nhà Phật học lỗi lạc người Anh (gốc Đức)
chia sự phát triển của triết học Phật giáo Ấn Độ thành ba giai đoạn:
+ Giai đoạn đầu tiên liên quan đến các câu hỏi của các giáo lý nguyên thủy bắt
nguồn từ các truyền thống truyền miệng bắt nguồn từ cuộc đời của Đức Phật, và
phổ biến cho tất cả các giáo phái sau này của Phật giáo.
+ Giai đoạn thứ hai liên quan đến Phật giáo "kinh viện" không phải là đại thừa,
như hiển nhiên trong các văn bản Abhidharma bắt đầu vào thế kỷ thứ ba trước
7
Công nguyên có tính năng viết lại mang tính kinh viện và phân loại sơ đồ của
các tài liệu trong kinh điển đời trước.
+ Giai đoạn thứ ba của sự phát triển triết học Phật giáo Ấn Độ liên quan đến
Phật giáo "siêu hình" Đại thừa, bắt đầu từ cuối thế kỷ thứ nhất, trong đó nhấn
mạnh đến đời sống tu sĩ và con đường của một vị bồ tát. Các yếu tố khác nhau
của ba giai đoạn này được kết hợp và/hoặc phát triển hơn nữa trong triết lý và
thế giới quan của các giáo phái khác nhau mà sau đó đã xuất hiện.
-Thuộc phái chính thống có Sàmkhuy, Mimasa, Védanta. Yoga, Nỳaya và
Vasêsika. Thuộc phái không chính thống có Jaina, Lokayata và Phật giáo
(Buddha). Triết học Ấn Độ có nhiều nét đặc thù về tư tưởng. So với các nền triết
học cổ đại khác, nền triết học Ấn Độ biểu hiện ra là một nền triết học chịu ảnh
hưởng lớn của những tư tưởng tôn giáo. Trừ trường phái Lokayata, các trường
phái còn lại đều có sự thống nhất giữa tư tưởng triết học và những tư tưởng tôn
giáo. Ngay cả hai trường phái: Jaina và Phật giáo, tuy tuyên bố đoạn tuyệt với
truyền thống văn hóa Véda (truyền thống tôn giáo) nhưng trong thực tế nó vẫn
không thể vượt qua truyền thống ấy. Chúng ta đi xét những tư tưởng triết học cơ
bản của trường phái Phật giáo. Phật giáo là một trường phái triết học – tôn giáo
điển hình của nền tư tưởng ấn Độ cổ đại và có nhiều ảnh hưởng rộng rãi, lâu dài
trên phạm vi thế giới. Ngày nay với tư cách là một tôn giáo, Phật giáo là một
trong ba tôn giáo lớn nhất trên thế giới. Những tư tưởng triết học cơ bản của
Phật giáo nguyên thuỷ (sơ kỳ) gồm mấy vấn đề lớn sau:
+ Thứ nhất: Thế giới quan Phật giáo là một thế giới quan có tính duy vật và vô
thần, đồng thời có chứa đựng nhiều yếu tố biện chứng sâu sắc. Tính duy vật và
vô thần thể hiện rõ nét nhất ở quan niệm về tính tự thân sinh thành, biến đổi của
vạn vật, không do sự chi phối quyết định của một lực lượng thần linh hay
thượng đế tối cao nào. Trái lại vạn vật đều tuân theo tính tất định và phổ biến
của luật Nhân quả. Điều này được quán triệt trong việc lý giải những vấn đề của
cuộc sống nhân sinh như: Hạnh phúc, đau khổ, giàu nghèo, thọ, yểu…
+ Thứ hai: Nhân sinh quan Phật giáo là phần trọng tâm của triết học này. Cũng
như nhiều trường phái khác của triết học Ấn Độ cổ đại, Phật giáo đặt vấn đề tìm
8
kiếm mục tiêu cứu cánh nhân sinh ở sự “giải thoát” (Moksa) khỏi vòng luân hồi,
nghiệp báo để đạt tới trạng thái tồn tại Niết bàn (Nirvana). Tính quần chúng của
luận điểm nhân sinh Phật giáo thể hiện ở chỗ nêu cao tinh thần “bình đẳng giác
ngộ”, tức là quyền thực hiện sự giải thoát là cho tất cả mọi người mà cao hơn
nữa là của mọi “chúng sinh”. Điều này mang tính nhân bản sâu sắc, vượt qua
giới hạn đẳng cấp khắc nghiệt vốn là một truyền thống chính trị Ấn Độ cổ đại.
Nó nói lên khát vọng “tự do cho tất cả mọi người”, không thể là độc quyền của
một đẳng cấp nào, dù đó là đẳng cấp tăng nữ hay quý tộc, bình dân hay tiện nô.
Nội dung triết học nhân sinh của Phật giáo tập trung ở bốn luận điểm (gọi là “tứ
diện đế”). Bốn luận điểm này được Phật giáo coi là bốn chân lý vĩ đại về cuộc
sống nhân sinh cho bất cứ cuộc sống nhân sinh nào thuộc đẳng cấp nào.
 Luận điểm thứ nhất (khổ đế): Sự thật nơi cuộc sống nhân sinh không có gì
khác ngoài sự đau khổ, ràng buộc hệ luỵ, không có tự do. Đó là 8 nỗi khổ
trầm lâm bất tận mà bất cứ ai cũng phải gánh chịu: Sinh, Lão, Bệnh, Tử, Thụ
biệt Ly (yêu thương chia lìa), Oán tăng hội (oán ghét nhau mà phải sống với
nhau), Sở cầu bất đắc (cái mong muốn mà không đạt được), và Ngũ thụ uẩn
(5 yếu tố vô thường nung nấu làm khổ).
 Luận điểm thứ hai (Nhân đế): là luận điểm giải thích những nguyên nhân sự
thật đau khổ nơi cuộc sống nhân sinh. Đó là 12 nguyên nhân (thập nhị nhân
duyên): 1. Vô minh; 2. Hành; 3. Thức; 4. Danh sắc; 5. Lục nhập; 6. Xúc; 7.
Thụ; 8. ái; 9. Thủ; 10. Hữu; 11. Sinh và 12. Lão Tử. Trong 12 nhân duyên ấy
thì “Vô minh” là nguyên nhân thâu tóm tất cả. Bởi vậy diệt trừ vô minh là
diệt trừ tận gốc rễ sự đau khổ nhân sinh. Dưới góc độ nhận thức, vô minh là
“ngu tối”, “không sáng suốt”, “thiếu giác ngộ chân lý”.
 Luận điểm thứ ba (Diệt đế): Là luận điểm về khả năng có thể tiêu diệt được
sự khổ nơi cuộc sống nhân sinh, đạt tới trạng thái Niết bàn, cứu cánh của
hành động tự do. Luận điểm này cũng bộc lộ tinh thần lạc quan tôn giáo của
Phật giáo; cũng thể hiện khát vọng nhân bản của nó muốn hướng con người

9
đến niềm hạnh phúc “tuyệt đối”; khát vọng chân chính của con người tới
Chân – Thiện – Mỹ.
 Luận điểm thứ tư (Đạo đế): là luận điểm về con đường thể hiện sự diệt khổ,
đạt tới giải thoát. Đó không phải là con đường sử dụng bạo lực mà là con
đường “tu đạo”. Thực chất của con đường này là hoàn thiện đạo đức cá nhân.
Sự giải phóng mang ý nghĩa của sự thự hiện cá nhân, không mang ý nghĩa
của những phong trào cách mạng hay cải cách xã hội. Đây là nét đặc biệt của
“tinh thần giải phóng nhân sinh” của Phật giáo.
-Nhưng nên nhớ rằng, trước khi đạo Phật suy vi tại Ấn vào thế kỷ thứ XI, thì
những phát triển đa dạng của nó cũng đã lan truyền xa sang các nước khác. Tiểu
thừa Phật giáo (Hinayāna), chú trọng giải thoát cá nhân, tiếp tục phát triển tại
Tích lan, Miến điện, Thái lan và Cam bốt. Phật giáo Mật tông hay Phật giáo bí
truyền đã phát triển thành Lạt-ma giáo (Lamaism) tại Tây tạng. Đại thừa Phật
giáo (Mahāyāna), chú trọng giải thoát toàn thể, hưng phát tại Trung Hoa, là nơi
mà những nghiên cứu Phật học đã tiến những bước rất dài và những tư tưởng
khác nhau trong các tông phái Đại thừa được hệ thống hóa. Tuy nhiên, ở Nhật
bản, tổng thể của Phật giáo được bảo trì - tất cả các học thuyết của các trường
phái Tiểu thừa lẫn Đại thừa. Tuy Tiểu thừa Phật giáo hiện nay không tồn tại ở
Nhật bản như một tín ngưỡng năng động; nhưng các giáo nghĩa của nó vẫn được
các học giả Phật giáo nghiên cứu. Mật giáo (N. Mikkyô), mà chúng ta có thể
định danh là Học thuyết Bí truyền (Esoteric Doctrine) hay Chủ nghĩa Thần bí
(Mysticism), được giới thiệu đầy đủ ở Nhật bản bởi Thai Mật hay chủ nghĩa
huyền bí của Thiên thai (Tendai) và Đông Mật hay chủ nghĩa huyền bí của Đông
tự (N. Tôji).
-Những tông phái phát triển mạnh nhất tại Trung hoa là Hoa nghiêm (N. Kegon)
và Thiên thai (N. Tendai). Khi Thiền tông (Zen) thêm vào với hai tông này, cả
ba đại biểu cho đỉnh cao phát triển của Phật giáo. Ba tông phái này hưng thịnh
tại Trung Hoa một thời rồi suy vi, nhưng tại Nhật Bản, cả ba vẫn tồn tại trong
các tín ngưỡng của quần chúng cũng như trong những nghiên cứu hàn lâm.

10
-Một hình thức khá mới của Phật giáo là chủ nghĩa sùng tín Di-dà (Amita-
pietism). Tông phái này khá phổ biến tại Trung Hoa, Tây Tạng, Mông Cổ, Mãn
Châu và Việt Nam. Nhưng hưng thịnh nhất là ở Nhật Bản, nơi đó có hơn phân
nửa dân số tin theo.
-Theo đó, học giả Phật giáo Takakusu Junjiro viết trong “THE ESSENTIALS
OF BUDDHIST PHILOSOPHY” tin rằng, con đường duy nhất để trình bày toàn
bộ triết lý của đạo Phật với mọi tông phái dị biệt của nó là thiết lập một bảng
toát yếu về Phật giáo ở Nhật Bản. Chính ở tại Nhật mà toàn bộ văn hiến của
Phật giáo, tức Tam tạng (Tripitaka), được tồn trữ và được khảo cứu đến. Tam
tạng kinh điển, cốt yếu là bản Hán dịch, đã được đưa vào Nhật Bản, từ Trung
Hoa, vào các thời đại Đường (618- 907) và Tống (960-1279). Bấy giờ gồm có
5.048 quyển, tất cả đều được tồn trữ tại Nhật Bản, trong khi một số đã bị thất lạc
ở Trung Hoa. Takakusu Junjiro đã trình bày bảng phân loại tư tưởng Phật giáo,
với nhà đại tư tưởng và đại luận sư Thế Thân như là khởi điểm cho sự phát triển
tư tưởng Phật giáo (bảng dưới).
(1) THỰC TẠI (2) HƯ VÔ LUẬN (3) DUY TÂM (4)PHỦ ĐỊNH LUẬN
LUẬN LUẬN
Tiểu thừa Tiểu thừa Bán Đại thừa Đại thừa không luận
Sarvastivada Satyasiddlu Vijnapamatra Madlymika
Thuyết nhất thiết Thành thật tông Chủ trương duy Chủ trương đạt được
hữu bộ chỉ tâm thức tồn chân lý bằng phủ định
tại. biện chứng
Chủ trương tất cả Chủ trương chân lý đạt Bahva-anha- Sarvadharinasunvara
đều hiện thực tồn được bằng phủ định sunvata
tại nghịch đề.
Pudgala-sanvata Sarvadharinasunvara Phủ nhận thực tại Phủ nhận thực tính của
ngoại giới. tất cả tâm-vật và tát cả
chấp thủ của chúng
sinh; chỉ bằng phủ định
biện chứng(phủ định
của phủ định)mới nhận
thức được Trung
đạo”cao nhất”.
Nhân Nhất thiét pháp
không(Không tồn không(Tâm và vật
tại cá thể con không thực hữu)
người)
Học thuyết về Học thuyết về vô Học thuyết Hữu Học thuyết phi Hữu thể,
hữu thể(Ens). thể(Nan-ens) thẻ và Vô thể(Ens, phi Vô thể Trung đạo

11
Non-ens) đạt được hoặc bằng phủ
định của bất hoặc bằng
phủ định của tứ cú.
Trung đạo là Trung đạo hay Chân lý Trung đạo là
đường hướng lý đạt được do thừa nhận không phủ nhận
tưởng trong đời tính vô thể, không tồn thực tại của vạn
sống thực tiễn; tại cá thể(pudgala) hữu mặc dù ngoại
không lạc quan, cũng không tồn tại tâm giới không thực
cũng không bi và vật(dharina). Tất cảhiện hữu; cũng
quan. đều quy về Niết-bàn. không phủ nhận
Hư vô luận đối lập tính bất thực của
Thực tại luận. vạn hữu dù duy chỉ
tâm thức là thực
hữu.
Vasubandhu Harivarman Vasubandhu Nagarjuna
(Thế Thân) (Hari-varman) (k.420-500TL.) (Long Thọ)
(k. 420-500TL.) (k.250-350TL); bản (k. 100-200TL.)
dịch Hán 407TL.

1.4. Quan điểm triết học Phật giáo qua từng thời kì tại Việt Nam:
1.4.1. Thời kỳ thứ nhất: Từ khi Phật giáo du nhập vào đến thế kỷ X:
- Phật giáo là một tôn giáo được truyền vào nước ta từ rất sớm. Theo hiểu biết
hiện nay của giới nghiên cứu lịch sử thì Phật giáo vào Việt Nam từ những năm
đầu công nguyên. Chính sử của Trung Quốc cũng đã ghi nhận rằng, vào những
năm đầu Công nguyên, trong khi miền Nam Trung Quốc chưa có đạo Phật thì ở
Kinh đô Giao Chỉ nước Việt đã có một trung tâm Phật giáo và Phật học khá
phồn thịnh.
- Ban đầu Phật giáo truyền vào nước ta chủ yếu trực tiếp từ Ấn Độ với hai con
đường thuỷ và bộ. Có thể kể tên một số tăng sỹ Ấn Độ và Trung á sang truyền
giáo ở Việt Nam như: Ma Ha Kỳ Vực, Khưu Đa La, Khương Tăng Hội, Chu
Cương Lương, Mạt Đa Đề Bà...Đến thế kỷ V, Phật giáo đã được truyền đến
nhiều nơi trên đất nước và đã xuất hiện những nhà sư Việt Nam có nhiều danh
tiếng như: Huệ Thắng (học trò của Đạt Ma Đề Bà) tu tại chùa Tiên Châu. Tuy
nhiên trong lịch sử Phật giáo Việt Nam thì từ thế kỷ thứ VI cho đến thế kỷ X
vẫn được xem là giai đoạn truyền giáo của đạo Phật, song giai đoạn này các nhà
truyền giáo của Ấn Độ bắt đầu giảm dần và các nhà truyền giáo của Trung Quốc

12
bắt đầu tăng lên, dẫn theo đó bắt đầu có các phái thiền của Trung Quốc du nhập
vào Việt Nam cụ thể như:
+ Phái Thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi: Cuối thời kỳ hậu Lý Nam Đế, khoảng năm 580
một nhà sư Ấn Độ tên Tỳ Ni Đa Lưu Chi - là Tổ thứ ba của phái Thiền Trung
Quốc đã vào Việt Nam tu tại chùa Pháp Vân (tỉnh Bắc Ninh) và trở thành vị Tổ
sư của phái Thiền này ở Việt Nam.
+ Phái Thiền Vô Ngôn Thông: Năm 820, phái Thiền Vô Ngôn Thông truyền vào
Việt Nam (Vô Ngôn Thông họ Trịnh - là người Quảng Châu, Trung Quốc, tu tại
chùa Song Lâm, Triết Giang). Năm 820, ông sang tu tại chùa Trấn Quốc (Hà
Nội) và trở thành vị tổ sư của phái thiền này ở Việt Nam.
- Theo đánh giá, mười thế kỷ đầu Phật giáo truyền bá vào Việt Nam, mặc dù
trong hoàn cảnh đất nước bị xâm lược và đô hộ nhưng đạo Phật đã tạo ra được
những ảnh hưởng trong nhân dân và có những sự chuẩn bị cho giai đoạn phát
triển mới khi đất nước độc lập, tự chủ.
- Cho dù Tăng Hội có một vai trò lớn đến đâu thì sử sách cũng ghi nhận rằng
trong thế kỷ này, các kinh sách về thiền đã được đem từ Lạc Dương xuống, và
Tăng Hội cũng là một người đã học tập, lĩnh hội được tư tưởng Phật giáo Đại
thừa Trung Hoa. Đầu cạo trọc, rời bỏ gia đình, của cải, thờ Bụt, đọc kinh Phạn.
Quan niệm về nghiệp báo, luân hồi là ở sự làm lành gặp lành. Người ta cũng
quan niệm về từ bi, về công đức. Làm công đức cho kiếp sau được tốt đẹp là
dâng thức ăn cho tăng môn, bố thí cho người nghèo khó. Quan niệm tiết dục
cũng là ở chỗ bỏ bớt những hưởng thụ cho riêng mình, để cho người khốn khó.
1.4.2. Thời kỳ thứ hai: Phật giáo thời Đinh - Lê - Lý - Trần (thế kỷ X
đến XV):
- Từ thế kỷ X, nước ta bước vào kỷ nguyên độc lập, tự chủ sau một ngàn năm
Bắc thuộc. Việc này đã tạo điều kiện cho Phật giáo phát triển sang một bước
mới. Dưới hai triều đại Đinh - Lê, tuy không tuyên bố Phật giáo là Quốc đạo
nhưng đã công nhận Phật giáo là tôn giáo chính của cả nước. Các triều Vua
Đinh - Lê có nhiều chính sách nâng đỡ đạo Phật. Đặc biệt Vua Lê Đại Hành và

13
Vua Đinh Tiên Hoàng đã trọng dụng và phong thưởng cho nhiều nhà sư có công
giúp Vua lo việc triều chính.
- Ở hai triều Đinh - Lê không chỉ trọng dụng các tăng sĩ mà còn hỗ trợ cho Phật
giáo phát triển. Vua Lê Đại Hành và Đinh Tiên Hoàng đã cho xây dựng nhiều
chùa tháp ở vùng Hoa Lư, biến nơi đây không chỉ là một trung tâm kinh tế -
chính trị - xã hội mà còn là một trung tâm Phật giáo lớn của cả nước. Tuy nhiên,
đến triều nhà Lý thì mới được xem là triều đại Phật giáo đầu tiên ở Việt Nam vì
Lý Công Uẩn - Lý Thái Tổ (người sáng lập triều Lý) xuất thân từ chốn thiền
môn (là người cùng thụ giới Sa Di với Sư Vạn Hạnh) nên ông hết lòng ủng hộ
cho Phật giáo. Sau lễ đăng quang, Lý Thái Tổ ra sắc chỉ ban phẩm phục cho
hàng tăng sĩ. Năm 1010, sau khi dời đô về Thăng Long, ông cho xây dựng một
số chùa lớn ở Thăng Long như Thiên Phủ, Hưng Long và cho tu bổ lại các chùa
bị hư hỏng. Dưới triều Lý đã có rất nhiều nhà sư nổi tiếng về việc tu hành và có
những đóng góp cho đất nước như sư Vạn Hạnh được Lý Thái Tổ phong làm
Quốc sư; Huệ Sinh được Lý Thánh Tông phong làm Tăng thống...
-Trong khoảng 1000 năm tồn tại và phát triển, Phật giáo dung hợp văn hoá bản
địa, góp phần vào sự phát triển chung của dân tộc. Từ nền tảng này, đã tạo ra
một bước chuyển hình thành triều đại Lý - Trần thịnh vượng phú cường kéo dài
khoảng 400 năm. Đó cũng là thời hoàng kim của Phật giáo Việt Nam.
-Khi Lý Phật Tử lên ngôi năm 571, khoảng 9 năm sau tức là vào khoảng năm
(580), Thiền sư Tỳ Ni Đa Lưu Chi (Vinitaruci) - người miền Nam Thiên Trúc
(Ấn Độ), đắc pháp với tam tổ Tăng Xán ở Trung Hoa - qua Việt Nam truyền
đạo. Ngài ở chùa Pháp Vân thuộc làng Cổ Châu, Long Biên, thành lập ra Thiền
phái đầu tiên ở nước ta, đó là dòng thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Dòng thiền này tồn
tại và phát triển từ năm 580 đến năm 1216 được truyền thừa qua 19 thế hệ. “Đây
là một thiền phái rất có tính cách dân tộc Việt Nam, vừa biểu lộ được sinh hoạt
tâm linh siêu việt của Phật giáo vừa biểu lộ được đời sống thực tế và đơn giản
của quần chúng nghèo khổ”. Những vị Thiền sư nhập thế giúp đời tích cực như:
Định Không (730 - 808), Trưởng Lão La Quí An (852 - 936), Pháp Thuận (914-
991), Pháp Bảo, Sùng Phạm, Vạn Hạnh, Sùng Nghiêm, Huệ Sinh, Minh Không,
14
Bảo Tịnh, Khánh Hỷ, Viên Thông v.v... Dòng thiền này không chỉ trực tiếp
tham gia vào việc đấu tranh, xây dựng và bảo vệ nền độc lập mà còn sản sinh ra
nhiều “nhân tài - trú xuất” đóng góp tích cực vào sự nghiệp chung cho cả dân
tộc. Về mặt tư tưởng có hai cách tiếp cận:
+Cách tiếp cận thứ nhất, theo quan điểm về Phật giáo Mật tông, những vị Thiền
sư như: Định Không, La Quí An, Pháp Thuận v.v... với phương pháp cơ bản là
chuyên về trì chú, sấm vỹ v.v... mục đích là nương nhờ tha lực hỗ trợ để đi đến
giác ngộ, và dùng công năng của mình để giúp đời, góp phần xây dựng nền độc
lập. Như các Thiền sư của dòng thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi đã thể hiện: “… gần
với tín ngưỡng phong thủy, sấm ký, cầu đảo, điều phục tà ma, bốc thuốc chữa
bệnh rất thịnh hành ở Trung Quốc và Việt Nam”. Trong đó, trưởng lão Định
Không vận dụng Mật tông hoà quyện vào tín ngưỡng dân tộc, hình thành chủ
nghĩa Địa Linh.
+Cách tiếp cận thứ hai, Sau khi Lý Nam Đế mất, Lý Phật Tử và Triệu Quang
Phục tranh nhau ngôi vị Đế Vương. Cuối cùng, Lý Phật Tử thành công trong
việc xưng đế và duy trì nền độc lập trong một thời gian. Trong giai đoạn này,
tình hình xã hội có những biến động sâu sắc, cùng lúc đó, Thiền sư Tỳ Ni Đa
Lưu Chi sang truyền đạo và dịch nhiều bộ kinh, trong đó có kinh Đại phương
quảng tổng trì. Hệ tư tưởng mới này đã làm thay đổi quan niệm đức Phật quyền
năng trước đó. Từ “Đức Phật Cho Ta” đến “Đức Phật Tự Ta” - Nhất thiết chúng
sanh giai hữu Phật tánh - nghĩa là trong mỗi con người đều có một đức Phật.
Ngoài ra bộ kinh này, góp phần củng cố lý luận, xây dựng đoàn kết nội bộ để
giữ gìn và bảo vệ quốc gia. Đến thời Thanh Biện (khoảng thế kỷ thứ VII) thì
kinh Kim Cương xuất hiện ở nước ta với hai quan điểm nhập thế:
Một là, tư tưởng chủ đạo - kinh Kim Cương là “Hết thảy các pháp đều là Phật
pháp”. Những người kế thừa Thiền sư Thanh Biện thực hiện tư tưởng kinh Kim
Cương là Thiền sư Định Không (730-808), La Quí An, Pháp Thuận và trội nhất
là Thiền sư Vạn Hạnh đã thành công trong việc vận dụng tư tưởng này theo yêu
cầu lịch sử đặt ra. Các vị Thiền sư trên là những người: “đã tích cực tham gia
vào phong trào vận động cho chủ quyền và độc lập của đất nước qua những
15
phương thức sấm vĩ, phong thủy. Phải nói, đây là những nét mới không những
của lịch sử Phật giáo Việt Nam nói riêng, mà dân tộc Việt Nam nói chung.
Chính những nét mới này đã thể hiện cho ta thấy thế nào là những đóng góp của
Thanh Biện đối với dòng thiền Pháp Vân qua kinh Kim Cương với chủ trương
‘hết thảy các pháp đều là Phật pháp’”
Hai là, quan điểm về tư tưởng vô trụ được bắt nguồn từ: “ưng vô sở trụ nhi sinh
kỳ tâm”. Vô tru là trạng thái không bám víu vào các sự vật hiện tượng, dù đó là
vô hình hay hữu hình. Khi người tu tập đạt đến trình độ này, hành động và suy
nghĩ đã đạt đến giải thoát, tự tại trong cuộc sống, không còn chấp ngã-pháp. Bởi
vì, giá trị triết lý vô tru không có chỗ cho người chấp ngã-pháp, cũng chẳng co,
cũng chẳng không và cũng chẳng phải không có. Đó là là tinh thần vô tru, vô tru
nghĩa là thật tướng, thật tướng là tánh không, chỉ khác tên gọi để truyền tải triết
lý mà các vị Thiền sư thể nghiệm thành công. Trên tinh thần ấy, các vị Thiền sư
tích cực nhập thế phục vụ cho lợi ích quần chúng mà không có sự vụ lợi cho bản
thân.
1.4.3. Thời kỳ thứ ba: Phật giáo thời Lê Sơ đến nhà Nguyễn (XV-
XX):
-Sau thời kỳ hoàng kim với những đóng góp quan trọng cùng với thời đại Lý -
Trần, Phật giáo Việt Nam ở thời kỳ Lê – Nguyễn thế kỷ XV-XIX, có thể nói
không còn đóng giữ vai trò chủ đạo trên vũ đài chính trị như trước, thay vào đó
Phật giáo trong giai đoạn này chịu nhiều sự chuyển đổi sâu sắc. Các hậu quả tàn
phá nặng nề từ chính sách tiêu diệt văn hóa Đại Việt của quân Minh, cộng thêm
các cuộc nội chiến phân tranh quyền lực giữa các tập đoàn phong kiến Lê –
Mạc, Trịnh - Nguyễn kéo dài từ thế kỷ XVI- XVIII; khiển Phật giáo thời kỳ này
nhường vị trí chính trưởng cho Nho giáo, đồng thời lui về sinh hoạt, tu tập nơi
các thiền môn, tự viện và ảnh hưởng chủ yếu trong đời sống nhân gian. Song, có
thể thấy những diện mạo khả quan trong việc định hình đời sống tư tưởng cũng
như triết lý tu tập của Phật giáo thời kỳ Lê – Nguyễn trải dài từ đời Hậu Lê sơ,
Mạc, Lê trung hưng. Tây Sơn đen thời Nguyễn đối với các tầng lớp xã hội
không vì thế trở nên mờ nhạt và mất tầm ảnh hưởng quan trọng. Cụ thể, vấn đề
16
thực hành pháp môn Tịnh độ của Phật giáo trong giai đoạn Lê – Nguyễn được
các vị thiền sư, giới cư sĩ và tầng lớp tín đồ trong xã hội lúc bấy giờ thực thi tu
niệm một cách tỉnh chuyển, rộng rãi qua các phương thức tu tập hành trì trong
nếp sống đạo thường nhật và hoằng hóa lợi sanh. Từ đó mang đến nhiều điểm
sáng mới mẻ trong việc góp phần củng cố thêm sự hưng thịnh và phát triển của
tiến trình lịch sử tự tưởng Việt Nam thời Lê - Nguyễn thế kỷ XV. XIX được lâu
dài vững mạnh về sau.
-Cụ thể, thiền sư Chuyết Công trong tác phẩm Bồ đề yếu nghĩa có bảo: “Trước
khi niệm Phật A Di Đà, hành giả phải thực hành tuần tự quy y Tam bảo, thọ trì
năm giới, sám hối nghiệp chướng và cuối cùng phát khởi đại nguyện". Rõ ràng,
việc thực tập niệm Phật theo thiền sư Chuyết Công chủ trương là vô cùng đơn
giản, bởi lẽ con người trong ý niệm cần cầu giá trị an lạc, hướng đến đời sống
tịnh hóa của tự thân ngang qua việc trì niệm danh hiệu Phật, đương nhiên theo
ngài trước nhất mỗi cá nhân nhất thiết cần phải nỗ lực chuyền hóa đời sống tâm
thức của mình bằng các hành động cụ thể thông qua ba nghiệp thân, khẩu và ý
được tịnh hóa trong lộ trình hướng thượng; chỉ khi đó việc thực tập pháp tu niệm
Phật mới mong được chuyên nhất và có hiệu quả lợi lạc.
1.4.4. Thời kỳ thứ tư: Phật giáo thế kỷ XX và hiện nay:
- Như đã nói ở trên, Phật giáo Việt Nam đã suy vi dưới triều Lê Sơ; sau này, đôi
lúc có sự khôi phục song không còn thịnh vượng như trước. Phật giáo Việt Nam
vẫn tiếp tục suy vi cho đến những năm ba mươi của thế kỷ XX mới bắt đầu có
sự khởi sắc trở lại bởi phong trào Chấn hưng Phật giáo. Sự thống trị của thực
dân Pháp trên đất nước ta gây nên một xã hội đầy biến động, các giá trị văn hóa
truyền thống dần bị phai mờ, thay thế bởi văn hóa phương Tây do Pháp đưa vào.
Bằng nhiều chính sách, Pháp đưa đạo Thiên Chúa vào Việt Nam từ nửa sau thế
kỷ XVII và truyền bá rộng rãi hơn khi nước ta trở thành thuộc địa của chúng.
Điều đó gây không ít trở ngại và thử thách cho Phật giáo, kể cả ảnh hưởng mạnh
mẽ đến tín ngưỡng cộng đồng. Và tín đồ Phật giáo dưới thời Pháp thuộc bị chính
sách cải đạo của thực dân Pháp trấn áp bắt buộc phải từ bỏ tín ngưỡng truyền
thống để theo một tôn giáo phương Tây. Theo đó, các chùa chiền trong cả nước
17
bị đập phá, thu hồi để xây dựng nhà thờ hoặc trụ sở cai trị. Chính Phật giáo khơi
nguồn cho tinh thần yêu nước để chống lại quân xâm lược nên những gì thuộc
Phật giáo đều nằm trong chính sách tiêu diệt của thực dân Pháp. Do đó, Phật
giáo bắt buộc phải chuyển mình trước sự lớn mạnh bành trướng của Thiên Chúa
giáo. Đầu thế kỷ XX, phong trào Chấn hưng Phật giáo không chỉ diễn ra ở Việt
Nam mà còn diễn ra ở nhiều nước; đó là kết quả tất yếu của những biến đổi lớn
về kinh tế, văn hóa, xã hội, tư tưởng. Phong trào Chấn hưng Phật giáo nổ ra ở
Trung Quốc, Nhật Bản sau đó lan ra nhiều nước Châu Á với các khẩu hiệu cách
mạng giáo lý, cách mạng giáo chế, cách mạng giáo hội. Phong trào chấn hưng
Phật giáo ngoài mang ý nghĩa tôn giáo thì còn có ý nghĩa chính trị xã hội tích
cực gắn với công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc; đó là một số nhà sư cùng
một số nhân sĩ trí thức yêu nước, mến đạo, muốn đạo Phật phát triển nên đã sử
dụng ngọn cờ Phật giáo để đoàn kết, tập hợp lực lượng chống thực dân Pháp.
-Trong bối cảnh này, Đức Phật đã đến và nói: “Đừng tin tưởng vào những gì
kinh sách đạo mình nói. Đừng tin tưởng điều gì vì dựa vào một tập quán lưu
truyền. Đừng tin tưởng bất cứ điều gì chỉ vin vào uy tin và thẩm quyền của một
người nào đó. Đừng tin tưởng điều gì vì có được nhiều người nói đi nhắc lại.
Hãy tin tưởng vào những gì mà mình đã từng trải, kinh nghiệm, thấy là đúng,
thấy có lợi cho mình và người khác”. Đây là một thái độ rất mới mẻ mà người ta
có thể tiếp nhận được, mà trong đó mọi người đều thấy rõ quyền tự do mà mình
đang tranh đấu để đạt được, quyền tự do suy nghĩ cho chính mình. Và, một lần
nữa, đây là một giáo lý hay một nguyên tắc, đã mang đến cho Phật giáo tính chất
vượt thời gian, và chính đặc tính này đem lại sự thích hợp của Phật giáo với mọi
thời đại khi con người tiến tới phía trước. Trong chế độ phong kiến, lúc trước
khi có những tiến bộ hiện tại, chúng ta đã không thể khẳng định quyền tự do tư
tưởng của chính mình, thì chính Phật giáo đã trao cho con người cái quyền ấy.
Chúng ta chỉ tin là mình chỉ được thuyết phục sau khi tự mình đã xem xét những
nguyên tắc, những sự kiện, những giới điều cho phép và không cho phép. Đây là
quyền mà chúng ta coi như bất khả xâm phạm. Đây là giáo lý thứ hai mà khả
năng áp dụng cho thời đại này cũng như tương lai mai sau sẽ còn mãi.
18
Có thể khái quát tư tưởng triết học Phật giáo Việt Nam ở hai bộ phận cấu thành
là Siêu hình học và Nhân sinh quan. Những triết lý trong bộ phận siêu hình học
là lớp tư tưởng triết học ở chiều sâu, trở thành nội dung căn bản trong tư tưởng
triết học của các trí thức thời Lý – Trần. Đây là những tư tưởng triết học Ấn Độ
đã được Trung Hoa hóa và truyền bá vào Việt Nam, được giới trí thức đương
thời đặc biệt coi trọng. Phạm trù triết học trung tâm của Thiền tông là “Bản Thể
Chân Như” hay “Thực Tướng” các pháp hoặc bản thể “Như Lai”, Theo luận giải
của Thiền tông, Bản Thể Chân Như chính là nguyên lý thống nhất của thế giới.
Thế giới các hiện tượng (Pháp hữu vi) luôn biến đổi không ngừng. Tất cả các
hiện tượng đó chỉ là biểu hiện của Bản Thể Chân Như. Do vậy, về lý luận nhận
thức, theo triết học Thiền tông cần phải vượt qua thế giới các hiện tượng để đạt
tới Bản Thể Chân Như, khi đó sẽ đạt tới sự giác ngộ cứu cánh. Vì vậy, phạm
trù “Vô trụ” trở thành phạm trù căn bản trong lý luận nhận thức của Thiền tông.
Đây thực chất là phép biện chứng của Thiền học. Theo tinh thần của phép biện
chứng này, thế giới được biểu hiện ra trong tính đa dạng của những khác biệt và
mâu thuẫn, nhưng xét theo bản chất chúng thống nhất với nhau. Phạm trù trung
tâm trong triết học nhân sinh Phật giáo Việt Nam là phạm trù “Từ bi”. Đây là
phạm trù cơ bản trong triết học Phật giáo Đại thừa. Nội dung cơ bản của phạm
trù này là tinh thần bao dung giữa con người với nhau cũng như với muôn loài
vô tình và hữu tình. Bản chất triết học sâu xa của phạm trù này là phạm trù “Vô
ngã” trong triết học Phật giáo cổ đại Ấn Độ. Đây cũng chính là tư tưởng triết
học nhân văn của Phật giáo. Tinh thần cứu độ chúng sinh là một tinh thần thực
tiễn. Tinh thần đó là hệ quả tất yếu từ sự giác ngộ từ bi. Như vậy, với tư tưởng
từ bi, triết học Phật giáo Việt Nam đã góp phần tạo dựng một cơ sở lý luận cho
tư tưởng nhân ái Việt Nam; tư tưởng nhân ái này vốn đã có cơ sở hiện thực từ
lịch sử cố kết cộng đồng dân tộc.
2. Ảnh hưởng của triết học Phật giáo đến đời sống tinh thần con người Việt
Nam:
2.1. Ảnh hưởng tích cực đến đời sống tinh thần con người Việt Nam:
2.1.1. Phật giáo góp phần kiến tạo một xã hội bình đẳng, bác ái:
19
- Đức Phật dạy rằng hạnh phúc tối thượng là an lạc, và không thể có hạnh phúc
chân thật nếu không có an lạc. Đức Phật không hề chia cấp bậc mà có cái nhìn
ngang bằng với tất cả chúng sinh. Đạo Phật chủ trương bình đẳng, Phật là đức
Phật đã thành, chúng sinh là Đức Phật sẽ thành, chúng sinh đều có Phật tính, đều
bình đẳng trước Phật. Với Phật, không ai tiểu nhân, không ai quân tử, cũng
không có quân, không có dân, chia cắt nhau bằng các hàng rào cấp bậc giai cấp;
chỉ có một niềm từ bi bác ái, không có hẳn học, oán ghét, phục thù. Đó cũng là
điều phù hợp với bản chất dân tộc Việt Nam. Tiếp đó Phật kêu gọi sự tự giác, vị
tha không những để giải quyết nỗi khổ của mình mà còn phải cứu nhân độ thế.
Người ta chỉ thấy ở đây một chủ nghĩa nhân đạo lớn lao và có phần tích cực. Có
thực hiện được hay không là vấn đề khác mà chúng ta cần xem xét, để phê phán
giá trị của học thuyết này nhưng ở đây thì rõ ràng đó là những điểm chính yếu
làm cho Phật giáo gắn bó được với quần chúng.
- Phật giáo khuyến khích mọi người sống chan hoà, cảm thông và thân ái dù
khác nhau sắc tộc, tôn giáo, màu da... Có tôn giáo đã truyền bá bằng gươm đạo
và chiếm đoạt. So với điều này, Đạo Phật là một tôn giáo không có lực lượng vũ
trang, cũng không có thánh chiến trong việc truyền bá giáo lý. Đạo Phật đã lan
rộng một cách từ từ nhưng vững vàng chắc chắn đến nhiều nước, nhiều vùng
đất: Tây Tạng, Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung tâm Thổ Nhĩ Kỳ, Miến
Điện, Thái Lan, Lào, Việt Nam, Cam-pu-chia...
2.1.2. Phật giáo góp phần tạo nên bản sắc văn hóa dân tộc:
- Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, Phật giáo có ảnh hưởng sâu đậm và lâu dài.
Trong quá trình phát triển, Phật giáo với tư cách là một tôn giáo, đã có nhiều
đóng góp cho văn hóa Việt Nam. Phật giáo lại biết bám lấy làng xã bằng nhiều
hoạt động cụ thể có tổ chức, kết hợp với tín ngưỡng bản địa, hội hè. Nhà sư và
ngôi chùa có vai trò quan trọng trong đời sống dân gian cổ truyền. Ở Bắc Bộ
trước đây hầu như làng nào cũng có chùa. Ngoài thờ Phật, chùa còn thêm tín
ngưỡng dân gian thờ thần tiên, thờ các vị tướng có công với nước. Ngôi chùa trở
thành một trung tâm văn hoá ở nông thôn. Có thể nói Phật giáo đã góp phần làm
phong phú thêm nền văn hoá dân tộc. Nho giáo về mặt nào đó làm cho tư tưởng
20
văn hoá khô cứng thì Phật giáo có phần làm mền hơn, phong phú và sinh động
hơn. Hội chùa cũng như hội làng là tiểu biểu cho sự hồ hởi của công xã, là một
dịp để con người được giải phóng tình cảm, hoà cái ta của mình vào cái ta của
làng xã, không bị giáo lý khuôn phép gò bó và toả chiết tâm hồn. Dưới mái nhà
chùa mà vẫn được phép giao lưu tình cảm, bao nhiêu câu chuyện tình duyên
đằm thắm đã xảy ra bên cạnh cửa thiền. Thế ra cửa từ bi không hề nghiêm ngặt
như chốn sân Trình của Khổng. Phật chứng nhận cho cuộc sống hồn nhiên, bình
yên của làng xã. Đạo phật có thể mất đi, như mọi hiện tượng vô thường. Song
cái tinh tuý của văn hoá Phật giáo đã được dân tộc hoá và dân gian hoá thì mãi
mãi trường tồn.
2.1.3. Phật giáo khuyên mọi người sống lương thiện, tu tâm dưỡng
tính:
- Đức Phật dạy các điều thiết yếu không chỉ cho việc tu tập nội tâm của từng cá
nhân vì hạnh phúc của nhân loại mà còn cho sự cải thiện đời sống xã hội. Vì
vậy, Ngài thuyết giảng về đặc tính chung nhất của nhân loại, bất kể màu da
chủng tộc hoặc các đặc tính sinh lý và tạo ra một cuộc cách mạng loại bỏ các hệ
thống giai cấp mà rất thịnh hành tại Ấn Độ thời bấy giờ. Để biểu lộ khái niệm
đồng nhất của nhân loại, Đức Phật đã khơi dậy mối đồng cảm không những của
giai cấp vua chúa, quý tộc, thương gia, mà còn với giai cấp cùng đinh, người xin
ăn, kẻ cướp...
- Lối sống mà Đức Phật đã dạy rất đơn giản, đối với người tại gia, chỉ áp dụng
năm nguyên tắc sống: không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói
dối và không uống rượu, đây là một bảng nguyên tắc thật sự rất đơn giản.
Nhưng lối sống của Phật giáo, con đường mà Đức Phật đã mô tả không ngừng
lại ở nguyên tắc này. Lời dạy đó được đơn giản hóa theo một cách mà ai cũng có
thể hiểu được và làm được là bố thí (dàna), trì giới (sila) và thiền định
(bhàvana).
- Giáo lý nghiệp báo hay nghiệp nhân quả báo của Đạo Phật đã trở thành nếp
sống tín ngưỡng hết sức sáng tỏ đối với người Việt Nam có hiểu biết, có suy
nghĩ. Người ta biết lựa chọn ăn ở hiền lành, dù tối thiểu thì đó cũng là kết quả tự
21
nhiên âm thầm của lý nghiệp báo, nó chẳng những thích hợp với giới bình dân
mà còn ảnh hưởng đến giới trí thức. Có thể nói mọi người dân Việt điều ảnh
hưởng ít nhiều qua giáo lý này. Vì thế, lý nghiệp báo luân hồi đã in dấu đậm nét
trong văn chương bình dân, trong văn học chữ nôm, chữ hán, từ xưa cho đến nay
để dẫn dắt từng thế hệ con người biết soi sáng tâm trí mình vào lý nhân quả
nghiệp báo mà hành động sao cho tốt đẹp đem lại hòa bình an vui cho con
người.
- Tâm lý dân gian Việt Nam ta thiên về sự cân bằng, sự bù đắp. Nỗi khổ hôm
nay phải được đền bù bằng sự sung sướng ngày mai. Cô Tấm trong cổ tích trải
qua bao gian nạn cuối cùng được hưởng hạnh phúc. Phật giáo cũng hứa hẹn với
con người sự đền bù không do quyền phép nào, chỗ dựa nào của Nho giáo, cũng
không do cán cân phúc tội của Đạo gia, Pháp gia mà do chính nỗ lực của bản
thân mình. Người dân bình thường ở xứ ta ở phần bản chất cũng có quan niệm
nhận thức như vậy. Tinh thần ấy là sự cố gắng tu dưỡng, vun thêm cho bản thân
mình. Và họ cũng mong mỏi, tin tưởng sự đền bù này, khi thấy Phật tổ vạch ra
cho họ và khẳng định điều tất nhiên sẽ đến. Hơn lúc nào hết trong mấy chục
năm lại đây người Phật tử Việt Nam rất chăm lo đến việc thực hiện các nghi của
đạo mình. Họ hay lên chùa trong các ngày sóc, cọng, họ trân trọng thành kính
trong khi thi hành lễ, họ siêng năng trong việc thiền định, giữ giới, làm việc
thiện. Việc ăn chay hàng tháng trở thành thói quen không thể thiếu của người
theo Đạo phật. Mặt khác nhà chùa sẵn sàng thực hiện các yêu cầu của họ như
cầu siêu, giải oan, ... Tất cả những điều này củng cố niềm tin vào giáo lý, vừa
qui định tư duy và hành động của họ, tạo cơ sở để hình thành những nhân cách
riêng biệt.
2.1.4. Giáo lý của Đạo Phật góp phần giáo dục đạo đức con người:
- Đạo lý ảnh hưởng nhất là giáo lý từ bi, tinh thần hiếu hòa, hiếu sinh của phật
giáo đã ảnh hưởng và thấm nhuần sâu sắc trong tâm hồn của người Việt. Như
vậy, có thể nói rằng Phật giáo là một trong những tôn giáo của thế giới bao hàm
nhiều phương pháp tốt đẹp có thể cải thiện và giáo dục tâm tính cho con người.
Nó đánh thức nơi con người đức tính tự trọng và tinh thần trách nhiệm bản thân,
22
phổ biến trong nhân loại đức tính khoan dung, từ bi, tình huynh đệ, cùng dứt trừ
được nơi con người lòng sân hận và bạo tàn. Cho nền, tự trọng, tự tín, khoan
dung, từ bi, trí tuệ là những đức tánh tốt đẹp có thể tạo được cho nhân loại nhờ
ảnh hưởng của Phật giáo.
- Có thể thấy rằng những tư tưởng Phật giáo cũng có ảnh hưởng ít nhiều đến đời
sống của thanh thiểu niên hiện nay. Như ở các trường phổ thông, các tổ chức
đoàn, đội luôn phát động các phong trào nhân đạo như Lá lành đùm lá rách, quỹ
Giúp bạn nghèo vượt khó, quỹ Viên gạch hồng, ... Chính vì vậy ngay từ nhỏ các
em học sinh đã được giáo dục tư tưởng nhân đạo, bác ái, giúp đỡ người khác mà
cơ sở của nền tảng ấy là tư tưởng giáo lý nhà Phật đã hoà tan với giá trị truyền
thống của con người Việt Nam. Sự đồng cảm với những con người gặp khó
khăn, những số phận bất hạnh cô đơn, cộng với truyền thống từ bi, bác ái đã
giúp chúng ta, những học sinh, sinh viên còn ngồi trên ghế nhà trường có đủ
nghị lực và tâm huyết để lập ra những kế hoạch, tham gia vào những hoạt động
thiết thực như hội chữ thập đỏ, hội tình thương, các chương trình phổ cập văn
hoá cho trẻ em nghèo, chăm nom các cụ già neo đơn... Hình ảnh hàng đoàn
thanh niên, sinh viên hàng ngày vẫn lăn lội trên mọi nẻo đường tổ quốc góp
phần xây dựng đất nước, tổ quốc ngày càng giàu mạnh thật đáng xúc động và tự
hào. Tất cả những điều đó chứng tỏ thanh niên, sinh viên ngày nay không chỉ
năng động, sáng tạo đầy tham vọng trong cuộc sống mà còn thừa hưởng những
giá trị đạo đức tốt đẹp của ông cha, đó là sự thương yêu, đùm bọc lẫn nhau giữa
mọi người, lòng thương yêu giúp đỡ mọi người qua cơn hoạn nạn mà không
chút nghĩ suy, tính toán. Và ta không thể phủ nhận Phật giáo đã góp phần tạo
nên những giá trị tốt đẹp ấy. Và ta càng phải nhắc đến giá trị đó trong khi cuộc
sống ngày nay ngày càng xuất hiện những hiện tượng tiêu cực. Trong khi có
những sinh viên còn khó khăn đã dồn hết sức mình để học tập cống hiến cho đất
nước thì vẫn còn một số bộ phận thanh niên ăn chơi, đua đòi, làm tiêu tốn tiền
bạc của cha mẹ và đất nước. Tối đến, người ta bắt gặp ở các quán Bar, sàn nhảy
những cô chiêu, cậu ấm đang đốt tiền của bố mẹ vào những thú vui vô bổ. Rồi
những học sinh, sinh viên lầm đường lỡ bước vào ma tuý, khiến cho bao gia
23
đình tan nát, biết bao ông bố bà mẹ cay đắng nhìn những đứa con của mình bị
chịu hình phạt trước pháp luật. Thế hệ trẻ ngày nay nhiều người chỉ biết chạy
theo vật chất, bị cuốn hút bởi những thứ ăn chơi sau đoạ làm hại đến gia đình và
cộng đồng. Hơn bao giờ hết việc giáo dục nhân cách cho thế hệ trẻ trở nên rất
quan trọng và một trong những phương pháp hữu ích là nêu cao truyền bá tinh
thần cũng như tư tưởng nhà Phật trong thế hệ trẻ. Đó thực sự là công việc cần
thiết để giáo dục lớp trẻ hiện nay.
2.1.5. Phật giáo có ảnh hưởng tích cực đến các mối quan hệ gia đình,
xã hội:
- Những mối quan hệ trong gia đình và xã hội như cha mẹ, anh em, vợ chồng,
con cái, bạn bè, họ hàng, láng giềng, ... Phật giáo xem là thiêng liêng đáng được
tôn kính và lễ lạy, tôn thờ. Nhưng người ta phải lễ lạy, tôn thờ những mối hệ ấy
quan như thế nào? Đức Phật dạy rằng người ta có thể lễ lạy và tôn thờ những
điều ấy chỉ thông qua việc thực thi trách nhiệm và bổn phận của anh ta đối với
những điều ấy. Trước tiên, cha mẹ là thiêng liêng đối với con cái, nhắc đến công
lao dưỡng dục của cha me, Phật dạy: "muôn việc ở thế gian, không gì hơn công
ơn nuôi dưỡng lớn lao của cha mẹ” (Kinh Thai Cốt), hay kinh Nhẫn Nhục dạy:
"cùng tốt điều thiện không gì hơn hiếu, cùng tốt điều ác không gì hơn bất hiếu".
Bởi Phật giáo đặc biệt chú trọng chữ hiếu như thế nên thích hợp với nếp sống
đạo lý truyền thống của dân tộc Việt. Đức Phật dạy: phải quan tâm chăm sóc bố
mẹ của mình ở độ tuổi xế chiều, phải làm bất cứ những gì mình phải làm vì nhu
cầu của bố mẹ, phải duy trì danh dự của gia đình và tiếp tục phát huy truyền
thống của gia đình, phải bảo vệ tài sản, của cải do bố mẹ kiếm được, và lo tổ
chức tang đám khi bố mẹ qua đời. Bố mẹ, ngược lại, phải có một số trách nhiệm
đối với con cái của mình: phải giáo dục con cái tránh xa những việc làm xấu xa,
tội lỗi; hướng chúng vào những nghề nghiệp lành mạnh và có lợi lạc; cho con
cái ăn học đến nơi, đến chốn; dựng vợ, gả chồng cho chúng ở những nơi gia
đình tốt, và giao của cải tài sản cho chúng đúng lúc.
- Thứ hai, mối quan hệ giữa thầy và trò: học trò phải cung kính và vâng lời thầy,
phải hỗ trợ thầy lúc cần thiết, phải siêng năng học tập. Và ngược lại thầy đối với
24
trò: phải rèn luyện và dạy dỗ học trò nên người tốt; giới thiệu học trò cho bạn bè
của chúng, và cố gắng tạo việc làm đảm bảo sau khi học trò học xong.
- Thứ ba, mối tương quan giữa vợ và chồng: tình yêu giữa vợ và chồng được
xem như rất là tôn giáo và thiêng liêng. Nó được gọi là Sadara – Brahmacariya
(đời sống gia đình thiêng liêng). Vợ và chồng phải chân thành tin tưởng lẫn
nhau, tôn trọng và hết mình vì nhau, và họ có một số trách nhiệm đối với nhau:
người chồng phải tôn trọng vợ và không bao giờ thiếu sự tôn trọng đối với vợ;
phải yêu thương vợ và chung thủy, chân thành với vợ; đảm bảo vị trí và tiện
nghi của vợ, và làm cho vợ vui lòng bằng cách thường mua áo quần và nữ trang
cho cô ta. (Sự kiện Đức Phật đề cập những món quà như thế do người chồng
tặng cho vợ, chứng tỏ Ngài hiểu và thông cảm những cảm xúc và tình cảm thế
gian của Ngài đối với tình cảm bình thường của con gnười). Ngược lại, người vợ
nên giám sát và chăm lo công việc nội trợ nhà cửa; đón tiếp khách khứa, bạn bè,
bà con, họ hàng, và người làm thuê; thương yêu và trung thành với chồng mình;
bảo vệ của cải do chồng kiếm được, và phải sáng suốt và nhiệt tâm trong tất cả
các công việc.
- Thứ tư, mối quan hệ giữa bạn bè, họ hàng quyến thuộc và hàng xóm: họ phải
hiếu khách và nhân từ đối với nhau, nói lời vui vẻ và dễ chịu, làm việc lợi lạc
cho nhau, đối xử bình đẳng với nhau, giúp đỡ nhau trong những lúc cần thiết, và
cựu mang lẫn nhau khi gặp khó khăn, hoạn nạn.
2.2. Ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống tinh thần con người Việt Nam:
2.2.1. Hạn chế trong nội tại tư tưởng:
- Phật giáo chỉ thấy cá nhân con người mà không thấy xã hội con người, chỉ thấy
con người nói chung mà không thấy con người của giai cấp đối kháng nhau
trong xã hội trước đây, không thừa nhận đấu tranh trong giai cấp xã hội, do đó
không thấy được nguyên nhân khổ ải của con người, không thấy được sự cần
thiết phải chống áp bức, bóc lột vì thế quan niêm từ bi bác ái trong một số
trường hợp bất lợi cho đấu tranh giải phóng giai cấp, chống áp bức. Phật giáo
không bàn tới lĩnh vực chính trị, vì thế mỗi khi nhà sư bước sang lĩnh vực chính
trị – xã hội nhà sư phải sử dụng các tư tưởng Nho hay Lão Trang. Nhà sư Viễn
25
Thông cho rằng “Lòng dân là gốc trị loạn”, trong đó “lòng dân” là khái niệm và
tư tưởng của nhà nho; nhà sư Đỗ Phát Nhuận nói (nếu dường nối vô vi ngự trị
trong triều đình thì nơi nơi sẽ tắt chiến tranh) trong đó vô vi là khái niệm của
Lão – Trang mặc dù khái niệm đó được giải thích theo quan niệm nhà Phật.
- Hạn chế lớn nhất của Phật giáo đối với tư duy của người Việt Nam là quan
điểm duy tâm thần bí. Quan điểm này không hướng người ta vào hiện thực mà
hướng vào quả báo, hướng vào nghiệp, vào thần linh để mong được phù hộ, độ
trì. Và một khi tư duy như vậy thì không cần khám phá tìm tòi, sáng tạo và hành
động, đưa đến sự lạc hậu với các nước.
2.2.2. Tiêu cực là do tác động bên ngoài:
- Các tệ lậu mê tín dị đoan xuất hiện. Đạo Phật đề cao trí tuệ và sự giác ngộ,
Phật Thích Ca ngay trước khi nhập Niết Bàn từng căn dặn đệ tử không được bói
toán, xem sao, xem tướng, làm những điều dị lạ, mê hoặc quần chúng, cho nên
đứng về mặt lý thuyết mà nói, đạo Phật tất nhiên phải bài xích những tập tục mê
tín, dị đoan. Ấy thế mà mâu thuẫn thay! Cũng chính từ trong đạo Phật, từ trong
các chùa chiền, không phải bây giờ mà ngay từ rất lâu, ở nhiều nước khác, kể cả
Ấn Độ và ở nước ta, từ ngay thời Lý, đạo Phật rất thịnh đạt, đã nảy nở ra nhiều
tập tục mê tín, dị đoan, tốn tiền của và không có lợi đối với phong hóa xã hội.
- Đạo Phật là đạo của trí tuệ, của giác ngộ và giải thoát, cho nên xa lạ với mê tín
dị đoan, Phật tử cầu được giác ngộ và giải thoát, chứ không cầu có quyền lực và
quyền năng siêu nhiên. Con người theo đúng lý tưởng đạo Phật phải là con
người hoàn thiện, chứ không phải là con người siêu nhiên. Phải là con người gần
gũi với đời, với người để cứu thế độ nhân, chứ không phải là kẻ sĩ ẩn lánh đời,
sống cuộc đời gọi là thanh cao nhưng không giúp ích được gì cụ thể cho đời.
- Những tác hại của mê tín dị đoan như vậy không ít. Trong khi đó, thì trong
hàng ngũ tăng ni, vì quá đông không được chọn lọc kỹ, cho nên cũng có những
kẻ đội lốt người xuất gia, làm những chuyện đồi phong bại tục, gây ảnh hưởng
rất xấu cho đạo Phật. Vì vậy, mà có lời tâu của Đàm Dĩ Mông lê vua Lý Cao
Tông năm 1198: “Bây giờ tăng đồ gần bằng số dịch phu. Chúng tự kết bè, bầu
chủ, họp nhau thành từng bầy. Chúng làm nhiều chuyện bẩn thỉu. Hoặc ở nơi
26
giới trường tịnh xá mà công nhiên rượu thịt, hoặc ở trong trai phòng, tĩnh viện
mà âm thầm gian dâm...”. Dạo gần đây, phong trào sư giả đội lốt lại phát triển,
liên tiếp được đăng lên báo chí để cảnh báo mọi người, khiến cho đạo Phật giảm
đi uy tín trong lòng người dân.
- Một vấn đề nữa chính là việc lợi dụng tín ngưỡng tôn giáo để chống phá chính
quyền nhà nước Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam của tổ chức phản động trong và
ngoài nước. Chúng đội lốt tín ngưỡng, lôi kéo người dân xuyên tạc, chống phá
nhà nước gây ảnh hưởng đoàn kết dân tộc, ảnh hưởng đến an ninh chính trị, sự
hòa bình đất nước, làm đức tin của người dân giảm xuống.
2.2.3. Ý thức của người dân:
- Phật giáo bác học cũng bị mai mọt nhiều, không còn phát huy được vai trò
hướng đạo. Các cao tăng chưa ý thức được hết vai trò của họ trong việc xây
dựng hoàn thiện nhân cách con người Việt Nam. Chẳng hạn trong các buổi
giảng kinh đàm đạo, các buổi lễ trên chùa chưa được tổ chức theo tinh thần khai
thác những tinh tuý đạo lý Phật giáo mà đa phần theo thị hiếu: cầu an, cầu
duyên, giải hạn, cầu lộc, … Người dân lên chùa thường quá chú trọng đến lễ vật,
đến các ham muốn tầm thường. Do không được giáo dục đầy đủ, đúng đắn giáo
lý nhà Phật, số đông thanh niên đã đua theo thị hiếu của mọi người. Họ đến chùa
cúng bái, thắp hương vái xin Phật, Bồ Tát phù hộ độ trì cho họ đạt dược mong
muốn của mình. Những mong muốn ấy thường là về chuyện học hành, tình
duyên, vật chất, sức khoẻ, … Họ coi đến chùa chỉ là một hình thức đi chơi, giải
trí với bạn bè kèm theo đó là sự thiếu nghiêm túc trong các đi đứng, ăn mặc, nói
năng. Số lượng học sinh, sinh viên nói riêng cũng như số lượng người dân đi
chùa ngày càng đông, song ý thức về cầu thiện, cầu mạnh về nội tâm còn quá ít
so với những mong muốn tư lợi. Có rất ít người đến chùa để tìm sự thanh thản
trong tâm hồn, để tu dưỡng nghiền ngẫm về đạo lý làm người, về cái thiện- cái
ác. Như vậy mục đích đến chùa của người dân đã sai lầm, tầm thường hoá so với
những điều mà giáo lý Phật muốn hướng con người đến.
3. Tổng kết nội dung đề tài:
Câu 1: Theo lịch sử, đạo Phật có từ khi nào?
27
(1) Từ lúc Phật Đản sanh.
(2) Từ lúc Phật Thành đạo.
(3) Từ lúc Phật Xuất gia.
(4) Trước khi Phật ra đời.
Câu 2: Vì sao đức Phật thị hiện đản sanh tại thế giới Ta bà?
(1) Vì muốn đem lợi ích rộng lớn cho đời.
(2) Vì muốn độ tất cả chúng sinh.
(3) Vì muốn đem hạnh phúc cho chư thiên và loài người.
(4) Đáp án (1), (2) và (3).
Câu 3: Theo phương diện bản thể, đạo Phật có từ lúc nào?
(1) Đạo Phật có từ vô thỉ.
(2) Khi có chúng sinh là có đạo Phật.
(3) Đáp án (1) và (2).
(4) Khi đức Phật đản sinh.
Câu 4: Nguyên nhân nào Thái tử Tất Đạt Đa xuất gia, tầm chân lý?
(1) Thấy cuộc đời vô thường.
(2) Thấy rõ các khổ của già, bệnh, chết.
(3) Vì muốn giải thoát khổ đau cho chúng sanh.
(4) Đáp án (1), (2) và (3).
Câu 5: Xá lợi do đâu mà có?
(1) Do hỏa táng sau viên tịch.
(2) Do chứng thánh quả.
(3) Do thành tựu giới, định, tuệ.
(4) Đáp án (1), (2) và (3).
Câu 6: Xuất thế gian Phật bảo nhằm chỉ cho ai?
(1) Bậc có trách nhiệm đối với bản thân, gia đình và Phật pháp.
(2) Bậc có trách nhiệm xã hội và nhân loại.
(3) Bậc đã tự giải thoát ra khỏi sự ràng buộc của thế gian.
(4) Đáp án (1), (2) và (3).

28
Câu 7: Phật dạy được thân người là khó, chúng ta nên giữ thân như thế
nào?
(1) Giữ gìn thân này đừng cho tổn hại.
(2) Cung cấp món ngon vật lạ cho thân.
(3) Không hành hạ thân thể, xem thân là chức năng lợi mình và lợi người.
(4) Sử dụng thân này cho mục đích tu học, lợi mình, lợi người.

29
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN:......................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................

30
31

You might also like