You are on page 1of 5

NHỮNG NÉT TIÊU BIỂU CỦA PHẬT GIÁO Ở VIỆT NAM

1. Khái Niệm Phật Giáo


Phật giáo hay Phật đạo là một tôn giáo đồng thời cũng là một hệ thống
của triết học có nguồn gốc từ Ấn Độ bao gồm một loạt các giáo lý, tư tưởng triết học
cũng như tư tưởng cùng tư duy về nhân sinh quan, vũ trụ quan, thế giới quan, giải
thích hiện tượng tự nhiên, tâm linh, xã hội, bản chất sự vật và sự việc; các phương
pháp thực hành, tu tập dựa trên những lời dạy ban đầu của một nhân vật lịch sử có thật
tên là Tất-đạt-đa Cồ-đàm và các truyền thống, tín ngưỡng được hình thành trong quá
trình truyền bá, phát triển Phật giáo sau thời Tất-đạt-đa Cồ-đàm.
2. Lịch Sử Phật Giáo ở Việt Nam
Phật giáo được du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, khoảng thế kỷ thứ nhất
trước Công nguyên theo đường hải và đường bộ. Những vết tích đầu tiên được
được ghi nhận với truyện cổ tích Chử Đồng Tử học đạo của một nhà sư Ấn Độ.
Đầu công nguyên, Luy Lâu (Bắc Ninh) là thủ phủ của quận Giao Chỉ sớm trở
thành trung tâm Phật giáo quan trọng. Các dấu tích của Phật giáo tại Việt Nam
được ghi nhận qua các truyền thuyết như Thạch Quang Phật và Man Nương
Phật Mẫu xuất hiện cùng với sự giảng đạo của Khâu Đà La (Ksudra) trong
khoảng các năm 168-189, Phật giáo hình thành nên hệ thống tín ngưỡng thờ Tứ
Pháp.

Do tiếp thu Phật giáo trực tiếp từ Ấn Độ nên từ Buddha (bậc giác ngộ) được
phiên âm trực tiếp thành "Bụt" và "Bụt Đà", từ đó chữ "Bụt" được dùng nhiều
trong các truyện dân gian. Phật giáo Việt Nam lúc ấy mang màu sắc của Phật
giáo Nam truyền được địa phương hóa; Bụt được dân gian hóa coi như một vị
thần cứu giúp người tốt. Sau này, vào thế kỷ thứ IV - V, do ảnh hưởng của Phật
giáo từ Trung Hoa mà từ "Bụt" bị thay thế dần bởi từ "Phật".

Phật giáo ăn sâu, bám rễ vào Việt Nam từ rất sớm. Đến thời nhà Đinh - Tiền Lê,
nhà Lý, nhà Trần, Phật giáo phát triển cực thịnh, được coi là quốc giáo, ảnh
hưởng đến tất cả mọi vấn đề trong cuộc sống. Đến đời nhà Hậu Lê thì Nho giáo
được coi là quốc giáo và Phật giáo đi vào giai đoạn suy thoái. Đến cuối thế kỷ
XVIII, vua Quang Trung cố gắng chấn hưng đạo Phật, chỉnh đốn xây chùa,
nhưng vì mất sớm nên việc này không có nhiều kết quả. Đến thế kỷ 20, mặc dù
ảnh hưởng mạnh của phong trào chấn hưng Phật giáo của các nước, Phật giáo
Việt Nam lại phát triển mạnh mẽ khởi đầu từ các đô thị miền Nam với các đóng
góp quan trọng của các nhà sư Khánh Hòa và Thiện Chiếu .

Tóm lại, lịch sử Phật giáo Việt Nam trải qua bốn giai đoạn:

Từ đầu công nguyên đến hết thời kỳ Bắc thuộc là giai đoạn hình thành và phát
triển rộng khắp;
Thời Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần là giai đoạn cực thịnh;
Từ đời Hậu Lê đến cuối thế kỷ 19 là giai đoạn suy thoái;
Từ đầu thế kỷ 20 đến nay là giai đoạn chấn hưng.
3. Nội Dung Cơ Bản Của Phật Giáo
Thực chất của đạo Phật là một học thuyết về khổ và diệt khổ. Đạo Phật
ra đời cũng từ việc đức Phật nhìn thấy sự khổ của thế gian này và mong muốn
tìm sự giải thoát khỏi nỗi khổ đó cho chúng sinh . Nói đến Phật giáo trước hết
là nói đến tư tưởng vị tha, vị nhân sinh . Phật cho rằng đời là khổ và đã tìm lấy
sự giải thoát khỏi cái khổ. Bởi vậy Phật xướng lên thuyết Tứ thánh đế hay Tứ
diệu kế. Đó là Khổ đế, Nhân đế, Diệt đế và Đạo đế. Ấy là những điều rất trọng
yếu trong đạo Phật. Vậy ta thử xét xem thế nào là khổ, tập, diệt, đạo.

- Khổ đế: là chân lí về bản chất của nỗi khổ. Khổ là gì? Đó là trạng thái buồn
phiền phổ biến ở con người do sinh, lão , bệnh, tử, do mọi nguyện vọng không
được thỏa mãn.

- Nhân đế: Là chấn lí về nguyên nhân của nỗi khổ. Đó là do ái dục và vô minh
(kém sáng suốt). Dục vọng thể hiện thành hành động là Nghiệp (karma), hành
động xấu khiến con người phải nhận hậu quả của nó (nghiệp báo), thành ra cứ
luẩn quẩn trong vòng luân hồi không thoát ra được.

- Diệt đế: là chân lí về cảnh giới diệt khổ. Nỗi khổ sẽ được tiêu diệt khi nguyên
nhân gây ra khổ bị loại trừ. Sự tiêu diệt khổ đau gọi là niết bàn (nirvana, nghĩa
đen là “ không ham muốn, dập tắt”). Đó là thế giới của sự giác ngộ và giải
thoát.

- Đạo đế: là chân lí chỉ ra con đường diệt khổ. Con đường diệt khổ, giải thoát và
giác ngộ đòi hỏi phải rèn luyện đạo đức( giới), tư tưởng (định) và khai sáng trí
tuệ (tuệ).
4. Vai trò của phật giáo trong đời sống
Đối với Chính trị:

Mặc dù, Đảng cộng sản Việt Nam đã xác định lấy chủ nghĩa Mác –
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và lý luận, tuy nhiên, do
sự tồn tại lâu đời mà vô tình nhiều quan điểm của đạo Phật cũng đã bén rễ trong
đời sống chính trị của Việt Nam. Nhiều quan điểm của đạo Phật được hiện thực
hóa trong một số chủ trương, chính sách của Nhà nước. Ví dụ như quan điểm
“kiến thiết một xã hội mới” mà căn bản là con người mới. Tức là khi những cái
cũ (sự bóc lột, đàn áp, độc tài, xâm lược) không còn nữa thì kết quả là được cái
mới – một xã hội mới, nơi mà quyền sống tuyệt đối bình đẳng: bình đẳng trong
nhiệm vụ, bình đẳng trong hưởng thụ. Vận dụng điều này, Nhà nước đã tạo điều
kiện hết sức cho nhân dân có thể thực hiện quyền làm chủ của mình tuy vậy,
vẫn đặt ra những giới hạn để không để sự tự làm chủ đó trở thành tiêu cực.

Ngoài ra, trong quá trình cải tổ bộ máy nhà nước và phát triển xã hội, quan
điểm “đối trị tâm bệnh của con người là trước hết” cũng được Nhà nước áp
dụng khá triệt để. Để lý giải quan điểm này, ta thấy trước hết, con người là
trung tâm của xã hội loài người, xã hội ấy tồn tại hay suy vong đều hoàn toàn
do hoạt động của con người chi phối, mà hoạt động của con người lại do tâm trí
điều khiển, vì vậy, xã hội chẳng khác nào là phản ánh của tâm trí con người.
Cho nên, muốn cải tạo xã hôi, căn bản phải cải tạo con người, cải tạo “tâm
bệnh” của con người. Tâm bệnh ở đấy, không phải là trạng thái bệnh lý mà là
nhưng cái xấu, những cái “khuyết tật”, hạn chế tồn tại trong tâm trí của mỗi
người. Tâm bệnh của con người nếu độc tài, tham làm thì xã hội loài người là
địa ngục; tâm bệnh con người được trị rồi thì hoạt động con người rất sáng suốt
mà xã hội con người, kết quả của hoạt động ấy cũng rất cực lạc(1). Lĩnh hội
được điều này, để có một bộ máy quan chức trong sạch, công chính, liêm minh,
Nhà nước ta đã phát động phong trào học tập và làm theo tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh, và hơn thế nữa, còn đưa ra những biện pháp trừng trị, răn đe đối
với những trường hợp vi phạm đạo đức nghề ngiệp như tham ô, tham nhũng (ví
dụ: các tội phạm về chức vụ được quy định trong Bộ luật hình sự)…. Dù Phật
giáo tuy không còn là nền của chính trị xong một số quan điểm tiến bộ của Phật
giáo vẫn được các chính trị gia sử dụng một cách có hiệu quả trong công cuộc
kiến thiết, xây dựng đất nước.

Đối với Kinh tế:

Có lẽ, trong lĩnh vực này, ai cũng nghĩ, ý nghĩa, vai trò của Phật giáo vô
cùng mờ nhạt. Tuy vậy mà không phải như thế. Phật giáo tuy không tác động
trực tiếp và việc định hướng phát triển kinh tế xã hội ở mỗi địa phương mà chỉ
là những yếu tố góp phần khai sáng mặt nhận thức của người dân. Vì mục đích
của Phật giáo là xây dựng đời sống an lạc và giải thoát, nhưng muốn an lạc thì
đời sống kinh tế phải vững mạnh, phát triển, hài hòa. Hiểu được lời dạy của
phật thì đồng bào ở một số nơi dẽ tránh được những hủ tục lạc hậu, tốn kém
nhưng giết trâu, mổ bò để cưới xin, ma chay hay cúng giàng, cúng thần linh, ma
quỷ. Khi có tiền rồi thì cần biết tiết kiệm (tích cốc phòng cơ) để đề phòng
những tình huống khẩn cấp xảy ra…. Ngoài ra, trong quá tình sinh hoạt, lễ
chùa, các phật tử hoặc những người không phải phật tử cũng có cơ hội gặp gỡ,
kết bạn, tìm hiểu, giúp đỡ nhau trong cuộc sống. Đạo phật giúp mỗi con người
có thể thực sự thấu hiểu lẫn nhau, từ sự thấu hiểu mới có thể quan tâm, suy
nghĩ, tương hỗ lẫn nhau. Trong hoạt động chính trị hay trong mỗi chính sách
phát triển kinh tế ở mỗi địa phương, dân có hiểu cán bộ, cán bộ có thực sự yêu
dân, vì dân thì mới mong có thể cùng nhau hợp tác, thực hiện các chính sách
phát triển ở địa phương, cũng như trên cả nước.

Đối với Tư tưởng – Văn hóa – Xã hội:

Phật giáo có chứa đựng nhiều giá trị văn hóa, đạo đức. Những giá trị này
đã ảnh hưởng không nhỏ tới nền văn hóa ở mỗi quốc gia mà nó dừng chân. Với
văn hóa Việt Nam cũng vậy. Nhờ có Phật giáo, nền văn hóa Việt Nam càng thể
hiện rõ hơn sự đa dạng, đặc sắc của mình.
Với lịch sử gần 2000 năm du nhập vào Việt nam, Phật giáo đã thấm sâu
vào trong đời sống văn hóa của dân tộc Việt Nam. Trong văn học dân gia, hình
ảnh Ông Bụt hiện lên như một nét đặc trưng của văn hóa dân gian Việt Nam.
Người Việt Nam sợ thần, thánh, ma quỷ nhưng lại không sợ ông Bụt. Nếu
Trung Quốc có các Thần, Tiên thì chúng ta có Ông Bụt. Ông bụt tuy có quyền
năng vô hạn nhưng lại luôn cứu giúp người. Chúng ta luôn hình dung một Ông
Bụt hiền lành, nhân hậu, thương người và đặc biệt luôn cứu giuso những người
lương thiện và cảnh cáo, trừng trị kẻ ác (đây là một trong những biểu hiện của
triết lý nhân quả - gieo nhân nào thì gặt quả nấy, ở hiền gặp lành, ác giả ác báo).
Người Việt Nam, từ thuở còn tập đi, đã được ông bà, cha mẹ kể cho nghe
những câu chuyện cổ tích, Tấm Cám, rồi Cây tre trăm đốt… khi lớn lên, ắt hẳn
đều mang trong mình quan niệm về thiện – ác ở đời. Cũng bởi những câu
chuyện ấy, ăn sâu vào tâm hồn Người Việt là nét văn hóa hiền lành, thật thà,
chất phác.
Một khía cạnh khác là việc sáng tạo hình ảnh phật bà Quan âm, từ hình ảnh
Quan thế âm Bồ Tát của Ấn Độ. Điều này dễ hiểu bởi đặc trưng của văn hóa Việt Nam
là nền văn hóa hỗn dung, đề cao vai trò của người phụ nữ, và theo quan niệm, Phật
hiển hiện ở kháp mọi nơi và không chỉ dản sinh là đàn ông mà tùy theo từng trường
hợp có thể là nữ giới, Vì vậy, Bồ tát Quan Thế Âm chuyển từ trong tiềm thức của nhân
dân thành Phật Quan Âm.

Ngoài ra, đóng góp quan trọng của văn hóa Phật giáo là ngôi chùa. Các ngôi chùa cũng
qua những giai đoạn khác nhau, nhưng về cơ bản vẫn là chùa làng theo đúng nghĩa. Đi
chùa vốn đã trở thành nét sinh hoạt văn hóa của nhiều người dân Việt Nam trên đường
trở về của một đời người. Hiện nay, chùa không chỉ là nơi lưu giữ những giá trị văn
hóa của các thời đại lịch sử Việt Nam, mà còn trở thành điểm đến của nhiều du khách,
muốn chiêm ngưỡng mái chùa, mái đình cong – kiến trúc đình chùa của người Việt,
mà còn để tìm đến với những giá trị truyền thống xưa.

Trong bối cảnh ngày nay, Phật giáo Việt Nam vừa tích cực tham gia giảng đạo cho
chúng sinh, vừa tham gia các phong trào như đề ơn đáp nghĩa, tri ân các thương binh
liệt sĩ, gắn liền với đạo lý uống nước nhớ nguồn của dân tộc…. Nhân dịp tết cố truyền,
Giáo hội tổ chức phát quà tết cho người nghèo, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo…
từ đó là tăng thêm truyền thống lá lành đùm lá rách. Không chỉ gìn giữ những giá trị
tốt đẹp của văn hóa dân tộc, mà còn truyền lại cho phật tử, cho nhiều thế hệ người Việt
Nam, Phật giáo đã từng bước khẳng định vai trò, ý nghĩa quan trọng của mình trong
nền văn hóa dân tộc trước bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay.

Trước thực trạng xã hội và trong bối cảnh toàn cầu hóa, Phật giáo có ý nghĩa vô cùng
quan trọng trong việc nuôi dưỡng, cảm hóa tâm hồn thế hệ trẻ Việt Nam, giữ gìn, phát
huy những giá trị văn hóa truyền thống để tiếp bước cha ông xây dựng một nền văn
hóa Việt nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, không để bị ảnh hưởng bởi nền kinh tế
thị trường. Để làm được điều đó, chúng ta cũng nên chung tay giữ gìn sự trong sáng
của văn hóa Phật giáo ở Việt Nam.
Một số vấn đề cơ bản của Phật giáo hiện nay
- Sự xuất hiện nhiều trường phái, ngoài ba tông phái chính của Phật giáo ở Việt
Nam là Thiền Tông, Tịnh Độ Tông và Mật Tông thì còn những dạng Phật – Thần
quyền, Bùa, Ngải,…
- Sự lạm dụng tôn giáo – Phật giáo hiện nay là tiêu cực hóa của tôn giáo, khi mà
nó đã phát triển cực thịnh và trở nên phổ biến trên khắp mọi phương diện từ giáo pháp,
giáo lý đã dễ dàng và mạnh mẽ đưa vào đời sống văn hóa xã hội.
- Thứ nhất, các tài liệu, giáo lý – pháp được truyền tải mà người tiếp cận khó
kiểm chứng được sự đúng – sai.
- Thứ hai, có những “bậc thầy” Phật giáo có thể giải quyết được các vấn đề này
nọ của con người – hiện trạng phổ biến trên mạng xã hội hiện nay.
- Thứ ba, Phật giáo hiện nay bị xem như hàng hóa trong sự đan xen giữa tôn giáo
với tín ngưỡng, văn hóa bản địa Việt Nam nói chung và vùng miền nói riêng, tạo nên
những màu sắc khác nhau, nổi bật là sự mê tín – dị đoan đã có từ trước đến nay.
- Thứ tư, sự xuất hiện nhiều trường phái khoác màu áo Phật giáo ra đời trong bối
cảnh nở rộ mạnh mẽ văn hóa, tôn giáo hiện nay:
+ Khuynh hướng thần – thánh hóa: Nhiều trường phái mang tính cách Phật giáo đã có
từ lâu như Thần Quyền, Võ Bùa, Bùa, Ngải, Phù Thủy,… Các phái này có sử dụng
dấu hiệu Phật giáo để mà phát triển như là hình ảnh ngài A – Di – Đà Phật hoặc chữ
Vạn
+ Khuynh hướng phân chia nội bộ: Phật giáo được chia thành ba tông phái chính là:
Tịnh Độ, Thiền và Mật, đó là sự phân chia theo phương pháp tu hành; hoặc phân chia
Tiểu Thừa và Đại Thừa theo tính phổ quát về khả năng truyền tải giáo lý, giáo pháp
+ Khuynh hướng biến tấu Phật giáo: sự “chế biến” giáo pháp theo hướng mới ngày
càng được nhân rộng khắp nơi, tuy nhiều cái đạt được các thành tựu lớn trong việc áp
dụng giáo pháp cho phù hợp với đặc trưng vùng miền, tôn giáo – tín ngưỡng bản địa
đã được công nhận

You might also like