You are on page 1of 30

A.

LỊCH SỬ TRIẾT HỌC


Câu 1: Đặc điểm nổi bật của Triết học Ấn Độ cổ đại? Nội dung Triết
học Phật giáo Ấn Độ cổ đại? Ý nghĩa, liên hệ thực tiễn hoạt động nghề nghiệp?

Trả lời:
1. Đặc điểm nổi bật của Triết học Ấn Độ cổ đại:
a. Hoàn cảnh kinh tế - xã hội:
- Nền triết học Ấn Độ cổ đại hình thành rất sớm, vào khoảng giữa thiên niên kỷ thứ 3
TCN, qua 3 thời kỳ: nền văn minh sông Ấn (TK XXV-XV TCN), nền văn minh Veda
(TK XV-VII TCN), triết học tôn giáo (TK VI-I TCN).
- Điều kiện tự nhiên: thiên nhiên có những vùng phì nhiêu màu mỡ, lại cũng có những
vùng rất khắc nghiệt.
- Điều kiện lịch sử xã hội: xã hội hình thành các đẳng cấp chính: Tăng lữ, quý tộc,
bình dân tự do, tiện nô. Con người bị đè ép dưới 2 áp lực (nhân quyền và thần quyền).
Từ đó đặt ra vấn đề giải thoát con người, giải thoát trong đời sống tâm linh.
* Triết học Ấn Độ cổ đại hình thành 2 trào lưu lớn (hay 2 hệ thống):
+ Hệ thống chính thống (Atstika) thừa nhận tính đúng đắn của Kinh Veda. Gồm có
trừơng phái: Samkhya, Mimansa, Vaisesika, Ngaya, Yoga, Vedanta.
+ Hệ thống không chính thống (tà giáo, gọi là Natstika): không thừa nhận tính đúng
đắn của Kinh Veda. Gồm có cá trừơng phái Lokayata (triệt để theo CNDV), Jaina,
Buddha (Phật giáo).
b. Đặc điểm của triết học Ấn Độ cổ đại: (theo bài cô giảng trên lớp) 7 đặc điểm:
- Triết học chịu ảnh hưởng lớn của những tư tưởng tôn giáo và rất khó tách biệt với tư
tưởng tôn giáo. Trong các quan niệm triết học, kể cả quan niệm duy vật đều ẩn sau
các lễ nghi tôn giáo huyền bí, và các nhà triết học cũng là những người làm công việc
tôn giáo.
- Triết học Ấn Độ phong phú, đa dạng nhưng biến đổi chậm chạp.- Triết học Ấn Độ ít
có những cuộc cách mạng lớn, chủ yếu có tính cải cách.
Các trường phái đi sau thường kế thừa, bảo vệ, làm rõ quan điểm của trường phái đi
trước
- Mỗi trường phái có một tác phẩm gốc.
- Trong khi giải quyết những vấn đề bản thể luận, nhận thức luận và nhân sinh quan,
triết học Ấn Độ cổ đại đã thể hiện trình độ biện chứng và tầm khái quát sâu sắc, đưa
lại nhiều đóng góp cho kho tàng triết học nhân loại.
- Học thuyết triết học Ấn Độ quan niệm đời sống con người phải giải thoát.
- Triết học và tôn giáo, duy vật và duy tâm, biện chứng và siêu hình đan xen nhau, tạo
nên nét đặc sắc riêng biệt.
2. Nội dung Triết học Phật giáo:
Phật giáo ra đời cuối TK XVI TCN, do Thái tử Suddarta sáng lập, sau khi
đắc đạo ông được gọi là Buddha (Phật) hay Thích Ca Mâu Ni.
Tư tưởng triết học Phật giáo được trình bày trong kinh Tam tạng, bao gồm Tạng kinh,
Tạng luận, và Tạng luật.
a. Bản thể luận (Thế giới quan): thể hiện ở nội dung của các phạm trù: vô tạo giả, vô
ngã, vô thường, và nhân duyên.
- Vô tạo giả (không có đấng sáng tạo): Phật giáo bác bỏ Brahman và cho rằng thế giới
không do vị thần nào sáng tạo ra. Theo Phật giáo, mọi vật đều có nguyên nhân nhưng
ko có nguyên nhân đầu tiên, do đó cũng ko có người sáng tạo đầu tiên.
- Vô ngã (không có cái tôi): Thế giới, nhất là thế giới hữu tính – con người được cấu
tạo do sự nhóm họp của các yếu tố vật chất (Sắc), và tinh thần (Danh). Danh và Sắc
chỉ hội tụ với nhau theo một nhân duyên nào đó trong một thời gian ngắn rồi chuyển
sang trạng thái khác, do vậy ko có cái tôi trường tồn, bất biến.
- Vô thường: Bản chất của sự tồn tại Thế giới là một dòng biến chuyển liên tục, do đó
không có cái gì là vĩnh hằng. Vũ trụ là một hệ thống các quan hệ. Thế giới sự vật hiện
tượng luôn biến hiện theo chu trình: sinh-trụ-dị-diệt; thành-trụ- hoại-không.
- Nhân duyên: Phật giáo cho rằng mọi sự vật, hiện tượng đều nằm trong quá trình vận
động chịu sự chi phối của luật nhân duyên quả. Nhân là nguyên nhân, quả là kết quả,
duyên là điều kiện để nhân mau biến thành quả. Trong quá trình nhân quả tương tục,
duyên vừa là kết quả của quá trình cũ, vừa là nguyên nhân của quá trình mới. Có
nhân, có duyên thì mới có quả, nhân nào quả nấy. Thế giới không tốt cũng không xấu,
không hoàn thiện cũng không khiếm khuyết, không thiện cũng không ác. Con đường
phát triển của Thế giới được tiền định bởi nghiệp của con người. Con người luôn bị
ràng buộc bởi các quy luật tự nhiên. Sự vận động của Thế giới do những nguyên nhân
bên trong gây ra chứ ko do tác động bên ngoài, bởi vì nó chính là quy luật, nguyên
nhân hoặc tính tât yếu.
b. Nhân sinh quan: Là quan điểm về cuộc sống. Phật giáo quan niệm bản thân con
người được tạo thành do sự nhóm họp của Ngũ uẩn (sắc, thụ, tưởng, hành, thức) theo
luật nhân-duyên-quả.
- Thuyết luân hồi:
+ Luân hồi nghĩa là bánh xe quay tròn.
+ Nghiệp báo: Do hành động của mình gây ra, phải chịu trách nhiệm từ kiếp này đến
kiếp sau. Sự xuất hiện của con người còn phụ thuộc vào nghiệp của kiếp trước. Được
trở lại làm người là do kiếp trước chưa tu thân triệt để, cuộc đời vẫn chưa thoát khỏi
bể khổ. Phật giáo ra đời để cứu khổ, cứu nạn, để giải thoát con người khỏi vòng luân
hồi khổ ải bất tận đó.
+ Con đường giải thoát: chỉ có 1 cách là con người phải thành tâm, làm điều thiện, tu
tâm, dưỡng tính.
- Quan niệm về đời người: đời là bể khổ, nước mắt của chúng sinh nhiều hơn nước
của 4 biển.
Để giải thoát, giáo lý Phật giáo đưa ra quan điểm “Tứ Diệu đế”:
+ Khổ đế: Đời là bể khổ. Cái khổ của cuộc đời gồm có Bát khổ: Sinh, lão,
bệnh, tử, sở cầu bất đắc (muốn mà ko được), hu biệt ly (yêu mà phải xa), oán tăng hội
(ghét mà phải gặp), ngũ uẩn (những khổ sở tiềm tàng trong người).
+Nhân đế (Tập đế): Mọi cái khổ đều có nguyên nhân. Phật giáo quan niệm có 12
nguyên nhân gây ra khổ (thập nhị nhân duyên): Vô minh, duyên hành, duyên thức,
duyên danh sắc, duyên lục nhập, duyên xúc, duyên thụ, duyên ái, duyên thủ, duyên
hữu, duyên sinh, duyên lão tử. Trong đó nguyên nhân gốc rễ là vô minh (không sáng
suốt). 12 nguyên nhân này khái quát bởi Tam độc là tham, sân, si.
+ Diệt đế: Phật giáo khẳng định cái khổ có thể diệt được, có thể chấm dứt
luân hồi để đến với Niết bàn, nơi bình an, hạnh phúc. Mọi thứ phát sinh đều tùy thuộc
vào nguyên nhân và điều kiện, khi nguyên nhân bị loại bỏ thì kết quả ko còn tồn tại.
Muốn diệt khổ phải diệt tham, sân, si.
+ Đạo đế: Phật giáo chỉ Tám con đường chính (Bát chính đạo) để giải
thoát, diệt khổ, tức là tiêu diệt tham, sân, si là: chính kiến, chính tư duy, chính ngữ,
chính nghiệp, chính mệnh, chính tinh tiến, chính niệm, chính định. Bát chính đạo
được thâu tóm vào Tam học là: Giới – giữ giới luật để diệt tham, Định – thực hành
thiền định để diệt sân, Tuệ - khai thông trí tuệ để diệt si.
3. Ý nghĩa:
Phật giáo là một tôn giáo lớn của thế giới. Nhưng học thuyết Phật giáo có sự kế thừa
một cách chọn lọc truyền thống tư tưởng Ấn Độ. Tư tưởng triết học Phật giáo mang
tính duy vật chất phác và biện chứng sơ khai. Tư tưởng vũ trụ của Phật giáo thể hiện
lập trường triết học duy vật với cách nhìn biện chứng tổng thể của vũ trụ là một trong
những tư tưởng tiến bộ khoa học của thời kỳ cổ đại, nó không những đã đặt nền móng
cho sự phát triển của các xu hướng triết học duy vật ở Ấn độ mà nó còn góp phần thúc
đẩy sự phát triển của các khoa học tự nhiên và của toàn bộ lịch sử triết học Phương
Đông.
Lý tưởng thiện chân trong học thuyết này thể hiện như là một đức tính tốt
đẹp mà con người cần phải có, và có thể đạt được. Mỗi con người muốn đạt được sự
giải thoát phải thực sự nỗ lực trên cơ sở tự do lựa chọn của mình. Để khẳng định
phẩm chất đạo đức cá nhân, con người phải chiến thắng chính bản thân mình. Trong
khổ đau vả giải thoát ra khỏi nỗi đau đó, mọi người đều bình đẳng.
Tuy nhiên, xu hướng xuất thế, lảng tránh cuộc sống thực tiễn trần thế là
điểm yếu của Phật giáo. Phật giáo khuyến khích con người tu luyện theo cách hướng
nội, làm thay đổi tâm lý cá nhân chứ ko có mục đích cải tạo xã hội, cải tạo tự nhiên
theo hướng tích cực.
4. Liên hệ:
a. Trong đời sống:
- Phật giáo có bản chất từ bi, bác ái: phải biết yêu thương đồng loại, sống hiền lành,
giúp đỡ người khác, biết vị tha.
- Quy luật nhân quả: Mọi việc xảy ra đều có nguyên nhân. Mọi vấn đề muốn giải
quyết phải tìm nguyên nhân và sửa chữa.
- Thuyết luân hồi: Khi gặp bất trắc: không than trời trách đất mà nghĩ rằng do nghiệp
của kiếp trước, để bình thản chấp nhận, phấn đấu vượt qua và tu tỉnh để hóa giải
nghiệp ác đó.
- Tiếp thu trên tinh thần tích cực, bài trừ mê tín dị đoan.
b. Trong hoạt động chuyên môn:
- Theo quan niệm Phật giáo, mọi nỗi khổ đều có nguyên nhân, bệnh tật cũng vậy.
Nguyên nhân gây ra nỗi khổ nằm trong chính bản thân con người. Do vậy, để điều trị
bệnh cần phải tim nguyên nhân và chữa lành nguyên nhân đó. Mặt khác, con người
được cấu tạo từ vật chất và tinh thần (danh và sắc) nên chữa bệnh cho con người phải
chú ý đến cả hai mặt thể xác và tinh thần.
- Dựa vào thuyết “Tứ diệu đế”, y học đã đề ra những phương pháp chữa bệnh như
Thiền (hành thiền duy trì sức khỏe vượt qua bệnh tật giúp giải trừ bệnh để đi tới giải
thoát. Thiền mang lại an lạc, hạnh phúc, thiền có cái chánh niệm và để tự giác ngộ
phải từ bỏ cái ngã), Khí công (giữ tâm bình, nghĩ và làm những điều thiện).
- Phật giáo đề cập nhiều đến đạo đức. Làm trong ngành Y tế, chúng ta phải nỗ lực học
tập và rèn luyện ko ngừng cả về chuyên môn và đạo đức.
Câu 2: Đặc điểm Triết học trung Hoa cổ đại? Nội dung Triết học Nho
giáo của Khổng Tử? Rút ra ý nghĩa và vận dụng vào hoạt động chuyên môn và
đời sống?

Trả lời:
1. Đặc điểm triết học Trung Hoa cổ đại:
a. Hoàn cảnh kinh tế - xã hội:
Nền lịch sử Trung Hoa cổ đại chủ yếu xuất hiện vào thời Xuân thu-Chiến
quốc kéo dài khoảng 500 năm bắt đầu từ TK VII, kết thúc ở TK II TCN. Đây là thời
kỳ chiếm hữu nô lệ ở phương Đông bắt đầu tan rã, xã hội Trung Hoa cổ đại trải qua
nhiều biến động mạnh mẽ. Thể chế thống nhất của nhà Chu phân hóa trong tình cảnh
chiến tranh và bạo lực, đất nước bị chia cắt thành hàng trăm các quốc gia lớn nhỏ
khác nhau. Trong bối cảnh nói trên các nhà tư tưởng Trung Hoa với tinh thần ái quốc
đã nghiên cứu, khởi thảo, phát triển các hệ thống lý luận, tìm hiểu phản ánh những
nguyên nhân làm cho xã hội Trung Hoa biến động, phải tìm ra con
đường đưa đất nước trở lại sự ổn định, thống nhất, thịnh trị.
b. Đặc điểm: 5 đặc điểm:
- Nền triết học Trung Quốc cổ đại mang màu sắc của những học thuyết chính trị xã
hội, thể hiện tinh thần nhân bản và cách nhận thức con người và xã hội trên nền tảng
của các giá trị cổ đại phương Đông. Triết học Trung hoa cổ đại chú trọng đến lĩnh vực
chính trị-đạo đức của xã hội, coi việc thực hành đạo đức là hoạt động thực tiễn căn
bản nhất của một đời người, đặt lên vị trí thứ nhất của sinh hoạt xã hội.
- Triết học Trung Quốc nhấn mạnh tinh thần nhân văn, lấy triết lý nhân sinh làm hạt
nhân. Còn triết học về tự nhiên thì mờ nhạt.
- Triết học Trung Hoa cổ đại ít có những cuộc cách mạng lớn, chủ yếu là có tính cải
cách. Trường phái đi sau kế thừa và phát triển tư tưởng của các trường phái đi trước.
(Giống với TH Ấn Độ cổ đại).
- Nền triết học Trung Quốc cổ đại không chú trọng nghiên cứu thế giới trong tính
chỉnh thể thống nhất của nó, các nhà triết học ưu tiên nghiên cứu các vấn đề thuộc về
xã hội và con người. Triết học Trung Quốc cổ đại không đặt vấn đề nghiên cứu con
người dưới dạng là một thực thể thống nhất giữa cái sinh học và cái xã hội. Triết học
Trung Quốc cổ đại không trực tiếp nêu lên hệ thống các khái niệm, nguyên lý của triết
học với tư cách là công cụ của nhận thức triết học. Các nhà triết học Trung Quốc cổ
đại chỉ sử dụng hệ thống các khái niệm nói lên một cách gián tiếp nhằm thể hiện ý chí
và mục đích chính trị xã hội của mình.
- Phương thức duy vật và duy tâm đan xen vào nhau trong một trường phái triết học,
không có sự phân biệt rạch ròi.
2. Nội dung Triết học Nho giáo của Khổng Tử:
Nho giáo do khổng Tử sáng lập, có lịch sử lâu đời ở trung Quốc, ảnh hưởng lớn đến
lịch sử nhà nước phong kiến Trung Quốc.
Kinh điển của Nho giáo gồm có Tứ thư và Ngũ kinh.
Nho giáo là một học thuyết với chủ trương giáo huấn đạo đức. Học thuyết
này lấy mục đích chính trị là thiết lập trật tự xã hội làm đầu và đạo đức làm phương
tiện để thực hiện mục đích đó. Vấn đề con người và đường lối trị nước là nội dung tư
tưởng cơ bản nhất của Nho giáo.
2.1. Vấn đề con người: Việc giải quyết vấn đề con người trong nho giáo cũng đồng
thời là sự truy tìm điều cốt lõi của tưởng trị nước. Học thuyết này chỉ chú trọng đến
bản tính con người, các mối quan hệ người và giáo dục mà ko đề cập nhiều đến nguồn
gốc con người.
Theo quan điểm của Khổng Tử, bản tính con người là giống nhau, bởi lẽ
“người ta ai cũng ham thích giàu sang và chán ghét sự nghèo hèn”. Tuy nhiên vì nhu
cầu đó và bị chi phối bởi tập tính và tập quán mà con người ngày càng xa nhau (Tính
tương cận dã, tập tương viễn dã). Bản tính người là trời phú. Không chỉ thế trời còn
ban mệnh cho con người (Tư tưởng Thiên mệnh).
- Về các quan hệ người:
Đầu tiên phải kể đến quan hệ của con người với bản thân. Nho giáo coi trọng sự
nghiêm khắc trong việc tu thân, tích đức. Trước hết phải rèn luyện Ngũ
thường (Nhân, lễ, nghĩa, trí, tín). Nam thì giữ Tam cương, Ngũ thường; nữ thì giữ
Tam tòng (tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử), Tứ đức (công, dung,
ngôn, hạnh).
Quan hệ của con người với người khác: Nho giáo lấy quan hệ gia đình làm xuất phát
điểm. Theo đó, Khổng Tử nêu ra Ngũ luân (5 quan hệ người có thứ bậc): quan hệ vua-
tôi là nhân trung, quan hệ cha con là từ hiếu, quan hệ chồng vợ là nghĩa tùy, quan hệ
anh em là nhượng đễ, quan hệ bạn bè là tín. Các mối quan hệ này dần quy về 3 mối
quan hệ cơ bản nhất là Tam cương: vua-tôi, chacon, chồng-vợ. Tam cương chịu sự chi
phối của học thuyết âm dương, ở đó vua, cha, chồng thuộc dương; tôi, con, vợ thuộc
âm. Âm phục tùng dương vô điều kiện (đây là những mối quan hệ một chiều): Quân
xử thần tử, thần bất tử bất trung. Phụ xử tử vong, tử bất vong bất hiếu. Phu xướng,
phụ tùy.
- Về giáo dục con người: Nho giáo coi trọng giáo huấn đạo đức và hình thành nhân
cách của mẫu người lý tưởng, giáo dục là biện pháp hữu hiệu nhất để thiết lập kỷ
cương xã hội. Chính Khổng Tử là người đầu tiên xây dựng nền giáo dục tư thục ở
Trung Quốc cổ đại với quan điểm “hữu giáo, vô loại”, nghĩa là không phân biệt giàu
nghèo, vị thế xã hội, ai muốn học đều được học. Theo ông, học cốt để nắm được đạo,
tức là làm quan, trở thành người quân tử. Nội dung giáo dục gồm Tứ giáo (văn, hạnh,
trung, tín), nếu giải trí cần biết thêm lục nghệ (ngự, xạ, thư, số, lễ, nhạc). Trước hết
phải phân loại để dạy cho phù hợp. Đối với hạng trung trí trở lên cần dạy cho những
điều cao siêu thuộc hình nhi thượng; còn hàng trung trí trở xuống thì dạy những điều
cần thiết để họ biết mà ứng xử trong cuộc sống được tốt hơn. (Khổng tử chia con
người ra làm 3 nhóm: Thánh nhân
là những người không cần học cũng biết; Quân tử là những người học cao hiểu rộng;
Thảo dân là những người có học cũng không biết). Học phải đi đôi với tập, với suy tư,
và phải biết đem những điều học được áp dụng trong cuộc sống.
- Ngoài học tập, Khổng Tử còn kêu gọi từ Thiên tử chí thường dân, phải lấy tu thân
làm gốc, bởi lẽ có tu thân mới tề được gia, sau đó đến trị quốc và bình thiên hạ.
2.2. Đường lối trị nước: Tư tưởng đức trị. Nho giáo đề ra chủ trương trị nước bằng
đạo đức, nghĩa là lấy đao đức để cảm hóa con người, cốt để con người biết tự trọng,
xấu hổ mà ko vi phạm pháp luật. Người cầm quyền không chỉ lấy đức để trị nước cho
thiên hạ theo về, mà còn phải nêu gương đạo đức cho thiên hạ học tập. Đức của người
cầm quyền được thể hiện qua 3 phạm trù cơ bản là Nhân, Lễ, và Chính danh.
- Nhân là phạm trù đạo đức cao nhất và bao trùm nhất với nội dung là yêu
thương con người. Nhân là trung thứ, tức là suy ta ra người: những gì mình muốn
thành đạt thì giúp người cùng đạt, những gì mình ko muốn thì đừng làm cho người.
Hiếu đễ là gốc của nhân, tuân thủ lễ để làm người có nhân.
- Lễ bao gồm lễ nghi tế tự và nghi thức ứng xử. Nho giáo chú trọng cả hai
phương diện, song nghi thức ứng xử được các nhà sáng lập của nó đề cập nhiều hơn,
bởi lẽ lễ là nguyên tắc ứng xử của con người. Nhà vua lấy lễ để sai khiến bề tôi, còn
bề tôi lấy trung mà thờ vua.
- Chính danh là biện pháp chống lại sự tiếm quyền, vượt quyền. Mỗi người đều có
bổn phận của mình và hoạt động trong phạm vi bổn phận mang tính tiền định đó.
“Danh có chính thì ngôn mới thuận, ngôn có thuận thì việc mới thành, việc thành thì
lễ nhạc mới cất lên được và dân đỡ lúng túng”. Như vậy, Danh gắn liền với định phận
(tiền định).
Ba phạm trù trên là điều kiện cần nhưng chưa đủ. Khổng Tử còn yêu cầu người cầm
quyền phải có Trí và Dũng. Trí để phân biệt phải trái. Dũng là có đủ can đảm để làm
việc nghĩa. Ngoài ra, ông còn yêu cầu người cầm quyền phải “cung, khoan, tín, mẫn,
huệ”.
Trên cơ sở học thuyết đức trị của Khổng Tử, Mạnh Tử nêu tư tưởng trị nước Nhân
chính và Thống nhất. Nhân chính đề cao vị thế của dân: nhà cầm quyền phải chú
trọng đến đời sống của dân, lo cho dân có của ăn của để, làm được điều đó mới mong
đợi sự hằng tâm của dân. Ông còn có tư tưởng dân chủ khi cho rằng, những kẻ tàn ác
mà cầm quyền thì sẽ bị trời và dân lật đổ. Mạnh tử còn có chủ trương Thống nhất,
chống chiến tranh và cát cứ. Quan điểm này xuất phát từ thực trạng xh Trung Quốc cổ
đại thời Chiến quốc loạn lạc, chiến tranh triền miên.
Đến Đổng Trọng Thư, việc phục hồi vị thế Nho giáo Khổng-Mạnh được xem là tâm
điểm trong học thuyết Hán Nho, đưa Nho giáo lên vị trí độc tôn, làm trụ đỡ cho hệ tư
tưởng của nhà nước phong kiến trung ương tập quyền. Thuyết Thiên mệnh của Nho
giáo Khổng-Mạnh được luận giải, nhờ đó trời được nhân cách hóa và trở thành thủy
tổ của loài người. Yếu tố thần quyền thực chất là thay thế cho pháp trị hà khắc mà nhà
Tần đã sử dụng để trị nước. Nhờ sự kết hợp đức trị với thần quyền như vậy mà chế độ
phong kiến tập quyền ở Trung Hoa duy trì sự tồn tại của nó hơn 1000 năm.
3. Ý nghĩa:
Mặc dù có tồn tại những bất cập, hạn chế, còn đậm tính duy tâm, nhưng những ý
nghĩa và giá trị của triết học Nho giáo là điều không thể phủ nhận.
Nho giáo đã xây dựng và tạo lập thành công truyền thống học tập và tự phát huy bản
thân qua việc rèn luyện bản thân một tinh thần học tập, ham học hỏi, hoàn thiện bản
thân mình qua việc học tập và thực hành.
Với chủ trương coi trọng đạo đức, Nho giáo đã góp phần tạo dựng cho con người lối
sống có trách nhiệm với gia đình, đất nước, với cả chính mình, và đặc biệt là coi trọng
trật tự, kỷ cương. Nho giáo đã tạo ra một cộng đồng xã hội có tôn ti, trật tự, hòa mục
từ trong gia đình đến đất nước, thiên hạ.
Nho giáo khuyến khích mọi người đi sâu tìm hiểu những quan hệ xã hội, những vấn
đề của thực tiễn chính trị, pháp luật và đạo đức.
Các quy định về nghi thức, lễ nghi và thuyết Chính danh của Khổng tử giúp cho xã
hội sắp xếp quy cũ, trật tự và luôn đề cao việc tuân thủ các đạo đức ứng xử trong gia
đình và xã hội. Điều này mang lại cho con người thói quen và hình thành nên truyền
thống được lưu truyền qua nhiều thế hệ.
4. Vận dụng: (Tham khảo)
Tiếp thu những ưu điểm và khắc phục những hạn chế từ triết học Nho giáo của Khổng
Tử, chúng ta có thể vận dụng vào đời sống và hoạt động chuyên môn.
- Trong đời sống:
Tu thân: Bản thân phải không ngừng học tập, tu dưỡng kiến thức và đạo đức để xây
dựng cuộc sống gia đình, và góp phần xây dựng xã hội.
Nho giáo hướng con người vào con đường ham học hỏi. Học đi đôi với thực hành để
đạt hiệu quả cao.
Nhân: Trong đối nhân xử thế, việc gì mình không thích thì không làm với
người khác, có thái độ khiêm nhường, sống có nhân-lễ-nghĩa-trí-tín. Cư xử đúng mực
với mọi người.
Sống có trật tự, kỷ cương.
Có lòng yêu nước và trung thành với Tổ quốc.
Coi trọng đạo hiếu: kính trên, nhường dưới, hiếu thảo với cha mẹ, thương
yêu anh chị em.
Không vi phạm pháp luật.
- Trong hoạt động chuyên môn ngành y:
Trong ngành y, phải tìm nguyên nhân của bệnh để tìm ra cách điều trị chứ ko đổ lỗi
do trời. Phải đứng trên lập trường khoa học để giải thích cho bệnh nhân hiểu, đi
ngược lại tư tưởng “thiên mệnh”.
Người thầy thuốc ngoài chuyên môn (trí) vững vàng còn phải có đạo đức
nghề nghiệp: tận tụy, yêu thương bệnh nhân (nhân), có trách nhiệm với công việc
(nghĩa), thực hiện đúng quy chế, chuẩn mực trong cư xử (lễ), nói đi đôi với làm (tín),
và quyết tâm đến cùng vì mục đich đúng đắn (dũng).
Không ngừng học hỏi, rèn luyện, trau dồi kiến thức chuyên môn để phục vụ cho công
việc.
Đề cao y đức. Thực hiện lời thề Hyppocrates. Người thầy thuốc phải thông cảm với
nỗi đau của bệnh nhân, xem bệnh nhân cũng như chính bản thân mình.
Tận tình thăm khám, cứu chữa, ko phân biệt giàu nghèo, sang hèn, không làm trái
lương tâm nghề nghiệp, không vì bất cứ lý do gì mà làm điều bất nhân.
Luôn giữ lễ nghĩa và có lòng nhân ái với tất cả bệnh nhân và đồng nghiệp.
Coi trọng đạo đức nghề nghiệp.
Bên cạnh điều trị bệnh đúng theo phác đồ, bác sỹ cũng cần quan tâm, ân cần, động
viên người bệnh, để họ tin tưởng, hợp tác, không buông xuôi.
Xem trọng nghĩa hơn danh lợi. Coi trọng những việc đem lại lợi ích chung.

Câu 3: Đặc điểm triết học Hy Lạp cổ đại? Nội dung cốt lõi triết học Hy
Lạp cổ đại? Đánh giá những giá trị và hạn chế của Triết học Hy Lạp cổ đại?

Trả lời:
1. Đặc điểm triết học Hy Lạp cổ đại:
1.1. Điều kiện ra đời:
Hy Lạp cổ đại là quốc gia rộng lớn nằm ven biển Địa Trung Hải, có khí hậu ôn hòa,
có điều kiện tự nhiên thuận lợi cho trồng trọt, phát triển hàng hải và giao thương với
các nước Tiểu Á, Bắc Phi và các nước phương Đông. Nhờ vậy, Hy Lạp cổ đại sớm trở
thành một quốc gia có một nền công thương nghiệp phát triển, một nền văn hóa tinh
thần phong phú đa dạng.
Thế kỷ XV-IX TCN: chế độ công xã nguyên thủy tan rã, chế độ chiếm hữu nô lệ hình
thành. TK VIII – VI trước CN, nhân loại chuyển từ thời đại đồ đồng sang đồ sắt, năng
xuất lao động tăng nhanh, sản phẩm dồi dào, chế độ sở hữu tư nhân được cũng cố, kéo
theo phân công lao động, thúc đẩy trao đổi, buôn bán, giao lưu với các vùng lân cận.
Từ điều kiện kinh tế đã dẫn đến sự hình thành chính trị - xã hội, xã hội phân hóa ra
làm hai giai cấp xung đột nhau là chủ nô và nô lệ. Lao động bị phân hóa thành lao
động chân tay và lao động trí óc. Đất nước bị chia phân thành nhiều nước nhỏ.
Thế kỷ II TCN, Hy Lạp bị đế quốc La Mã xâm chiếm và đô hộ. Tuy nhiên, La Mã lại
bị Hy Lạp đồng hóa về văn hóa.
Vì điều kiện kinh tế, nhu cầu buôn bán, trao đổi hàng hóa mà các chuyến
vượt biển đến với các nước phương Đông trở nên thường xuyên. Tất cả các lĩnh vực,
những yếu tố của nước bạn đều được người Hy Lạp đón nhận.
Trong thời đại này Hy Lạp đã xây dựng được một nền văn minh vô cùng
sáng lạng với những thành tựu rực rỡ thuộc các lĩnh vực khác nhau, từ văn học, nghệ
thuật đến luật pháp, toán học, thiên văn, vật lý... Và đặc biệt, người Hy Lạp cổ đại đã
để lại một di sản triết học vô cùng đồ sộ và sâu sắc.
1.2. Đặc điểm:
- Triết học Hy Lạp cổ đại mang tính chất mộc mạc, sơ khai. Triết học có mối liên hệ
với thần thoại và các hình thức sinh hoạt tôn giáo nguyên thủy.
- Tính bao trùm về mặt lý luận của triết học với tất cả các lĩnh vực của nhận thức.
Triết học đóng vai trò nhận thức phổ quát có tính sơ khai, trực quan. Triết học gắn bó
mật thiết với khoa học tự nhiên để tổng hợp mọi hiểu biết về các lĩnh vực khác nhau,
nhằm xây dựng một bức tranh về thế giới như một hình ảnh chỉnh thể thống nhất mọi
sự vật.
- Tính đa dạng muôn vẻ và sự phân cực quyết liệt: có những trường phái đối lập nhau
ngay từ đầu, không có sự đan xen vào nhau như triết học phương Đông. Sự phân cực
đó thể hiện ở hai quan điểm: duy vật, và duy tâm.
- Tính biện chứng chất phác sơ khai. Thể hiện trong sự khám phá các quy luật tự
nhiên, các quy luật nhận thức. Các nhà triết học đã nhìn nhận các sự vật, hiện tượng
và thế giới trong sự biến đổi nhưng đó chỉ là kết quả của cảm nhận trực quan, thiếu
tính liên hệ sâu sắc, phổ biến, bản chất. Các nhân tố cấu thành thế giới mà các nhà
triết học duy vật Hy Lạp cổ đại hướng tới thường là các yếu tố trực quan trong đời
sống hàng ngày như đất, nước lửa, không khí…
- Nổi bật tính nhân văn sâu sắc, thể hiện qua sự kết hợp lý trí-đức hạnh, khôn ngoan-
mực thước, khát vọng tự do-trách nhiệm công dânVới tư cách là kho tàng tri thức
tổng hợp, kết tinh từ những gì tinh túy nhất
mà nhân loại đã tích lũy được, triết học Hy lạp cổ đại đã dung chứa hầu hết các vấn đề
của thế giới quan và là tiền đề cho sự phát triển của toàn bộ triết học phương Tây về
sau.
2. Nội dung cốt lõi Triết học Hy Lạp cổ đại:
Đỉnh cao của nền văn minh cổ đại đó chính là triết học Hy Lạp cổ đại, và
cũng là điểm xuất phát của lịch sử thế giới. Về cơ bản các nhà triết học cổ đại Hy lạp
kể cả các nhà triết học duy vật và các nhà triết học duy tâm đều cố gắng phát triển lý
luận triết học dưới dạng một hệ thống bao gồm lý luận về học thuyết tồn tại phản ánh
thế giới quan.
- Quan điểm của chủ nghĩa duy vật:
Thales là nhà triết học đầu tiên. Ông là người đầu tiên giải thích về vũ trụ:
vạn vật không bắt nguồn từ thần linh mà bắt đầu từ nước.
Democrit đưa ra thuyết nguyên tử luận: thế giới có cấu tạo từ nguyên tử,
nguyên tử là đơn vị nhỏ nhất không thể phân chia được, các nguyên tử đồng nhất về
mặt chất lượng nhưng khác nhau về mặt số lượng và cấu trúc. Về vận động nguyên tử
được quy về vận động cơ học tức là sự dịch chuyển, thay đổi vị trí của nguyên tử và
các vật thể ở trong không gian.
Heraclit coi bản nguyên của thế giới là lửa. Vũ trụ không phải do Thượng Đế hay một
lực lượng siêu nhiên nào đó tạo ra, mà nó “đã” và “đang” sẽ mãi mãi là ngọn lửa vĩnh
hằng không ngừng bùng cháy và lụi tàn theo quy luật nội tại của chính mình. Ông
xem thế giới “vừa tồn tại vừa không tồn tại”, “không ai tắm hai lần trong một dòng
sông”. Thế giới vật chất “vừa đa dạng vừa thống nhất, vừa mang tính hài hòa vừa
xung đột”. Ông đã thừa nhận sự thống nhất mâu thuẫn của 2 mặt vận động và đứng
im, sinh thành và hiện hữu. Heraclit cũng là người đầu tiên
nêu ra mối quan hệ giữa nội dung khách quan của cái phản ánh với hình thức chủ
quan của quá trình phản ánh chính là tư duy của con người có thể phản ánh phù hợp
tương đối với đối tượng phản ánh đó là mối quan hệ biện chứng giữa nội dung và hình
thức. Heraclit cũng là người đầu tiên đã trình bày khái niệm Logos. Logos là sự thống
nhất giữa các yếu tố tạo nên sự vật nhưng nó không phải là sự thống nhất giữa các yếu
tố rời rạc mà là sự thống nhất của những mối liên hệ tất yếu ở trong quá trình các yếu
tố của sự vật thường xuyên liên hệ tác động qua lại và quy định lẫn nhau. Heraclit
khẳng định tư duy của con người là logos chủ quan, có thể
phản ánh phù hợp tương đối với logos khách quan.Empedocles thừa nhận khởi
nguyên của thế giới là bốn yếu tố : đất, nước, lửa và không khí.
Anaxagorax cho rằng cơ sở đầu tiên của tất cả mọi sự vật là “những hạt
giống”. Anaxagorax xem “ mọi cái được trộn lẫn trong mọi cái”.
- Quan điểm của chủ nghĩa duy tâm:
Pitago là nhà triết học, toán học uyên bác. Ông cho rằng “con số” là bản
nguyên của thế giới, là bản chất của vạn vật. Một vật tương ứng với một con số nhất
định, con số có trước vạn vật. Và tư tưởng Pitago cũng thừa nhận sự bất tử và luân hồi
của linh hồn.
Xénophane cho rằng mọi cái đều từ đất mà ra, và cuối cùng trở về đất. Đất là cơ sở
của vạn vật. Cùng với nước, đất tạo nên sự sống của muôn loài.
Parménide cho rằng, “tồn tại” là bản chất chung thể hiện tính thống nhất của vạn vật
trong thế giới, mang tính khái quát cao, và nhận thức bởi tư duy, lý tính.
Zeno đưa ra những Aporic nghĩa là tình trạng không có lối thoát hay nghịch lý.
Thông qua chúng, ông chứng minh rằng, “tồn tại là đồng nhất, duy nhất là bất biến”.
Còn tính phức tạp, đa dạng và vận động của thế giới là không thực.
Platon là nhà triết họ duy tâm xuất sắc nhất. Ông cho rằng thế giới bắt nguồn từ ý
niệm tuyệt đối.
Socrate, khác với nhiều nhà bác học khác là không nghiên cứu về giới tự nhiên, ông
dành phần lớn nghiên cứu về con người, đạo đức, về nhân sinh quan.
Triết học không gì khác hơn là sự nhận thức của con người về chính mình. Ông cho
rằng, “Hiểu biết là cơ sở của điều thiện, ngu dốt là cội nguồn của cái ác, và chỉ có cái
thiện phổ biến mới là cơ sở của đạo đức, mới là cơ sở của đức hạnh”.
- Quan niệm của chủ nghĩa nhị nguyên:
Aristote là học trò xuất sắc của Platon, nhưng đặc biệt ông phê phán học
thuyết “ý niệm” của Platon. Ông cho rằng thuộc tính quan trọng của thế giới là “vận
động”. Tự nhiên là toàn bộ của sự vật có một bản thể vật chất mãi mãi vận động và
biến đổi. Thông qua vận động mà giới tự nhiên được thể hiện. Aristot là người khởi
đầu xây dựng logic học với tư cách là logic nhận thức ông đã chỉ ra mối quan hệ phụ
thuộc và kéo theo tạo ra sự phát triển của nhận thức như mối quan hệ giữa khái niệm
và phán đoán, giữa phán đoán và suy luận chính là cơ sở hình thành tư duy trừu
tượng. Aristot là người đầu tiên đưa ra lý thuyết về Tam đoạn luận (tư duy 3 đoạn).
Tuy nhiên, triết học của Aristote còn hạn chế, dao động giữa chủ nghĩa duy vật và chủ
nghĩa duy tâm.3.
Những giá trị và hạn chế của Triết học Hy Lạp cổ đại:
3.1. Giá trị:
- Triết học Hy Lạp cổ đại như hồi chuông thức tỉnh giấc mộng thần thánh muôn đời
của người dân Hy Lạp, tách ly vai trò của thần thánh ra khỏi ý thức hệ của con người.
- Vai trò của tự nhiên và con người được đề cập một cách khách quan. Nhằm đi đến
tìm hiểu con người và tự nhiên từ đâu mà có và đi về đâu. Tư tưởng của các triết gia
về vấn đề con người và xã hội phản ánh thực tiễn điều kiện, hoàn cảnh kinh tế, xã hội
Hy Lạp giai đoạn này.
- Đạo đức lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại được đề cập.
- Triết học Hy Lạp cổ đại đã đánh dấu sự xuất hiện và cũng là cơ sở để phát triển
những tư tưởng mới, tiến bộ, và là nền tảng cho các trường phái triết học sau này.
- Khoa học Duy nghiệm và Duy lý manh nha hình thành.
- Trả lời phần nào câu hỏi: Con người có khả năng nhận thức thế giới không?
3.2. Hạn chế:
- Triết học cổ Hy Lạp còn nằm trên tư duy trừu tượng là chủ yếu.
- Quan điểm duy vật mới chỉ dừng lại ở tính mộc mạc, sơ khai.
- Các vấn đề triết học còn chưa rõ ràng, còn rời rạc chưa hệ thống hóa một cách chặt
chẽ.
- Do hạn chế của sự khái quát thuộc về trình độ nhận thức đặc trưng của thời đại nên
các nhà triết học đồng nhất vật chất với một hoặc một số dạng biểu hiện của vật chất,
làm hạn chế vai trò phương pháp luận của triết học và không đáp ứng được sự phát
triển của khoa học tự nhiên trong quan niệm về vật chất.
- Tuy có đề cập đến vai trò của con người, nhưng chưa hoàn toàn tách khỏi yếu tố
thần linh.
B. TRIẾT HỌC MAC – LÊNIN
Câu 1: Phân tích nội dung nguyên lý về mối liên hệ phổ biến. Vận
dụng ý nghĩa phương pháp luận vào trong hoạt động thực tiễn hàng
ngày của anh/ chị

Nuyên lý mối liên hệ phổ biến


1.Khái niệm
+Là sự tác động ảnh hưởng lẫn nhau của các sự vật trong thế giới.
+Các sự vật tồn tại trong thế giới không phải tồn tại độc lập một mình riêng lẽ. Mỗi
sự vật tồn tại nhờ sự tương tác với sự vật khác, vì vậy mối liên hệ là sự tương tác ảnh
hưởng lẫn nhau giữa các sự vật hiện tượng trong thế giới.
+Ví dụ: Covid 19 ảnh hưởng đến sản xuất tiêu dùng, miền Trung bão lụt ảnh hưởng
đời sống người dân.
2.Tính chất
+Tính khách quan: Mối liên hệ sự vật tồn tại khách quan trong thế giới, không phụ
thuộc vào ý thức của con người, dù con người muốn hay không muốn nó vẫn tồn tại,
diễn ra. Mối liên hệ diễn ra ngoài ý thức, ngoài ý chí, ngoài ý muốn của con người.
 Ví dụ: Dịch Covid 2020 ảnh hưởng thế giới, chỉ có 10 nước tăng trưởng
dương trong đó có Việt Nam, còn toàn bộ thế giới tăng trưởng âm.
 Ví dụ: Do Covid nên đi đâu cũng phải mang khẩu trang.
 Ví dụ: Môi trường biến đổi khí hậu do loài người khai thác cạn kiệt tài nguyên
thiên nhiên, làm băng ở Bắc cực Nam cực tan, nước biển dâng lên, ngập mặn
không có nước ngọt cho con người dùng.
+Tính phổ biến: Mối liên hệ có ở cả ba lĩnh vực lớn của thế giới là: giới tự nhiên, đời
sống xã hội, và tư duy con người.
 Giới tự nhiên: các sự vật hiện tượng tương tác với nhau để thúc đẩy nhau phát
triển theo quy luật thích ứng với môi trường.
Ví dụ: Thành phố Hồ Chí Minh có hiện tượng kẹt xe vì làm trái quy luật
mối liên hệ. Công thức giao thông loài người rút ra tối thiểu 25% diện tích đô
thị là làm đường giao thông, còn lại 75% là làm nhà, trường học, bệnh viện.
Nhưng TP HCM và Hà Nội chỉ có 6% diện tích làm đường giao thông, dẫn
đến tắc đường kẹt xe. Kẹt xe tắc đường cũng do xây nhiều nhà cao tầng trong
trung tâm đô thị.
Ví dụ: Quy luật nước chảy xuống chổ trũng. TPHCM cao nhất Bắc, thấp
nhất Nam, cao ở Đông và thấp ở Tây. Làm thành phố Phú Mỹ Hưng chắn
ngang dòng nước chảy thoát nước, và lấp hết hồ ao trữ nước trong nội thành.
Chúng ta không hiểu quy luật nước chảy chổ trũng nên chữa ngập úng bằng đổ
đường lên cao và bơm nước bằng máy bơm, kết quả là vẫn không chữ được
ngập.
 Đời sống xã hội: nước có nền kinh tế phát triển tác động làm chế độ chính trị
phát triển, tác động làm văn hóa phát triển, tác động làm y tế giáo dục phát
triển. Và ngược lại, các lĩnh vực này cũng tác động lại kinh tế làm kinh tế phát
triển.
 Tư duy con người: Tư duy và tri thức của con người là phản ánh tất cả các
hiện tượng tự nhiên xã hội vào bộ óc con người, trong quá trình phản ánh đó
cũng có kế thừa những tri thức của thời đại trước.
Ví dụ: tạo hóa sinh ra con người có sự sắp đặt các cơ quan khoa học hoàn
hảo, mà không nhà khoa học nào có thể sắp xếp mới lại được, mắt ở phía trước
nhận thấy nguy hiểm, não ở trong sọ để được bảo vệ…
 Mối liên hệ có ở tất cả các lĩnh vực lớn trên thế giới. Trong mỗi lĩnh vực cũng
chằng chịt mối liên hệ. thậm chí trong một sự vật cũng rất nhiều mối liên hệ.
Ví dụ: trong điều kiện kinh tế thị trường hội nhập toàn cầu hóa hiện nay,
một người sống ẩn dật thì cũng là một kiểu mối liên hệ, do tác động nào bên
ngoài như áp lực xã hội hoặc thất tình mà làm anh ta thu mình lại, đó là một
kiểu mối liên hệ, chứ không phải không gặp ai là không có mối liên hệ.
Ví dụ: chúng ta có mối quan hệ huyết thống với họ hàng, là công dân chúng
ta có mối quan hệ chính trị phải tuân theo, chúng ta phải tuân theo quy luật
giao thông, tuân theo quy luật giá trị đạo đức, đoàn thể.
 Cho nên con người có hàng trăm mối liên hệ chằn chịt. Người thành đạt là
người phải bao quát và làm chủ các mối liên hệ, chứ không thể bỏ qua mối
liên hệ nào.
3.Phân loại mối liên hệ
+Các mối liên hệ mang tính đa dạng phong phú, mỗi sự vật khác nhau thì mang mối
liên hệ khác nhau, cùng một sự vật nhưng trong các hoàn cảnh sống khác nhau thì có
mối liên hệ khác nhau. Vì các mối liên hệ phong phú và nhiều nghĩa nên triết học
phân loại một số mối liên hệ sau:
+Mối liên hệ bên trong và Mối liên hệ bên ngoài:
 Mối liên hệ bên trong: là mối liên hệ giữa các yếu tố và các mặt bên trong sự
vật mà nó cấu thành.
 Mối liên hệ bên ngoài: là mối liên hệ giữa sự vật này với sự vật khác.
 Triết học Marx cho rằng mối quan hệ bên trong là ở vị trí trung tâm và quyết
định sự tồn tại phát triển của sự vật. Mối liên hệ bên ngoài cũng rất quan
trọng, nhưng giữ vai trò hỗ trợ sự phát triển sự vật hiện tượng chứ không quyết
định sự tồn tại của sự vật hiện tượng.
 Chính vì căn cứ vào triết học này nên Đảng và nhà nước ta từ trước đến nay
luôn xác định tư tưởng “tự lực cánh sinh” là chính, đồng thời tranh thủ sự ủng
hộ của quốc tế thế giới bên ngoài. Từ kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ và
thời kỳ đổi mới hiện nay cũng vậy. Sau cách mạng 1945 bác Hồ nói “một dân
tộc không tự lực cánh sinh, luôn luôn phải dựa vào bên ngoài, thì không xứng
đáng hưởng độc lập tự do”. Nhưng tự lực cánh sinh không phải là tự trói mình
cô lập lại mà tranh thủ sự giúp đỡ bên ngoài.
 Ví dụ: Trong kháng chiến chống Mỹ, đất nước chúng ta nghèo phải đối đầu
cường quốc đứng đầu thế giới, chúng ta phải dựa vào hệ thống xã hội chủ
nghĩa Liên Xô, nhưng cái quyết định cuộc chiến tranh đó là do chúng ta quyết
định.
 Ví dụ: trong công cuộc đổi mới hiện nay các ngước cho nước mình vay tiền và
chuyển giao công nghệ, nhưng con người Việt Nam giữ vài trò quyết định.
Khi chúng ta bắt đầu đổi mới, quỹ tiền tệ thế giới khuyên Việt Nam phải rút
kinh nghiệm của các nước Châu Phi, khi hội nhập vay tiền nước ngoài phải
biết kiểm soát đồng tiền và biết cách tiêu tiền, vì đến hạn trả tiền vay không
được sẽ bị kiểm soát mất quyền độc lập phải làm thuê trên chính đất nước của
mình.
+Mối liên hệ cơ bản và Mối liên hệ chủ yếu:
 Mối liên hệ cơ bản: là mối liên hệ bên trong sự vật, nhưng nó ra đời ngay khi
sự vật ra đời, nó tồn tại suốt quá trình phát sinh phát triển và diệt vong của sự
vật hiện tượng.
 Mối liên hệ chủ yếu: Mỗi sự vật phát triển qua nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn
lại nổi lên một mối liên hệ hàng đầu, đó là mối liên hệ chủ yếu. Ví dụ: Trong
một khóa học, có mối liện hệ giữa chúng ta và toàn bộ khố lượng tri thức khóa
học, thế nhưng trong giai đoạn đầu có mối liên hệ nổi lên hàng đầu là mối liên
hệ tư duy của chúng ta với Triết học, khi chúng ta chuyển sang môn học khác
thì mối liên hệ tư duy của chúng ta với môn học khác là chủ yếu.
+Mối liên hệ không gian và thời gian của sự vật (hay còn gọi là mối liên hệ lịch sử cụ
thể):
 Sự vật nào ra đời cũng có hình dáng, kích thước, màu sắc của nó. Toàn bộ
hình dáng kích thước màu sắc đó khái quát là không gian của sự vật, vì vậy
không gian bao giờ cũng là không gian ba chiều thể hiện chiều dài-chiều rộng-
chiều cao.
 Sự vật nào cũng có điểm ra đời và hoàn cảnh ra đời của nó, rồi tồn tại phát
triển qua nhiều giai đoạn, đến lúc mất đi. Tất cả quá trình ra đời, tồn tại, phát
triển, mất đi gọi là thời gian của sự vật. Thời gian bao giờ cũng chỉ có một
chiều quá khứ, hiện tại, tương lai. Thế nên thế giới có 4 chiều bao gồm 3 chiều
không gian và 1 chiều thời gian. Không gian hiện thực chỉ có 3 chiều, nhưng
trong khoa học cho phép hình dung tưởng tượng ra sự vật có vô tận chiều để
nghiên cứu mô phỏng.
4.Ý nghĩa mối liên hệ phổ biến
+Trong cuộc sống, để thành công được thì phải quán triệt thực hiện được quan điểm
toàn diện. Vì sự vật là chằn chịt các mối liên hệ, nên trong nhận thức và nghiên cứu
để biết sự vật là cái gì thì phải xem xét rất nhiều mối liên hệ. Không nên xem xét qua
loa một vài mối liên hệ, đã vội vàng kết luận sự vật hiện tượng là gì, mà phải nghiên
cứu xem xét rất nhiều mối liên hệ.
Ví dụ xem xét mối liên hệ kinh tế cũng phải xem xét bao quát các mối liên hệ
chính trị, dân tộc, tôn giáo, phong tục tập quán. Nếu không thì sẽ giải quyết được kinh
tế nhưng vi phạm phong tục tập quán của người ta, nhất là tôn giáo, gây ra hậu quả rất
lớn.
+Trong thực tiễn, chúng ta vận dụng tri thức và đường lối phát triển của nhà nước vào
trong công việc địa phương của mình thì chúng ta phải xem xét rất nhiều mối liên hệ
thực tiễn, phải tính toát tất cả mối liên hệ để áp dụng chính sách cho đúng.
Ví dụ: chủ nghĩa Marx vận dụng phong trào công nhân để thành lập Đảng cộng
sản. Nhưng Hồ Chí Minh áp dụng sáng tạo tình hình nước ta là áp dụng chủ nghĩa
Marx Lenin vào phong trào công nhân và thêm vào phong trào yêu nước để thành lập
Đảng cộng sản, là bởi vì bác hồ căn cứ vào thực tiễn dân tộc Việt Nam là công nhân
Việt Nam thời điểm đó rất ít, mà nông dân lại đông và có đặc điểm yêu nước. Bác Hồ
dựa vào lực lượng công nhân và nông dân yêu nước để tạo Đảng cộng sản có sức
mạnh.
Ví dụ: tăng lương cơ bản, phải xét hàng loạt các mối liên hệ. Nhà nước phải đàm
phán với khối kinh tế ngoài nhà nước, rồi lại phải tính đến vùng miền ngành nghề độc
hại, rồi phải xem xét tăng lương có làm giá cả hàng hóa tăng không, rồi phải thông
báo với các nước ASIAN xem có ảnh hưởng đến các nước khác không.
Câu 5: Phân tích nội dung và ý nghĩa của hai nguyên lý mối liên hệ
phổ biến và nguyên lý về sự phát triển.

Trả lời:
Phép biện chứng duy vật được xây dựng trên cơ sở một hệ thống những nguyên lý,
những phạm trù cơ bản, những quy luật phổ biến phản ánh đúng đắn hiện thực. Trong
hệ thống đó, nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển là hai
nguyên lý khái quát nhất.
1. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến:
Chủ nghĩa duy vật Macxit cho rằng, giữa các sự vật, hiện tượng luôn có sự tác động,
ảnh hưởng, chi phối lẫn nhau. Liên hệ là khái niệm chỉ sự phụ thuộc lẫn nhau, sự ảnh
hưởng, tương tác và chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng trong thế giới,
hay giữa các mặt, các yếu tố, các thuộc tính của một sự vật, hiện tượng, một quá trình.
Liên hệ phổ biến là khái niệm nói lên rằng mọi sự vật, hiện tượng trên thế giới (cả tự
nhiên, xã hội và tư duy) dù đa dạng phong phú, nhưng đều nằm trong mối liên hệ với
các sự vật hiện tượng khác. Cơ sở của mối liên hệ này là tính thống nhất vật chất của
thế giới.
Mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng có tính khách quan, phổ biến, và rất đa dạng,
phong phú. Khách quan bởi lẽ nó là vốn có của sự vật, không ai gán cho sự vật. Phổ
biến vì nó tồn tại ở cả tự nhiên, cả trong xã hội, cả ở tư duy. Phong phú, đa dạng nghĩa
là có cả mối liên hệ bên trong, mối liên hệ bên ngoài, mối liên hệ bản chất-không bản
chất, mối liên hệ tất nhiên-ngẫu nhiên…
Từ nguyên lý về mối liên hệ phổ biến, triết học duy vật Macxit rút ra ý nghĩa phương
pháp luận để định hướng cho hoạt động nhận thức và thực tiễn của con người, đó là
quan điểm toàn diện và quan điểm lịch sử-cụ thể.
- Quan điểm toàn diện yêu cầu khi xem xét sự vật hiện tượng phải xem xét tất cả các
mặt, các yếu tố của nó, tuy nhiên phải có trọng tâm, trọng điểm; xem xét sự vật trong
mối liên hệ với sự vật, hiện tượng khác. Trong hoạt động thực tiễn, muốn cải tạo sự
vật phải thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp; phải xác định, đánh giá đúng vị trí, vai trò
của từng mối iên hệ đối với sự vận động, phát triển của sự vật.
- Quan điểm lịch sử-cụ thể đòi hỏi xem xét, nhận thức sự vật luôn gắn với
điều kiện lịch sử cụ thể, xác định trong không gian, thời gian xác định, cụ
thể; tránh chung chug, đại khái.
2. Nguyên lý về sự phát triển:Chủ nghĩa duy vật Mácxit coi phát triển là quá trình vận
động theo hướng đi lên từ thấp tới cao, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.
Sự phát triển diễn ra không phải lúc nào cũng theo đường thẳng mà rất quanh co,
phức tạp, thậm chí có thể có những bước lùi tạm thời.
Phát triển không chỉ là sự tăng lên, giảm đi về lượng, mà còn là sự nhảy vọt về chất,
là quá trình diễn ra theo đường xoáy ốc và hết mỗi chu kỳ, sự vật lặp lại dường như sự
vật ban đầu nhưng ở cấp độ cao hơn.
Nguồn gốc của sự phát triển chính là sự thống nhất và đấu tranh của những mặt đối
lập bên trong của sự vật quy định.
Sự phát triển cũng có 3 tính chất là khách quan, phổ biến, và đa dạng phong phú.
Khách quan vì nó diễn ra ngay bên trong sự vật, là quá trình giải quyết liên tục những
mâu thuẫn nảy sinh trong sự tồn tại và vận động của sự vật. Phổ biến ở chỗ nó diễn ra
ở tất cả các lĩnh vực (tự nhiên, xã hội, tư duy), ở bất cứ sự vật, hiện tượng nào của thế
giới khách quan. Phong phú, đa dạng nghĩa là, phát triển là xu hướng chung nhưng
mỗi sự vật, hiện tượng lại có quá trình phát triển không giống nhau, chịu sự tác động
của rất nhiều yếu tố, điều kiện làm thúc đẩy hay kìm hãm sự
phát triển, thậm chí đổi hướng phát triển của sự vật.
Từ nguyên lý về sự phát triển, triết học duy vật Macxit rút ra ý nghĩa phương pháp
luận là phải có quan điểm phát triển trong nhận thức và hoạt động thực tiễn.
- Trong nhận thức, khi nhận thức sự vật không chỉ nhận thức nó trong hiện tại mà còn
phải thấy được khuynh hướng vận động, phát triển của nó trong tương lai. Trên cơ sở
đó dự báo những tình huống có thể xảy ra để chủ động nhận thức, giải quyết. Xem xét
sự vật theo quan điểm toàn diện còn phải biết phân chia quá trình phát triển của sự vật
ấy thành những giai đoạn. Trên cơ sở ấy để tìm ra phương pháp nhận thức và cách tác
động phù hợp nhằm thúc đẩy sự vật tiến triển nhanh hơn hoặc kìm hãm sự phát triển
của nó, tùy theo sự phát triển đó có lợi hay có hại đối với đời sống của con người. -
Trong hoạt động thực tiễn cần chống bảo thủ, trì trệ, ngại đổi mới, bởi lẽ mọi sự vật,
hiện tượng trong thế giới luôn vận động, biến đổi và phát triển. Phát triển là khó khăn,
bao gồm cả sự thụt lùi tạm thời, do vậy trong hoạt động thực tiễn, khi gặp khó khăn,
thất bại tạm thời phải biết tin tưởng vào tương lai.
Câu 6: Phân tích nội dung qui luật từ những sự thay đổi về lượng
dẫn đến sự thay đổi về chất. Vận dụng ý nghĩa của phương pháp luận
vào trong hoạt động hằng ngày của anh chị

Quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về lượng hình thành những thay đổi về chất và
ngược lại
Vị trí quy luật:
Qui luật này có vị trí vạch ra cách thức của sự phát triển của sự vật và hiện tượng, tức
là quá trình phát triển từ lượng đến chất và sự tác động từ chất đến lượng, tồn tại
khách quan, phổ biến, đa dạng, phong phú trong mọi lĩnh vực
Khái niệm chất, lượng:
Chất: là khái niệm dùng để chỉ tính quy định của sự vật, hiện tượng, là sự thống nhất
hữu cơ các thuộc tính cấu thành sự vật, hiện tượng đó, phân biệt với sự vật, hiện
tượng khác.
Chất là sự thống nhất hữu cơ của các thuộc tính, nhưng chỉ có các thuộc tính cơ bản
thì mới tạo nên chất của sự vật, hiện tượng. Mỗi sự vật, hiện tượng tổn tại nhiều chất
khác nhau, gắn với sự tồn tại tương đối của nó
Lượng: là khái niệm dùng để chỉ tính quy định khách quan của sự vật, hiện tượng về
quy mô, trình độ phát triển, biểu thị bằng con số các yếu tố, các thuộc tính cấu thành
nó.
Sự phân biệt giữa chất và lượng có tính tương đối
Quan hệ biện chứng giữa chất và lượng
 Sự thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất
Trong điều kiện bình thường, sự vật, hiện tượng thống nhất ở một mức độ nhất định
Độ là mối liên hệ biện chứng, là tính quy định lẫn nhau giữa chất và lượng, và trong
mối liên hệ đó, sự vật, hiện tượng vẫn còn là nó, chứ chưa chuyển hóa thành sự vật,
hiện tượng khác
Lượng và chất tạo thành mâu thuẫn biện chứng trong mỗi sự vật, hiện tượng. Khi
lượng phát triển đến giới hạn điểm nút, thì sự vật, hiện tượng thực hiện bước nhảy để
chuyển hóa về chất. Bước nhảy được thực hiện với quy mô và nhịp độ khác nhau
 Sự tác động của chất đối với lượng:
Khi chất mới ra đời, chất mới tác động đến lượng mới, làm cho sự vật, hiện tượng
thay đổi về kết cấu, tính chất, quy mô, tốc độ, trình độ của quá trình vận động, phát
triển
-Ý nghĩa phương pháp luận:
Trong nhận thức và thực tiễn, cần coi trọng cả 2 mặt chất và lượng của sự vật, hiện
tượng
Cần khắc phục khuynh hướng tả khuynh và hữu khuynh trong mọi hoạt động của con
người, vì quy luật của sự vận động và phát triển thể hiện tính biện chứng của mối
quan hệ giữa lượng và chất
Phát huy vai trò nhân tố chủ quan của con người trong nhận thức và vận dụng quy luật
vào hoạt động cải biến tự nhiên và xã hội
Câu 3: Phân tích nội dung qui luật qui luật quan hệ sản xuất phù
hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Sự vận dụng của
Đảng và nhà nước ta thời kỳ trước và sau thời kỳ đổi mới.

Bài làm:
Lịch sử nhân loại đã chứng minh rằng: Mỗi hình thái kinh tế - xã hội có một
phương thức sản xuất riêng. Đó là cách thức con người thực hiện trong quá trình sản
xuất vật chất ở mỗi giai đoạn lịch sử nhất định. Phương thức sản xuất vật chất là sự
thống nhất biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Để phân tích
được nội dung qui luật này trước hết chúng ta cần làm rõ khái niệm: Lực lượng sản
xuất, Quan hệ sản xuất.
A. Lực lượng sản xuất:
Là phạm trù của CNDVLS dùng để chỉ mối quan hệ giữa con người với giới tự nhiên
Là sự thống nhất giữa tư liệu sản xuất ( trước hết là công cụ lao động) và người lao
động với kinh nghiệm kỹ năng, thói quen và tri thức nhất định để sản xuất ra sản
phẩm.
( Học viên cần phân tích vai trò của các yếu tố cấu tạo thành LLSX)
Thứ 1: Vai trò của người lao động
Thứ 2: Vai trò của tư liệu sản xuất
 Tư liệu lao động ( CCLĐ + PTLĐ)
 Đối tượng lao động ( Sẵn có + Nhân tạo)
B.Quan hệ sản xuất:
Là phạm trù của CNDVLS dùng để chỉ mối quan hệ giữa con người với con người
trong quá trình sản xuất và tái sản xuất vật chất.
QHSX thể hiện ở 3 mặt:
T1: QH sở hữu Tư liệu sản xuất
T2: QH về tổ chức quản lý sản xuất
T3: QH về phân phối sản phẩm sản xuất
( Học viên trình bày vai trò của từng quan hệ và mối quan hệ giữa các 3 mối quan hệ
này trong quá trình sản xuất)
C.Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
Triết học Mác- lênin khẳng rằng: LLSX và QHSX là hai mặt của một phương thức
sản xuất. Do vậy 2 mặt này có MQH biện chứng tác động qua lại lẫn nhau. MQH giữa
LLSX và QHSX là mối quan hệ 2 chiều:
Chiều thứ 1: LLSX quyết định QHSX:
(LLSX như thế nào  QHSX phải như thế ấy)
( Khi LLSX thay đổi  QHSX phải thay đổi theo)
- LLSX là nội dung của quá trình sản xuất, Quan hệ sản xuất là hình thức xã
hội. LLSX là yếu tố động và cách mạng nhất, nghĩa là LLSX thường xuyên đổi mới
kéo theo quan hệ sản xuất thay đổi.
- LLSX thường xuyên thay đổi còn Quan hệ sản xuất tương đối ổn định
- LLSX phát triển đến một lúc nào đó sẽ mâu thuẫn với Quan hệ sản xuất và khi
mâu thuẫn gay gắt, sẽ dẫn tới kết quả là phá vỡ QHSX cũ, thiết lập QHSX mới phù
hợp. Sự thay đổi này này phải thông qua cách mạng xã hội. Vì cách mạng xã hội
nhằm đổi mới PTSX cũ bằng PTSX mới. Khi PTSX mới ra đời thì dẫn tới HTKT –
XH cũ sẽ mất đi và thay thế bằng HTKT – XH mới. Qúa trình này diễn ra liên tục.
( Học viên lấy ví dụ để chứng minh)
Chiều thứ 2: Sự tác động trở lại của QHSX đối với LLSX:
Mặc dù QHSX là hình thức xã hội còn LLSX là nội dung của quá trình sản xuất. Vì
vậy: Hình thức có vai trò tác động ngược trở lại đối với nội dung. Cụ thể là :
QHSX qui định mục đích của nền sản xuất, sản xuất cho ai? đem lại lợi ích
cho ai? Nó kích thích động lực để người sản xuất sáng tạo hoặc không sáng tạo trong
quá trình sản xuất và sự tác động này diễn ra theo 2 hướng:
 Hướng thứ 1:
QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX
Thúc đẩy LLSX phát triển.
Trình độ của LLSX là trình độ của CCLĐ, trình độ của người lao động, trình độ phân
công lao động.
Ví dụ: Ở VN trình độ của LLSX không đồng đều, phân công chi tiết,
thiết bị mua của nhiều nước. Như vậy QHSX phù hợp với trình độ của LLSX nghĩa
là QHSX tạo ra PTSX kết hợp tốt nhất giữ người LĐ với TLSX để sản xuất ra sản
phẩm.
Biểu hiện của sự phù hợp này là trong cơ quan xí nghiệp sản xuất hàng hóa
nhiều, chất lượng tốt, năng xuất lao động tăng, người lao động hăng hái sản xuất
 Hướng thứ 2:
QHSX không phù hợp với trình độ phát triển của LLSX
Kìm hãm LLSX phát triển
QHXS không phù hợp với LLSX thể hiện ở 2 khía cạnh:
+ QHSX lạc hậu lỗi thời so với trình độ phát triển của LLSX:
Mác thường nói: Trong XHTB, LLSX có tính xã hội hóa, mâu thuẫn
với QHSX tư nhân tư bản chủ nghĩa về TLSX. Ngày nay LLSX có tính toàn cầu hóa,
quốc tế hóa, mâu thuẫn với QHSXTBCN về TLSX. Bây giờ LLSX có tính toàn cầu
hóa, quốc tế hóa.
Ví dụ: Sản phẩm máy móc thủ công – hai người lái máy cày bằng người quốc
ruộng  không đúng và cản trở sự phát triển.
+ QHSX đi trước, vượt xa so với trình độ của LLSX.
Ví dụ: Ở Việt Nam xây dựng hợp tác xã bao cấp quá nhanh (cấp xã), mang
cải tạo công thương nghiệp ồ ạt, mang tính chiến dịch rong khi trình độ của LLSX
thấp kém.
Vậy: Ai là người phát hiện ra sự phù hợp hay không phù hợp. Đó chính là
nhân tố chủ quan, là con người, chính con người phát hiện. Nếu phát hiện sớm thì trả
giá ít, phát hiện muộn thì giá nhiều.
Như vậy: Biện chứng giữa LLSX và QHSX, sự tác động qua lại giữa chúng
được thực hiện theo công thức sau:
Phù hợp – không phù hợp – phù hợp – không phù hợp – phù hợp …Chính nhờ vào
PTSX luôn vận động làm cho xã hội phát triển từ HTKT –XH này sang HTKT –XH
khác cao hơn.
C. Ý nghĩa của qui luật đốivới nước ta:
Thứ 1: Đây là qui luật cơ bản phổ biến của xã hội. Nghĩa là qui luật này
quyết định các qui luật khác, các qui luật khác muốn giải quyết triệt để thì phải bắt
đầu từ qui luật này.
Ví dụ: Muốn chứng minh, giải thích vì sao đạo đức bây giờ xuống cấp, tệ nạn
tham nhũng rộng khắp, để giải thích nó, chúng ta phải tìm về kinh tế, nghĩa là tìm về
qui luật này. Có rất nhiều nguyên nhân nhưng cái chính là sự tác độngcủa mặt trái
kinh tế thị trường.
+ Trong quá trình xây dựng đường lối phát triển kinh tế, cần ưu tiên, mở
đường cho LLSX phát triển; đặc biệt là ưu tiên phát triển con người và khoa học kỹ
thuật, công nghệ nhằn tạo ra hiệu quả, năng xuất lao động.
Liên hệ: - Ưu tiên phát triển con người  chủ thể của LLSX
- Ưu tiên khoa học công nghệ  chủ thể của LLSX
 Tác động đến năng xuất lao động
+ Muốn LLSX phát triển nhằm nâng cao năng xuất lao động, thì đòi hỏi phải tích
cực cải tạo những quan hệ sản xuất cũ, lỗi thời, lạc hậu kìm hãm, trói buộc LLSX phát
triển.
Ví dụ: Xóa bỏ cơ chế quản lý quan liêu, bao cấp, mệnh lệnh hành chính, cơ
chế xin cho chuyển nhanh sang cơ chế thị trường định hướng XHCN.

+ Trong QHSX cần thực hiện đa dạng hóa các hình thức sở hữu, tổ chức quản lý,
phân phối sản phẩm nhằm thu hút, kích thích người lao động tham gia tích cực vào
trong quá trình sản xuất, tạo năng xuất lao động, góp phần thúc đẩy xã hội phát triển.

Thứ 2: Nắm vững qui luật này giúp chúng ta hiểu được chính sách, hiểu được con
đường đi lên CNX ở Việt Nam.

Vận dụng qui luật này trước và trong đổi mới:


+ Trước đổi mới: ( 1986)
Sau khi đất nước giành được độc lập vào năm 1975. Đảng và nhà nước
ta muốn muốn đưa nền kinh tế của đất nước tiến nhanh lên CNXH ( trong một thời
gian ngắn). Nghĩa là từ một nước nửa phong kiến, bỏ qua chế độ TBCN để tiến lên
CNXH. Do đó: Đảng và nhà nước ta đã chủ quan , nóng vội trong việc quản lý và
phát triển kinh tế. Đảng và nhà nước ta cho rằng: Muốn kinh tế phát triển và tiến
nhanh lên CNXH thì chúng ta cần:
T1: Cho QHSX đi trước một bước sẽ mở đường cho LLSX phát triển
T2: Phát triển mạnh mẽ QHSX sẽ làm cho LLSX phát triển.
Quan điểm của Đảng và nhà nước ta giai đoạn khi nhìn nhận giải quyết vấn đề phát
triển kinh tế này đã đi ngược qui luật của triết học Mác. Do chưa tích lũy đủ về
lượng ? Mà đã chuyển sang sự thay đổi về chất.
Cụ thể: Từ XHPK -> Bỏ qua TBCN –> CNXH
Khi xem xét – giải quyết vấn dề chúng ta không căn cứ vào điều kiện lịch sử cụ thể
của đất nước. Chính vì vậy chúng ta đã mắc phải một số sai lầm sau đây:
Sai lầm thứ 1:
Đảng nhà nước ta đã dùng sức mạnh chính trị - tư tưởng để xóa bỏ chế độ “tư
hữu” ở xã hội TBCN chuyển sang chế độ “công hữu” ở xã hội XHCN.
 Thực tiễn xã hội chứng minh rằng: Muốn chuyển từ chế độ
“tư hữu” sang chế độ “công hữu” thì cần phải có những điều kiện sau :
- Có thời gian để chuẩn bị ( Lượng thời gian)
- Phải dựa vào trình độ phát triển của LLSX
( Người LĐ +CCLĐ)
-Phải xuất phát từ điều kiện thực tiễn xã hội
 Mà thực tế khi chuyển từ chế độ “tư hữu” sang chế độ “công hữu” chúng ta
chuyển đổi trong điều kiện:
 Đất nước vùa trải qua chiến tranh
 Việt Nam xuất phát từ một nước nông nghiệp ( 80%)
 KHKT + trình độ sản xuất thấp
 CCLĐ còn thô sơ, lạc hậu
 Trình độ của người lao động còn nhiều hạn chế.
Việc chuyển từ chế độ “tư hữu” sang chế độ “công hữu” về TLSX đã dẫn đến kết
quả: Sở hữu trở thành sở hữu công cộng, trong khi đó người LĐ lại không có TLSX,
không làm chủ được quá trình sản xuất, phụ thuộc vào sự lãnh đạo của hợp tác xã
 TLSX trở nên vô chủ gây thiệt hại cho tập thể.
Sai lầm thứ 2:
Việc phân phối sản phẩm chưa hợp lý, không tuân theo qui luậy phân phối của thị
trường và nhu cầu của xã hội.
Bởi vì: Giai đoạn này nhà nước nắm quyền tổ chức và quản lý về kinh tế. Nhà nước
quản lý kinh tế theo mô hình:“ Kế hoạch hóa tập trung”, nghĩa là nền kinh tế của đất
nước vận động và phát triển không tuân theo qui luật khách quan của xã hội – thị
trường. Mà trái lại nền kinh tế của đất nước giai đoạn này vận động và phát triển
tuân theo ý muốn chủ quan của Nhà nước.
Tức là: Nhà nước có quyền đưa ra mọi quyết định như: Sản xuất cái gì? Sản xuất như
thế nào? Phân phối cho ai? Lỗ lãi như thế nào? Như vậy mô hình kế hoạch hóa tập
trung nó chỉ phù hợp với đ/k thời chiến và không phù hợp với đ/k khi đất nước đã
giành được độc lập.=> Việc xóa bỏ chế độ “tư hữu” chuyển qua chế độ “công hữu”nó
dẫn tới kết quả:
 Đề cao vai trò của lao động tập thể
 Hạ thấp vai trò của lao động cá nhân
 Triệt tiêu động lực bên trong của người LĐ
 Không phát huy hết khả năng của người lao động
Sai lầm thứ 3:
Trong quá trình cải tạo QHSX, Nhà nước chỉ tập trung cải tạo mặt “Sở hữu
TLSX” chưa chú ý tới mặt quản lý tổ chức và phân phối sản phẩm. Chính vì vậy
thời kỳ này xuất hiện nhiều tệ nạn tham nhũng.
Như vậy: Nền kinh tế Việt Nam giai đoạn 1975 – 1986 mắc phải những sai lầm trên
là bởi vì: Đảng và Nhà nước ta không thừa nhận sản xuất hàng hóa và cơ chế thị
trường. Xem mô hình “kế hoạch hóa” là đối tượng quan trọng của nền kinh tế xã hội
chủ nghĩa. Đồng thời không thừa nhận nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ
này, xóa bỏ kinh tế “tư nhân” và kinh tế “cá thể” => xây dựng nền kinh tế khép kín.
Chính những sai lầm trên mà Đảng và Nhà nước chúng ta mắc phải đã dẫn tới kết
quả: Nền kinh tế Việt Nam giai đoạn trước năm 1986 rơi vào tình trạng khủng hoảng,
trì trệ. Đây được xem là thời kỳ đen tối nhất của kinh tế Việt Nam , bởi vì: Sau 11
năm (1975 – 1986) khi đất nức đã hòa bình, xã hội ổn định, an ninh quốc phòng vững
chắc, điều kiện khách quan thuận lợi nhưng nền kinh tế Việt Nam không phát triển, là
một nước 80% nông nghiệp nhưng sản xuất lúa gạo không đủ ăn.
Kết quả này là do Đảng và Nhà nước ta đã vận dụng ngược qui luật của chủ nghĩa
mác, khi chưa tích lũy đủ về lượng đã vội chuyển sang sự thay đổi về chất ( Từ
XHPK chuyển sang XHCN). Đồng thời không căn cứ vào đ/k lịch sử của đất nước
trong quá trình phát triển kinh tế.
 Giai đoạn sau năm 1986 trở đi:
Đảng và Nhà nước ta đã: Rút kinh nghiệm từ những sai lầm của giai đoạn trước năm
1986,Đồng thời thay đổi về nhận thức,Vận dụng và đi đúng theo qui luật của CNM.
Tức là trong quá trình phát triển kinh tế Đảng và Nhà nước ta đã không cho: QHSX đi
trước một bước so với LLSX, tiến hành đồng bộ cả 2 mặt LLSX – QHSX. Ưu tiên
phát triển LLSX, xây dựng QHSX phù hợp với sự phát triển của LLSX, nhận tức
đúng qui luật đó là : trình độ phát triển của LLSX ở nước ta còn thấp, chưa đồng
đều. Do đó: trong quá trình phát triển kinh tế chúng ta cần phải:
- Xây dưng QHSX ( Nền kinh tế nhiều thành phần)
- Thừa nhận nhiều hình thức sở hữu cùng tồn tại trong xã hội.
Kết quả:
Chỉ sau 3 năm 1986 -1989 nền kinh tế Việt nam có bước phát triển vượt bậc, đó là:
 Sản xuất nông nghiệp không chỉ đủ ăn mà còn dư thừa
 Năm 1990 VN đứng thứ 2 trên thế giới về xuất khẩu gạo
 Hiện nay Việt Nam đang đứng vị trí thứ 3.
Như vậy sau hơn 30 năm thực hiện đường lối đổi mới cùng với sự nỗ lực của toàn
đảng- toàn dân. Công cuộc đổi mới của Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn
có ý nghĩa lịch sử.
 Đất nước thoát khỏi khủng hoảng về kinh tế
 Kinh tế Việt Nam tăng trưởng nhanh
 Đời sống của người dân được cải thiện
 Tình hình chính tri, an ninh , quốc phòng ổn định
 Vị thế của Việt Nam ngày càng được khẳng định
Những thành tựu mà chúng ta đã đạt được (sau năm 1986)nó đã chứng minh rằng:
Đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước ta là đúng đắn, sự vận dụng qui luật này là
phù hợp với tình hình thực tiễn của cách mạng Việt Nam.
Nội dung 2:

Anh (chị) hãy phân tích nội dung nội dung học thuyết hình thái kinh tế - xã hội .
Và sự vận dụng học thuyết này của Đảng và nhà nước ta trong quá trình xây dựng
- phát triển kinh tế đất nước?
Bài làm:
Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội là một khái niệm của CNDVLS dùng để
chỉ xã hội cụ thể tồn tại trong một giai đoạn lịch sử nhất định với những QHSX của
nó, dựa trên một trình độ nhất định của LLSX và một KTTT tương ứng dựa trên
QHSX đó. Dấu “ - ”giữa kinh tế và xã hội có ý nghĩa chỉ sự tác động 2 chiều của
kinh tế và xã hội, 2 yếu tố này tác động qua lại lẫn nhau và có mối quan hệ chặt chẽ
lẫn nhau.
Học thuyết về hình thái kinh tế - xã hội mà C.Mac nghiên cứu bắt đầu từ con người.
Do đó, tiền đề xuất phát để xây dựng học thuyết đó là con người đối với đời sống hiện
thực của họ. Mac thấy rằng: “Người ta phải có khả năng sống đã rồi mới có thể làm ra
lịch sử”.
Ông nhận ra rằng con người muốn tồn tại thì trước hết cần phải có khả năng sống đã
rồi mới có thể “làm ra lịch sử”. Ông khẳng định rằng con người muốn tồn tại thì
trước hết cần phải có cái nhu cầu như ăn, uống, mặc , ở và một vài thứ khác nữa.
Như vậy , hành vi lịch sử đầu tiên là việc sản xuất ra những tư liệu để thoả mãn những
nhu cầu ấy ,việc sản xuất ra bản thân đời vật chất . Nhu cầu là động lực bên trong thúc
đẩy con người hoạt động.Hoạt động của con người thỏa mãn được nhu cầu này sinh
nhu cầu khác.Việc không ngừng nảy sinh nhu cầu mới là động lực thúc đẩy con người
hoạt động và là động lực phát triển của xã hội .
Để tồn tại và phát triển ,con người không chỉ sản xuất ra sản xuất ra của cải vật
chất mà còn sản xuất ra của cải tinh thần , ra bản thân con người và cái quan hệ xã hội
. Trong đó sản xuất ra của cải vật chất là cơ sở của đời sống xã hội, là cái khác biệt
căn bản giữa con người vơi động vật .Chính trong quá trình sản xuất ra của cải vật
chất, con người đồng thời sáng tạo ra toàn bộ đời sống vật chất và tinh thần của xã hội
, góp phần hoàn thiện tư duy và nhân cách của con người .
Trong quá trình sản xuất đã nảy sinh ra các mối quan hệ :
 Quan hệ giữa con người &con người ( QHSX )
 Quan hệ giữa con người với tự nhiên (LLSX)
C. Mac gọi 2 mối quan hệ này là , 2 quan hệ song trùng có nghĩa là chúng diễn ra
đồng thời với nhau. Hai mặt này thống nhất với nhau tạo thành phương thức sản
xuất.Sự tác động qua một cách biện chứng giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản
xuất tạo thành quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất.
C.Mac đã phát hiện ra rằng: “Cơ sở hạ tầng quyết định Kiến trúc thượng tầng; tồn tại
xã hội quyết định ý thức xã hội: Phương thức quyết định các mặt của đời sống xã
hội . Như vậy, xuất phát từ sản xuất, C.Mac đã phân tích một cách khoa học mối
quan hệ lẫn nhau giữa các mặt trong đời sống và phát hiện ra các quy luật vận động,
phát triển của xã hội. Từ đó, C.Mac đã đi đến khái quát khoa học về lý luận hình thái
kinh tế- xã hội.
Hình thái kinh tế- xã hội là một phạm trù của duy vật lịch sử dùng để chỉ xã hội ở
từng giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội
đó, phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất và với một kiến trúc
thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những những quan hệ sản xuất ấy.
- Quan hệ sản xuất:
Là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất vật chất ( sản xuất và tái
sản xuất xã hội). Quan hệ sản xuất biểu hiện qua ba mặt đó là:
+ Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất (TLSX)
+ Quan hệ trong tổ chức và quản lý sản phẩm
+ Quan hệ trong phân phối sản phẩm sản xuất ra
Trong đó quan hệ tư hữu về tư liệu sản xuất là quan hệ xuất phát quan hệ cơ bản, đặc
trưng cho quan hệ sản xuất trong từng xã hội.
Nó quyết định quan hệ tổ chức quản lý sản xuất và quan hệ phân phối sản
phẩm. Trong lịch sử có hai loại hình sở hữu cơ bản về tư liệu sản xuất: sở hữu tư nhân
và sở hữu công cộng.
-Sở hữu tư nhân:
Là loại hình sở hữu mà trong đó tư liệu sản xuất tập trung trong tay một ít người, còn
đại đa số số không có hoặc có rất ít tư liệu sản xuất. Do đó quan hệ lực lượng người
với người là quan hệ thống trị và bị trị, bóc lột và bị bóc lột.
- Sở hữu công cộng:
Là loại hình sở hữu mà trong đó tư liệu sản xuất thuộc về mọi thành viên trong cộng
đồng. Do đó quan hệ giữa người với người là quan hệ bình đẳng, hợp tác cùng có lợi.
- Lực lượng sản xuất:
Là toàn bộ các lực lượng được con người sử dụng ảnh trong quá trình sản xuất ra của
cải vật chất.
LLSX bao gồm: người lao động với một thế lực, tri thức, kỹ năng năng lao động nhất
định và tư liệu sản xuất, trước hết là công cụ lao động. Con người trong lực lượng sản
xuất không phải là con người nói chung mà là con người có kỹ năng, có tay nghề, có
khả năng, trình độ lao động ( không bao gồm người già và trẻ em).
Trong khi những nhấn mạnh quan hệ sản xuất là quan hệ sản xuất nguyên thủy , cơ
bản. C.Mac còn chỉ ra rằng, mọi hình thức kinh tế- xã hội còn bao gồm các quan hệ về
chính trị chị, pháp quyền và và các hình thái ý thức xã hội . Trong đó, toàn bộ những
quan hệ sản xuất tạo thành một kết cấu kinh tế của xã hội, là cơ sở thực tại ( tức cơ sở
hạ tầng); còn các mặt: pháp lý, ý chính trị và các hình thái ý thức xã hội là (kiến trúc
thượng tầng) , phù hợp với cơ sở hạ tầng.
-Cơ sở hạ tầng:
Là toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của một xã hội nhất định.
cơ sở hạ tầng của mọi xã hội cụ thể: trừ xã hội nguyên thủy đều bao gồm quan hệ sản
xuất thống trị, quan hệ sản xuất tàn dư của xã hội cũ và quan hệ sản xuất mầm mống
của xã hội tương lai.
Ví dụ: trong chế độ phong kiến, quan hệ sản xuất bao gồm:
+ Quan hệ sản xuất đặc trưng
+ Tàn dư của quan hệ sản xuất cũ: chiếm hữu nô lệ
+ Xuất hiện mầm mống những quan hệ sản xuất mới: (TBCN)
 Trong đó, quan hệ sản xuất thống trị bao giờ cũng giữ vai trò chỉ đạo, ...cai quan
hệ sản xuất khác,quyết định xu hướng chung của đời sống kinh tế- xã hội. Bởi vậy, cơ
sở hạ tầng của một xã hội cụ thể để được đặc trưng nhưng bởi quan hệ sản xuất tàn dư
tư và quan hệ sản xuất mầm mống cũng có vai trò nhất định.
Nếu xét về trong tổng thể các quan hệ sản xuất thì các quan hệ sản xuất họp
thành cơ sở của xã hội,tức cơ sở hiện thực, trên đó hình thành nên kiến trúc thượng
tầng tương ứng.
-Kiến trúc thượng tầng:
Là toàn bộ những quan điểm chính trị, pháp quyền, triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ
thuật cùng với với những thiết chế xã hội như nước, đảng phái, giáo hội, các đoàn thể
xã hội được hình thành trên cơ sở hạ tầng nhất định.
Trong KTTT mỗi yếu tố có đặc điểm riêng,có quy luật phát triển riêng nhưng chung
liên hệ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau).
Cơ sở hạ tầng và Kiến trúc thượng tầng là hai mặt cầu thành của hình thái kinh
tế xã hội, chúng thống nhất biện chứng với nhau, tác động qua lại lẫn nhau, trong đó,
cơ sở hạ tầng quyết định KTTT; song KTTT cũng có tác động tích cực trở lại cơ sở hạ
tầng.
 Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng được KTTT trước hết ở chỗ: mọi cơ sở
hình thành nên một KTTT tương ứng với nó. tính chất của cơ sở hạ tầng quyết định
tính chất của kiến trúc TT. Trong xã hội giai cấp, KTTT mang tính giai cấp, giai cấp
nào thống trị về kinh tế thì cũng giữ được.
 Trong quá trình sản xuất, sức lao động của con người kết hợp với tư liệu sản
xuất tạo thành lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa con
người với tự nhiên trong quá trình sản xuất. Nó thể hiện năng lực hoạt động thực tiễn
của con người trong quan hệ sản xuất ra của cải vật chất, người lao động sử dụng tư
liệu lao động (Bao gồm tư liệu sản xuất và phương tiện lao động), trước hết là công cụ
lao động vào đối tượng lao động sản xuất ra của cải vật chất phục vụ cho nhu cầu của
con người và được cải tiến để nâng cao chất lượng. Công cụ lao động là yếu tố đông
nhất, cách mạng nhất, nghĩa là nó thay đổi I đầu tiên và luôn biến đổi không ngừng.
Trong mỗi hình thái kinh tế- xã hội, quan hệ sản xuất lại không tách rời khỏi lực
lượng sản xuất. Mà chúng thống nhất tuyệ đối giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất tạo thành một phương thức sản xuất nhất định, mà trong đó lực lượng sản xuất là
cơ sở vật chất của hình thái kinh tế - xã hội. Mỗi hình thái kinh tế- xã hội có một lực
lượng sản xuất nhất định. C.Mac viết: “Nhưng quan hệ sản xuất đều gắn liền mật
thiết với lực lượng sản xuất. do có được những lực lượng sản xuất mới, loài người
thay đổi phương thức sản xuất của mình, loài người thay đổi tất cả những quan hệ xã
hội của mình. cái cối xay quay tay đưa lại xã hội có lãnh chúa, cái cối xay chạy bằng
hơi nước đưa lại xã hội có nhà tư bản công nghiệp.”
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tồn tại không tách rời nhau, thống
nhất biện chứng với nhau trong phương thức sản xuất nhất định. Trong hai mặt đó, lực
lượng sản xuất là nội dung, thường xuyên biến đổi, phát triển; quan hệ sản xuất là
hình thức thức xã hội của sản xuất,tương đối ổn định. sự tác động qua lại lẫn nhau
một cách biện chứng ảnh giữa hai mặt đó đó tạo thành quy luật về sự phù hợp của
quan hệ xã hội với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất- quy luật cơ bản nhất của
sự vận động, phát triển của xã hôị. Nó chi phối sự vận động, phát triển của toàn bộ
tiến trình lịch sử nhân loại. sự vận động, phát triển của lực lượng sản xuất quyết định
quan hệ sản xuất, làm cho quan hệ sản xuất biến đổi phù hợp với nó nhưng quan hệ
sản xuất cũng có tính độc lập tập tương đối và tác động trở lại sự phát triển của lực
lượng sản xuất.
Quan hệ sản xuất quyết định mục đích của sản xuất, tác động đến thái độ của
con người trong lao động sản xuất, đến tổ chức phân công lao động xã hội, đến phát
triển và ứng dụng khoa học vào sản xuất... và do đó tác động đến sự phát triển của lực
lượng sản xuất. quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất, là động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.khi quan hệ sản xuất bị kìm
hãm, sự phát triển của lực lượng sản xuất thì theo quy luật chung, quan hệ sản xuất để
thúc đẩy lực lượng sản xuất tiếp tục phát triển.
2. Biện chứng giữa CSHT – KTTT ( Học viên tự trình bày)
Câu 4: Vận dụng lý luận học thuyết hình thái kinh tế, xã hội vào xây
dựng hình thái kinh tế, xã hội mới ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới

1. Hình thái kinh tế xã hội:


1.1. Tiền đề xuất phát học thuyết hình thái kinh tế xã hội:
Mác cho rằng: Vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất quyết định ý thức.
Mác khẳng định điểm xuất phát của lịch sử phát triển xã hội chính từ cuộc sống hiện
thực của xã hội loài người. Con người phải sản xuất ra của cải vật chất để thỏa mãn
những nhu cầu tối thiểu đồng thời cũng là nhu cầu cơ bản quyết định sự ra đời, tồn tại
của xã hội, đó là những nhu cầu bản năng, mang tính khách quan (ăn, ở, mặc). Muốn
vậy con người phải hoạt động sản xuất để thỏa mãn những nhu cầu đó. Để tồn tại và
phát triển con người không chỉ sản xuất ra của cải vật chất mà còn phải sản xuất ra
của cải tinh thần đồng thời phải sản xuất ra chính bản thân con
người và các quan hệ xã hội của nó.
Sản xuất vật chất mang tính lịch sử xã hội. Con người không tách mình ra
khỏi xã hội. Trong sản xuất, con người sáng tạo ra công cụ lao động.
Sản xuất vật chất là hoạt động có mục đích, mang tính thực tiễn. Con người muốn tồn
tại phải sản xuất vật chất để đáp ứng các nhu cầu bản năng.
1.2. Định nghĩa: Từ những tiền đề trên, Mác đã phát biểu học thuyết về hình thái KT-
XH như sau:
Hình thái kinh tế- xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử dùng để chỉ xã
hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định với những quan hệ sản xuất của nó thích ứng
với lực lượng sản xuất ở một trình độ nhất định và với một kiểu kiến trúc thượng tầng
được xây dựng trên những quan hệ sản xuất ấy.
2. Nội dung hình thái kinh tế xã hội:
Đứng trên quan điểm duy vật Mác đã phân tích những mặt chủ yếu của hình thái kinh
tế- xã hội bao gồm lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng
trong đó lực lượng sản xuất là nền tảng vật chất kỹ thuật của một xã hội được biểu
hiện một cách cụ thể ở trong từng giai đoạn lịch sử. Lịch sử phát triển của xã hội loài
người xét cho đến cùng và trước hết là lịch sử của sự phát triển của nền sản xuất vật
chất. Nội dung của mọi nền sản xuất vật chất được biểu hiện ở khả năng của con
người trong quá trình tạo ra tư liệu sản xuất với tư liệu sản xuất và công cụ sản xuất.
Những yếu tố nói trên vừa hợp thành lực lượng sản xuất đồng thời là khả năng tạo ra
của cải vật chất trong quá trình tác động vào thế giới tự
nhiên.
Có 2 nội dung chính:
2.1. Nội dung quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất:
Phương thức sản xuất là cách thức con người sử dụng để sản xuất ra của cải vật chất
trong một giai đoạn lịch sử nhất định. Nói cách khác, PTSX là sự thống nhất giữa hai
mặt LLSX và QHSX.
LLSX là biểu hiện mối quan hệ giữa con người và giới tự nhiên. LLSX bao gồm
người lao động, tư liệu lao động (công cụ lao động và phương tiện lao động) và đối
tượng lao động. Trong đó, người lao động là chủ thể của quá trình sản xuất, giữ vai
trò quyết định; còn công cụ lao động giữ vai trò quan trọng nhất, quyết định năng suất
lao động, vì nhờ có công cụ lao động mà con người chúng ta khám phá ra những bí
mật và quy luật của thế giới tự nhiên và bắt giới tự nhiên phục vụ cho nhu cầu của con
người.
QHSX là quan hệ giữa con người với con người trong quá trình sản xuất,
bao gồm 3 mặt: quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất, quan hệ quản lý tổ chức, và quan
hệ phân phối sản phẩm lao động. Trong đó quan hệ sở hữu TLSX là quan trọng nhất,
quyết định 2 mối quan hệ còn lại.
- Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt không tách rời của một quá trình
sản xuất, chúng kết hợp với nhau tạo thành những phương thức sản xuất cụ thể ở
trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể. Lực lượng sản xuất là nội dung của phương thức
sản xuất còn quan hệ sản xuất là hình thức của phương thức sản xuất.
- Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất: LLSX như thế nào thì đòi hỏi
QHSX phải như thế ấy. Khi LLSX thay đổi, đặc biệt là công cụ lao động thay đổi, sẽ
dẫn tới QHSX thay đổi theo để phù hợp với sự phát triển của LLSX. LLSX thay đổi
thì QHSX cũng phải thay đổi trên cả 3 mặt. Song sự thay đổi của QHSX có thể diễn
ra nhanh hoặc chậm nhưng theo quy luật tất yếu là phải thay đổi, vì đó là sự thay đổi
về mặt hình thức để phù hợp với nội dung.
- QHSX tác động trở lại LLSX: Mặc dù QHSX là hình thức của LLSX, nhưng nó
cũng tác động trở lại LLSX theo 2 hướng: Khi phân phối sản phẩm hợp lý thì QHSX
thúc đẩy LLSX phát triển; Khi phân phối sản phẩm lao động ko hợp lý sẽ kìm hãm sự
phát triển của LLSX, tạo cho người lao động tâm lý chán nản, bất mãn, hiệu quả lao
động ko cao.Quy luật này chỉ ra nguồn gốc nguyên nhân của lịch sử xã hội loài người
thay đổi từ hình thái kinh tế xã hội thấp đến hình thái kinh tế xã hội cao là do việc giải
quyết mâu thuẫn giữa LLSX và QHSX.
2.2. Nội dung quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng:
Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những tư tưởng xã hội, những thiết chế
tương ứng và mối quan hệ nội tại của kiến trúc thượng tầng được xây dựng trên
những quan hệ sản xuất nhất định.
Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành một cơ cấu kinh tế của xã
hội ở trong từng giai đoạn lịch sử nhất định. Trên cơ sở của cơ sở hạ tầng xã hội cụ
thể người ta sẽ xây dựng những kiểu kiến trúc thượng tầng phù hợp với nó.
- Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng bởi vì: Cơ sở hạ tầng sinh ra kiến
trúc thượng tầng, vì vậy cơ sở hạ tầng như thế nào thì sẽ sinh ra kiến trúc thượng tầng
tương ứng. Khi cơ sở hạ tầng mất đi thì kiến trúc thượng tầng do nó sinh ra cũng mất
theo. Những biến đổi căn bản trong cơ sở hạ tầng sớm muộn cũng sẽ dẫn đến biến đổi
trong kiến trúc thượng tầng. Tính đối kháng trong kiến trúc thượng tầng là biểu hiện
sâu xa của sự xung đột giữa các kiểu quan hệ sản xuất đối lập nhau ở trong cơ sở hạ
tầng.
- Cơ sở hạ tầng phụ thuộc vào kiến trúc thượng tầng: Cơ sở hạ tầng quyết định kiến
trúc thượng tầng nhưng sự phụ thuộc của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng
là sự phụ thuộc có tính chất tương đối. So với cơ sở hạ tầng, kiến trúc thượng tầng có
tính độc lập tương đối, đồng thời tác động trở lại CSHT theo 2 mặt:
bảo vệ và tạo điều kiện cho CSHT phát triển, hoặc kìm hãm sự phát triển của CSHT.
Như vậy cấu trúc của hình thái kinh tế- xã hội được biểu hiện dưới dạng một hệ thống
trong đó các yếu tố cấu thành hình thái kinh tế- xã hội không ngừng tác động qua lại,
quy định và ràng buộc lẫn nhau, chúng chịu sự chi phối của những mối quan hệ cơ
bản như: tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, cơ sở hạ tầng của xã hội quyết định
kiến trúc thượng tầng của xã hội. Những quan hệ duy vật nói trên được Mác nghiên
cứu và xem xét trên cơ sở của sự thống nhất giữa thế giới quan duy vật và phép biện
chứng. Từ đó Mác đã vạch ra những quy luật nội tại thúc đẩy
sự phát triển của xã hội loài người từ thấp lên cao thông qua sự vận động, phát triển
và thay thế lẫn nhau từ thấp lên cao của các hình thái kinh tế- xã hội.
3. Vận dụng của Đảng ta:
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn kiên định đường
lối độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Với xuất phát điểm thấp, Đảng ta đã
lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Đây là
lựa chọn đúng đắn, không những đáp ứng khát vọng của nhân dân lao động mà còn
phù hợp với xu thế phát triển của thời đại.
3.1. Trước Đổi mới (trước 1986):
Thời kỳ này, trong cách mạng xhcn, chúng ta đã mắc phải những lệch lạc, sai lầm chủ
quan duy ý chí khiến đất nước rơi vào tình trạng trì trệ, khủng hoảng. Quan điểm của
Đảng ta lúc này rập khuôn theo mô hình của Liên Xô. Nhưng nền kinh tế nước ta bấy
giờ rất manh mún, lạc hậu, trong khi Liên Xô đã có một nền kinh tế phát triển hàng
trăm năm.
Chủ trương xây dựng sớm một nền kinh tế xhcn thuần nhất với 2 hình thức sở hữu là
sở hữu nhà nước và sở hữu tập thể trong khi trình độ của lực lượng sản xuất còn thấp
kém và phát triển không đồng đều là một chủ trương nóng vội, chủ quan, duy ý chí, vi
phạm quy luật khách quan.
Từ những sai lầm trong nhận thức dẫn đến những sai lầm trong chỉ đạo thực tiễn: Một
là xóa bỏ một cách ồ ạt chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, trong khi nó đang
còn tạo địa bàn cho sự phát triển lực lượng sản xuất. Hai là xây dựng chế độ công hữu
về tư liệu sản xuất một cách tràn lan, trong khi trình độ sản xuất còn thấp kém và phát
triển không đồng đều.
Coi công nghiệp nặng là nhiệm vụ then chốt, tập trung vốn đầu tư, viện trợ vào công
nghiệp nặng, nhưng hiệu quả rất thấp.
Trong xây dựng quan hệ sản xuất mới – quan hệ sản xuất xhcn, về thực chất, chúng ta
mới xác lập được chế độ sở hữu, còn hình thức tổ chức quản lý và cách thức phân
phối chưa được giải quyết một cách đúng đắn. Với cơ chế tập trung quan liêu, bao
cấp, tất cả mọi kế hoạch lớn nhỏ đều dựa vào ý muốn chủ quan và mệnh lệnh hành
chính chứ ko dựa vào thị trường hay các quy luật kinh tế-xã hội. Cách thức phân phối
căn cứ theo lao động chứ ko dựa trên thực tế. Động lực lao động chủ yếu dựa trên tinh
thần mà bỏ qua động lực vật chất.
Những sai lầm chủ quan đã đẩy nền kinh tế nước ta rơi vào tình trạng trì trệ, khủng
hoảng, đòi hỏi chúng ta phải đổi mới một cách toàn diện.
3.2. Sau Đổi mới:
Nhận thấy những sai lầm của giai đoạn trước, Đảng ta đã thừa nhận sai lầm, chủ
trương đổi mới toàn diện và đồng bộ sự phát triển của đất nước trên cơ sở kiên định
con đường quá độ lên cnxh. Trong đường lối đổi mới, Đảng ta đã quan niệm đúng đắn
về sự “bỏ qua”: bỏ qua chế độ tbcn ở Việt Nam là bỏ qua sự xác lập vị trí thống trị
của quan hệ sản xuất tbcn, còn những thành tựu đạt được dưới cntb, đặc biệt là khoa
học công nghệ,
chúng ta phải tiếp thu, kế thừa để phát triển LLSX, xây dựng nền kinh tế hiện đại.
Phát huy vai trò nhân tố chủ quan, khai thác triệt để điều kiện khách quan để đưa đất
nước phát triển. Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, đồng thời nâng cao hiệu lực
và hiệu quả quản lý của nhà nước.
Từ năm 1986, Đảng ta đã chủ trương chuyển từ một nền kinh tế thuần nhất xhcn sang
nền kinh tế nhiều thành phần định hướng xhcn. Chủ trương này bắt nguồn từ thực
trạng trình độ phát triển của lực lượng sản xuất còn thấp kém và phát triển không
đồng đều. Để khai thác, phát huy được mọi năng lực sản xuất, phải tạo lập nhiều loại
hình quan hệ sản xuất tương thích thì mới phù hợp. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XII chỉ ra nước ta có 4 thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư
nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài; trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
Tập trung phát triển lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu.
Xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, xây dựng nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Hội nhập kinh tế quốc tế.
Sự vận dụng đúng đắn, sáng tạo quy luật về sự phù hợp giữa QHSX với trình độ phát
triển của LLSX trong thời kỳ đổi mới đã làm cho nền kinh tế nước ta có những bước
phát triển vượt bậc. Nền kinh tế thoát khỏi tình trạng khủng hoảng, tạo đà cho sự phát
triển, tốc độ tăng trưởng kinh tế cao.
Câu 7: Phân tích quan điểm của chủ nghĩa Mac -Lênin về con người,
bản chất con người.

Vấn đề phát triển con người toàn diện trong giai đoạn hiện nay (gđ
CNH, HĐH).
Trả lời:
1. Quan điểm của chủ nghĩa Mac – Lênin về con người, bản chất con người
1.1. Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh học với mặt xã hội
Kế thừa các quan điểm tiến bộ trong lịch sử triết học, dựa trên những thành tựu của
khoa học tự nhiên, trực tiếp là thuyết tiến hóa và thuyết tế bào, triết học Mác đã khẳng
định con người vừa là sản phẩm phát triển lâu dài của giới tự nhiên, vừa là sản phẩm
hoạt động của chính bản thân con người. Con người là sự thống nhất giữa yếu tố sinh
học với yếu tố xã hội, là thực thể sinh vật – xã hội.
Tiền đề vật chất đầu tiên quy định sự tồn tại của con người là sản phẩm của giới tự
nhiên. Con người tự nhiên là con người mang tất cả bản tính sinh học, tính loài. Như
vậy, con người trước hết là một tồn tại sinh vật, biểu hiện trong những cá nhân con
người sống, là tổ chức cơ thể của con người và mối quan hệ của nó đối với tự nhiên.
Tuy nhiên, mặt tự nhiên không phải là yếu tố duy nhất quy định bản chất của con
người. Đặc trưng quy định sự khác biệt của con người với thế giới loài vật là mặt xã
hội. Tính xã hội của con người biểu hiện trong hoạt động sản xuất vật chất.
Thông qua hoạt động lao động sản xuất, con người tạo ra của cải vật chất và tinh thần,
phục vụ nhu cầu cuộc sống của mình; Hình thành và phát triển ngôn ngữ và tư duy;
Xác lập quan hệ xã hội. Bởi vậy lao động chính là yếu tố quyết định bản chất xã hội
của con người, đồng thời hình thành nhân cách cá nhân trong cộng đồng xã hội.
1.2. Con người là chủ thể của lịch sử, mục tiêu của sự phát triển xã hội
1.2.1. Con người là chủ thể của lịch sử
Với tư cách là thực thể xã hội, con người hoạt động thực tiễn, tác động vào tự nhiên,
cải biến giới tự nhiên, đồng thời thúc đẩy sự vận động phát triển của lịch sử xã hội.
Thế giới loài vật dựa vào những điều kiện có sẵn của tự nhiên. Con người
thì trái lại, thông qua hoạt động thực tiễn của mình để làm phong phú thêm thế giới tự
nhiên, tái tạo lại một tự nhiên thứ hai theo mục đích của mình.
Trong quá trình cải biến tự nhiên, con người cũng làm ra lịch sử của mình.
Con người là sản phẩm của lịch sử, đồng thời là chủ thể sáng tạo ra lịch sử của chính
bản thân con người.
Hoạt động lao động sản xuất vừa là điều kiện cho sự tồn tại của con người, vừa là
phương thức để làm biến đổi đời sống và bộ mặt xã hội. Trên cơ sở nắm bắt quy luật
của lịch sử xã hội, con người thông qua hoạt động vật chất và tinh thần, thúc đẩy xã
hội phát triển từ thấp đến cao, phù hợp với mục tiêu và nhu cầu do con người đặt ra.
Không có hoạt động của con người thì cũng không tồn tại quy luật xã hội, và do đó,
không có sự tồn tại của toàn bộ lịch sử xã hội loài người.
1.2.2. Con người là mục tiêu của sự phát triển xã hội
Từ khi xuất hiện đến nay, loài người luôn cháy bỏng hoài bão được sống tự do, hạnh
phúc và không ngừng đấu tranh để hoài bão đó được trở thành hiện thực. Con người,
với tư cách là chủ thể của mọi quá trình sáng tạo lịch sử xã hội là động lực có ý nghĩa
quyết định nhất cho sự tiến bộ xã hội. Cho nên con người vừa là mục tiêu, vừa là động
lực của mọi quá trình phát triển. Mọi chủ trương chính sách, mọi hành động của cộng
đồng quốc tế, của các quốc gia và hành động của mỗi cá nhân đều nhằm bảo vệ con
người, vì tự do hạnh phúc và sự phát triển toàn diện của con người.
1.3. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã
hội
Để nhấn mạnh bản chất xã hội của con người, C.Mác đã nêu lên luận điểm nổi tiếng:
“Bản chất con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt.
Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội”.
Theo luận đề trên thì không có con người trừu tượng, thoát ly mọi điều kiện, hoàn
cảnh cụ thể của lịch sử và xã hội. Mác không chỉ xem xét con người trong hoạt động
thực tiễn mà còn xem xét nó trong thời đại lịch sử, trong môi trường xã hội nhất định.
Ở mỗi thời đại khác nhau bản chất con người là khác nhau. Vì xã hội loài người luôn
luôn vận động từ hình thái kinh tế xã hội thấp lên hình thái kinh tế xã hội cao nên con
người cũng phải biến đổi cho phù hợp. Con người ở thời đại nào đều mang dấu ấn của
thời đại ấy. Trong xã hội có giai cấp, bản chất con người mang tính giai cấp.
2. Vấn đề phát triển con người toàn diện trong giai đoạn hiện nay (CNH, HĐH)
Con người là một trong những động lực quan trọng nhất trong quá trình xây dựng
CNXH. Để phát triển đất nước đạt được mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh, vấn đề quan trọng là phải thực hiện phát triển nguồn nhân
lực Việt Nam, đồng thời phải có cái nhìn tổng thể mang tầm chiến lược về vấn đề con
người trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đòi hỏi nhiều nhân tố quan trọng như vốn,
khoa học công nghệ, thông tin, tổ chức, tài nguyên thiên nhiên, cơ sở vật chất song
yếu tố quan trọng và quyết định nhất là con người. Hiện nay, trong sự nghiệp CNH –
HĐH đất nước để đi lên Chủ Nghĩa Xã hội, mục tiêu xây dựng con người được đặt ra
một cách thiết thực và trực tiếp. Vấn đề con người là mục tiêu của sự nghiệp phát
triển kinh tế, xã hội ở nước ta là một vấn đề có tính chiến lược.
Những phẩm chất của con người mới mà Đảng ta xây dựng:
- Làm chủ tập thể.
- Có ý thức tự giác và trách nhiệm, tự giác.
- Có tư tưởng đúng đắn và tình cảm cao đẹp, có tri thức, có thể lực để làm chủ xã hội,
làm chủ thiên nhiên và là chủ bản thân.
- Có tinh thần nhân đạo sâu sắc.
- Có lòng tự hào dân tộc, tinh thần độc lập tự chủ, tự lực tự cường cao, khả năng sáng
tạo lớn, tinh thần tự lực cánh sinh, cần kiệm xây dựng Tổ quốc.
- Cần cù, tiết kiệm, quý trọng bảo vệ của công.
- Có ý thức lao động, kỷ uật, tự giác.
- Có tinh thần yêu nước CNXH và tinh thần quốc tế vô sản trong sáng.
 Lấy phát triển con người làm mục tiêu chiến lược, chúng ta cần chú ý đến những
vấn đề sau:
- Cần quan tâm đến lợi ích của con người bao gồm lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần,
trước hết là lợi ích vật chất.
- Cần bảo đảm và phát huy quyền dân chủ của nhân dân trong đời sống xã hội bắt đầu
từ cơ sở trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hôi. Đặc biệt phát huy tinh thần làm
chủ của nhân dân trong sự nghiệp đổi mới CNH – HĐH.
- Cần bảo đảm và thực hiện sự bình đẳng giữa những cá nhân, nhóm cộng đồng về cơ
hội phát triển, tạo điều kiện cho mọi người và các nhóm, cộng đồng có điều kiện phát
triển ngang nhau, được hưởng lợi ích công bằng phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã
hội trong từng giai đoạn cụ thể.
- Cần phát huy sức mạnh của nhân dân, của khối đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng nhà
nước của dân, do dân, vì dân. Phát triển kinh tế đi đôi với bảo vệ Tổ Quốc vì hạnh
phúc của nhân dân.
 Để giải quyết những vấn đề này, cần thực hiện những nhiệm vụ sau:
- Bồi dưỡng tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, đạo đức, lối sống và
nhân cách con người. Tạo chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, ý thức tôn trọng pháp
luật, mọi người VN đều hiểu biết sâu sắc, tự hào, tôn vinh lịch sử, văn hóa dân tộc.
- Hướng các hoạt động văn hóa, giáo dục, khoa học vào việc xây dựng con người có
thế giới quan khoa học, hướng tới chân-thiện-mỹ.
- Xây dựng và phát huy lối sống “mỗi người vì mọi người, mọi người vì mỗi người”,
hình thành lối sống có ý thức tự trọng, tự chủ, sống và làm việc theo Hiến pháp và
pháp luật, bảo vệ môi trường.
- Tăng cường giáo dục nghệ thuật, nâng cao năng lực cảm thụ thẩm mỹ cho nhân dân,
đặc biệt là thanh niên, thiếu niên.
- Đấu tranh phê phán, đẩy lùi cái xấu, cái ác, cái thấp hèn, lạc hậu. Chống
quan điểm, hành vi sai trái, tiêu cực, ảnh hưởng xấu đến xây dựng nền văn hóa, làm
tha hóa con người. Có giải pháp khắc phục những mặt hạn chế của con người Việt
Nam.
- Xây dựng tư tưởng đạo đức và lối sống: xây dựng tinh thần yêu nước và ý chí xây
dựng đất nước, xây dựng đạo đức và lối sống mới phấn đấu vì lợi ích con người, gắn
lợi ích của cá nhân với lợi ích của cộng đồng, ở từng cơ sở, từng địa phương và trong
cả nước, nêu gương người tốt, việc tốt, phát huy sức mạnh của dư luận và sức mạnh
của luật pháp để lên án và trừng phạt thích đáng những kẻ cố tình vi phạm pháp luật,
quấy rối mất trật tự, an toàn xã hội, những kẻ gây nên những tội ác, gieo rắc những tư
tưởng xấu hay những tệ nạn xã hội.
- Phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo: Đào tạo lớp người lao động có kiến thức cơ
bản, làm chủ kỹ năng nghề nghiệp, quan tâm hiệu quả thiết thực, nhạy cảm với cái
mới, có ý thức vươn lên vì khoa học và công nghệ. Có chính sách sử dụng lao động và
nhân tài. Điều chỉnh hệ thống giáo dục cho phù hợp với yêu cầu của thời đại, tạo mọi
điều kiện cho mọi người ở mọi lứa tuổi được học tập thường xuyên suốt đời. Tăng
cường cơ sở vật chất và từng bước hiện đại hóa nhà trường.
Tăng cường đầu tư cho ngân sách nhà nước và đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục – đào
tạo.
- Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc: Tập trung xây dựng con
người Việt Nam phát triển về thể lực, trí lực và tình cảm, có lý tưởng và nhiệt tình
cách mạng, trung thành với sự nghiệp đổi mới, có kỹ năng lao động và sáng tạo, có ý
chí và bản lĩnh trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, đáp ứng được yêu
cầu của sự nghiệp CNH – HĐH đất nước và hội nhập quốc tế. Nâng cao chất lượng
toàn diện của việc xây dựng đời sống văn hóa và môi trường văn hóa thông qua đẩy
mạnh phong trào thi đua yêu nước và cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây dựng đời
sống văn hóa. Mở rộng và phát triển các ngành công nghiệp
và dịch vụ văn hóa. Đảm bảo tự do và dân chủ trong hoạt động sáng tạo. Bên cạnh
việc tiếp tục đầu tư, tôn tạo, bảo tồn và phát huy các di tích lịch sử văn hóa, cần chú
trọng xây dựng các công trình văn hóa trọng điểm quốc gia và khu vực. Nâng cao chất
lượng và hiệu quả lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước trên lĩnh vực văn hóa -
thể thao - du lịch. Đẩy mạnh hoạt động thể dục thể thao, nâng cao thể trạng và tầm
vóc của người Việt Nam. Tăng đầu tư ngân sách cho văn hóa tương ứng với tăng
trưởng kinh tế. Mở rộng giao lưu văn hóa, thể thao quốc tế.
- Xây dựng môi trường văn hóa.
- XD những chính sách để phát triển kinh tế, tạo đk cho người dân làm kinh tế, gia
tăng tiềm lực kt quốc gia.

You might also like