You are on page 1of 22

MỤC LỤC

1. Thế giới quan Phật giáo


1.1. Sự ra đời và phát triển của thế giới quan phật giáo
1.1.1. Điều kiện kinh tế - xã hội………………………………………………………5
1.1.2. Văn hoá - tư tưởng …………………………………………..……………….…6
1.1.3. Vai trò người sáng lập thế giới quan Phật giáo …………………………….6
1.2. Nội dung thế giới quan Phật giáo
1.2.1. Quan niệm về thế giới …………………………………………………………7
1.2.2. Quan niệm về con người
1.2.2.1. Quan niệm về cấu tạo con người ……………………..……………9
1.2.2.2. Quan niệm về thân thể con người …………………………………..9
1.2.2.3. Quan niệm về sự xuất hiện của con người ……………………….10
1.2.3. Quan niệm về cuộc đời con người
1.2.3.1. Khổ đế ………………………………………..………………………10
1.2.3.2. Tập đế …………………………………………...……………………11
1.2.3.3. Diệt đế …………………………………………..…………………...13
1.2.3.4. Đạo đế ……………………………………..………………………...13
2. Ảnh hưởng của thế giới quan Phật giáo đối với đời sống tinh thần con người
Việt Nam hiện nay
2.1. Đời sống tinh thần xã hội và đời sống tinh thần con người Việt Nam hiện
nay …………………………………………………………………………………………….14
2.2. Ảnh hưởng của thế giới quan Phật giáo đối với quan niệm sống, lối sống
con người Việt Nam …………………………………………………………………………15
2.3. Ảnh hưởng của thế giới quan Phật giáo đối với ý thức đạo đức con người
Việt Nam ………………………………………….…………………………………………..17
2.4. Ảnh hưởng của thế giới quan Phật giáo đối với phong tục tập quán……...18
2.5. Ảnh hưởng của thế giới quan Phật giáo đối với văn hóa và nghệ thuật…..19
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1
2
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong xã hội hiện đại ngày nay, tôn giáo đang trở thành một trong những vấn đề thu
hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà khoa học trên cả phương diện lý luận cũng
như thực tiễn. Một tôn giáo cụ thể ở một quốc gia nhất định có thể suy tàn, hưng thịnh
hoặc mất đi, song nhìn chung từ khi ra đời cho đến nay, tôn giáo luôn tồn tại trong xã
hội loài người. Tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, nhưng lại liên
quan và luôn ảnh hưởng khá sâu sắc đến các lĩnh vực của đời sống xó hội, tác động
đến văn hoá, đạo đức, kinh tế, chính trị, xã hội, an ninh và quốc phòng.
Việt Nam là đất nước đa tôn giáo, mà đạo Phật là tôn giáo có mặt rất sớm từ gần
2000 năm trước. Ngay từ buổi đầu tiên, với tư tưởng từ bi, hỉ xả, Phật giáo đó được
nhân dân Việt Nam đón nhận, luôn đồng hành cùng dân tộc với phương châm nhập
thế, gắn bó giữa Đạo và Đời, phấn đấu vỡ hạnh phúc an vui cho con người. Đạo Phật
đó trở thành một trong những hệ tư tưởng - tôn giáo có sức sống lâu dài, tồn tại cho
đến ngày nay, đó ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống tinh thần con người Việt Nam trong
lịch sử.
Phật giáo Việt Nam luôn gắn liền vận mệnh đất nước, thăng hoa cùng dân tộc trong
mọi hoàn cảnh và trải qua mọi thời đại. Phật giáo Việt Nam là một tôn giáo có truyền
thống yêu nước, gắn bó với dân tộc. Bên cạnh đó, văn hoá Phật giáo là một bộ phận
không thể tách rời văn hoá dân tộc. Đạo Phật với quan niệm nhân sinh độc đáo của nó
trở thành một bộ phận không thể thiếu của nền văn hoá dân tộc.
Mỗi một tôn giáo, để trở thành một tôn giáo đích thực đều phải giải đáp câu hỏi:
Thế giới này (kể cả tự nhiên và xã hội) là gì? Do đâu mà có? Vận hành theo những quy
luật nào? Phật giáo với cái đích là cứu con người thoát khỏi nỗi khổ muôn đời, với cứu
cánh là giải thoát.
Việc đứng trên lập trường triết học Mác - Lênin để nghiên cứu thế giới quan Phật
giáo và ảnh hưởng của nó đối với đời sống tinh thần con người Việt Nam hiện nay, chỉ
ra những yếu tố tích cực, phát hiện những giá trị tinh tuý của nó cũng như những mặt
hạn chế của nó chính là một việc làm có ý nghĩa thiết thực cả về lý luận cũng như về
mặt thực tiễn. Với tầm quan trọng và ý nghĩa như vậy nên chọn: “Thế giới quan Phật
giáo và ảnh hưởng của nó đối với đời sống tinh thần con người Việt Nam hiện nay”
làm đề tài nghiên cứu.

3
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Tiểu luận làm từ thế giới quan Phật giáo trên những nội dung chủ yếu có liên quan
và có ảnh hưởng từ nét đối với một số mặt trong đời sống tinh thần con người Việt
Nam hiện nay. Trên cơ sở đó đưa ra một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy mặt tích
cực, hạn chế mặt tiêu cực ảnh hưởng của thế giới quan Phật giáo đối với đời sống tinh
thần con người Việt Nam hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên, tiểu luận có những nhiệm vụ cụ thể sau:
- Làm từ thế giới quan Phật giáo trên những nội dung chủ yếu (về thế giới, về con
người và về cuộc đời con người) .
- Phân tích ảnh hưởng của thế giới quan Phật giáo đối với một số mặt trong đời
sống tinh thần con người Việt Nam hiện nay.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Thế giới quan Phật giáo và ảnh hưởng của nó đối với đời sống tinh thần con người
Việt Nam hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Chỉ đi vào nghiên cứu thế giới quan Phật giáo trên những nội dung chủ yếu. Từ đó,
tìm hiểu ảnh hưởng của chúng đối với một số lĩnh vực đời sống tinh thần con người
Việt Nam hiện nay.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp luận nghiên cứu
Tiểu luận được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng các phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật
lịch sử kết hợp với một số phương pháp phân tích và tổng hợp; lôgíc và lịch sử;
phương pháp so sánh và đối chiếu…

4
NỘI DUNG
1. Thế giới quan Phật giáo
1.1. Sự ra đời và phát triển của thế giới quan phật giáo
Phật giáo là một trong ba tôn giáo lớn trên thế giới. Phật giáo xuất hiện ở Ấn Độ vào
khoảng thế kỷ thứ VI trước Công Nguyên (TCN) thuộc miền Bắc Ấn Độ, phía Nam
đồi núi Himalaya, vùng biên giới giữa Ấn Độ và Nê Pan. Sự ra đời của thế giới quan
Phật giáo căn bản bị chi phối bởi chính hoàn cảnh lịch sử, kinh tế, chính trị - xã hội
của đất nước Ấn Độ cổ đại.
1.1.1. Điều kiện kinh tế - xã hội
Ấn Độ cổ đại là một quốc gia có lịch sử lâu đời và có nền văn minh sớm phát triển,
đạt đến trình độ rực rỡ. Từ thế kỷ VI đến thế kỷ I TCN, chế độ chiếm hữu nô lệ mang
tính chất gia trưởng kiểu phương Đông đó khá phát triển ở Ấn Độ. Trong thời kỳ này
nền kinh tế, xã hội, văn hoá Ấn Độ đó có những bước tiến bộ vượt bậc. Công cụ bằng
đồ sắt rất phổ biến. Trên cơ sở mở mang các công trình thuỷ lợi, khai khẩn đất đai,
trồng các loại ngũ cốc, nông nghiệp phát triển mạnh. Nghề thủ công cũng rất phát đạt,
nhất là nghề dệt bông, đay, tơ lụa, nghề luyện sắt, nghề làm đồ gỗ, gốm sứ và nghề
làm đồ trang sức. Mặc dù nền kinh tế tự nhiên vẫn chiếm phần ưu thế, nhưng thương
nghiệp, buôn bán cũng phát triển đó hình thành một tầng lớp mới trong cơ cấu giai cấp
xã hội Ấn Độ Tầng lớp thương nhân và thợ thủ công. Tiền tệ kim loại xuất hiện. Nhiều
con đường thương mại thuỷ bộ nối liền các thành thị với nhau và thông thương từ Ấn
Độ qua các nước như Trung Hoa, Ai Cập và các miền Trung Á... dần dần xuất hiện.
Trong xã hội chiếm hữu nô lệ Ấn Độ, các đế vương nắm quyền lực vô hạn về sở
hữu ruộng đất và thần dân cũng đó ảnh hưởng mạnh mẽ tới tính chất và sự phát triển
khắc nghiệt của tự nhiên và chế độ đẳng cấp, thể chế xã hội luôn đè nặng lên đời sống
của người dân Ấn Độ. Đó là chế độ xã hội dựa trên sự phân biệt về chủng tộc, màu da,
nghề nghiệp, tôn giáo, quan hệ giao tiếp, tục cấm kỵ hôn nhân…
Một xã hội bất bình đẳng như thế làm cho mâu thuẫn xã hội ngày càng gay gắt, nhất
là khi đẳng cấp thống trị giàu có sinh ra trụy lạc, pháp luật không được tôn trọng. Tình
hình xã hội Ấn Độ thời bấy giờ đó chín muồi một cuộc đấu tranh nhằm lật đổ những
giai cấp thống trị, áp bức bóc lột. Đây là cơ sở xã hội quan trọng làm cho thế giới quan
Phật giáo - với tư cách là một trào lưu tư tưởng chống lại sự “nghèo nàn hiện thực” -

5
đưa ra chủ trương thực hiện “bình đẳng xã hội” của mình, kiến lập một chế độ xã hội
công bằng hơn.
1.1.2. Văn hoá - tư tưởng
Tư tưởng triết học Ấn Độ cổ đại được hình thành từ cuối thiên niên kỷ II đầu thiên
niên kỷ I TCN, bắt nguồn từ thế giới quan thần thoại, tôn giáo giải thích vũ trụ bằng
các biểu tượng các vị thần mang tính chất tự nhiên, có nguồn gốc từ những hình thức
tôn giáo tối cổ của nhân loại - totemisme và tín ngưỡng vật linh - animisme.
Thế giới quan thần thoại, tín ngưỡng tôn giáo, chủ nghĩa duy tâm trong thánh kinh
Veda, kinh Upanishad và đạo Bàlamôn đó trở thành hệ tư tưởng thống trị trong đời
sống tinh thần của xã hội Ấn Độ cổ.
Cuộc đấu tranh giữa các trường phái triết học, nhất là cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa
duy vật, vô thần chống chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo lên đến đỉnh cao. Thế giới quan
Phật giáo xuất hiện chính trong bối cảnh lịch sử trên với tư cách là một hệ tư tưởng
phản đối sự ngự trị của đạo Bàlamôn về chế độ đẳng cấp khắt khe, về học thuyết linh
hồn bất tử và thần tạo vật, phủ nhận uy thế của kinh Veda, bác bỏ uy quyền thần thánh,
lý giải căn nguyên của nỗi khổ và tìm con đường giải thoát con người khỏi nỗi khổ
triền miên, đè nặng trong xã hội nô lệ Ấn Độ. Nó là sự khẳng định một đạo lý, một
đường hướng cứu khổ mới cho con người.
1.1.3. Vai trò người sáng lập thế giới quan Phật giáo
Theo truyền thuyết, người sáng lập ra Phật giáo là Thích ca Mâu ni (Sakyamuni), có
tên thật là Siddhartha (Tất Đạt Đa), họ Cồ Đàm (Gautama) vương tộc Thích Ca
(Sakya). Ông sinh ngày 15- 4 (có sách ghi 8- 4) năm 563 TCN (Phật lịch cho là 544
tr.CN) tại vườn Lumbini thuộc kinh thành Kapilavastu (hiện nay thuộc về nước
NêPan).
Sau khi giác ngộ, đức Phật đi khắp bốn phương thuyết giảng, truyền bá tư tưởng của
mình cho chúng sinh ở Ấn Độ và các vùng lân cận, không phân biệt già trẻ, nam nữ,
màu da, chủng tộc,… không phân biệt giai cấp sang hèn. Suốt 49 năm, đức Phật không
ngừng đem cái đạo diệt khổ, cứu nạn giảng giải cho tất cả mọi người.
Phật Thích ca Mâu ni trong suốt quá trình đi truyền đạo, không hề chép thành sách
giáo lý mà chỉ truyền khẩu lại. Đến khi đức Phật nhập diệt thì nhận thức giáo lý của
các đồ đệ không nhất trí.

6
Đạo Phật với luật lệ, lễ nghi đơn giản, giáo lý sâu sắc, nêu lên khả năng chế ngự dục
vọng, vai trũ tự giải thoát của con người, sự bình đẳng của con người với con người…
nên được đông đảo quần chúng tin theo. Sau khi Phật tịch diệt khoảng hai thế kỷ, dưới
thời vua A Dục, vào thế kỷ III TCN, Phật giáo đó lan rộng khắp Ấn Độ. Phật giáo ở
Ấn Độ tiếp tục phát triển cho đến thời vua Gúp Ta, sau đó Phật giáo không giữ được
vai trò như trước nữa và dần dần phải nhường chỗ cho một tôn giáo mới: Ấn Độ giáo -
một tôn giáo kết hợp giữa đạo Bàlamôn và một số tín ngưỡng dân gian, trong đó có
một số yếu tố của Phật giáo. Từ thế kỷ thứ VIII trở đi, Hồi giáo xâm nhập vào Ấn Độ
làm cho Phật giáo bị suy tàn dần.
1.2. Nội dung thế giới quan Phật giáo
Theo nghĩa hẹp, thế giới quan là quan niệm hay hệ thống quan niệm của con người
về thế giới. Quan niệm hay hệ thống quan niệm này cũng không phải nhất thành bất
biến mà thay đổi theo thời đại phụ thuộc vào mức độ hiểu biết và cải tạo giới tự nhiên
của con người. Nhưng thế giới không tách rời con người.
Theo nghĩa rộng, thế giới quan là hệ thống những quan niệm của con người về thế
giới; về vị trí của con người trong thế giới đó, về chính bản thân cuộc sống của con
người và loài người trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất định; nghĩa là, thế giới quan bao
hàm cả nhân sinh quan, tức là toàn bộ những quan niệm về cuộc sống của con người
và loài người.
Trong Phật giáo, đặc biệt là đối với Phật giáo nguyên thuỷ, “khía cạnh vũ trụ quan,
thế giới quan có phần hơi mờ nhạt, trong khi đó khía cạnh nhân sinh quan lại khá rừ
nét. Phật giáo nguyên thuỷ không lấy bản thể luận làm chủ ý, mà vũ trụ quan (thế giới
quan) lấy nhân sinh quan làm trung tâm.
1.2.1. Quan niệm về thế giới
Theo Phật, mọi sự vật, hiện tượng đều phải xem xét đến cái chân tướng, cái thực
tướng (gần với khái niệm bản chất trong triết học) của chúng, phải gạt bỏ mọi mường
tượng, tưởng tượng - nguyên nhân dẫn đến nhận thức sai lầm; phải như thị kiến
(Yathatatha) và như thực kiến (Yathabhutam) (gần với khái niệm khách quan trong
triết học).
Như vậy, mọi sự vật hiện tượng đều do nhân duyên sinh, các pháp do nhân duyên
sinh. Trên thế giới này càng không có sự vật gỡ tồn tại độc lập tuyệt đối, tất cả mọi cái
đều phải nương tựa vào nhau. Mọi sự vật hiện tượng đều nằm trong mối liên hệ phức

7
tạp đó, dù Phật có ra đời hay không ra đời, chúng vẫn là như vậy, không thể khác
được.
Theo Phật, thế giới này về đại thể có hai yếu tố cơ bản là danh và sắc. Khái niệm
danh, sắc để chỉ hiện tượng và cá thể. Nhưng đến thời đức Phật nó được ngụ ý là yếu
tố tinh thần và yếu tố vật chất, nó chính là vật và tâm, vật chất và ý thức.
Vỡ mọi sự vật hiện tượng đều do nhân duyên sinh, thế giới quan Phật giáo cho rằng
thế giới này sinh ra không nhờ một đấng sáng tạo nào, không nhờ một phép mầu
nhiệm nào ở ngoài nó cả, mà chỉ do nhân quả nối tiếp nhau mà thành.
Theo các kinh Phật, vũ trụ hay pháp giới rộng lớn vô cùng. Thế giới mà chúng ta
đang ở không phải chỉ có một duy nhất mà nhiều như cát sông Hằng.
Trong Phật giáo cũng có khái niệm tam giới bao gồm:
1. Dục giới: nơi lũng dục thịnh
2. Sắc giới: dục tuy không thịnh nhưng chưa hoàn toàn thoát ly khỏi sự trói buộc
của vật chất.
3. Vô sắc giới: hoàn toàn thoát ly khỏi sự trói buộc của vật chất, chỉ có tinh thần.
Theo Kimura Taiken, tam giới của nhà Phật được sinh ra từ trạng thái tinh thần
trong các giai đoạn thiền định. Dục giới lấy núi Tu Di làm trung tâm. Xung quanh núi
Tu Di là cửu sơn (Trỡ song, Trỡ trục, Diêm mộc, Thiên kiến, Mó nhĩ, Tượng nhĩ, Trỡ
sơn, Thiết luân), Bát hải. Giữa Trỡ song và Thiết luân có 4 châu.
1. Nam là Diêm phù đề châu
2. Đông là Đông thắng thần châu
3. Bắc là Bắc câu lư châu
4. Tây là Tây ngưu hoá châu
Chúng ta đang ở châu Diêm phù đề. Trên núi Tu Di có thần Dạ Xoa, Tứ Thiên
vương, Kim cương Thủ và Trời Đạo Lợi, tầng thứ 33 có chủ nhân là Đế Thích.
Phật giáo cũng có khái niệm Lục đại bao gồm:
1. Địa ngục: có 8 đại địa ngục ở nơi tận cùng thế giới hay dưới Diêm phù đề
châu.
2. Ngạ quỷ: kể cả Diêm Ma, Quỷ thần, Dạ xoa
3. Súc sinh
4. Atula (dưới đáy biển)
5. Nhân gian (có 4 châu nói trên)

8
6. Thiên (Trời)
1.2.2. Quan niệm về con người
1.2.2.1. Quan niệm về cấu tạo con người
Về cấu tạo hay các yếu tố hình thành nên con người, thế giới quan Phật giáo có:
- Thuyết Danh - Sắc: Thực ra danh - sắc có từ thời Upanisad. Nhưng đến thời đức
Phật thì danh chỉ yếu tố tinh thần, sắc chỉ yếu tố vật chất. Do vậy, theo thuyết Danh -
Sắc, con người được cấu tạo bởi hai yếu tố đó là vật chất và tinh thần.
- Thuyết Lục đại: Thuyết này cho rằng con người được cấu tạo bởi sáu yếu tố (lục
đại), bao gồm:
1. Địa (đất, xương thịt).
2. Thuỷ (nước, máu, chất lỏng).
3. Hoả (lửa, nhiệt khí).
4. Phong (gió, hô hấp).
5. Không (các lỗ trống trong cơ thể).
6. Thức (ý thức, tinh thần).
- Thuyết Ngũ uẩn: thuyết này cho rằng con người được cấu tạo bởi năm yếu tố
(ngũ uẩn) như sau:
1. Sắc: vật chất, bao gồm tứ đại (địa, thuỷ, hoả, phong).
2. Thụ: những cái chỉ cảm tình, tình cảm, cảm giác, biết do cảm mà biết. Nó
hơi nghiêng về tình.
3. Tưởng: đó là biểu tượng, tưởng tượng, tri giác, ký ức, trí.
4. Hành: đó là ý chí, những yếu tố khiến cho tâm hoạt động, ý.
5. Thức: ý thức, cái biết phân biệt.
Trong các học thuyết cấu tạo về con người của thế giới quan Phật giáo thì thuyết
Ngũ uẩn là phổ biến hơn cả.
1.2.2.2. Quan niệm về thân thể con người
Con người là sự kết hợp động của những yếu tố động nên không có gì định hình có
thể gọi là nó được, và suy cho cùng nó là vô nghĩa. Thế giới quan Phật giáo cho rằng
thân là gốc của khổ (thân vi khổ bản). Nếu không có thân thì nóng giận, sợ sệt, dâm
dục,... từ đâu mà tới được. Tiểu thừa cho thân thể con người là bất tịnh, nó được kết
cấu bởi những chất nhơ nhớp, ô uế. Mọi đau khổ ở thế gian như đói khát, nóng lạnh,
mỏi mệt, sinh, lóo, bệnh, tử đều ở nơi thân thể. Mọi sự vật, hiện tượng đều vô thường

9
nên thân thể con người cũng nằm trong quy luật đó, nó cũng vô thường, mới nay thấy
trẻ mà mai đó thấy già. Do đó, thế giới quan Phật chỉ tập trung lý giải con người
hướng vào cái tâm bên trong (hướng nội), tìm cách giải thoát con người chủ yếu trong
tâm linh, phần nào đó ít quan tâm đến xã hội, khoa học - kỹ thuật, lao động sản xuất,
đấu tranh giai cấp.
1.2.2.3. Quan niệm về sự xuất hiện của con người
Tại sao người này hay người kia lại xuất hiện trên thế gian này? Họ xuất hiện để
làm gì?
Theo thế giới quan Phật giáo, con người xuất hiện là do nghiệp (Karma). Nghiệp là
gì? Nghiệp là luật vô hình giống như nghiện. Con người mỗi ngày hút hít một tí dần
dần thành nghiện. Nghiệp cũng vậy, tất cả những hành động, cử chỉ, hành vi, suy nghĩ
của con người mỗi ngày tích luỹ một chút, dần hình thành luật vô hình - nghiệp.
Khi nghiệp, con người lại phải quay lại để trả giá cho những hành động, hành vi, cử
chỉ, suy nghĩ ở kiếp trước, tức lại phải luân hồi. Gieo nhân nào thì gặt quả ấy, ác giả ác
báo vần xoay. Hại nhân nhân hại, xưa nay lẽ thường; Luân như là bánh xe, Hồi là quay
trở lại. Luân hồi giống như sự biến hoá của con tằm (con nhộng) từ con trùng nhỏ, sau
đó con nhộng này lại biến thành con ngài (con bướm). Nhìn bề ngoài, chúng khác
nhau, nhưng thực ra chúng là một. Bản chất chúng sinh là khác nhau, khác nhau do
nghiệp. Tự mình gây nghiệp, tự mình gánh hậu quả. Cái đó không chỉ bắt đầu ở kiếp
này mà cũng từ không biết bao nhiêu kiếp trước. Quan niệm nghiệp báo - luân hồi
(Karma- Samsara) là cơ sở cho nhân sinh quan của người Ấn Độ cổ.
1.2.3. Quan niệm về cuộc đời con người
Toàn bộ quan niệm về cuộc đời con người trong thế giới quan Phật giáo được tập
trung nhất ở Tứ diệu đế - cơ sở, nền tảng của lâu đài Phật giáo.
1.2.3.1. Khổ đế
Trong thế giới quan Phật giáo có nhiều cách phân loại khổ: nhị khổ, tam khổ, tứ
khổ, ngũ khổ, bát khổ,...
- Nhị khổ gồm:
1. Nội khổ: 404 loại bệnh tật là thân khổ; buồn phiền ghen ghét là tâm khổ. Hợp
hai loại khổ đó gọi là Nội khổ.
2. Ngoại khổ: một là bị giặc ác, hổ lang làm hại, hai là gặp tai nạn mưa gió nóng
lạnh. Hợp hai loại khổ đó gọi là ngoại khổ

10
- Tam khổ:
1. Khổ khổ là nỗi khổ do nóng lạnh đói khát sinh ra.
2. Hoại khổ là nỗi khổ trong cảnh vui nhưng đến lúc tàn hoại thì sinh ra khổ.
3. Hành khổ là nỗi khổ của hết thảy các pháp hữu vi, vô thường biến động.
- Ngũ khổ:
1. Nỗi khổ sinh lão bệnh tử (hợp bốn khổ thành một khổ).
2. Nỗi khổ do yêu nhau mà phải xa cách nhau (ái biệt ly khổ).
3. Nỗi khổ vì mình phải gần gũi với người mà mình oán ghét (oán tăng hội khổ).
4. Nỗi khổ do cầu mà không được (cầu bất đắc khổ).
5. Thân và tâm phải chịu hết thảy những nỗi khổ. Đó là do sự kết hợp của các
yếu tố sắc, thụ, tưởng, hành, thức làm cho con người phải chịu hết nỗi khổ này đến nỗi
khổ khác (ngũ thụ uẩn khổ).
- Khổ để (bát khổ - Dukkha – Chân lý của khổ):
Bát khổ gồm: sinh, lão, bệnh, tử, ái biệt ly, oán tăng hội, cầu bất đắc và ngũ thụ uẩn.
1.2.3.2. Tập đế
Tập đế nói lên sự tập hợp, tích chứa những nguyên nhân đưa tới cái khổ. Đức Phật
cho rằng, mọi cái khổ đều có nguyên nhân của nó. Thế giới quan Phật giáo đưa ra
Thập nhị nhân duyên, đó là mười hai nguyên nhân gây nên nỗi khổ cho con người.
Trong 12 nguyên nhân đưa ra thì đức Phật cho rằng, vô minh và ái dục là hai
nguyên nhân chủ yếu đưa đến đau khổ cho con người. Trong đó, vô minh là điểm nút
đầu tiên trong “thập nhị nhân duyên” dẫn người ta đến đau khổ. Sự kết hợp giữa vô
minh và ái dục đưa đến tam độc là tham, sân, si.
Tham: nó biểu hiện sự tham lam của con người, xúi giục con người hành động để
thoả mãn lòng tham của mình. Lòng tham của con người không có giới hạn, càng tham
nhiều càng khổ lắm, “tham thì thâm”. Cũng vì lòng tham mà gây ra bao nỗi thống khổ
cho con người như chém giết, xung đột, xâm hại lẫn nhau. Tham không những có hại
cho mình mà cũng gây hại cho người khác, không chỉ trong hiện tại mà cũng trong cả
tương lai.
Sân: khi lòng tham không được thoả mãn thì con người trở nên tức giận, bực tức,
nóng nảy, đó là sân. Sân cũng là nguyên nhân của khổ, nó làm cho con người không
kiểm soát hết hành động của mình (giận quá mất khôn). Thế giới quan Phật giáo cho

11
rằng tức giận, tức tối dẫn đến thù hằn, hung bạo, gây ác, gieo oán, từ đó làm hại lòng
đại từ đại bi. Điều này cũng tai hại gấp trăm nghìn lần lòng tham.
Si: nghĩa là si mê, lú lẫn, ám muội. Nó làm cho con người tâm rối, thần loạn, trí tuệ
mê mờ, người ngu đần, mê muội từ đó không phân biệt được trái phải, trên dưới, trước
sau, đi vào con đường lầm lạc. Chính từ đó gây bao tội lỗi, đau khổ cho mọi người.
Tiếp đến, đức Phật lý giải nguyên nhân của khổ bằng thuyết “thập nhị nhân
duyên”. Đó là 12 cái vừa là nhân vừa là duyên quyết định đến sự khổ:
+ Vô minh: là không sáng suốt, không nhận thấy thế giới này là ảo giả mà cứ
tưởng đó là thực.
+ Duyên hành: là hoạt động có ý thức; ở đây đó có sự dao động của tâm, có mầm
mống của nghiệp.
+ Duyên thức: là nhận thấy, ý thức phân biệt cái tâm trong sáng, cân bằng với cái
tâm đó bị ô nhiễm và mất cân bằng.
+ Duyên danh sắc: là sự hội tụ của các yếu tố vật chất và tinh thần.
+ Duyên lục nhập: quá trình tiếp xúc với thế giới khách quan, lục căn tiếp xúc với
lục trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp).
+ Duyên xúc: là sự tiếp xúc phối hợp giữa lục căn, lục trần và thức xúc, là quả của
lục nhập, là nguyên nhân của thụ.
+ Duyên thụ: là cảm giác do tiếp xúc với thế giới bên ngoài mà sinh ra yêu, ghét,
buồn, vui.
+ Duyên ái: là yêu thương, đam mê, đắm trước, chính từ đây nảy sinh ra dục
vọng.
+ Duyên thủ: có ái là có thủ, đó có ái thì muốn chiếm giữ, nắm giữ, tìm đủ mọi
cách giữ chặt lấy cho mình.
+ Duyên hữu: là sự tồn tại để tận hưởng cái đó chiếm đoạt; từ đây chứng tỏ có
nguyên nhân chứa đựng nguyên nhân.
+ Duyên sinh: đó có tạo nghiệp là nhân tất yếu sẽ sinh ra quả; là sự ra đời, sinh
thành do phải tồn tại.
+ Duyên lão - tử: đó có sinh tất có già và chết. Sinh - lão - bệnh - tử là kết thúc
một chu kỳ, đồng thời là nguyên nhân của một chu kỳ tiếp theo, bắt đầu một vũng luân
hồi sinh tử mới không sao thoát được. Vậy nỗi khổ có tiêu diệt được không? Vấn đề
này được đức Phật trình bày ở Diệt đế và Đạo đế.

12
1.2.3.3. Diệt đế
Nguyên nhân đau khổ là Ái dục, Vô minh, Tam độc, vậy muốn thoát khổ thì phải
diệt trừ những nguyên nhân này để đạt đến cái gọi là Niết bàn (Nirvana).
Diệt để thể hiện lòng tin của Phật nơi Niết bàn.

1.2.3.4. Đạo đế
Chân lý này chỉ ra con đường cụ thể để diệt trừ những nguyên nhân của sự đau khổ
để dẫn đến Nirvana tuyệt đối tịch tịnh sung sướng, an lạc và tốt đẹp nhất.
Nội dung của Bát chính đạo gồm:
1. Chính kiến (Hiểu biết đúng đắn): là thấy từ, hiểu đúng lý tứ đế (khổ, tập, diệt,
đạo) và đạt đến sự hiểu biết đúng các pháp không chỉ trong thế giới tương đối, thế giới
hiện tượng (hữu vi) (Trí) mà cả trong thế giới tuyệt đối (vô vi) (Tuệ). Đây cũng là một
trong những khâu cuối cùng để bước vào giải thoát, nhập Niết bàn.
2. Chính tư duy (Nghĩ đúng): là thấy từ lý tứ đế vẫn tư duy để khiến chân lý tăng
trưởng, dựa trên cơ sở tâm sở vô lậu.
3. Chính ngữ: là dùng chân trí mà tu khẩu (áp dụng chính tư duy vào trong lời
nói), cụ thể: không nói dối (không nói sai sự thật), không nói tạo ra sự bất hũa giữa
mọi người, không nói lời ác dữ, không thừa lời vô ích. Tất cả những cái đó dựa trên cơ
sở giới vô lậu (phòng ngừa, ngăn cấm sự sai trái của tâm).
4. Chính nghiệp: là dùng chân trí mà trừ tà nghiệp của thân (áp dụng chính tư
duy vào hành động của thân thể), luôn giữ vững thân nghiệp thanh tịnh dựa trên nền
tảng của giới vô lậu. Chính nghiệp gồm: không sát sinh, không trộm cướp, không tà
dâm.
5. Chính mệnh: là sống bằng nghề nghiệp chân chính để tam nghiệp (thân, khẩu,
ý) được thanh tịnh, trong sạch.
6. Chính tinh tấn: là dựng chín lý mà cố gắng tu đạo Niết bàn, lấy cần vô lậu
(siêng năng) làm thể. Cụ thể là cố gắng làm điều thiện, trừ ác trong ý nghĩ, hành động;
phải chủ động tích cực trong việc tìm kiếm truyền bỏ chân lý nhà Phật.
7. Chính niệm: là trong đầu óc con người luôn có ý niệm trong sạch ngay thẳng,
ghi nhớ những đạo lý chân chính, điều hay lẽ phải ở đời, chăm no thường xuyên niệm
Phật. Thực hành chính niệm đóng vai trò quan trọng trong việc tu thiền của đạo Phật.

13
8. Chính định: là giữ cho thân tâm vắng lặng, không vọng động để trí tuệ bừng
sang.
Như vậy, khi thực hiện các bước tu tập trên đây, con người sẽ đạt tới trạng thái
thanh tịnh, an lạc, ung dung, tự tại, không vọng động, đạt tới giác ngộ và cảnh trí Niết
bàn.
2. Ảnh hưởng của thế giới quan Phật giáo đối với đời sống tinh thần con người
Việt Nam hiện nay
2.1. Đời sống tinh thần xó hội và đời sống tinh thần con người Việt Nam hiện
nay
Quan niệm về đời sống tinh thần xã hội: ý thức xã hội và tồn tại xã hội, mà làm xuất
hiện vấn đề mối quan hệ giữa đời sống tinh thần xã hội và đời sống vật chất xã hội.
Có thể khẳng định rằng phạm trù đời sống tinh thần xã hội là một phạm trù rộng, nó
bao gồm ý thức xã hội, văn hóa tinh thần và nhiều hoạt động và quan hệ tinh thần khác
nữa. Mối quan hệ giữa chúng là mối quan hệ phụ thuộc. Bởi vì, với phạm trù ý thức xã
hội, về cơ bản, mới chỉ nói lên mặt nhận thức luận của lĩnh vực tinh thần - những giá
trị tinh thần với tư cách là kết quả của sự phản ánh. Trái lại, phạm trù đời sống tinh
thần xã hội vừa nói lên mặt nhận thức luận của lĩnh vực tinh thần, vừa nói lên mặt xã
hội học của lĩnh vực đó mặt thực tiễn tinh thần, bao gồm cả những hoạt động và quan
hệ tinh thần. Vấn đề này được Mác và Ăngghen khẳng định: “Đời sống tinh thần liên
hệ biện chứng với đời sống xã hội, nó tương ứng với những hình thức muôn màu
muôn vẻ của hoạt động xã hội của con người”; thứ hai, văn hóa tinh thần được hiểu là
toàn bộ những giá trị, những hoạt động, những quan hệ tinh thần có tính chất bền
vững, ổn định và được định hình theo những cách thức, chuẩn mực đặc thù của một
dân tộc, quốc gia. Trái lại, đời sống tinh thần xã hội, ngoài những yếu tố văn hóa xã
hội, nó cũng bao hàm một dung lượng, một phạm vi tinh thần rộng lớn khác như sách
báo, tranh ảnh, băng nhạc... hay quan điểm, lý thuyết, tình cảm... từ nước ngoài đưa
vào không liên quan gì đến tính đặc thù dân tộc (không thuộc văn hóa tinh thần), mà
chúng vẫn được lưu truyền trong cái xã hội mà dân tộc đó tồn tại (vẫn thuộc đời sống
tinh thần xã hội). Điều đó có nghĩa là ý thức xã hội và văn hóa tinh thần chỉ là một bộ
phận của đời sống tinh thần xã hội; liên quan đến phạm trù đời sống tinh thần xã hội
cũng phải kể đến phạm trù kiến trúc thượng tầng. Phạm trù kiến trúc thượng tầng cũng
chỉ mới nói lên phần nào mặt nhận thức luận và mặt thực tiễn tinh thần, nội dung của

14
nó bao gồm tư tưởng (các hình thứcý thức xã hội), tổ chức và thiết chế. Về mặt nhận
thức luận, nội dung kiến trúc thượng tầng chưa phản ánh hết nội dung phạm trù ý thức
xã hội, trong ý thức xã hội ngoài các hình thức ý thức xã hội cũng bao gồm các yếu tố
khác nữa như tâm lý xã hội, tìm lý dân tộc, ý thức cá nhân... Về mặt thực tiễn tinh
thần, những hoạt động và quan hệ tinh thần thuộc kiến trúc thượng tầng chỉ là một
phần (có thể là một phần quan trọng) trong hệ thống hoạt động và quan hệ tinh thần
rộng lớn của xã hội. Bởi vì ngoài những tổ chức, cơ quan nhà nước (kể cả tổ chức phi
chính phủ) về văn hóa, tư tưởng, khoa học, thì những hoạt động và quan hệ tinh thần
cũng được thực hiện bởi đông đảo quần chúng nhân dân (thể hiện từ nhất trong văn
hóa, văn học dân gian). Cho nên, giữa kiến trúc thượng tầng và đời sống tinh thần xã
hội là quan hệ giao nhau. Điều đó khẳng định, các phạm trù ý thức xã hội, văn hóa tinh
thần, kiến trúc thượng tầng đó phản ánh được phần nào những đặc trưng rất cơ bản của
đời sống tinh thần xã hội, song nó cũng không thể hoàn toàn thay thế được phạm trù
đời sống tinh thần xã hội.
Như vậy, Đời sống tinh thần xã hội “phản ánh” đời sống vật chất xã hội, chịu quy
định, chi phối của đời sống vật chất xã hội. Trong “Hệ tư tưởng Đức”, Mác và
Ăngghen đó nhận xét rằng:”Đạo đức, tôn giáo, siêu hình học và những dạng khác của
hệ tư tưởng cùng với những hình thức ý thức tương ứng với chúng liền mất ngay mọi
vẻ độc lập bề ngoài. Tất cả những cái đó không có lịch sử, không có sự phát triển;
chính con người, khi phát triển vật chất và sự giao tiếp vật chất của mình, đó làm biến
đổi cùng với những hiện thực đó của mình, cả tư duy lẫn sản phẩm tư duy của mình”.
2.2. Ảnh hưởng của thế giới quan Phật giáo đối với quan niệm sống, lối sống
con người Việt Nam
- Về quan niệm sống:
Thế giới quan Phật giáo xuất phát từ chỗ cho rằng mọi sự vật hiện tượng là sự kết
hợp động của những yếu tố động, nên nó không có tự tính, tức không có cái mà nhờ
cái đó có thể gọi là nó được. Mọi cái đều vô ngó, “chư pháp vô ngó”. Ngay cả con
người cũng chỉ là sự kết hợp động của ngũ uẩn (sắc, thụ, tưởng, hành, thức), bởi vậy
con người là vô nghĩa. Sống với chết, sinh với tử có ý nghĩa gì, đó chẳng qua chỉ là
thay đổi, hợp tan của ngũ uẩn. Quan điểm này khiến cho con người đứng trước cái
chết họ không khiếp sợ, bạc nhược.

15
Thế giới quan Phật giáo chỉ ra mối quan hệ cơ bản phổ biến của mọi sự vật hiện
tượng, đó là quan hệ nhân quả. Chính từ cách xem xét vạn vật này mà con người theo
thế giới quan Phật giáo cũng mang tính chất nhân quả. Ảnh hưởng của quan điểm này
lớn đến mức chính nó biến thành quan niệm sống của đại đa số người Việt. Người ta
luôn nói với nhau: gieo nhân nào thì gặt quả ấy, “gieo nhân gặp báo”,“ác giạ ác báo”
là vậy
Thế giới quan Phật giáo cho rằng, nếu tâm vô minh, mê muội, u ám, không sáng,
vọng động thì sẽ xuất hiện ta - vật (thế giới vật chất), tâm - cảnh (thế giới bên ngoài).
Cũng khi tìm trở nên song suốt, hư không, tĩnh lặng thì cảnh cũng không, mà tìm cũng
không. Như vậy là “nhất thiết duy tâm tạo”, mọi thứ đều do tâm tạo ra. Dĩ nhiên khái
niệm tâm ở đây rất rộng, rộng hơn khái niệm tâm trong tổ hợp từ “chủ nghĩa duy tâm”
của phương Tây nhiều. Nhưng dù sao đi chăng nữa thì cũng là chủ nghĩa duy tâm theo
đúng nghĩa rộng của từ này. Quan niệm này trong một phạm vi nhỏ đó đề cao sức
mạnh nội tâm bên trong, phần nào tại sao mang thế giới bên ngoài, ít quan tâm đến
những vấn đề xã hội.
- Về lối sống
Lối sống của con người được hình thành trong quá trình con người tham gia vào
các hoạt động của xã hội, mà trước hết là lao động sản xuất, đến hoạt động chính trị,
văn hóa, xã hội... Chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định rằng, mỗi phương thức sản xuất
tạo nên một cách sinh hoạt, cách sống tương ứng. Lối sống ngoài việc chịu sự quy
định của kinh tế, cũng chịu ảnh hưởng của văn hóa, chính trị, tôn giáo,... Như vậy, lối
sống là cách thức sống của con người (cá nhân, nhóm, cộng đồng xã hội) trong một
chế độ xã hội nhất định được biểu hiện trên các lĩnh vực của đời sống như lao động
sản xuất, hoạt động chính trị, hoạt động văn hóa tinh thần và hoạt động sinh hoạt hàng
ngày.
Lối sống của con người Việt Nam truyền thống có nhiều nét đặc thù. Về cơ bản,
lối sống của con người Việt Nam truyền thống chịu ảnh hưởng rất nhiều từ tư tưởng
Tam giáo, trong đó có các vấn đề nhận thức luận, đặc biệt là thế giới quan Phật giáo
cũng có ảnh hưởng ít nhiều đến lối sống của người Việt “lối sống cũng thể hiện từ
nhân sinh quan, thế giới quan, trình độ văn hóa của mỗi người”. Những người tu Phật
chân chính đều có phong cách ung dung, tự tại, cú lối sống giản dị, thanh tao vì họ
không bao giờ làm những việc hại mình, hại người, trái lương tâm, đạo lý nên tâm

16
hồn, tinh thần họ lun thanh thản, tĩnh tại. Chính điều đó ít nhiều đó tạo nên lối sống
của những người theo Phật giáo nói riêng và người dân Việt Nam nói chung là hết sức
giản dị, thanh tao, có chừng mực, ít chú trọng đến danh lợi vật chất.
Lấy con người làm trung tâm, thấy được nỗi khổ của chúng sinh và mong muốn
chúng sinh thoát khỏi vũng trầm luôn biển khổ. Bằng chủ trương cứu nhân độ thế, từ
bi, hỷ xả, vô nghĩa, vị tha, nhà Phật hướng con người tu tập nhân tâm, vượt qua mọi
cám dỗ để hoàn thiện nhân cách. Với đạo lý “thương người như thể thương thân” của
người Việt được thể hiện qua hành động của từng cá nhân và lối sống của cộng đồng.
Các hoạt động cứu trợ đồng bào bị thiên tai, xóa đói giảm nghèo, xây nhà tình nghĩa,
trường học, trạm y tế... của các cá nhân, tổ chức xã hội trong những năm qua thật sự cú
ý nghĩa sâu sắc, một phần cũng do ảnh hưởng từ tư tưởng từ bi, hỷ xả, cứu khổ, cứu
nạn của nhà Phật.
2.3. Ảnh hưởng của thế giới quan Phật giáo đối với ý thức đạo đức con người
Việt Nam
Những cơ sở triết lý trực tiếp của đạo đức trong thế giới quan Phật giáo được đặt
trọng tâm vào con người, nền tảng của thuyết nghiệp (luật nhân quả), tinh thần vô
nghĩa, vị tha và đề cao tinh thần của bi, trí, dũng của một nền đạo đức độ sinh rộng
lớn...
Đạo đức trong thế giới quan Phật giáo là đạo đức vô thần, với xuất phát điểm của hệ
thống là nhận thức đầy đủ về khổ. Đạo đức trong thế giới quan Phật giáo với xem đá
tảng là tứ diệu đế, nhất quán trong toàn bộ thế giới quan Phật giáo, khẳng định con
người không phải run sợ trước bất kỳ uy quyền thiêng liêng (siêu nhân) nào. Thế giới
quan Phật giáo cho rằng bản chất tự nhiên con người vốn bình đẳng. Chuẩn mực
“thiện” và “ác” không phải của riêng ai, của riêng đẳng cấp nào. Tính “thiện” vốn
tồn tại tự nó trong mỗi con người. Thế giới quan Phật giáo khẳng định đau khổ hay
hạnh phúc là hậu quả trực tiếp hay gián tiếp do hành động thiện hay ác mà chính mình
gây ra chứ không phải do thần thánh ma quỷ nào. Cho nên, cốt lõi của đạo đức trong
thế giới quan Phật giáo là Giới, Định, Tuệ trong Bát chính đạo (Đạo đế). Bát chính đạo
là tám phương pháp thực hành kết hợp ý thức với hành động đúng đắn.
Đạo đức trong thế giới quan Phật giáo với tính thiện, bình đẳng, bác ái bao la, nêu
cao ngọn cờ tinh thần cứu khổ, cứu nạn nào đó thấm sâu vào lòng đại chúng Việt Nam,
sống thủy chung với dân tộc Việt Nam qua bao thăng trầm của lịch sử và tồn tại cho

17
đến ngày nay. Trước và trong khi Phật giáo du nhập, ở Việt Nam đó có nhiều tín
ngưỡng, đồng thời có những tư tưởng triết học.
2.4. Ảnh hưởng của thế giới quan Phật giáo đối với phong tục tập quán
- Ảnh hưởng của thế giới quan Phật giáo qua tập tục cúng rằm, mùng một và đi lễ
chùa
Theo đúng truyền thống tập tục cúng rằm, mùng một là tập tục cúng siêu vong, tức
là ngày mặt trời mặt trăng thông suốt nhau. Cho nên thần thánh, tổ tiên có thể liên lạc,
thông thương với con người, sự cầu nguyện sẽ đạt tới sự cảm ứng với các giới khác và
sự cảm thông sẽ được thiết lập là ngày trong sạch để các vị tăng kiểm điểm hành vi
của mình, gọi là ngày Bồ tát và ngày sám hối, người tín đồ về chùa để tham gia sự sám
hối, cầu nguyện bỏ ác làm lành và sửa đổi thân tâm. Quan niệm ngày xem vọng là có
nguồn gốc ảnh hưởng của Phật giáo Đại thừa. Ngoài việc đi chùa sám hối, ở nhà vào
ngày rằm và mồng một, họ thắp đèn, thắp nhang, hương hoa để dâng cúng Tam bảo và
tổ tiên Ông Bà, thể hiện lòng tôn kính, thương nhớ những người đó mất trong họ hàng
và gia đình mình. Đó cũng là cụ thể hóa hành vi tu tâm dưỡng tính và giáo dục con
cháu về đạo lý “uống nước nhớ nguồn” của họ.
Bên cạnh việc đi lễ chùa ngày rằm, mùng một, người Việt Nam cũng có tập tục khác
là đi viếng chùa, lễ Phật vào những ngày hội lớn như ngày rằm tháng riêng, rằm tháng
tư (lễ Phật Đản) và rằm tháng bảy (lễ vu lan). Đây là một tập tục, một nhu cầu không
thể thiếu trong đời sống tinh thần người Việt. Một số người đơn giản chỉ muốn đi xem
lễ hội hoặc đi thăm vẻ đẹp phong cảnh chùa chiền nhưng khi đó hội nhập vào bầu
không khí trang nghiêm thì họ cũng cảm thấy mình thoải mái, trầm tính hơn, đây chính
là cơ hội để họ tìm hiểu đạo Phật.
- Ảnh hưởng của thế giới quan Phật giáo qua tập tục ăn chay, phóng sinh và bố thí
Về ăn chay, hầu như người Việt Nam đều chịu ảnh hưởng của nếp sống văn hóa
này. Nó xuất phát từ quan niệm từ bi của thế giới quan Phật giáo. Trong hành động, lời
nói, ý nghĩ thì người phật tử phải thể hiện lòng từ bi. Để đạt được mục đích đó, người
phật tử phải dùng đến phương pháp ăn chay. Tuy nhiên người xuất gia ăn chay trường,
cũng phật tử tại gia cũng nhiều trở ngại neen chỉ ăn chay kỳ. Thông thường người Việt
Nam, cả phật tử lẫn người không phải là phật tử cũng theo tục lệ này.
Ăn chay và thờ Phật là việc đi đôi với nhau của người Việt Nam. Việc thờ Phật
trong dân gian cũng có nhiều điểm thú vị. Người phật tử thờ Phật đó đành, nhiều

18
người không phải là phật tử cũng dùng tượng Phật hay tranh ảnh có yếu tố Phật giáo
để chiêm ngưỡng và trang trí cho cảnh nhà thêm đẹp và trang nghiêm.
- Ảnh hưởng của thế giới quan Phật giáo qua nghi thức ma chay, cưới hỏi
Đây là sinh hoạt thường xảy ra trong đời sống tinh thần người Việt. Về ma chay,
theo phong tục của người Việt Nam trước đây rất phiền phức, tốn kém. Tuy nhiên,
trong những năm gần đây nhờ dẫn dắt của các chư tăng thif tang lễ diễn ra đơn giản và
trang nghiêm hơn.
Nhìn chung, tập tục ma chay tại Việt Nam chịu ảnh hưởng sâu đậm từ những nghi
thức của Phật giáo. Việc cưới hỏi, tầm ảnh hưởng của Phật giáo nói chung, thế giới
quan Phật giáo nói riêng tỏ ra ít phức tạp hơn so với các tôn giáo khác như: Thiên
chúa giáo, Khổng giáo và Hồi giáo. Trước khi tiến đến hôn nhân, nhiều đôi bạn trẻ
theo tín ngưỡng Phật giáo, thường đến chùa khấn nguyện với chư Phật phù hộ cho mối
lương duyên của họ được trăm năm hạnh phúc. Đến ngày cưới hỏi, họ được hướng
dẫn về chùa để các chư tăng làm lễ “hằng thuận quy y” trước khi rước dâu. Đó là một
lễ chúc lành ngắn gọn và được các chư tăng khuyên dạy một số nguyên tắc đạo đức
Phật giáo, để làm kim chỉ nam cho cuộc sống mới giữa hai vợ chồng.
2.5. Ảnh hưởng của thế giới quan Phật giáo đối với văn hóa và nghệ thuật
- Ảnh hưởng của thế giới quan Phật giáo qua ngôn ngữ
Trong đời sống giao tiếp thường nhật của người Việt ta thấy có nhiều từ ngữ chịu
ảnh hưởng ít nhiều của thế giới quan Phật giáo được nhiều tầng lớp trong xã hội hay
dựng. Tuy nhiên không phải ai cũng biết từ ngữ này được xuất phát từ thế giới quan
Phật giáo, chẳng hạn như khi ta thấy ai bị hoạn nạn, đau khổ tỏ lũng thương xót, người
ta bảo “tội nghiệp quá”. Hai chữ tội nghiệp là từ ngữ chuyên môn của thế giới quan
Phật giáo. Theo thế giới quan Phật giáo tội nghiệp là tội của nghiệp, do nghiệp tạo ra
từ trước, dẫn tới tai nạn hay sự cố hiện nay, theo giáo lý nhà Phật thì không một hiện
tượng hay sự cố tai nạn nào xảy ra ngẫu nhiên hay tình cờ, mà nó chỉ là kết quả tập
thành của nhiều nguyên nhân tạo ra từ trước. Những nguyên nhân đó được gọi là nhân
duyên khi chín mùi thì đem lại kết quả. Cho nên nói “tội nghiệp quá” là bắt nguồn từ
học thuyết “nghiệp cảm duyên khởi” (thuyết nhân quả) của nhà Phật.
Từ “Bụt” thay vỡ từ Phật, người dân Việt Nam bình thường nói “Hiền như Bụt”.
Vì họ quan niệm Phật như một ông thần có rất nhiều quyền năng, nhưng lại rất là hiền

19
từ, chỉ cứu người chứ không bao giờ làm hại người. Thậm chí họ cũn núi đùa “lành
như Bụt đất” mà không sợ gì cả.
Cũng nhiều từ ngữ khác như từ bi, hỉ xả, giác ngộ, giải thoát, sám hối, làm phúc,...
đó được người dân Việt Nam quen dùng như tiếng mẹ đẻ trong quan hệ giao tiếp xã
hội ngày nay. Sự ảnh hưởng của thế giới quan Phật giáo không ngừng ở phạm vi từ
ngữ mà nó cũng lan rộng, ăn sâu vào ca dao, thơ ca của người dân Việt Nam nữa.
- Ảnh hưởng của thế giới quan Phật giáo qua ca dao, tục ngữ
Tư tưởng thế giới quan Phật giáo thường được ông cha ta đề cập đến trong ca dao,
tục ngữ dưới đề tài này hay khía cạnh khác để nhắc nhở, khuyên răn dạy bảo, với mục
đích xây dựng một cuộc sống an vui phù hợp với truyền thống đạo đức của dân tộc
Việt Nam. Đó là thuyết vô thường trong thế giới quan Phật giáo, để đối trị lòng tham
vô đáy của người đời, tham sắc, tham của, tham danh, tham ăn, tham ngủ mà không
hiểu rằng sắc đẹp mấy rồi nó cũng tàn phai, của nhiều mấy rồi cũng hết... như đóa hoa
kia.
- Ảnh hưởng của thế giới quan Phật giáo qua kiến trúc, điêu khắc, hội họa
+ Về kiến trúc: khi Phật giáo truyền vào Việt Nam, tất nhiên đó đem theo các
kiến trúc chùa tháp, lầu chuông theo mô hình kiến trúc Ấn Độ, Trung Quốc. Tuy nhiên
theo thời gian, với lối tư duy tổng hợp của người Việt đó tạo ra một mô hình kiến trúc
rất riêng cho Phật giáo Việt Nam. Chùa tháp ở Việt Nam thường được xây dựng theo
lối kiến trúc đặc biệt, mái chùa bao giờ cũng ẩn dấu theo lũy tre làng, dưới gốc cây đa
hay
một nơi có phong cảnh thiên nhiên đẹp hoặc thanh vắng. Thế giới quan Phật giáo để
lại nhiều quần thể kiến trúc độc đáo và danh lam thắng cảnh cho người Việt, nhiều
ngôi chùa nổi tiếng như ở miền Bắc có chùa Một Cột, chùa Hương, chùa Tây phương,
ở miền trung có chùa Thiên Mụ, chùa Từ Hiếu, chùa Báo Quốc, và ở Miền Nam có
chùa Giác Lâm, chùa Vĩnh Tràng...
+ Về điêu khắc: ngày nay có dịp tham quan các viện bảo tàng, các chùa, các làng
nghề điêu khắc truyền thống ở Việt Nam, chúng ta sẽ thấy nhiều cốt tượng, phù điêu
của Phật giáo được trưng bày. Đây là niềm tự hào của nền văn hóa dân tộc ta và cũn là
những dấu vết chứng minh sự ảnh hưởng của thế giới quan Phật giáo vào lĩnh vực điêu
khắc này là rất lớn. Tiêu biểu ta thấy tác phẩm như tượng Quan Âm nghìn mắt nghìn

20
tay (chùa Bút Tháp, Bắc Ninh), 16 pho tượng tổ bằng gỗ chùa Tây phương (Hà Nội
ngày nay), tượng đức Phật Thích Ca ngồi kiết già cao 11 mét tại Vũng Tàu...
+ Về hội họa: Mái chùa cổ kính giữa núi non tĩnh mịch hay các lễ hội viếng
chùa ngày đầu xuân hoặc tư tưởng độc đáo của triết học, của thiền học Phật giáo luôn
là đề tài gây nhiều cảm hứng cho các nghệ nhân và họa sĩ Việt Nam. Nhiều tranh lụa,
tranh màu nước, sơn dầu, sơn mài đề cập đến Phật giáo đó được các họa sĩ, nghệ nhân
tên tuổi ở Việt Nam thể hiện một cách sống động và tinh tế qua các tác phẩm như
“chùa Thầy” của Nguyễn Gia Trí sáng tác năm 1938, “Lễ Chùa” của Nguyễn Siêu,
KẾT LUẬN
Phật giáo xuất hiện trong bối cảnh đất nước Ấn Độ cổ đại bị bóp nghẹt bởi chế
độ phân biệt đẳng cấp khắc khe, bởi sự ngự trị của kinh Vêda và đạo Bàlamôn. Đạo
Phật với thế giới quan vô cùng sâu sắc là một hệ tư tưởng phản đối sự ngự trị của kinh
Vêda, đạo Bàlamôn đang đè nặng lên xã hội nô lệ Ấn Độ thời đó. Sự ra đời của nó
đem lại một sắc thái mới mẻ cho nền triết học Ấn Độ cổ đại nói riêng và kho tàng tư
tưởng của nhân loại nói chung.
Việc đứng trên lập trường triết học Mác - Lênin để nghiên cứu thế giới quan
Phật giáo trên ba nội dung chủ yếu là: về thế giới, về con người và về cuộc đời con
người
ở nước ta hiện nay. Thế giới quan Phật giáo với mục đích là giác ngộ và giải thoát đó
thể hiện tính nhân bản rất sâu sắc, tuy rằng nó chưa giải thích đúng về bản chất các
hiện tượng xã hội và chưa tìm ra nguyên nhân đích thực nỗi khổ của con người. Cho
nên tư tưởng giải thoát trong thế giới quan Phật giáo chỉ dừng lại ở sự giải phóng về
mặt đời sống tinh thần, thế giới nội tâm của con người.
Trong lịch sử, Phật giáo Việt Nam có lúc thịnh suy, mạnh yếu khác nhau nhưng đó tự
khẳng định mình như một thành tố không thể tách rời của nền văn hóa Việt Nam. Thế
giới quan Phật giáo Việt Nam với những đặc điểm như: tính dân gian; tính thống nhất
giữa các tông phái với nhau, trong đó thế giới quan tụng phỏi Thiền tụng là nòng cốt,
trụ cột; tính tổng hợp chặt chẽ giữa thế giới quan Phật giáo với thế giới quan của Nho
giáo và tôn giáo tạo nên tính dung hợp; tính hài hòa Âm – Dương thiên về nữ tính;
tính linh hoạt; kết hợp chặt chẽ việc đạo với việc đời, mang tính dân tộc xuyên suốt
trong chiều dài lịch sử.

21
Thế giới quan Phật giáo đó ảnh hưởng tích cực cũng như tiêu cực đối với đời
sống tinh thần con người Việt Nam hiện nay.
Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của của một bộ phận nhân dân - như
Đảng ta đó nhận định. Nhu cầu này được đáp ứng một cách hợp lý cũng là một cỏch
để hướng đồng bào sống “tốt đời, đẹp đạo”, phát huy những giá trị tốt đẹp về văn
hóa và đạo đức của tôn giáo. Mặt khác, là nhu cầu khách quan cho nên niềm tin tôn
giáo chỉ có thể mất đi một cách tự nhiên khi chúng ta từng bước tạo lập được những
cơ sở xó hội phù hợp với nhu cầu và mục đích nhân dân. Trên cơ sở đó, tuyên truyền
vận động quần chúng nhân dân, không phân biệt tín ngưỡng tôn giáo đoàn kết xung
quanh dưới sự lãnh đạo của Đảng, tiến hành thành công sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh ”; từng bước xây dựng cuộc sống Tây Phương cực lạc ngay trên mảnh
đất hiện thực này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Bộ Giáo dục và Đào tạo (2006), Giáo trình triết học nhà xuất bản chính trị quốc
gia – sự thật Hà nội – 2015.
2. Nguyễn Văn Chế (1976), Những vấn đề cơ bản trong Phật học, Hội Phật giáo
Việt Nam thống nhất.
3. Mai Thị Dung (2003), Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo trong đời sống
tinh thần của con người Việt Nam và sự biến đổi của nú trong quỏ trỡnh đổi mới
hiện nay, Luận văn thạc sĩ triết học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh,
Hà Nội.
4. Lê Hữu Tuấn (1998), Ảnh hưởng của tư tưởng triết học Phật giáo trong đời sống
văn hóa tinh thần ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị Quốc
gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

22

You might also like