You are on page 1of 20

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KỸ THUẬT – CÔNG NGHỆ CẦN THƠ

KHOA KHOA KỸ THUẬT CƠ KHÍ

-----˜&™-----

BÀI TIỂU LUẬN

ĐỀ TÀI:
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG
VẤN ĐỀ TÔN GIÁO Ở NƯỚC TA

Giảng viên giảng dạy: Sinh viên thực hiện:


ThS. Trần Thị Vinh Trương Phước Phúc 1900106
Nguyễn Thanh Qui 1900699
Nguyễn Trọng Thọ 1900568
Trần Thanh Nghĩa 1900099
Liêu Minh Nhựt 1900351
Lê Chí Nguyện 1900424
Võ Minh Nhựt 1900544

Cần Thơ – 12/2021


Mục lục
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Vấn đề tôn giáo từ lâu là một vấn đề nhạy cảm không chỉ đối với Việt Nam mà còn
với nhiều nước trên thế giới. Hiện nay, tôn giáo ngày càng can thiệp sâu hơn vào đời
sống chính trị với nhiều hình thức khác nhau, vì thế luôn cần có hiểu biết thấu đáo trước
khi giải quyết về các vấn đề.
Vấn đề tôn giáo đã từng bị chủ nghĩa đế quốc tìm cách lợi dụng phục vụ cho âm mưu
xâm lược và chống phá cách mạng ở Việt Nam nói riêng và các nước xã hội chủ nghĩa
nói chung. Chúng sử dụng tôn giáo như một chiêu bài trong âm mưu diễn biến hòa bình
hòng chống phá sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam cũng như các nước
khác.
Việt Nam là một quốc gia tồn tại nhiều tôn giáo khác nhau và đa dạng về chiều hướng
phát triển trên phạm vi cả nước. Vì vậy để tiến hành thắng lợi công cuộc đổi mới ở nước
ta, trước hết đòi hỏi Đảng và nhà nước ta cần phải có cái nhìn đúng đắn những vấn đề lí
luận và thực tiễn về vấn đề tôn giáo cũng như có những chính sách về tôn giáo một cách
phù hợp và linh hoạt trong tình hình hiện nay.
Nhìn chung mọi giáo lý của các tôn giáo đều chứa đựng tính nhân văn sâu sắc. Những
chiết lý ấy giúp cho con người sống với nhau gần gũi hơn, có trách nhiệm hơn với bản
thân, cộng đồng, với sự phát triển chung của toàn xã hội. Tôn giáo là sự tự do tin ngưỡng
của mỗi công dân. Vì vậy trong định hướng trên con đường xây dựng xã hội chủ nghĩa,
Đảng và nhà nước ta luôn coi trọng vai trò của các tôn giáo. Mặt khác ở Việt Nam trong
lịch sử, tôn giáo đã bị lợi dụng để phục vụ cho mục đích chính trị, và ngày nay vẫn còn
tồn tại những kẻ lợi dụng tôn giáo để chống phá nhà nước xã hội chủ nghĩa của ta. Chính
vì thế mà mỗi người dân cần xác định rõ tư tưởng tự do tín ngưỡng phải đi đôi với chấp
hành pháp luật của Đảng và nhà nước. Đó cũng là lý do tôi quyết định làm đề tài tiểu
luận “Thực trạng giải quyết tôn giáo ở Việt Nam hiện nay ”.
2. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài này nghiên cứu thực trạng giải quyết tôn giáo ở Việt Nam hiện nay
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nêu rõ thực trạng giải quyết tôn giáo ở Việt Nam hiện nay và đưa ra 1 số giải pháp
để giải quyết tốt vấn đề tôn giáo hiện nay.
2.3. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài này chỉ tập trung nghiên cứu vấn đề giải quyết tôn giáo ở Việt Nam hiện nay.
3. Phương pháp nghiên cứu
-Phương pháp chung:
+ Chủ nghĩa duy vật biện chứng
+ Chủ nghĩa duy vật lịch sử
-Phương pháp cụ thể:
+Phương pháp phân tích
+ Phương pháp tổng hợp
+Phương pháp thống kê
4. Ý nghĩa đề tài
Qua đề tài giúp ta thấy rõ được tình hình tôn giáo ở Việt Nam hiện nay. Đồng thời
thấy được thực trạng và giải pháp ở Việt Nam đối với vấn đề tôn giáo thông qua những
cơ sở lí luận của chủ nghĩa Mác- Lênin
5. Kết cấu đề tài
Đề tài gồm 4 phần:
-Phần mở đầu
-Phần nội dung
-Phần kết bài
-Phần tài liệu tham khảo
-Phần nội dung thì gồm 3 chương:
+ Chương 1 Quan điểm chung về tôn giáo của chủ nghĩa Mác-Lênin
+ Chương 2 Tình hình giải quyết vấn đề tôn giáo ở Việt Nam hiện nay
+ Chương 3 Những giải pháp để giải quyết vấn đề tôn giáo ở Việt Nam hiện nay
B. PHẦN NỘI DUNG
Chương 1 QUAN ĐIỂM CHUNG VỀ TÔN GIÁO THEO QUAN ĐIỂM CHỦ
NGHĨA MÁC- LÊNIN
1.1. Khái niệm về tôn giáo Tôn giáo là một hiện tượng xã hội ra đời rất sớm trong lịch
sử nhân loại và tồn tại phổ biến ở hầu hết các cộng đồng người trong lịch sử hàng ngàn
năm qua. Nói chung bất cứ tôn giáo nào, với hình thái phát triển đầy đủ của nó, cũng đều
bao gồm: ý thức tôn giáo (thể hiện ở quan niệm về các đấng thiêng liêng cùng những tín
ngưỡng tương ứng) và hệ thống tổ chức tôn giáo cùng với những hoạt động mang tính
chất nghi thức tín ngưỡng của nó. Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, "tất cả mọi
tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư ảo - vào trong đầu óc của con người – của
những lực lượng ở bên ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày của họ; chỉ là sự phản ánh
trong đó những lực lượng ở trần thế đã mang hình thức những lực lượng siêu trần thế"
1.2. Bản chất của tôn giáo
Dựa trên cơ sở của quan niệm duy vật về lịch sử, cũng như những quan niệm của C.
Mác về tôn giáo, Ph Ăng-ghen đã đưa ra một định nghĩa có tính chất kinh điển từ góc độ
triết học về tôn giáo như sao: “Nhưng tất cả mọi tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh
hư ảo –vào đầu óc con người –của những lực lượng bên ngoài chi phối cuộc sống hằng
ngày của họ; chỉ là sự phản ánh trong đó những lực lượng ở trần thế đã mang hình thức
những lực lượng siêu trần thế’’. Định nghĩa này không những đã chỉ ra được bản chất của
tôn giáo mà còn chỉ ra con đường hình thành ý thức hay niềm tin tôn giáo. Ở định nghĩa
trên chúng ta thấy rằng, Ph Ăng-ghen đã tiếp tục luận điểm cho rằng con người sáng tạo
ra tôn giáo (tất nhiên con người ở đây là con người của hiện thực lịch sử). Sự sáng tạo ra
tôn giáo của con người được thực hiện của sự phản ánh mà con người sáng tạo ra tôn
giáo là sức mạnh bên ngoài thống trị cuộc sống hàng ngày của con người, còn phương
thức nhận thức để tạo ra tton giáo là phương thức hư ảo. Với chủ đề đối tượng và phương
thức của nhận thức như trên thì kết quả là con người tạo ra cái siêu nhiên thần thánh
trong đầu óc của mình thuộc lĩnh vực ý thức và niềm tin
Định nghĩa của Ph. Ăng-ghen về tông giáo tuy là định nghĩa có tính chất bao quát về
hiện tượng tôn giáo, là định nghĩa rộng nhưng cũng đã chỉ rõ cái đặc trưng, cái bản chất
của tôn giáo là niềm tin hay thế giới quan hoang đường hư ảo của con người. Sự ra đời
hiện tượng tôn giáo với bản chất như trên là tất yếu khách quan, vì khi con người bị bất
lực trước sức mạnh của thế giới bên ngoài thì con người cần đến tôn giáo nhằm bù đắp
cho sự bất lực ấy. Điều đó cũng có nghĩa là bản chất tôn giáo được thể hiện rõ nhất thông
qua chức năng đền bù hư ảo của nó.
1.3. Nguyên nhân của tôn giáo
Trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và trong xã hội xã hội chủ nghĩa,
tôn giáo vẫn còn tồn tại. Điều đó có nhiều nguyên nhân, trong đó có các nguyên nhân
chủ yếu sau:
-Nguyên nhân nhận thức:
Trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và trong chế độ xã hội chủ nghĩa
trình độ dân trí chưa thật cao, nhiều hiện tượng tự nhiên và xã hội đến nay khoa học
chưa giải thích được. Do đó trước sức mạnh tự phát của giới tự nhiên và xã hội mà
con người vẫn chưa thể nhận thức và chế ngự được đã khiến cho một bộ phận nhân
dân đi tìm sự an ủi, che chở và lý giải chúng từ sức mạnh của thần linh.
-Nguyên nhân kinh tế:
Trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, nền kinh tế vẫn còn tồn tại nhiều
thành phần kinh tế với những lợi ích khác nhau của các giai cấp, tầng lớp xã hội.
Trong đời sống hiện thực, sự bất bình đẳng về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội vẫn
còn diễn ra, sự khác biệt khá lớn về đời sống vật chất, tinh thần giữa các nhóm dân cư
còn tồn tại phổ biến. Do đó, những yếu tố may rủi ngẫu nhiên vẫn tác động mạnh mẽ
đến con người, làm cho họ dễ trở nên thụ động với tư tưởng nhờ cậy, cầu mong vào
những lực lượng siêu nhiên.
-Nguyên nhân tâm lý:
Tín ngưỡng, tôn giáo đã tồn tại lâu đời trong lịch sử nhân loại, đã trợ thành
niềm tin, lối sống, phong tục tập quán, tình cảm của một bộ phận đông đảo quần
chúng nhân dân, qua nhiều thế hệ. Bởi vậy, cho dù trong tiến trình xây dựng chủ
nghĩa xã hội và trong xã hội xã hội chủ nghĩa đã có những biến đổi mạnh mẽ về kinh
tế, chính trị- xã hội, song tôn giáo vẫn không thể biến đổi ngay cùng với tiến độ của
những biến đổi kinh tế- xã hội mà nó phản ánh. Điều đó cho thấy, trong mối quan hệ
giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, ý thức xã hội thường có tính bảo thủ hơn so với
sự biến đổi của tồn tại xẫ hội, trong đó ý thức tôn giáo thường lại là yếu tố mang tính
chất bền vững nhất trong đời sống tinh thần của mỗi con người, của xã hội.
-Nguyên nhân chính trị - xã hội:
Xét về mặt giá trị, có những nguyên tắc của tôn giáo phù hợp với chủ nghĩa xã
hội, với chủ trương, đường lối, chính sách của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Đó là
những giá trị đạo đức, văn hóa với tinh thần nhân đạo, hướng thiệnđáp ứng được nhu
cầu của một bộ phận quần chúng nhân dân. Chính vì thế, trong một chừng mực nhất
định, tôn giáo có sức thu hút mạnh mẽ đối với một bộ phận quần chúng nhân dân.
Mặt khác, những thế lực phản động lợi dụng tôn giáo như một phương tiện để chống
phá sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
-Nguyên nhân văn hóa:
Trong thực tế sinh hoạt văn hóa xã hội, sinh hoạt tín ngưỡng tôn giáo đã đáp
ứng được phần nào nhu cầu văn hóa tinh thần của cộng đồng xã hội và trong một mức
độ nhất định, có ý nghĩa giáo dục ý thức cộng đồng, phong cách, lối sống của mỗi cá
nhân trong cộng đồng. Về phương diện sinh hoạt văn hóa, tôn giáo thường được thực
hiện dưới hình thức là những nghi lễ tín ngưỡng cùng với những lời răn theo chuẩn
mực đạo đức phù hợp với quan niệm của mỗi loại tôn giáo. Những sinh hoạt văn hóa
có tính chất tín ngưỡng, tôn giáo ấy đã thu hút một bộ phần quần chúng nhân dân xuất
phát từ nhu cầu văn hóa tinh thần, tình cảm của họ.
Trên đây là những nguyên nhân cơ bản khiến tôn giáo vẫn còn tồn tại trong
tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và trong xã hội xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên,
cùng với tiến trình đó, tôn giáo cũng cõ những biến đổi cùng với sự thay đỏi của
những điều kiện kinh tế- xã hội, với quá trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới.
1.4. Các nguyên tắc giải quyết tôn giáo theo quan điểm chủ nghĩa Mác-Lênin
Để giải quyết tốt vấn đề tôn giáo trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội
cần quán triệt những quan điểm sau:
-Thế giới quan duy vật của chủ nghĩa Mác-Lênin và thế giới quan tôn giáo là
đối lập nhau. Tuy nhiên, chủ nghĩa Mác-Lênin chỉ ra rằng: không bao giờ được phép
xem thường hoặc trấn áp tôn giáo hợp pháp của nhân dân; phải tôn trọng quyền tự do
tín ngưỡng và không tín ngưỡng của nhân dân.
-Chủ nghĩa Mác-Lênin là hệ tư tưởng của giai cấp công nhân và hệ tư tưởng
tôn giáo khác nhau cơ bản về thế giới quan, nhân sinh quan và con người đi tới tự do,
hạnh phúc cho con người. Khắc phục dần những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo phải
gắn liền với quá trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới.
-Tôn trọng, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và quyền tự do không tín ngưỡng
của công dân; mọi người có hay không có tín ngưỡng, tôn giáo đều bình đẳng về
nghĩa vụ và quyền lợi. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Nghiêm cấm
những kẻ lợi dụng tôn giáo để hoạt động đi ngược lại lợi ích của nhân dân.
-Thực hiện đoàn kết toàn dân, đoàn kết những người theo hoặc không theo tôn
giáo; đoàn kết những người theo các tôn giáo khác nhau; đoàn kết các tôn giáo hợp
pháp, chân chính để cùng xây dựng đất nước.
-Cần phân biệt rõ hai mặt chính trị và tư tượng trong giải quyết vấn đề tôn
giáo. Mặt tư tưởng thể hiện nhu cầu tín ngưỡng tôn giáo của nhân dân nên phải tôn
trọng. Mặt chính trị thể hiện sự lợi dụng tôn giáo để chống lại sự nghiệp cách mạng
xã hội chủ nghĩa. Do vậy, đấu tranh để loại bỏ mặt chính trị phản động trong lĩnh vực
tôn giáo là nhiệm vụ thường xuyên.
-Phải có quan điểm lịch sự cụ thể khi giải quyết vấn đề giải quyết vấn đề tôn
giáo. Bởi vì ở những thời kỳ lịch sử khác nhau, vai trò, tác động của từng tôn giáo đối
với đời sống xã hội không giống nhau.
Chương 2
TÌNH HÌNH GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM
2.1.Vài nét về tôn giáo ở Việt Nam Tôn giáo tại Việt Nam khá đa dạng, gồm
có các nhánh Phật giáo như Đại thừa, Tiểu thừa, Hòa Hảo,một số nhánh Kitô giáo
như Công giáo Rooma, tin lành, tôn giáo nội sinh như Đao Cao Đài, và một số tôn
giáo khác. Nền tín ngưỡng dân gian bản địa cho tới nay vẫn có ảnh hưởng nhất định
tại Việt Nam. Nhiều người dân Việt Nam xem họ là những người không tôn giáo,
mặc dù họ có đi đến các địa điểm tôn giáo vào một vài dịp trong năm. Theo tác
giả Trần Đình Hượi, người Việt Nam được cho là ít có tinh thần tôn giáo, các tôn giáo
thường được tập trung ở mặt thờ cúng, còn mặt giáo lý, tinh thần lại ít được quan tâm.
Theo số liệu cuộc Tổng điều tra Dân số và Nhà ở Việt Nam năm 2009 thì toàn quốc
có 15.651.467 người xác nhận mình theo một tôn giáo nào đó. Cùng với đó, tín
ngưỡng thờ cúng tổ tiên là một loại hình sinh hoạt tôn giáo phổ biến, được thực hành
bởi đa số dân cư. Để quản lý nhà nước về tôn giáo, Chính phủ Việt Nam đã thành
lập Ban Tôn giáo Chính phủ để phục vụ việc quản lý hoạt động của các tôn giáo, tín
ngưỡng.
Việt Nam thời cổ đã có các hình thức thực hành tôn giáo đối với các đối tượng
tự nhiên. Các hình trang trí trên trống đồng Đông Sơn đã phản ánh các nghi lễ tôn
giáo thời ấy, trong đó mô tả rất nhiều về hình ảnh một loài chim, mà cụ thể là chim
Lạc, khiến các sử gia tin rằng, chúng là đối tượng được người Việt cổ tin thờ. Ngoài
ra, con Rồng cũng được xuất hiện nhiều trong các sản phẩm nghệ thuật, mỹ thuật Việt
Nam, phát sinh từ việc thờ kính Lạc Long Quân, một huyền thoại về người được cho
là cha đẻ của dân tộc Việt Nam. Bên cạnh đó, các đối tượng tự nhiên khác như động
vật, núi, sông, biển... cũng được người Việt tôn làm thần bảo vệ, chúc phúc cho con
người. Tôn giáo tại Việt Nam có mối liên hệ với nền văn minh Trung Hoa và văn
minh Ấn Độ nhưng người Việt còn kết hợp yếu tố truyền thống đạo đức dân tộc mình
vào đó để hình thành tôn giáo mang bản sắc riêng.
Trong thời quân chủ tại Việt Nam, Nho giáo được chính quyền khuyến khích,
được xem là nền tảng của chế độ khoa cử, nhiều văn miếu được xây dựng trong cả
nước. Tuy nhiên trong các Triều đại như nhà Lý, nhà Trần và các chúa Nguyễn Phật
giáo cũng có vai trò quan trọng trong triều đình và được các chính quyền phong kiến
khuyến khích. Các tôn giáo có mặt lâu đời tại Việt Nam là Khổng giáo, Lão
giáo và Phật giáo (gọi chung là tam giáo).
Sau năm 1954, khi người cộng sản cầm quyền tại miền Bắc, họ xem vấn đề
tâm linh như là một đối tượng đấu tranh tư tưởng, thậm chí là đấu tranh bằng ý thức
hệ. Họ cố gắng bài trừ mê tín dị đoan đến mức mọi chuyện liên quan đến tâm linh đều
bị đả phá Đền Hùng cũng bị phá vì bị cho rằng đó là mê tín dị đoan. Họ xóa đi tất cả,
trong khi đáng lẽ tín ngưỡng tôn giáo là thuộc về nhu cầu, quyền cơ bản của con
người. Ở miền Bắc, từ năm 1954 cho đến đầu những năm 1980 hầu như không tồn tại
các hoạt động thực hành tín ngưỡng nữa thì trong khoảng thời gian đó, trong miền
Trung và miền Nam vẫn duy trì. Việc ngắt quãng trong một thời gian dài, từ 1954 đến
đầu những năm 80 đã khiến cho hệ thống lễ hội bị phá vỡ. Từ năm 1986 đến nay, gần
8.000 lễ hội đã được phục hồi và hình thành mới, được quan tâm nhiều nhất là lễ hội
dân gian. Việc phục hồi lễ hội đang được phản chiếu dưới nhãn quan là văn hóa tinh
thần mà quên đi mất phần trình diễn, phô bày nghi thức, biểu hiện của người dân đối
với thần linh. Hiện nay, nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam chủ trương
tự do tín ngưỡng, nhưng có một số nguyên tắc khiến việc thực hành đôi khi lại bị
ngăn cản bởi một vài cá nhân thiếu hiểu biết Ông Nguyễn Quốc Tuấn, Viện trưởng
Viện nghiên cứu tôn giáo, nhận xét "dường như những chính sách về tôn giáo nghiêm
trọng và sai lầm trước đây mà cả hiện nay nữa đã tạo ra một quá trình sa mạc hóa về
tâm linh ở Việt Nam, để giờ đây tâm hồn của người Việt đã biến thành một bãi hoang
có thể chấp nhận các loại bụi gai xương rồng và không thể trồng được loại cây có hoa
thơm, quả ngọt". Theo ông, đây là bài học về việc đừng nên tạo ra những sa mạc nhận
thức như đã từng làm, vì không ai khác, chính các thế hệ người Việt sau này sẽ phải
gánh chịu hậu quả.
2.2. Thực trạng giải quyết các vấn đề tôn giáo ở Việt Nam
2.2.1. Ưu điểm
- Phát huy những giá trị tốt đẹp về văn hóa, đạo đức của tôn giáo. Do tôn giáo
có sự đồng hành lâu dài với con người trong lịch sử, nên có thể xem nó như một phần
tài sản văn hóa của nhân loại. Trong quá trình phát triển, lan truyền trên bình diện thế
giới, tôn giáo không chỉ đơn thuần chuyển tải niềm tin của con người, mà còn có vai
trò chuyển tải, hoà nhập văn hóa và văn minh, góp phần duy trì đạo đức xã hội nơi
trần thế. Nó có ảnh hưởng mạnh mẽ đến đời sống tinh thần của con người. Với tư
cách một bộ phận của ý thức hệ tôn giáo đã đem lại cho cộng đồng xã hội, cho mỗi
khu vực, mỗi quốc gia, mỗi dân tộc những biểu hiện độc đáo thể hiện trong cách ứng
xử, lối sống, phong tục, tập quán, trong các yếu tố văn hóa vật chất cũng như tinh
thần.
-Điều dễ nhận thấy là, những hệ thống đạo đức của tôn giáo rất khác nhau về
niềm tin, rất xa nhau về địa lý vẫn có một mẫu số chung là nội dung khuyên thiện.
Điểm mạnh trong truyền thụ đạo đức tôn giáo là ngoài những điều phù hợp với tình
cảm đạo đức của nhân dân, nó được thực hiện thông qua tình cảm tín ngưỡng, niềm
tin vào giáo lý. Do đó, tình cảm đạo đức tôn giáo được tín đồ tiếp thu, tạo thành đức
tin thiêng liêng bên trong và chi phối hành vi ứng xử của họ trong các quan hệ cộng
đồng. Họat động hướng thiện của con người được tôn giáo hóa sẽ trở nên mạnh mẽ
hơn, nhiệt thành hơn.
-Là hình thức phản ánh đặc thù, phản ánh hư ảo thế giới hiện thực, tôn giáo đã
góp phần chế ngự các hành vi phi đạo đức. Do tuân thủ những điều răn dạy về đạo
đức của các tôn giáo, nhiều tín đồ đã sống và ứng xử đúng đạo lý, góp phần làm cho
xã hội ngày càng thuần khiết.
-Đặc biệt, đạo đức tôn giáo được hình thành trên cơ sở niềm tin vào cái siêu
nhiên (Thượng đế, Chúa, Thánh Ala) và sau này, Đức Phật cũng được thiêng hóa, nên
các tín đồ thực hành đạo đức một cách rất tự nguyện, tự giác. Song, suy cho cùng,
việc thực hiện những nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức ấy cũng là để phục vụ cho mềm
tin siêu nhiên. Sự đan xen giữa hy vọng và sợ hãi, giữa cái thực và cái thiêng đã mang
lại cho tôn giáo khả năng thuyết phục tín đồ khá mạnh mẽ. Trên thực tế, chúng ta thấy
nhiều người cung tiến rất nhiều tiền của vào việc xây dựng chùa chiền, làm từ thiện
vốn là những tín đồ tôn giáo.
-Đạo đức tôn giáo hướng con người đến những giá trị nhân bản, góp phần tích
cực vào việc hoàn thiện đạo đức cá nhân. Bất kỳ tôn giáo nào cũng đề cập đến tình
yêu. Tinh thần “từ bi” trong Phật giáo không chỉ hướng đến con người, mà còn đến cả
muôn vật, cỏ cây Phật giáo kêu gọi lòng nhân đạo, yêu thương và bảo vệ sự sống.
Đặc biệt, trong quan hệ giữa con người với con người, Phật giáo muốn tình yêu
thương ấy phải biến thành hành động “bố thí”, cứu giúp những người đau khổ hoặc
“nhẫn nhục” để giữ gìn đoàn kết.
-Muốn giải thóat khỏi đau khổ, con người phải tự hoàn thiện đạo đức cá nhân,
diệt trừ tham, sân, si, xoá bỏ vô minh, chặt đứt cây “nghiệp” để vượt qua biển khổ
luân hồi. Đạo đức của Kitô giáo cũng đề cập đến tình yêu: yêu thương bản thân mình,
yêu tha nhân và yêu thiên nhiên, trong đó, yêu tha nhân là trọng tâm của quan niệm
đạo đức về tình yêu. Những chuẩn mực của đạo đức Kitô giáo giúp con người hoàn
thiện đạo đức cá nhân trong quan hệ với cộng đồng. Tình yêu tha nhân ở đây không
đơn thuần là tình yêu trong tâm tưởng mà được cụ thể hóa: cho kẻ đói ăn, cho kẻ rách
mặc, chăm sóc người ốm đau, bệnh họan, khuyên can người lầm lỗi Tóm lại, đây là
những hành vi đạo đức rất cụ thể, rất thiết thực khi trong xã hội còn nhiều cảnh khổ
cần được cứu vớt, giúp đỡ.
-Tuy nhiên, tình yêu, lòng từ bi mà đạo đức tôn giáo đề cập đến còn chung
chung, trừu tượng. Các tôn giáo đều muốn san bằng mọi bất công, mâu thuẫn trong xã
hội bằng đạo đức ý tưởng đó dù tất đẹp, nhưng khó có thể hiện thực hóa trong cuộc
sống trần thế. Song, có thể nói, việc hoàn thiện đạo đức cá nhân mà đạo đức tôn giáo
đề ra nhằm hướng đến mục đích siêu nhiên, hướng đến chốn Thiên đường của Chúa
hay cõi Niết bàn của Phật, dẫu sao vẫn có những tác động tích cực đến đạo đức cá
nhân và xã hội.
-Tất cả các tôn giáo như: Phật Giáo, Kitô Giáo, Tin Lành, Hòa Hảo, Cao Đài,
đều hướng thiện, muốn con người hoàn hảo hơn, tôn giáo nào cũng dạy con người
làm việc tốt không gây oán thù, tu dưỡng rèn luyện đạo đức và giúp con người hiểu
hơn về nhận thức cũng như bản chất con người.
-Hầu hết các tôn giáo đều hướng tới con người tới cái thiện cái tốt đẹp khuyên
răn con người làm điều hay lẽ phải và nhân từ với đồng loại.
2.2.2. Hạn chế
Bên cạnh về mặt ưu điểm tôn giáo ở Việt Nam hiện nay còn có những hạn chế của
đạo đức tôn giáo. Một khi đã thâm nhập vào ý thức con người (các tín đồ, các giáo dân và
quần chúng chịu ảnh hưởng của tôn giáo), nó sẽ làm cho con người lãng quên hiện thực, đặt
tất cả tinh thần, tâm tưởng vào thần thánh hư ảo mà họ tin đó là giá trị đích thực. Chức năng
thế giới quan của tôn giáo dẫn dắt các tín đồ theo một triết lý sống không hành động, không
đấu tranh trong thực tại, lấy tu dưỡng tâm tính làm điều cốt yếu để mau chóng được giải
thoát ở bên ngoài thực tại, nơi Thiên đường của Chúa hay Niết bàn của Phật. Theo cách nhìn
của tôn giáo, cuộc đời là nơi đầy những cám dỗ, lành ít, dữ nhiều, đầy những cạm bẫy,
những cái ác, những sự ô uế, vẩn đục làm vấy bẩn linh hồn. Muốn sớm được đến gần Chúa
và trở về nơi nước Chúa, các con chiên phải tránh xa qủy dữ.
Muốn chứng được Niết bàn (đạt đến giải thoát), các tín đồ phật tử phải từ bỏ mọi ham
muốn dục vọng, diệt trừ tham, sân, si. Tất cả những quan niệm, những triết lý sống đó cho
thấy mặt tiêu cực của thế giới quan tôn giáo.
Hạnh phúc trong đạo đức tôn giáo là hạnh phúc hư ảo. Tôn giáo không đề cao cuộc
sống trần gian. Mặt khác, nó khuyên con người nhẫn nhục trước tình cảnh nô lệ, biết sợ hãi
trước sức mạnh siêu nhiên. Chính vì vậy, tôn giáo trở thành công cụ phục vụ đắc lực cho lợi
ích của giai cấp thống trị (dù rằng, lúc đầu tôn giáo không phải là của giai cấp thống trị). Tôn
giáo làm cho nhân dân đắm chìm vào đam mê, làm tê liệt ý chí đấu tranh giai cấp.
K. Marx gọi “tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân” theo nghĩa đó và cũng vì vậy đạo
đức tôn giáo đối lập với đạo đức chân chính.
Về mặt nào đó, đạo đức tôn giáo đã tạo cho con người thế giới quan và nhân sinh
quan sai lệch, làm hạn chế tính tích cực, chủ động và sáng tạo của con người. Đạo đức tôn
giáo hướng con người tới khát vọng hạnh phúc, song đó là thứ hạnh phúc hư ảo, hão huyền.
Tinh thần nhẫn nhục mà các tôn giáo đề ra thể hiện thái độ cực đoan, thủ tiêu đấu tranh. Nó
tạo cho các tín đồ thái độ bàng quan trước thế giới hiện thực, bằng lòng với số phận không
tích cực đấu tranh chống lại những cái xấu, cái ác, an ủi và ru ngủ con người trong niềm tin
rằng kẻ gây tội ác sẽ phải chịu “quả báo” hoặc bị trừng trị ở kiếp sau. Chính tâm lý đó đã
ngăn cản con người đi đến hạnh phúc thực sự của mình nơi trần thế.
Một số phần tử xấu lợi dụng hoặc cuồng tín việc bảo vệ tôn giáo để gây nhiều chiến
tranh, bất ổn làm ảnh hưởng đến hòa bình thế giới gây nhiều tệ nạn xã hội như mê tín dị
đoan, bói toán, chữa bệnh bằng bùa phép, nhập hồn lên đồng lên cốt và một số lý thuyết của
tôn giáo cản trở nhận thức của con người cũng như khiến họ có nhận thức sai lệch về 1 số
vấn đề của tôn giáo ở Việt Nam hiện nay.
Thêm nữa, đạo đức tôn giáo quá chú trọng đến việc hoàn thiện đạo đức cá nhân
nhưng lại bỏ quên các mối quan hệ xã hội của con người. Với tính cách một hình thái ý thức
xã hội, đạo đức cũng phản ánh tồn tại xã hội, cũng có quá trình phát sinh, phát triển và biến
đổi cùng với điều kiện sinh sống của con người. Do vậy, muốn hoàn thiện đạo đức cá nhân,
không thể tách nó khỏi những điều kiện sinh hoạt vật chất cùng các quan hệ xã hội khác của
con người.
K. Marx đã khẳng định rằng, “bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội”
và nhân cách con người cũng chỉ có thể được hoàn thiện trong các mối quan hệ xã hội mà
thôi.
Như trên đã phân tích, đạo đức tôn giáo có nhiều điểm tích cực, phù hợp với xã hội ta
hiện nay. Song, cũng sẽ là không khoa học, nếu chúng ta tuyệt đối hóa đạo đức tôn giáo, thổi
phồng vai trò của nó. F. Engels từng khẳng định rằng, ngay cả một số yếu tố tiến bộ của đạo
đức tôn giáo cũng chỉ giống với đạo đức mới của chúng ta về mặt hình thức mà thôi. Vì vậy,
mặc dù tôn giáo “là sự phản kháng chống lại sự nghèo nàn của hiện thực” nhưng rất cuộc nó
vẫn chỉ là một sự phản kháng mang tính tiêu cực, thụ động của con người mà thôi.
Có thể nói, trong điều kiện hiện nay, việc phân tích vai trò của đạo đức tôn giáo để
khẳng định một cách khách quan, khoa học những đóng góp, đồng thời chỉ ra những ảnh
hưởng tiêu cực của nó trong đời sống xã hội là điều cần thiết. Chúng ta hy vọng rằng, những
giá trị nhân văn, hướng thiện, những chuẩn mực đạo đức tiến bộ trong tôn giáo sẽ giúp phần
làm phong phú hệ giá trị đạo đức của dân tộc và hữu ích trong công cuộc xây dựng xã hội
mới.
Tôn giáo làm cho con người bằng lòng với thực tế họ trở nên thụ động làm mất tính
sáng tạo của con người, tôn giáo dễ làm cho con người mê tín tâm lí sợ hãi chờ đợi nhờ cậy
vào Thần Thánh, Phật mỗi khi gặp khó khăn, tôn giáo dễ bị lợi dụng bởi các thế lực khác
điều đó thường dẫn đến những hậu quả xấu, ảnh hưởng đến xã hội.
3.1 Quan điểm của Đảng và Nhà nước về vấn đề tôn giáo.
Một là, tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang và
sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Thực hiện nhất
quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn
giáo nào, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường đúng pháp luật. Các tôn giáo hoạt động trong
khuôn khổ pháp luật, bình đẳng trước pháp luật. Hai là, Đảng, Nhà nước thực hiện nhất quán
chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc. Đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo khác nhau; đoàn
kết đồng bào theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo. Giữ gìn và phát huy những giá
trị tích cực của truyền thống thờ cúng tổ tiên, tôn vinh những người có công với Tổ quốc và
nhân dân. Nghiêm cấm sự phân biệt đối xử với công dân vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo.
Đồng thời, nghiên cứu lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để hoạt động mê tín dị đoan, hoạt động
trái pháp luật và chính sách của Nhà nước, kích động chia rẽ nhân dân, chia rẽ các dân tộc,
gây rối, xâm phạm an ninh quốc qua. Ba là, nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công
tác vận động quần chúng. Công tác vận động quần chúng các tôn giáo phải động viên đồng
bào nêu cao tinh thần yêu nước, ý thức bảo vệ độc lập và thống nhất của Tổ quốc, thông
qua việc thực hiện tốt các chính sách kinh tế xã hội, an ninh, quốc phòng, bảo đảm lợi ích
vật chất và tinh thần của nhân dân nói chung, trong đó có đồng bào tôn giáo. Bốn là, công
tác tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị. Công tác tôn giáo có liên quan đến
nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, các lớp, các cấp, các ngành, các địa bàn. Làm tốt công
tác tôn giáo là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống
chính trị do Đảng lãnh đạo, nhưng trước hết và trực tiếp là trách nhiệm của bộ máy và đội
ngủ cán bộ chuyên trách làm công tác tôn giáo. Công tác quản lý nhà nước đối với các tôn
giáo và đấu tranh chống việc lợi dụng tôn giáo để chống đối chế độ. Năm là, theo đạo,
truyền đạo và hoạt động tôn giáo phải tuân thủ đúng Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước.
Mọi tin đồ đều có quyền tự do hành đạo tại gia đình và cơ sở thờ tự hợp pháp theo quy định
của pháp luật. Các tổ chức của tôn giáo được Nhà nước thừa nhận được hoạt động theo
pháp luật và được pháp luật bảo hộ, được hoạt động tôn giáo, mở trường đào tạo chức sắc,
nhà tu hành, xuất bản kinh sách và giữ gìn, sửa chữa, xây dựng cơ sở thờ tự tôn giáo của
mình theo đúng quy định của pháp luật. Việc theo đạo, truyền đạo cũng như mọi hoạt động
tôn giáo khác đều phải tuân thủ Hiến pháp và pháp luật; không lợi dụng tôn giáo tuyên
truyền tà đạo hoạt động mê tín dị đoan, không được ép buộc người dân theo đạo. Nghiêm
cấm các tổ chức truyền đạo, người truyền đạo và các cách thức truyền đạo trái phép, vi phạm
các quy định của Hiến pháp và pháp luật.
3.2 Thực trạng và giải pháp xây dựng vấn đề tôn giáo ở Việt Nam
Việt Nam là một quốc gia có nhiều tín ngưỡng, tôn giáo cùng tồn tại lâu đời trong
lịch sử của dân tộc. Mặc dù đức tin, giáo lý và sự thờ phụng của đồng bào theo các tôn giáo
khác nhau nhưng đều có điểm tương đồng ở tinh thần dân tộc, truyền thống yêu nước, truyền
thống văn hóa và luôn đồng hành cùng dân tộc cả trong cách mạng giải phóng dân tộc trước
đây cũng như trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Chính vì thế, trong quá
trình lãnh đạo cách mạng, Đảng và Nhà nước ta luôn khẳng định chủ trương, chính sách nhất
quán là tôn trọng, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và tự do không tín ngưỡng tôn
giáo của đồng bào các dân tộc. Nghị quyết Đại hội XI của Đảng đã khẳng định: “Tôn trọng
và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và không tín ngưỡng tôn giáo của nhân dân
theo quy định của pháp luật”1. Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (năm 2013),
Điều 24 quy định:
“1. Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn
giáo nào…
2. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.
3. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn
giáo để vi phạm pháp luật”.
Đây là cơ sở pháp lý rất quan trọng để nhân dân ta thực hiện quyền bình đẳng trong
chính sách tự do tôn giáo theo nguyên tắc: bình đẳng về tín ngưỡng, bình đẳng về quyền lợi,
nghĩa vụ (nghĩa vụ tôn giáo, nghĩa vụ công dân) và bình đẳng về pháp luật.
Trên thực tế, mọi tôn giáo ở Việt Nam đều bình đẳng trước pháp luật, được pháp luật
bảo vệ, được tự do hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Tuyệt nhiên không
một tôn giáo nào hoạt động đúng pháp luật mà bị chính quyền ngăn cấm. Chức sắc, tín đồ
các tôn giáo luôn gắn bó với quốc gia, dân tộc theo phương châm “Đạo pháp dân tộc và
CNXH”, thực hiện “sống phúc âm trong lòng dân tộc”, “nước vinh đạo sáng”, vừa làm tròn
bổn phận của tín đồ đối với tôn giáo, vừa hăng hái lao động sản xuất, góp phần cùng toàn
dân đẩy mạnh thực hiện công cuộc đổi mới, CNH, HĐH phải xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Thực tiễn sinh động đó đã, đang được khẳng định qua những thành tựu đã đạt và được nhiều
nước, nhiều tổ chức quốc tế đánh giá cao. Thế nhưng, các thế lực thù địch cùng các tổ chức,
cá nhân thiếu thiện chí lại ra sức tung tin xuyên tạc, bịa đặt về tình hình tôn giáo tại Việt
Nam. Chúng lợi dụng một số phần tử đội lốt tôn giáo, vi phạm luật pháp và bị pháp luật xử
lý để vu cáo Việt Nam đàn áp tôn giáo, ngăn cấm xây, sửa nơi thờ tự, cản trở các hoạt động
tín ngưỡng của các chức sắc tôn giáo, nhà tu hành,… Không những thế, các tổ chức thiếu
thiện chí ở nước ngoài đã dựa trên những thông tin bịa đặt từ một nhóm người có hoạt động
chống Nhà nước Việt Nam để đưa ra những luận điệu vu cáo “Việt Nam đàn áp, tấn công
tôn giáo”. Gần đây nhất, trong phiên điều trần tại Quốc hội Hoa Kỳ về các cộng đồng thiên
chúa giáo thiểu số bị đàn áp trên thế giới, ông Cơ-rít X-mít lại cố tình đưa vấn đề hoàn toàn
trái với sự thật rằng: Nhà nước Việt Nam đang có sự phân biệt đối xử về tôn giáo; rằng Việt
Nam đang đi những bước lùi về tôn giáo, v.v.
Đánh giá đó là sự xuyên tạc một cách trắng trợn về tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt
Nam. Sẽ chẳng có gì đáng nói nếu như những thông tin mà dân biểu Cơ-rít X-mít đưa ra, rồi
cáo buộc Việt Nam là đúng sự thật khách quan và không phải xuất phát từ động cơ chính trị
xấu nào hay chỉ là sự lặp lại những định kiến, áp đặt chủ quan cũ rích, bất chấp những thành
tựu về tự do tôn giáo ở Việt Nam. Dư luận cũng đang đặt câu hỏi, phải chăng các “nhà dân
chủ” Mỹ và phương Tây đang thực sự đấu tranh vì quyền con người, vì đối thoại xây dựng,
vì sự phát triển tín ngưỡng, tôn giáo cho các dân tộc? Có thể khẳng định ngay rằng, hoàn
toàn không phải như vậy, mà thực chất là họ đã và đang lợi dụng vấn đề nhân quyền, tự do
tôn giáo để chống phá các nhà nước không thân thiện với họ, trong đó có Việt Nam. Mục
đích của họ không có gì khác là nhằm hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng, tiến tới xóa bỏ chế
độ XHCN ở nước ta. Một số phần tử cơ hội chính trị ở trong nước đã ngay lập tức “tát nước
theo mưa”, lợi dụng lòng tin của nhân dân để thực hiện các động cơ chính trị đi ngược lại lợi
ích quốc gia, dân tộc, kích động quần chúng chống phá, gây rối an ninh trật tự, tạo các “điểm
nóng” về chính trị, v.v.
Song sự thật vẫn là sự thật. Dù họ có phớt lờ hoặc cố tình không nhận thấy thì sự phát
triển và những thành tựu về tôn giáo ở Việt Nam tự nó đã làm bẽ mặt những kẻ lâu nay vẫn
rắp tâm chống phá. Trong những năm qua, Chính phủ và nhân dân Việt Nam đã nỗ lực thực
hiện một cách toàn diện từ việc hoàn thiện hệ thống pháp luật đến việc triển khai thực hiện
việc bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo cho nhân dân. Các bản hiến pháp của nước
Việt Nam đều có các điều, khoản về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân; Quốc
hội Khóa XI đã ban hành Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo; Chính phủ đã ban hành Nghị định
22/2005/NĐ-CP về hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo.
Điều đáng chú ý là, cùng với các quy định về tín ngưỡng, tôn giáo của Nhà nước, Nghị
quyết Đại hội XI của Đảng còn nhấn mạnh: “Phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp
của các tôn giáo; động viên các tổ chức tôn giáo, chức sắc, tín đồ sống tốt đời, đẹp đạo, tham
gia đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”2. Như vậy, quan điểm
nhất quán của Đảng ta không chỉ tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc
không theo một tôn giáo nào mà còn đánh giá cao vai trò, vị trí của các tôn giáo đối với sự
nghiệp cách mạng của dân tộc. Điều này đã phản bác các luận điệu xuyên tạc cho rằng, Đảng
Cộng sản Việt Nam là vô thần và chủ trương diệt trừ tôn giáo.
Không chỉ dừng lại ở việc hoàn thiện hệ thống pháp luật, Chính phủ Việt Nam đã cụ
thể hóa và đưa những quy định đó vào hiện thực cuộc sống. Đến nay, theo số liệu thống kê,
cả nước đã có 12 tôn giáo với 37 tổ chức tôn giáo được Nhà nước thừa nhận hoạt động trong
khuôn khổ pháp luật (tăng gấp 2 lần so với năm 2006), với hơn 100.000 chức sắc và nhà tu
hành, gần 26.000 cơ sở thờ tự và trên 30 triệu tín đồ, chiếm 1/3 dân số cả nước.
Trong đó, tín đồ Phật giáo 14 triệu, Thiên Chúa giáo 6 triệu, Tin lành 1,5 triệu, Cao
Đài gần 3,5 triệu, Phật giáo Hòa Hảo 1,5 triệu, Tịnh độ Cư sĩ Phật hội 1,5 triệu, Tứ Ân Hữu
Nghĩa 78.000 và Hồi giáo 67.000,… Riêng trên địa bàn Tây Nguyên, năm 1975 chỉ có
50.000 người/200 thôn, làng theo đạo Tin lành, đến nay, đã là hơn 500.000 người/18.000
thôn, làng.
Bên cạnh đó, việc học tập, đào tạo của các tôn giáo cũng được phát triển nhanh. Từ
chỗ chỉ có 22 trường cao đẳng, trung cấp Phật học (năm 1993), đến nay, cả nước đã có 4 học
viện Phật giáo và 49 trường cao đẳng, trung cấp, sơ cấp Phật học; Giáo hội Công giáo có 6
Đại Chủng viện với hàng nghìn chủng sinh ,... Không những thế, Nhà nước còn tạo điều kiện
cho hàng trăm tu sĩ đi học tập, hội thảo nâng cao trình độ ở nước ngoài và nhiều người đã trở
thành tiến sĩ Phật học. Việc in ấn, xuất bản kinh sách được Nhà nước quan tâm, hầu hết các
tổ chức tôn giáo đều có báo, tạp chí, bản tin, đáp ứng yêu cầu hoạt động của các tôn giáo.
Chỉ tính riêng Nhà xuất bản Tôn giáo, mỗi năm đã cấp phép xuất bản hơn 1.000 ấn phẩm
liên quan đến tôn giáo.
Hằng năm, có khoảng 8.500 lễ hội tín ngưỡng, tôn giáo được tổ chức ở các quy mô
khác nhau trên phạm vi cả nước; trong đó, các sự kiện trọng đại của các tôn giáo đều được
chính quyền các cấp tạo điều kiện tổ chức và lãnh đạo Đảng, Nhà nước, địa phương đều
quan tâm, động viên, chúc mừng. Năm 2011, đã diễn ra Đại lễ kỷ niệm 30 năm Ngày thành
lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam với sự tham gia của hàng nghìn tăng ni, phật tử trong nước
và trên 2.000 chức sắc, tín đồ đến từ nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ. Ngoài ra, quan hệ đối
ngoại của các tôn giáo cũng được Nhà nước tạo điều kiện và ngày càng mở rộng, nhất là
quan hệ với các tổ chức tôn giáo ở khu vực Đông Nam Á, Tây Âu và Tòa thánh Va-ti-căng,
góp phần làm cho bạn bè quốc tế hiểu rõ hơn chính sách tự do tín ngưỡng, tôn giáo của
Đảng và Nhà nước cũng như tình hình tự do tín ngưỡng, tôn giáo của Việt Nam. Những con
số biết nói nêu trên là bằng chứng sinh động bác bỏ những luận điệu xuyên tạc, bịa đặt về
tình hình tôn giáo tại Việt Nam.
Thử hỏi rằng, nếu Việt Nam kỳ thị tôn giáo, hạn chế và đàn áp tôn giáo, vi phạm tự
do tín ngưỡng, tôn giáo như các luận điệu mà thế lực thù địch vẫn thường rêu rao thì các tổ
chức tôn giáo ở Việt Nam liệc có thể xác lập vị trí và phát triển ổn định như hiện nay không;
bức tranh tôn giáo ở Việt Nam không thể phong phú, đa dạng đến như vậy hay không?
Ông Giôn Hen-pho, Đại sứ lưu động phụ trách tự do tôn giáo Mỹ có dịp đến Việt
Nam đã phải thốt lên rằng, “Việt Nam đã có những bước tiến bộ đáng kể trong việc đẩy
mạnh tự do tôn giáo”. Đồng quan điểm này, Thượng nghị sĩ Mỹ Jim Oép – Chủ tịch Tiểu
ban Đông Á - châu Á - Thái Bình Dương thuộc Ủy ban Đối ngoại Thượng viện Mỹ trong
cuộc gặp Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng gần đây đã đánh giá: cho dù vẫn còn những quan
điểm cá nhân về một vài việc cụ thể liên quan đến tự do tôn giáo tại Việt Nam, nhưng không
thể phủ nhận những tiến bộ về tự do tôn giáo mà Việt Nam đã đạt được, nhất là từ năm 1991
đến nay, v.v.
Cần thấy rằng, tín ngưỡng, tôn giáo là vấn đề mang tính văn hóa, tư tưởng, sự vận
động và phát triển của nó gắn liền với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội, lịch sử, hệ tư
tưởng, văn hóa của mỗi quốc gia, dân tộc, nên không thể sao chép “tiêu chuẩn” tôn giáo của
quốc gia, dân tộc này cho quốc gia, dân tộc khác và càng không thể áp đặt theo ý muốn chủ
quan của một chủ thể nào đó từ bên ngoài. Hơn thế nữa, các tổ chức tôn giáo về thực chất
vẫn là một tổ chức xã hội, bao gồm nhiều tín đồ với các lứa tuổi, trình độ, thành phần…,
khác nhau, hoạt động và tồn tại trong khuôn khổ pháp luật nhất định; do đó, việc một vài tín
đồ tôn giáo vi phạm pháp luật, bị xử lý cũng là việc bình thường trên con đường phát triển.
Song, lợi dụng điều đó để vu cáo chính quyền đàn áp tôn giáo như đối với Việt Nam là điều
không thể chấp nhận được. Ngay ở các nước phương Tây, được coi là những “quốc gia dân
chủ nhất”, các giáo phái hoạt động trái pháp luật cũng đều bị nghiêm trị, liệu đó có phải là
hành động đàn áp tôn giáo không?
Nhân đây, cũng cần nhắc lại rằng, nhiều năm qua, vấn đề tự do tôn giáo luôn được
các thế lực thù địch và những kẻ cực đoan trong nước triệt để lợi dụng để chống phá Đảng
và Nhà nước Việt Nam. Nhân dân ta cũng quá hiểu những thủ đoạn này là nhằm xóa bỏ vai
trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, xóa bỏ chế độ XHCN ở nước ta. Vì ý đồ đen tối đó, chúng
sẽ còn xuyên tạc, bịa đặt, bóp méo sự thật nhiều vấn đề khác nhằm bôi đen và hạ uy tín của
Việt Nam. Song sự thật về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam luôn được tôn trọng
và bảo đảm đã và sẽ là một trong những thứ vũ khí sắc bén, lâu bền, vững chắc nhất đập tan
những luận điệu xuyên tạc của chúng.

Giải pháp
Trên lớp
+ Học tập về truyền thông tôn giáo
+ Học tập nâng cao trình độ với nhau, tạo mối quan hệ gần rủi với bạn bè xung quanh
+ Hòa đồng với các bạn bè trên lớp, tôn trọng tôn giáo của các vùng miền... +Tích cực trao
đổi văn hóa các bạn với nhau
+ Không nên tổ chức các hoạt động lôi kéo sinh viên vào mê tín dị đoan
+ Tổ chức các hoạt động ngoại khóa, lớp, khoa, trường để giao lưu, lưu giữa văn hóa tôn
giáo nhau
Nơi cư trú ấp xã
+ Tham gia phong trào về tôn giáo
+ Tạo các buổi giao lưu về vấn đề dân tộc, tôn giáo
+ Tham gia các hoạt động tình nguyện về vấn đề tôn giáo
+Tuyên truyền tín ngưỡng tôn giáo trên các trang thông tin đại chúng
Một số giải pháp cụ thể để giải quyết tôn giáo Việt Nam.
-Tăng cường đoàn kết tôn giáo
+ Nâng cao nhận thức tư tường về vấn đề đoàn kết tôn giáo trong tình hình mới Bồ sung và
hoàn chinh hệ thống pháp luật về tôn giáo ở Việt Nam hiện nay
+ Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo và vai trò lãnh đạo của Đảng,
quản lý của nhà nước về tôn giáo trong bối cành hiện nay
+ Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho đồng bào các tôn giáo
+ Thực hiện bình đằng giữa các tôn giáo, giữa đồng bào theo tôn giáo và đồng bào không
theo tôn giáo
+ Kiên quyết đấu tranh với những hiện tượng tiêu cực trong tôn giáo và đập tan âm mưu lợi
dụng tôn giáo để chống phá cách mạng của lực lượng thù địch
-Nhằm tăng cường công tác tôn giáo
+ Cần tiếp tục quan tâm việc tổ chức cho cán bộ, nhân dân nói chung, đồng bào tôn giáo nói
riêng học tập các quan điểm, chính sách của Đảng, Nhà nước ta đối với tôn giáo. Các ngành,
các cấp cần đẩy mạnh công tác tuyên tryền, phổ biến giáo dục pháp luật trong vùng giáo,
nhất là trong các chức sắc, chức việc, nhà tu hành và tin đồ các tôn giáo.
+ Tập trung nâng cao nhận thức, thống nhất quan điểm, trách nhiệm của hệ thống chính trị
và toàn xã hội đối với công tác tôn giáo.
+ Các ngành các cấp đẩy mạnh việc tuyên truyền, giáo dục tryền thống yêu nước, ý thức bảo
vệ độc lập dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ, làm cho các tôn giáo gắn bó với dân tộc, với quê
hương đất nước, tăng cường sự đồng thuận giữa người có tín ngưỡng, tôn giáo và những
người không có tín ngưỡng, tôn giáo cũng như giữa những người có tín ngưỡng, tôn giáo
khác nhau.
+ Cần nhận thức một cách sâu sắc rằng nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận
động quần chúng, thông qua công tác vận động nhằm giúp đồng bào các tôn giáo phát huy
những ưu điểm, khắc phục tồn tại, giữ gin và phát huy những truyền thống văn hóa của dân
tộc, tôn vinh những người có công với Tổ quốc, với nhân dân đồng thời chủ động đấu tranh
chống lại các hoạt động lợi dụng tự do tín ngường tôn giáo để hành nghề mê tín dị đoan,
hoạt động trái pháp luật và chính sách của Nhà nước, lợi dụng, kích động chia rẽ nhân dân,
chia rẽ các dân tộc, gây rối , xâm phạm an ninh quốc gia.
+ Quan tâm xây dựng tổ chức, bộ máy cán bộ làm công tác tôn giáo đủ mạnh, tạo điều kiện
về mọi mặt nhằm góp phần tham mưu ngày càng tốt hơn cho cấp uỳ, chính quyền giải quyết
các vấn đề có liên quan đến tôn giáo theo đúng chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước.
+ Trong tình hình hiện nay, bộ máy tham mưu, giúp việc về công tác tôn giáo ở tình ta, nhất
là cấp cơ sở chưa được quan tâm đúng mức vì vậy chưa đáp ứng được yêu cầu tham muu
cho cấp ủy, chính quyền giải quyết các vấn đề này sinh từ cơ sờ. Vì vậy, trong thời gian tới
cần phải tiếp tục kiện toàn tổ chức bộ máy làm công tác tồn giáo của cấp uỷ, chính quyền,
mặt trận và các đoàn thể quần chúng tạo sự thống nhất và có tính "liên hoàn" cao nhằm phát
huy sức mạnh và hiệu quả công tác tôn giáo trong tình hình mới.
-Đẩy mạnh công tác tuyên truyền Luật tín ngường, tôn giáo
+ Cấp ủy, chính quyền các cấp cần tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác tuyên truyền, phổ
biến Luật Tín ngưỡng, tôn giáo
+ Tăng cường bồi dưỡng nâng cao năng lực cho đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên
Luật Tín ngưỡng, tôn giáo đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ
+ Lựa chọn nội dung, đổi mới phương pháp, hình thức tuyên truyền, phổ biến Luật Tín
ngưỡng, tôn giáo phù hợp với từng địa bàn, đối tượng
+ Phối hợp chặt chẽ giữa các tổ chức, lực luợng trong tuyên truyền, phổ biến Luật Tín
ngưỡng, tôn giáo, tạo sức mạnh tổng hợp trong thực hiện.

C. KẾT LUẬN Vấn đề tôn giáo nước ta cũng như trên thế giới đang là một vấn đề nóng
bỏng nhất hiện nay. Cho nên bài tiểu luận đưa ra những lí luận đúng đắn của chủ nghĩa Mác
Lênin về vấn đề tôn giáo để giúp ta thấy rõ được mặt tích cực và tiêu cực của tôn giáo ở Việt
Nam hiện nay. Từ đó đưa ra những giải pháp thích hợp cho vấn đề tôn giáo mà không đụng
chạm đến tín ngưỡng của mỗi cá nhân. Góp phần phát triển tôn giáo một cách toàn diện mà
không ảnh hưởng đến vấn đề chính trị của quốc gia. Nhằm tạo ra một cộng đồng tôn giáo
lành mạnh có những đóng góp tích cực cho sự phát triển của đất nước. Vì vậy chúng ta cần
phải đoàn kết trong mọi tôn giáo cũng như tôn trọng lẫn nhau trong tôn giáo và mỗi tôn giáo
chúng ta cần phải phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực để tôn giáo ngày càng đi
lên một bước ngoặc lớn.

You might also like