You are on page 1of 9

ĐẠI HỌC UEH

TRƯỜNG KINH DOANH


KHOA KINH DOANH QUỐC TẾ - MARKETING

BÀI THI KẾT THÚC HỌC PHẦN


CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC

TP Hồ Chí Minh, ngày 04 tháng 12 năm 2023


ĐẠI HỌC UEH
TRƯỜNG KINH DOANH
KHOA KINH DOANH QUỐC TẾ - MARKETING

Bài thi kết thúc học phần


Môn học: Chủ nghĩa xã hội khoa học

Giảng viên: Vũ Anh Tuấn


Mã lớp học phần: 23C1POL51002510
Sinh viên: Cái Thị Tuyết Sa
Khóa – Lớp: K48 – IBC03
MSSV: 31221025139
STT: 41

TP Hồ Chí Minh, ngày 04 tháng 12 năm 2023


MỤC LỤC
Câu 1: Phân tích các nguyên tắc của chủ nghĩa Mác – Lênin về giải quyết vấn đề tôn
giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội? .................................................................1
1. Tôn trọng, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của nhân dân. ..1
2. Khắc phục dần những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo phải gắn liền với quá trình
cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. ..............................................................................1
3. Phân biệt hai mặt chính trị và tư tưởng của tôn giáo trong quá trình giải quyết vấn
đề tôn giáo. ...........................................................................................................................1
4. Quan điểm lịch sử cụ thể trong giải quyết vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo. ...................1
Câu 2: Hãy nêu quan điểm cá nhân về nội dung thực hiện chính sách của Đảng, Nhà
nước Việt Nam đối với vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo hiện nay? ..........................................2
Câu 3: Mối quan hệ giữa dân tộc với tôn giáo ở Việt Nam và ảnh hưởng của mối quan
hệ này đến sự ổn định chính trị - xã hội của nước ta? ........................................................4
1. Mối quan hệ giữa dân tộc với tôn giáo ở Việt Nam ....................................................4
a. Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, đa tôn giáo; quan hệ dân tộc và tôn giáo
được thiết lập và củng cố trên cơ sở cộng đồng quốc gia - dân tộc thống nhất ...............4
b. Quan hệ dân tộc và tôn giáo ở Việt Nam chịu sự chi phối mạnh mẽ bởi tín ngưỡng
truyền thống .......................................................................................................................4
2. Ảnh hưởng của mối quan hệ này đến sự ổn định chính trị - xã hội của Việt Nam ..5
TÀI LIỆU THAM KHẢO .....................................................................................................6
41 - Cái Thị Tuyết Sa

NỘI DUNG
Câu 1: Phân tích các nguyên tắc của chủ nghĩa Mác – Lênin về giải quyết vấn đề tôn
giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội?
Hiện nay, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và đất nước có nhiều đổi mới, tuy
đã có sự biến đổi trên nhiều mặt nhưng cho dù ở thời kỳ nào thì tôn giáo vẫn còn tồn tại.
Chính vì thế, để giải quyết tốt các vấn đề về tôn giáo, ta cần tuân thủ một số nguyên tắc sau:
1. Tôn trọng, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của nhân dân.
Tín ngưỡng tôn giáo là những thứ thuộc về lĩnh vực ý thức tư tưởng, nó là sự thể hiện
niềm tin sâu sắc của con người vào những đấng tối cao, những đấng thiêng liêng mà mọi
người tôn thờ. Vì vậy mà tự do tín ngưỡng hay tự do không tín ngưỡng sẽ thuộc quyền tự do
tư tưởng của mỗi người dân. Nhân dân dược quyền tự do lựa chọn phương thức thể hiện tín
ngưỡng, tôn giáo của mình, bất kì một cá nhân, tổ chức nào, kể cả những chức sắc tôn giáo,
tổ chức hội giáo… cũng không được quyền can thiệp vào sự lựa chọn này, bao gồm việc theo
đạo, đổi đạo, hay không theo đạo. Mọi hành vi như cấm đoán, ngăn cản việc tự do theo đạo,
đổi đạo, bỏ đạo hay thậm chí đe dọa, bắt buộc người dân phải theo đạo đều là những hành vi
xâm phạm đến quyền tự do tư tưởng của họ.
Tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng là một trong những biểu hiện bản chất ưu việt của
chế độ xã hội chủ nghĩa. Nhà nước ta không can thiệp vào việc lựa chọn tôn giáo của người
dân, không phân biệt đối xử với người theo tôn giáo hay không theo tôn giáo. Nhà nước
cũng tôn trọng và bảo hộ các hoạt động tín ngưỡng lành mạnh, các cơ sở thờ tự, các phương
tiện phục vụ nhu cầu tín ngưỡng của người dân. [1]
2. Khắc phục dần những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo phải gắn liền với quá
trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới.
Nguyên tắc này để khẳng định chủ nghĩa Mác-Lênin chỉ hướng vào việc giải quyết
những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo đối với quần chúng nhân dân mà không chủ trương
can thiệp vào công việc nội bộ của các tôn giáo.
Chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ ra rằng, muốn thay đổi ý thức xã hội, trước hết cần phải
thay đổi bản thân tồn tại xã hội; muốn xóa bỏ ảo tưởng này sinh trong tư tưởng con người,
phải xóa bỏ nguồn gốc sinh ra ảo tưởng ấy. Điều cần thiết trước hết là phải xác lập được một
thế giới hiện thực không có áp bức, bất công, nghèo đói và thất học…cũng như những tệ nạn
nảy sinh trong xã hội. Đó là một quá trình lâu dài, và không thể thực hiện được nếu tách rời
việc cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. [1]
3. Phân biệt hai mặt chính trị và tư tưởng của tôn giáo trong quá trình giải quyết vấn
đề tôn giáo.
Trong xã hội công xã nguyên thủy, tín ngưỡng, tôn giáo chỉ biểu hiện thuần túy về tư
tưởng. Nhưng khi xã hội đã xuất hiện giai cấp thì dấu ấn giai cấp – chính trị ít nhiều đều in rõ
trong các tôn giáo. Từ đó, hai mặt chính trị và tư tưởng thường thể hiện và có mối quan hệ
với nhau trong vấn đề tôn giáo và bản thân mỗi tôn giáo.
Phân biệt hai mặt chính trị và tư tưởng trong giải quyết vấn đề tôn giáo thực chất là
phân biệt tính chất khác nhau của hai loại mâu thuẫn luôn tồn tại trong bản thân tôn giáo và
trong vấn đề tôn giáo. Sự phân biệt này, trong thực tế không đơn giản, bởi lẽ, trong đời sống
xã hội, hiện tượng nhiều khi phản ánh sai lệch bản chất, mà vấn đề chính trị và tư tưởng trong
tôn giáo thường đan xen vào nhau. Mặt khác, trong xã hội có đối kháng giai cấp, tôn giáo
thường bị yếu tố chính trị chi phối rất sâu sắc, nên khó nhận biết vấn đề chính trị hay tư tưởng
thuần tuý trong tôn giáo. Việc phân biệt hai mặt này là cần thiết nhằm tránh khuynh hướng
cực đoan trong quá trình quản lý, ứng xử những vấn đề liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo.
[1]
4. Quan điểm lịch sử cụ thể trong giải quyết vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo.

1
41 - Cái Thị Tuyết Sa

Tôn giáo không phải là một hiện tượng xã hội bất biến, ngược lại, nó luôn luôn vận
động và biến đổi không ngừng tuỳ thuộc vào những điều kiện kinh tế - xã hội - lịch sử cụ thể.
Mỗi tôn giáo đều có lịch sử hình thành, có quá trình tồn tại và phát triển nhất định. Ở những
thời kỳ lịch sử khác nhau, vai trò, tác động của từng tôn giáo đối với đời sống xã hội không
giống nhau. Quan điểm, thái độ của các giáo hội, giáo sĩ, giáo dân về những lĩnh vực của đời
sống xã hội luôn có sự khác biệt. Vì vậy, cần phải có quan điểm lịch sử cụ thể khi xem xét,
đánh giá và ứng xử đối với những vấn đề có liên quan đến tôn giáo và đối với từng tôn giáo
cụ thể. [1]
Câu 2: Hãy nêu quan điểm cá nhân về nội dung thực hiện chính sách của Đảng, Nhà
nước Việt Nam đối với vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo hiện nay?
Trong thời đại mới hiện nay, để đáp ứng được các yêu cầu của xu thế mở cửa và hội
nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, Đảng và nhà nước ta đã thực hiện các chủ trương, chính
sách nhằm đổi mới đất nước trên nhiều phương diện như kinh tế, văn hóa, xã hội,… Đặc biệt
trong đó cũng có những thay đổi đối với vấn đề tôn giáo, tín ngưỡng. Sự đúng đắn về chủ
trương, chính sách mà Đảng và Nhà nước thực hiện đã được khẳng định và chứng minh thông
qua những chuyển biến tích cực trong đời sống tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam hiện nay.
Trước hết, Đảng và Nhà nước đã xác định rằng tín ngưỡng, tôn giáo là vấn đề đang và sẽ
tồn tại lâu dài trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, là nhu cầu tinh thần không
thể thiếu của một bộ phận nhân dân. Đồng thời, khẳng định đồng bào các dân tộc tôn giáo
chính là một bộ phận của khối đại đoàn kết dân tộc. [2]
 Điều này cho thấy được Đảng và Nhà nước ta luôn công khai thừa nhận và tôn trọng
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và không tín ngưỡng, tôn giáo của công dân. Trước
pháp luật thì mọi công dân đều bình đẳng về quyền và nghĩa vụ, không có sự phân biệt
giữa các tôn giáo khác nhau. Thêm vào đó, nhờ chính sách đoàn kết gắn bó các đồng
bào tôn giáo đã thúc đẩy và củng cố thêm sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân,
mọi công dân đều ra sức chung tay giữ gìn độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia.
Thứ hai, các chủ trương, chính sách về đại đoàn kết dân tộc luôn được Đảng và Nhà nước
thực hiện một cách nhất quán, không hề phân biệt đối xử dựa trên tín ngưỡng, tôn giáo của
công dân. [2]
 Chính sách này của Đảng và Nhà nước ta là hết sức đúng đắn và phù hợp trong bối
cảnh xung đột sắc tộc, dân tộc trên thế giới đang ngày càng tang cao, giúp cho sức
mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc được phát huy, khai thác được điểm tương đồng
giữa những người có hay không có tôn giáo, hay những người theo tôn giáo khác nhau,
từ đó tránh được những âm mưu chia rẽ, kích động nhân dân đề gây rối, xâm phạm an
ninh quốc gia.
Bên cạnh đó, Đảng và Nhà nước luôn thực hiện công tác vận động quần chúng nhân dân,
xem vấn đề này là nội dung nồng cốt của công tác tôn giáo. [2]
 Thông qua việc thực hiện tốt các chính sách trên nhiều mặt, đồng thời đảm bảo được
lợi ích về mặt vật chất và tinh thần của nhân dân, Đảng và Nhà nước đã cho thấy được
sự thấu hiểu, động viên và nêu cao được tinh thần yêu nước, ý thức bảo vệ độc lập dân
tộc và thống nhất Tổ quốc của toàn thể người dân. Tất cả đều cố gắng, phấn đấu vì lợi
ích chung của toàn dân tộc, đó là sự đoàn kết sâu rộng một lòng không phân biệt có
đạo hay không có đạo.
Ngoài ra, theo quan điểm, chính sách của Đảng thì việc làm tốt công tác tôn giáo hay
không là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị chứ không phải của một cá nhân hay tổ
chức riêng lẻ nào cả. Đảng ta đã không ngừng tăng cường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và thực
hiện tốt các công tác tôn giáo, nhất là ở những địa phương có đông đảo các đồng bào tôn giáo.

2
41 - Cái Thị Tuyết Sa

 Đảng và Nhà nước đã làm đúng trách nhiệm của mình, thực hiện đúng các chính sách
về tín ngưỡng, tôn giáo đã đề ra. Các cơ quan, bộ phận trong hệ thống chính trị luôn
phối hợp nhịp nhàng, linh hoạt, đảm bảo tình hình tín ngưỡng, tôn giáo luôn được giữ
vững, các hoạt động tiêu cực như mê tín dị đoan, hành vi lợi dụng quyền tự do tôn giáo
đều được ngăn chặn kịp thời. Từ đó giúp cho đời sống xã hội ngày một ổn định, nhân
dân tập trung phát triển kinh tế đất nước.
Thêm vào đó, các chủ trương, chính sách về việc theo đạo, truyền đạo và các hoạt động
của các tổ chức tôn giáo luôn được nhà nước quan tâm thực hiện và được pháp luật bảo hộ.
Mọi hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo đều có thể tự do thực hiện nhưng phải tuân thủ theo Hiến
pháp và pháp luật. [2]
 Đảng và nhà nước luôn theo dõi sát sao, quan tâm chăm lo cho đời sống tín ngưỡng,
tôn giáo của nhân dân. Nhà nước luôn tạo mọi điều kiện cấp phép hoạt động, tuy nhiên
cũng thể hiện được phần nào quyền lực nhà nước. Cho dù được tự do hoạt động nhưng
phải theo khuôn khổ và quy định, luôn nghiêm cấm tuyệt đối và có biện pháp xử lí các
hành vi vi phạm, gây ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống xã hội.
Đánh giá theo quan điểm cá nhân:
- Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người dân Việt Nam được tôn trọng và bảo đảm:
Điều này được thể hiện qua việc Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật quy
định về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, bao gồm: Hiến pháp năm 2013; Luật Tín
ngưỡng, tôn giáo năm 2016; Nghị định số 162/2017/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành
một số điều của Luật Tín ngưỡng, tôn giáo;...
- Các tổ chức tôn giáo hoạt động hợp pháp, đúng quy định của pháp luật: Hiện nay, ở
Việt Nam có 36 tổ chức tôn giáo được công nhận là hợp pháp, bao gồm: Phật giáo,
Công giáo, Tin lành, Hồi giáo, Cao Đài, Hòa Hảo, Phật giáo Hòa Hảo Nam Tông, Phật
giáo Khất sĩ, Tịnh độ Chân tông, Phật giáo Nam Tông, Phật giáo Nguyên thủy,... Các
tổ chức tôn giáo này đã đóng góp tích cực vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- Đời sống tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân được chăm lo, phát huy: Nhà nước đã ban
hành nhiều chính sách, chương trình, dự án hỗ trợ phát triển các hoạt động tín ngưỡng,
tôn giáo, bao gồm: Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng
đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2016-2020, giai đoạn 2021-2030;
Chương trình hỗ trợ phát triển tín ngưỡng, tôn giáo giai đoạn 2021-2025;...
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, nội dung thực hiện chính sách của Đảng, Nhà
nước Việt Nam đối với vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo hiện nay cũng còn một số hạn chế, như:
- Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo chưa được thực hiện
hiệu quả. Một bộ phận người dân chưa hiểu rõ về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo,
dẫn đến việc thực hiện quyền này còn hạn chế.
- Công tác quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo chưa thực sự chặt chẽ. Một số cơ
quan chức năng chưa thực hiện tốt vai trò quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo,
dẫn đến tình trạng vi phạm pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo vẫn còn xảy ra.
- Việc phát huy giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của tôn giáo chưa được thực hiện hiệu
quả. Một số tổ chức tôn giáo chưa chú trọng đến việc phát huy giá trị văn hóa, đạo đức
tốt đẹp của tôn giáo, dẫn đến những biểu hiện tiêu cực, mê tín dị đoan trong đời sống
tín ngưỡng, tôn giáo.
Những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam về vấn đề tín ngưỡng tôn
giáo luôn được thực hiện một cách nhất quán và đang ngày một cởi mở hơn, thay đổi linh
hoạt phù hợp với sự thay đổi của của đất nước và xu thế chung trên toàn thế giới, các hoạt
động tôn giáo từ đó có được điều kiện thuận lợi để phát triển hơn, hướng đến mục tiêu chung

3
41 - Cái Thị Tuyết Sa

là đoàn kết gắn bó khối đại đoàn kết toàn dân, làm cho “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ,
công bằng, văn minh.”
Câu 3: Mối quan hệ giữa dân tộc với tôn giáo ở Việt Nam và ảnh hưởng của mối quan
hệ này đến sự ổn định chính trị - xã hội của nước ta?
1. Mối quan hệ giữa dân tộc với tôn giáo ở Việt Nam
Mối quan hệ giữa dân tộc và tôn giáo là sự liên kết, tác động qua lại, chi phối lẫn nhau
giữa dân tộc với tôn giáo trong nội bộ một quốc gia, hoặc giữa các quốc gia với nhau trên mọi
lĩnh vực của đời sống xã hội. Quan hệ dân tộc và tôn giáo được biểu hiện dưới nhiều cấp độ,
hình thức và phạm vi khác nhau. Ở Việt Nam hiện nay, mối quan hệ này có những đặc điểm
cơ bản sau:
a. Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, đa tôn giáo; quan hệ dân tộc và tôn giáo được
thiết lập và củng cố trên cơ sở cộng đồng quốc gia - dân tộc thống nhất
Trong lịch sử cũng như hiện tại, các tôn giáo ở Việt Nam có truyền thống gắn bó chặt chẽ
với dân tộc, đồng hành cùng dân tộc, gắn đạo với đời. Mọi công dân Việt Nam không phân
biệt dân tộc, tín ngưỡng và tôn giáo nhìn chung đều đoàn kết ý thức rõ về cội nguồn, về một
quốc gia - dân tộc thống nhất cùng chung sức xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trong thời gian gần đây, ở nhiều nước, nhiều nơi trên thế giới nổi lên xu hướng xung đột dân
tộc, tôn giáo gây mất ổn định chính trị - xã hội, thậm chí chiến tranh nội chiến bùng phát.
Trong bối cảnh đó, ở Việt Nam, trong lịch sử phát triển của dân tộc, nhất là từ sau khi đất
nước giành được độc lập dân tộc, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, quan hệ
dân tộc và tôn giáo luôn được coi trọng và nhìn chung được giải quyết khá tốt, không dẫn đến
những xung đột lớn trong nội bộ quốc gia. Mặc dù vậy, trong triển khai hoạt động thực tiễn,
do nhận thức hoặc do thực hiện chưa đúng các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng
và Nhà nước về dân tộc và tín ngưỡng, tôn giáo, nên có nơi có lúc quan hệ này vẫn nảy sinh
những mâu thuẫn cần phải nhận diện rõ và đánh giá một cách khách quan, khoa học để tiếp
tục tăng cường giải quyết tốt mối quan hệ dân tộc và tôn giáo nhằm một mặt, phát huy những
giá trị tốt đẹp của các dân tộc và những giá trị đạo đức, văn hóa của các tôn giáo, tỉn ngưỡng,
góp phần làm phong phú thêm nền văn hóa Việt Nam; mặt khác, đảm bảo sự ổn định chính
trị quốc gia. [1]
b. Quan hệ dân tộc và tôn giáo ở Việt Nam chịu sự chi phối mạnh mẽ bởi tín ngưỡng
truyền thống
Ở Việt Nam, tín ngưỡng truyền thống biểu hiện ở nhiều cấp độ, trên phạm vi cả nước,
diễn ra trong mọi gia đình, dòng họ không phân biệt dân tộc, tôn giáo, trong đó, tín ngưỡng
thờ cúng tổ tiên, thờ anh hùng dân tộc, những người có công với dân, với nước có ý nghĩa đặc
biệt quan trọng trong đời sống tâm linh của người Việt.
- Ở cấp độ gia đình, thờ cúng tổ tiên là hoạt động phổ biến, thậm chí trở thành truyền
thống, nét đẹp văn hóa của mỗi gia đình, dòng họ; đồng thời là sợi dây kết dính các
thành viên trong dòng họ, dòng tộc, kể cả họ có thể sinh sống ở mọi miền của đất nước.
- Ở cấp độ làng, xã, hầu hết các làng xã của người Việt đều thờ cúng Thành hoàng làng,
thân làng rất đa dạng. Đa phần đó là các vị có công gây dựng làng xã, dạy nghề cho
dân làng, hoặc là người có công với nước được sinh ra tại làng xã đó, v.v.. Chính hoạt
động tín ngưỡng này trở thành sợi dây gắn kết chặt chẽ các thành viên trong gia đình
với làng, xã, gắn kết các làng, xã với nhau và với triều đình trung ương - đại diện cho
cộng đồng quốc gia dân tộc thống nhất.
- Ở cấp độ quốc gia, đỉnh cao của sự hội tụ đoàn kết thống nhất cộng đồng dân tộc của
người Việt Nam được biểu hiện dưới dạng tín ngưỡng, tôn giáo, đó là người Việt Nam
dù sinh sống ở bất cứ nơi đâu trên mọi miền của Tổ quốc hay định cư ở nước ngoài,
dù có khác nhau về ngôn ngữ, về tín ngưỡng, tôn giáo, thế hệ... thì đều hướng về cội

4
41 - Cái Thị Tuyết Sa

nguồn dân tộc chung - nơi các Vua Hùng đã có công dựng nước - thực hiện các nghi
lễ tế tự, thờ cúng thể hiện lòng tôn kính, niềm tự hào dân tộc về con Lạc cháu Hồng,
về nghĩa "đồng bào" đoàn kết gắn bó chặt chẽ trong một cộng đồng quốc gia - dân tộc
thống nhất.
Như vậy, chính tín ngưỡng truyền thống đã làm nên nét đặc thù trong quan hệ dân tộc và
tôn giáo ở Việt Nam, thậm chí, chi phối mạnh mẽ, làm biến đối các nền văn hóa, các tôn giáo
bên ngoài khi du nhập vào Việt Nam. Việt Nam là nơi hội tụ của nhiều nên văn hóa trên thế
giới và phần lớn các tôn giáo đều là tôn giáo ngoại sinh. Các nền văn hóa hay các tôn giáo từ
bên ngoài du nhập vào muốn "cẩm rễ", phát triển được trên lãnh thổ Việt Nam đều phải biến
đổi ít nhiều để phù hợp với truyền thống dân tộc, với nền tảng văn hóa bản địa, trong đó có
sự chi phối của tín ngưỡng truyền thống, nhất là tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Sự biến đổi của
Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo, Công giáo khi vào Việt Nam là những ví dụ điển hình. [1]
2. Ảnh hưởng của mối quan hệ này đến sự ổn định chính trị - xã hội của Việt Nam
Từ khi đất nước thực hiện đường lối đổi mới, phát triển nền kinh tế thị trường, tiến hành
hội nhập quốc tế sâu rộng thì đời sống tín ngưỡng, tôn giáo qủa người Việt Nam phát triển,
trong đó xuất hiện một số hiện tượng tôn giáo mới như Long Hoa Di Lặc, Tin Lành Vàng
Chứ, Thanh Hải vô thượng sư, Tiên Rồng...; các tổ chức đội lốt tôn giáo như Tin Lành Đềga,
Hà Mòn ở Tây Nguyên. Tính chất mê tín của các hiện tượng tôn giáo mới khá rõ. Thậm chí,
một số nhóm lợi dụng niềm tin tôn giáo để tuyên truyền những nội dung gây hoang mang
trong quần chúng, hay thực hành những nghi lễ phản văn hóa, truyền đạo trái phép, phát tán
các tài liệu có nội dung xuyên tạc đưỡng lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, làm phương
hại đến mối quan hệ dân tộc và tôn giáo, làm ảnh hưởng đến khối đại đoàn kết dân tộc, đoàn
kết tôn giáo; gây ra nhiều vấn để phức tạp và tác động tiêu cực đến tình hình an ninh chính
trị, trật tự an toàn xã hội ở nhiều vùng dân tộc. Do vậy, các hiện tượng tôn giáo mới phát triển
mạnh hiện nay cần phải được quản lý tốt nhằm đảm bảo sự ổn định chính trị quốc gia và đảm
bảo giải quyết tốt mối quan hệ dần tộc và tôn giáo ở nước ta. [1]

5
41 - Cái Thị Tuyết Sa

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] "Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học," Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2021.
[2] “Tài liệu hướng dẫn ôn tập môn Chủ nghĩa xã hội khoa học,” Thành phố Hồ Chí Minh,
Đại học Kinh tế TP Hồ Chí Minh, 2023.

You might also like