You are on page 1of 8

TRƯỜNG KINH DOANH

KHOA KINH DOANH QUỐC TẾ - MARKETING

Môn học: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC

Họ và tên: Hoàng Thị Thanh Tâm

MSSV: 31221022629

Giảng viên: Nguyễn Văn Sáng

Mã lớp học phần: 23C1POL51002512

Khóa – Lớp: K48 – IBC05

Phòng học: B2-405 sáng thứ 4


Mục lục
1. Phân tích các nguyên tắc của chủ nghĩa Mác – Lênin về giải quyết vấn đề tôn giáo trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội?..................................................................................................................2
1.1 Bản chất, nguồn gốc và tính chất của tôn giáo..............................................................................2
1.2 Nguyên tắc giải quyết vấn đề tôn giáo trong TKQĐ lên CNXH......................................................3
2. Hãy nêu quan điểm cá nhân về nội dung thực hiện chính sách của Đảng, Nhà nước Việt Nam đối
với vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo hiện nay?..............................................................................................4
3. Mối quan hệ giữa dân tộc với tôn giáo ở Việt Nam và ảnh hưởng của mối quan hệ này đến sự ổn
định chính trị - xã hội của nước ta?.........................................................................................................5
3.1 Đặc điểm quan hệ dân tộc và tôn giáo ở Việt Nam.......................................................................5
3.2 Ảnh hưởng của mối quan hệ giữa tôn giáo và dân tộc đến sự ổn định chính trị-xã hội................6
1. Phân tích các nguyên tắc của chủ nghĩa Mác – Lênin về giải quyết vấn đề tôn giáo
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội?
1.1 Bản chất, nguồn gốc và tính chất của tôn giáo
Về bản chất:
Chủ nghĩa Mác-Lênin cho rằng, tôn giáo đóng vai trò là sự phản ánh không thực tế trong tâm
trí con người về những lực lượng bên ngoài ảnh hưởng đến cuộc sống hàng ngày của họ. Nó
được coi là một hình thái ý thức xã hội. Một cách tiếp cận khác, tôn giáo cũng có thể được xem
như một thực thể xã hội, bao gồm các tôn giáo cụ thể như đạo Chính Thống, đạo Công Giáo,
đạo Tin lành, đạo Phật... Các tôn giáo này chia sẻ những đặc điểm cơ bản như niềm tin tôn
giáo, hệ thống giáo thuyết (giáo lý, giáo luật, lễ nghi), hệ thống cơ sở thờ tự, tổ chức nhân sự
quản lý và hệ thống tín đồ đông đảo.
- Tín ngưỡng là sự hội tụ của niềm tin và lòng tôn kính của con người đối với các sự vật,
hiện tượng hoặc lực lượng mang đậm tính linh thiêng, thần thánh. Nó liên kết chặt chẽ với các
phong tục, lễ nghi để hy vọng được hỗ trợ và che chở, mang lại sự bình an tinh thần cho từng
người và toàn cộng đồng.
- Mê tín là niềm tin không có căn cứ khoa học, nó phản ánh sự mê muội, hoang mang và
không được chứng minh. Trong cuộc sống, khi con người đối diện với những điều đáng sợ mà
không thể giải thích, mê tín tự nhiên nảy sinh để điền vào khoảng trống đó, để làm dịu đi sự lo
lắng và mang lại an tâm cho họ.
- Dị đoan là việc suy luận và hành động không tuân theo những tiêu chuẩn, quy tắc thông
thường trong cuộc sống. Đây là niềm tin mù quáng, cuồng tín vào các lực lượng siêu nhiên,
thần thánh, dẫn đến những hành vi cực đoan, sai lệch vượt quá mức, xung đột với các giá trị
văn hóa, đạo đức và pháp luật, có thể gây tổn thương cho cả cá nhân và cộng đồng.
Về nguồn gốc
- Nguồn gốc tự nhiên, kinh tế - xã hội do sự bất lực của con người trước tự nhiên, trong nỗ lực
đạt được các mục tiêu kinh tế- xã hội, cũng như cuộc sống của bản thân họ.
- Nguồn gốc nhận thức sự nhận thức của con người về tự nhiên, xã hội và bản thân là có giới
hạn. Những điều khoa học chưa giải thích được, thường được giải thích thông qua lăng kính
tôn giáo.
- Nguồn gốc tâm lý sự ra đời và tồn tại của tôn giáo có nguồn gốc từ yếu tố tâm lý, tình cảm
của con người trước sức mạnh tự phát của tự nhiên và xã hội.
Về tính chất
- Tính lịch sử Tôn giáo hình thành, tồn tại và phát triển trong những giai đoạn lịch sử nhất
định, nó có khả năng biến đổi để thích nghi với nhiều chế độ chính trị- xã hội.
- Tính quần chúng Tôn giáo là một hiện tượng xã hội phổ biến, luôn phản ánh khát vọng của
những người lao động về một xã hội tự do, bình đẳng, bác ái. Vì vậy, tôn giáo được nhiều
người, ở các tầng lớp khác nhau trong xã hội, đặc biệt là quần chúng lao động tin theo.
- Tính chính trị của tôn giáo nổi lên khi xã hội chia rẽ thành các tầng lớp có sự khác biệt, đấu
tranh về lợi ích kinh tế và chính trị. Trong những hoàn cảnh như vậy, tầng lớp thống trị có thể
tận dụng tôn giáo để phục vụ cho lợi ích của mình.
1.2 Nguyên tắc giải quyết vấn đề tôn giáo trong TKQĐ lên CNXH
- Tôn trọng, đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của người dân.
Tín ngưỡng tôn giáo là niềm tin sâu đậm vào một thực thể thiêng liêng mà mọi người tôn kính,
thuộc lĩnh vực của ý thức và tư tưởng. Tự do tín ngưỡng và tự do không tín ngưỡng là quyền
của mỗi người dân trong việc tự do tư duy. Quyền này cho phép mỗi người quyết định liệu họ
muốn tuân theo đạo hay không, và không có tổ chức hay cá nhân nào, kể cả các tổ chức tôn
giáo hay hội giáo, có thể can thiệp vào sự lựa chọn này. Mọi hành vi can thiệp vào việc theo
đạo, đổi đạo hoặc bỏ đạo đều vi phạm quyền này. Ví dụ, hành động ép buộc vợ chồng theo đạo
Phật vi phạm quyền Bình đẳng Hôn nhân và Gia đình theo Hiến pháp 2013 và Luật Hôn nhân
và Gia đình.
Tôn trọng tự do tín ngưỡng là việc tôn trọng quyền con người và thể hiện phẩm chất ưu việt
của xã hội chủ nghĩa. Nhà nước không can thiệp, không cho phép bất kỳ ai can thiệp hoặc xâm
phạm quyền tự do tín ngưỡng của người dân. Hoạt động tôn giáo, các nơi thờ cúng, và các
phương tiện phục vụ nhu cầu tín ngưỡng được Nhà nước tôn trọng và bảo hộ. Ví dụ, Nhà nước
Việt Nam cho phép các nhà thờ, giáo xứ đạo Thiên Chúa tổ chức các hoạt động tôn giáo hàng
tuần mà không can thiệp vào tự do tín ngưỡng.
- Khắc phục dần những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo gắn liền với quá trình cải
tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới.
Chủ nghĩa Mác-Lênin đã chỉ ra rằng, để thay đổi ý thức xã hội, trước hết cần thay đổi bản thân
cách tồn tại trong xã hội. Để loại bỏ ảo tưởng nảy sinh trong tư duy con người, cần loại bỏ
nguồn gốc của ảo tưởng đó. Điều quan trọng nhất là tạo ra một thế giới không đặt áp lực,
không bất công, không nghèo đói và không kém cỏi trong giáo dục... Nhưng điều này yêu cầu
một quá trình kéo dài, không thể đạt được nếu không kết hợp việc cải thiện xã hội hiện tại và
xây dựng một xã hội mới. Ví dụ, Việt Nam hiện đang tiến bộ hướng tới một xã hội công bằng,
giàu có, và văn minh. Việc này nhằm mục đích để người dân từ bỏ những ảo tưởng tiêu cực,
cực đoan, như áp đặt kỳ vọng lớn lao trong các gia đình giàu có, khiến cho những người trẻ
không kịp lập gia đình lại chịu áp lực lớn.
- Phân biệt hai mặt chính trị và tư tưởng, tín ngưỡng tôn giáo và lợi dụng tín
ngưỡng tôn giáo trong vấn đề tôn giáo.
Mặt chính trị thể hiện sự tương tác giữa tiến bộ và sự không tiến bộ, mâu thuẫn về lợi ích kinh
tế và chính trị giữa các tầng lớp xã hội, cũng như sự xung đột giữa các thế lực sử dụng tôn
giáo để chống lại sự thay đổi xã hội, ảnh hưởng đến lợi ích của người lao động. Mặt tư tưởng
thể hiện sự chênh lệch trong niềm tin và mức độ tin tưởng giữa người theo tôn giáo và người
không theo, cũng như giữa các tín ngưỡng khác nhau, phản ánh những mâu thuẫn không nhất
thiết phải dẫn đến xung đột. Trong xã hội có mâu thuẫn giai cấp, tôn giáo thường chịu ảnh
hưởng sâu sắc từ yếu tố chính trị, làm mờ ranh giới giữa các vấn đề chính trị và tư tưởng trong
tôn giáo. Việc phân biệt giữa hai khía cạnh này là cần thiết để tránh cảm xúc quá mức trong
quản lý và xử lý các vấn đề liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo. Ví dụ, việc ăn thịt bò là điều
bình thường trong văn hóa ẩm thực Việt Nam, nhưng trong Hồi giáo, con bò được tôn thờ và
người theo đạo Hồi không ăn thịt bò.
- Quan điểm lịch sử cụ thể trong giải quyết vấn đề tôn giáo, tín ngưỡng.
Các tín ngưỡng không ổn định trong xã hội và không luôn giữ nguyên, thay vào đó, chúng luôn
phản ánh và thích nghi với các điều kiện kinh tế, xã hội và lịch sử cụ thể. Do đó, cần phải có
quan điểm lịch sử - cụ thể khi xem xét, đánh giá và giải quyết những vẩn đề liên quan đến tôn
giáo. Người mácxít phải biết chú ý đến toàn bộ tình hình cụ thể - đó là điều mà V.I.Lênin đã
từng nhắc nhở khi giải quyết vấn đề tôn giáo. Nhà nước xã hội chủ nghĩa cần phải có quan
điểm và phương thức ứng xử phù hợp với từng trường hợp cụ thể khi giải quyết các vấn đề tôn
giáo. Ví dụ, trong triều đại phong kiến, việc truyền bá Phật giáo vào Việt Nam đã đóng góp
vào việc hình thành và phát triển giá trị văn hóa ở các khu chùa và làng quê. Ngày nay, đạo
Phật không chỉ duy trì và bảo tồn văn hóa tại các đền chùa mà còn tổ chức nhiều hoạt động
như buổi tọa đàm, giảng dạy, các khóa tu, lễ thiền, lễ phóng sanh và siêu độ cho các linh hồn
mới qua đời...

2. Hãy nêu quan điểm cá nhân về nội dung thực hiện chính sách của Đảng, Nhà nước Việt
Nam đối với vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo hiện nay?
- Tôn trọng và bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo cũng như quyền tự do không
có tín ngưỡng, không theo tôn giáo của mọi công dân. Mọi người dân đều được xem xét
bình đẳng về trách nhiệm và quyền lợi theo luật pháp, không phân biệt giữa người có tín
ngưỡng và không có tín ngưỡng, hay giữa các tín ngưỡng khác nhau.
Các Hiến pháp của Việt Nam năm 1946, 1959, 1980, 1992 và 2013 đều thể hiện rõ quan điểm
trên. Điều 24, Hiến pháp năm 2013 ghi rõ: “Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo
theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật. Nhà nước tôn
trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng,
tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật”.
Niềm tin tôn giáo đang được một phần của cộng đồng dân cư và sẽ tiếp tục tồn tại trong quá
trình xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa tại nước ta. Hiện nay, có khoảng 16 tín ngưỡng tôn giáo
với hơn 13,2 triệu tín đồ, chiếm khoảng 13,7% dân số, và nhiều tổ chức tôn giáo khác nhau.
Đồng thời, xuất hiện hơn 80 dạng thức tôn giáo mới; hơn 85% dân số thể hiện sự quan tâm đến
nhu cầu tinh thần. Tín ngưỡng tôn giáo hiện nay là một phần tinh thần của đông đảo cộng đồng
dân cư và dự kiến sẽ tiếp tục tồn tại song song với chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
- Đoàn kết gắn bó đồng bào theo các tôn giáo và không theo tôn giáo trong khối đại
đoàn kết toàn dân.
Niềm tin tôn giáo là một phần của nhu cầu tinh thần của một số người trong cộng đồng, và sẽ
tiếp tục tồn tại trong quá trình phát triển chủ nghĩa xã hội tại nước ta. Người theo các tôn giáo
khác nhau là một phần của sự đoàn kết toàn dân tộc. Chính sách được thực hiện nhất quán là
việc tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo, cho phép mọi người theo hoặc
không theo bất kỳ tôn giáo nào, và có quyền thực hành tôn giáo theo quy định của pháp luật.
Tất cả các tôn giáo hoạt động dưới sự điều chỉnh của pháp luật và được coi xét bình đẳng trước
pháp luật.
Vì vậy, áp dụng quan điểm này đòi hỏi hai khía cạnh: một là cần đoàn kết cộng đồng theo các
tôn giáo khác nhau, hai là cần đoàn kết giữa người theo và không theo tôn giáo, để giải quyết
một cách tích cực mối quan hệ giữa những người có tín ngưỡng khác nhau và người theo chủ
nghĩa vô thần. Thực hiện đầy đủ quan điểm này đòi hỏi vượt qua những tình huống như phân
biệt, ganh ghét, hay những cảm xúc tiêu cực vì lý do tín ngưỡng tôn giáo. Đồng thời, cần quyết
liệt chống lại mọi kế hoạch tận dụng tôn giáo, gây chia rẽ và đe dọa sự đoàn kết toàn dân tộc.
- Mọi cá nhân và tổ chức hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo phi tuân thủ Hiến pháp và
Pháp luật, có nghĩa vụ bảo vệ lợi ích của Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, giữ gìn độc
lập dân tộc và chủ quyền quốc gia.
Công tác tôn giáo đan xen trong mọi khía cạnh của đời sống xã hội, từ cấp Trung ương đến cơ
sở, ảnh hưởng đến mọi ngành nghề. Trong lĩnh vực này, Đảng đóng vai trò lãnh đạo, chi phối
toàn bộ hệ thống chính trị trong quá trình triển khai các hoạt động. Nhà nước quản lý các hoạt
động tôn giáo theo quy định của Hiến pháp và pháp luật. Mặt trận và các tổ chức nhân dân tuân
thủ đường lối, chính sách và quy định của Đảng, Nhà nước trong việc thực hiện tốt chính sách
tôn giáo. Việc quán triệt quan điểm này cần loại bỏ những thiếu sót trong việc hợp tác, phối
hợp chặt chẽ và đồng bộ hóa để tận dụng sức mạnh toàn diện, tránh sự lơ là trong quản lý và
đối xử không đồng nhất.
- Những hoạt động tôn giáo ích nước, lợi dân, phù hợp với nguyện vọng và lợi ích chính
đáng, hợp pháp của tín đồ được đảm bảo. Những giá trị văn hoá, đạo đức tốt đẹp của tôn
giáo được tôn trọng và khuyến khích phát huy.
Đây là mục tiêu quan trọng trong việc điều hành công tác tôn giáo, liên quan chặt chẽ đến việc
xây dựng một xã hội dân giàu, mạnh mẽ, công bằng, dân chủ, và văn minh. Mục tiêu này nhấn
mạnh việc khắc phục sự khác biệt và thúc đẩy sự đồng nhất của nhân dân có đạo. Đối tượng
của công tác này bao gồm người theo đạo, lãnh đạo tôn giáo, tu sĩ, và người không có đạo,
nhằm thực hiện chính sách tôn giáo. Công tác này bao gồm việc giáo dục, tuyên truyền, tổ chức
các hoạt động cộng đồng, phát triển kinh tế - xã hội và củng cố hệ thống chính trị ở cấp địa
phương và cơ sở. Quan điểm này cũng nhấn mạnh việc tránh xa rời quần chúng hoặc bị ảnh
hưởng bởi quyền lực và lợi ích cá nhân.
- Mọi hành vi sử dụng tôn giáo để đe dọa an ninh xã hội, làm mất độc lập của quốc
gia, phá vỡ chính sách đoàn kết quốc gia, chống lại chính quyền Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, gây tổn hại đến các giá trị đạo đức, lối sống và văn hóa của dân tộc, cản
trở người theo các tôn giáo thực hiện trách nhiệm của họ.
Đây là quan điểm quan trọng để xác định rằng mọi hoạt động tôn giáo (bao gồm hành đạo,
quản đạo và truyền đạo) phải tuân theo Hiến pháp và luật pháp. Nhà nước bảo vệ sự chính đạo,
đồng thời loại trừ các tà đạo. Thực hiện mạnh mẽ quan điểm này đòi hỏi giải quyết các vấn đề
như can thiệp quá mức vào công việc nội bộ của tôn giáo và kiên quyết quản lý những hành vi
vi phạm các quy định của Hiến pháp, luật pháp trong hoạt động tôn giáo.

3. Mối quan hệ giữa dân tộc với tôn giáo ở Việt Nam và ảnh hưởng của mối quan hệ này
đến sự ổn định chính trị - xã hội của nước ta?
3.1 Đặc điểm quan hệ dân tộc và tôn giáo ở Việt Nam
- Mối quan hệ giữa dân tộc và tôn giáo là một tương tác phức tạp, có ảnh hưởng và ảnh hưởng
lẫn nhau giữa dân tộc và tôn giáo trong cộng đồng quốc gia cũng như giữa các quốc gia, lan tỏa
sang mọi lĩnh vực của cuộc sống xã hội.
- Mối quan hệ này có ảnh hưởng lớn đến sự ổn định chính trị và phát triển bền vững của mỗi
quốc gia.
Ở nước ta hiện nay, mối quan hệ này có những đặc điểm cơ bản sau:
+ Là một quốc gia đa dân tộc, đa tôn giáo; quan hệ dân tộc và tôn giáo ở Việt Nam hiện nay
được thiết lập và cũng cố trên cơ sở cộng đồng quốc gia - dân tộc thống nhất.
+ Quan hệ dân tộc và tôn giáo ở Việt Nam chịu sự chi phối mạnh mẽ bởi tín ngưỡng truyền
thống.
+ Các hiện tượng tôn giáo mới có xu hướng phát triển mạnh ảnh hưởng đến đời sống cộng
đồng và khối đại đoàn kết dân tộc.
3.2 Ảnh hưởng của mối quan hệ giữa tôn giáo và dân tộc đến sự ổn định chính trị-xã hội
Mối quan hệ giữa tôn giáo và dân tộc là sự liên kết qua lại, sự vận động, biến đổi các tôn giáo
gắn liền với sự vận động, biến đổi của các vấn đề dân tộc, như vậy có thể thấy:
- Sự đoàn kết giữa tôn giáo và dân tộc trở thành xu thế nổi trội trong quá trình toàn cầu
hóa của Việt Nam hiện nay.
Các tôn giáo đã tích cực tham gia vào việc thúc đẩy đoàn kết dân tộc và hoạt động chính trị-xã
hội. Họ đã đóng góp vào việc hình thành các cấp chính quyền dựa trên sự đoàn kết và ủng hộ
chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước, đặc biệt là thông qua việc tham gia hoạt động cử tri
theo tôn giáo và các bầu cử cho Đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân ở mọi cấp.
Trong cuộc bầu cử Đại biểu Quốc hội khóa XV, có 7 người đại diện từ 3 tôn giáo khác nhau
(Phật giáo, Công giáo và Cao Đài). Điều này cho thấy các đại biểu tôn giáo không chỉ là người
nắm quyền lực, mà còn là đại diện của cộng đồng, đưa tiếng nói của nhân dân và tín đồ tôn
giáo vào các quyết định quan trọng của Quốc hội.
- Độc lập dân tộc là cơ sở để thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Từ đó gắn liền
mối quan hệ dân tộc - Tôn giáo với vấn đề độc lập và chủ quyền của đất nước.
Khi xem xét di sản lý luận của Chủ tịch Hồ Chí Minh về tôn giáo, chúng ta có thể nhận thấy
một tư duy cơ bản và nhất quán từ Bác, đó là để thực hiện quyền tự do tín ngưỡng cho nhân
dân, điều quan trọng nhất là cần có độc lập cho dân tộc. Hồ Chủ Tịch nhấn mạnh rằng tôn giáo
không thể được xem xét mà không liên quan đến dân tộc, và không thể tách rời khỏi vận mệnh
của dân tộc và đất nước. Người còn mạnh mẽ chỉ ra rằng, cuộc chiến cho độc lập dân tộc chính
là cuộc chiến cho quyền độc lập của các tôn giáo và các tín đồ, kêu gọi mọi người Việt Nam,
không phân biệt tín ngưỡng, hãy đoàn kết để giành lại độc lập cho quê hương.
- Ảnh hưởng tích cực của tôn giáo điều chỉnh hành vi tín đồ theo đạo, hướng tới cái
thiện, bài trừ cái ác, thúc đẩy tình yêu nước và tinh thần chống ngoại xâm.
Trong thời kỳ chiến tranh, để giành lại độc lập cho đất nước, Bác Hồ đã diễn đạt quan điểm của
mình về đạo Phật. Bác cho rằng Đức Phật thể hiện lòng từ bi cao cả, cứu giúp chúng sinh khỏi
khổ đau và nghèo đói. Với tinh thần này, người ta phải hy sinh và chiến đấu chống lại ác ma, vì
lẽ đó, cần phải đoàn kết và hy sinh tài sản, thậm chí cả máu mình để chiến đấu cho quốc gia,
đẩy lùi thực dân phản động, bảo vệ độc lập và thống nhất cho Tổ quốc. Bác Hồ nhấn mạnh
rằng, việc này chính là thực hiện tinh thần "lợi ích cộng đồng trên tất cả, vị tha vô điều kiện".
Đối với đạo Thiên chúa, Bác Hồ lấy ví dụ về việc thánh Giêsu mười hai mươi năm trước đã
sống để cứu rỗi con người, hy sinh cho tự do và công bằng. Bác cũng nhấn mạnh việc hòa nhập
tinh thần của Đức Chúa Trời vào chính sách của Chính phủ, đồng thời tâm niệm rằng trong khó
khăn và gian khổ, họ sẽ chiến thắng và đạt được hạnh phúc thực sự, như lời hứa của Chúa.
Người cũng phát biểu rằng nếu Giêsu được sinh ra trong thời đại của họ và sẽ theo con đường
chủ nghĩa xã hội để giải cứu nhân loại.
** Tài liệu tham khảo **

https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/c-mac-angghen-lenin-ho-chi-minh/c-mac/nghien-cuu-
hoc-tap-tu-tuong/quan-diem-cua-chu-nghia-mac-lenin-ve-ton-giao-va-su-van-dung-de-giai-
quyet-van-de-ton-giao-trong-thoi-ky-3126

http://thanhtratinh.hatinh.gov.vn/quan-diemchinh-sach-ve-ton-giao-cua-dang-va-nha-nuoc-viet-
nam-la-nhat-quan-1638256148.html

You might also like