You are on page 1of 12

BỘ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

----------

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC

Đề tài: Chủ nghĩa duy vật và vận dụng vào đời sống.

Sinh viên: Lê Hồng Nhung


Mã SV: 11203020
Giảng viên hướng dẫn: Lê Ngọc Thông

01/2021 – Hà Nội
BỘ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

----------

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC

Đề tài: Chủ nghĩa duy vật và vận dụng vào đời sống.
MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU .............................................................................................................................. 3
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................................. 3
2. Mục đích nghiên cứu....................................................................................................... 3
3. Đối tượng nghiên cứu...................................................................................................... 3
4. Nhiệm vụ nghiên cứu ...................................................................................................... 3
5. Giới hạn đề tài ................................................................................................................. 3
6. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu ............................................... 3
B. NỘI DUNG .......................................................................................................................... 4
1. Khái niệm ......................................................................................................................... 4
2. Các hình thức cơ bản của chủ nghĩa duy vật ............................................................... 4
2.1. Chủ nghĩa duy vật chất phác.................................................................................... 4
2.2 Chủ nghĩa duy vật siêu hình ..................................................................................... 5
2.3. Chủ nghĩa duy vật biện chứng ................................................................................. 5
3. Vận dụng của chủ nghĩa duy vật vào đời sống ............................................................. 6
3.1. Vai trò của chủ nghĩa duy vật trong đời sống xã hội Việt Nam. ............................ 6
3.2. Sự vận dụng của Đảng và Nhà nước ta trong đường lối phát triển kinh tế xã hội7
3.2.1 Sự hình thành và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần .................................. 7
3.2.2 Quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất trong công cuộc Công nghiệp hóa- hiện
đại hóa .......................................................................................................................... 7
3.3. Hạn chế ..................................................................................................................... 8
3.4. Giải pháp đề xuất ...................................................................................................... 8
C. KẾT LUẬN........................................................................................................................ 10
Tài liệu tham khảo ................................................................................................................. 11
A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Triết học – khoa học của mọi khoa học ra đời mang theo rất nhiều vấn đề cần bàn cãi.
Theo Ăngghen: “Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học, đặc biệt là của triết học hiện đại, là vấn
đề quan hệ giữa tư duy với tồn tại”. Nói cách khác, một trong những câu hỏi lớn của triết học
là: “Giữa vật chất và thức thì cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào quyết định cái nào?’’.
Việc đi tìm câu trả lời cho câu hỏi hóc búa này đã chia các nhà triết học thành hai trường phái
lớn: chủ nghĩa duy vật – gồm những trường phái, những nhóm người cho rằng vật chất, giới tự
nhiên là cái có trước, quyết định thức của con người. Ngược lại, chủ nghĩa duy tâm – những
trường phái cho rằng thức, tinh thần là cái có trước, quyết định hơn cả. Trong khi đó, vấn đề
cơ bản của triết học được coi là vấn đề mà con người ta thường gặp phải trong quá trình hoạt
động. Vì vậy việc giải quyết các vấn đề cơ bản của triết học cũng cần thiết như việc giải quyết
chính những vấn đề của con người trong bất cứ hoạt động thực tiễn nào.
Trong bài tiểu luận này, em xin được trình bài một khía cạnh nhỏ của Triết học là: Chủ
nghĩa duy vật và vận dụng của nó trong đời sống.
2. Mục đích nghiên cứu
Như đã nói ở trên, triết học là một bộ phận không thể tách rời trong bất cứ hoạt động
thực tiễn nào cũng như trong việc xây dựng và phát triển xã hội. Nếu xuất phát từ một lập
trường triết học đúng đắn, con người sẽ có những định hướng và cách giải quyết những vấn đề
gặp phải trong cuộc sống một cách hợp lý nhất. Lênin cũng đã chỉ rõ chủ nghĩa duy vật biện
chứng là chủ nghĩa của triết học Mác. Trên cơ sở nền tảng của chủ nghĩa Mác, Đảng và Nhà
nước ta đã tiếp thu và có những phương hướng chỉ đạo đúng đắn trong việc xây dựng cũng như
cải tạo xã hội, phù hợp với tình hình thực tế đất nước.
3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật cũng như của triết học Mác– Lênin nói
chung là những quy luật vận động, phát triển chung nhất của tự nhiên, ý thức, xã hội.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Xây dựng thế giới quan và phương pháp luận chung nhất của nhận thức khoa học và
thực tiễn cách mạng Việt Nam với chủ nghĩa duy vật .
5. Giới hạn đề tài
Xã hội Việt Nam hiện nay.
6. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu trong khoa học xã hội bao gồm phương
pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, phương pháp so sánh, phân tích và tổng hợp,…
B. NỘI DUNG
1. Khái niệm
Chủ nghĩa duy vật là một trong những trường phái triết học lớn trong lịch sử, bao gồm
trong đó toàn bộ các học thuyết triết học được xây dựng trên lập trường duy vật trong việc giải
quyết vấn đề cơ bản của triết học: vật chất là tính thứ nhất, ý thức hay tinh thần chỉ là tính thứ
hai của mọi tồn tại trong thế giới; cũng tức là thừa nhận và minh chứng rằng: suy đến cùng,
bản chất và cơ sở của mọi tồn tại trong thế giới tự nhiên và xã hội chính là vật chất.
Trong triết học, chủ nghĩa duy vật là một hình thức của thực hữu luận (physicalism) với
quan niệm rằng thứ duy nhất có thể được thực sự coi là tồn tại là vật chất; rằng, về căn bản,
mọi sự vật đều có cấu tạo từ vật chất và mọi hiện tượng đều là kết quả của các tương tác vật
chất. Khoa học sử dụng một giả thuyết, đôi khi được gọi là thuyết tự nhiên phương pháp luận,
rằng mọi sự kiện quan sát được trong thiên nhiên được giải thích chỉ bằng các nguyên nhân tự
nhiên mà không cần giả thiết về sự tồn tại hoặc không - tồn tại của cái siêu nhiên. Với vai trò
một học thuyết, chủ nghĩa duy vật thuộc về lớp bản thể học nhất nguyên. Như vậy, nó khác với
các học thuyết bản thể học dựa trên thuyết nhị nguyên hay thuyết đa nguyên, đối lập hoàn toàn
với chủ nghĩa duy tâm.
2. Các hình thức cơ bản của chủ nghĩa duy vật
Chủ nghĩa duy vật và sự tồn tại, phát triển của nó có nguồn gốc từ sự phát triển của khoa
học và thực tiễn, đồng thời thường gắn với lợi ích của giai cấp và lực lượng tiến bộ trong lịch
sử. Là kết quả của quá trình đúc kết, khái quát hóa những tri thức của nhân loại về nhiều linh
vực. Xuyên suốt quá trình lịch sử triết học, chủ nghĩa duy vật đã phát triển qua ba hình thức -
trình độ cơ bản, đó là:
+ Chủ nghĩa duy vật chất phác: với hình thức điển hình của nó là các học thuyết triết
học duy vật thời cổ ở Ấn Độ, Trung Quốc và Hy Lạp.
+ Chủ nghĩa duy vật siêu hình: với hình thức điển hình của nó là các học thuyết triết
học duy vật thời cận đại (thế kỷ XVII-XVIII) ở các nước Tây u (tiêu biểu là chủ nghĩa duy vật
cận đại nước Anh và Pháp).
+ Chủ nghĩa duy vật biện chứng: do C. Mác và Ph. Ăngghen.
2.1. Chủ nghĩa duy vật chất phác
Chủ nghĩa duy vật chất phác là kết quả nhận thức của các nhà triết học duy vật thời kỳ
cổ đại. Họ thừa nhận tính thứ nhất của vật chất nhưng lại đồng nhất vật chất với một hay dạng
tồn tại cụ thể của vật chất, coi đó là thực thể đầu tiên, là bản nguyên của vũ trụ.
Trong thời kì cổ đại, chủ nghĩa duy vật chất phác đã thu được nhiều thành tựu, giúp xác
lập chỗ đứng và tạo nên nền tảng vững chắc là cơ sở cho sự phát triển của chủ nghĩa duy vật
những giai đoạn sau này. Ở Ấn Độ, hai trường phái Samkhuya và Nyaya đã chỉ ra quan niệm
cho rằng thế giới vật chất được tạo nên bởi bốn yếu tố là đất, nước, lửa, không khí, đồng thời
cho rằng nguyên tử không biến đổi, không chia cắt được. Ở Trung Hoa, Thuyết Âm – Dương
và Thuyết Ngũ Hành hướng sự tư duy của con người về những tố chất khởi nguyên của vạn
vật, về cội nguồn đầu tiên của vận động, từ đó đưa ra một thế giới quan triết học, lý giải về sự
biến dịch của vũ trụ. Đồng thời các nhà triết học của Trung Hoa cũng đã thấy được quy luật
vận động bốn mùa và phân thứ: đông, tây, nam, bắc cho trái đất con người. Những thành tựu
này góp phần tạo thành bộ khung cơ bản nhất để mô tả thế giới.
Những tư tưởng của chủ nghĩa duy vật chất phác dù còn rất sơ khai, mang tính trực quan
nhưng bước đầu nó đã cho thấy quan hệ biện chứng trong tự nhiên và mối quan hệ biện chứng
trong xã hội, lấy bản thân giới tự nhiên để giải thích giới tự nhiên mà không viện đến một thần
linh hay một đấng sáng tạo nào để giải thích thế giới.
2.2 Chủ nghĩa duy vật siêu hình
Chủ nghĩa duy vật siêu hình là hình thức cơ bản của chủ nghĩa duy vật, phát triển rõ nét
từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII, và đạt đỉnh cao vào thế kỷ XIX, nó gắn với thời kỳ cơ học cổ
điển phát triển mạnh, do đó chịu sự tác động mạnh mẽ của phương pháp tư duy siêu hình, máy
móc. Đặc điểm của chủ nghĩa duy vật siêu hình là nhận thức thế giới như một cỗ máy cơ giới
mà mỗi bộ phận tạo nên nó luôn ở trạng thái biệt lập, tĩnh tại. Nếu có biến đổi thì chỉ có sự
tăng, giảm đơn thuần về số lượng, do những nguyên nhân bên ngoài gây ra. Ví dụ như các quan
niệm của Newton, Bacon, và các nhà duy vật Pháp thế kỷ XVIII.
Tuy chưa phản ánh đúng hiện thực trong mối liên hệ phổ biến và sự phát triển nhưng
chủ nghĩa duy vật siêu hình đã góp phần vào việc chống lại thế giới quan duy tâm và tôn giáo,
nhất là giai đoạn lịch sử chuyển tiếp từ thời Trung cổ sang thời Phục hưng ở các nước Tây u.
2.3. Chủ nghĩa duy vật biện chứng
Chủ nghĩa duy vật biện chứng do C.Mác và Ph.Ăngghen xây dựng từ những năm 40
của thế kỷ XIX và được V.I.Lênin phát triển. Chủ nghĩa duy vật biện chứng ra đời trên cơ sở
kế thừa tinh hoa trong lịch sử triết học, dựa trên cơ sở những thành tựu của khoa học tự nhiên
vì vậy, đã khắc phục được hạn chế của chủ nghĩa duy vật chất phác và chủ nghĩa duy vật siêu
hình. Trên cơ sở phản ánh đúng đắn hiện thực khách quan trong mối liên hệ phổ biến và sự
phát triển, chủ nghĩa duy vật biện chứng là công cụ vĩ đại cho hoạt động nhận thức và thực tiễn
cách mạng.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng là hình thức - trình độ phát triển cao nhất của chủ nghĩa
duy vật trong lịch sử triết học, vì:
+ Nó không chỉ đứng trên lập trường duy vật trong việc lý giải các tồn tại trong giới tự
nhiên (như chủ nghĩa duy vật siêu hình trước đây) mà còn đứng trên lập trường duy vật trong
việc giải thích các hiện tượng, quá trình diễn ra trong đời sống xã hội loài người - đó chính là
lý giải những quan điểm duy vật về lịch sử hay chủ nghĩa duy vật lịch sử.
+ Nó đứng trên lập trường duy vật và sử dụng phương pháp biện chứng trong quá trình
định hướng nhận thức và cải tạo thế giới. Từ đó tạo nên sự đúng đắn, khoa học trong việc lý
giải thế giới và cải tạo thế giới.
+ Nội dung của chủ nghĩa duy vật biện chứng được xây dựng trên cơ sở kế thừa những
tinh hoa của lịch sử triết học và trên cơ sở tổng kết những thành tựu lớn của khoa học, của thực
tiễn trong thời đại mới; nó trở thành thế giới quan và phương pháp luận khoa học của giai cấp
cách mạng và của các lực lượng tiến bộ trong thời đại ngày nay.
3. Vận dụng của chủ nghĩa duy vật vào đời sống
3.1. Vai trò của chủ nghĩa duy vật trong đời sống xã hội Việt Nam.
Chủ nghĩa duy vật xem xét các sự vật hiện tượng trong mối liên hệ giữa các mặt và giữa
các sự vật hiện tượng đó và trong sự đứng im tương đối. Lịch sử Việt Nam quá độ đi lên chủ
nghĩa xã hội bỏ qua sự phát triển của chủ nghĩa tư bản với nền tảng xuất phát từ một nền kinh
tế lạc hậu, chậm phát triển. Đây không chỉ là một con đường quá độ lâu dài mà còn nảy sinh
các mâu thuẫn giữa xu hướng tự phát lên chủ nghĩa tư bản với xu hướng tự giác lên chủ nghĩa
xã hội. Quá trình đấu tranh giải quyết mâu thuẫn cơ bản trên đây của cách mạng nước ta là quá
trình vừa phải kế thừa những mặt cần thiết hợp lý của chủ nghĩa tư bản để phát triển lực lượng
sản xuất lại vừa phải đấu tranh loại bỏ những mặt tiêu cực, mất nhân tính của chủ nghĩa tư bản.
Con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta đòi hỏi sự chủ động, tự giác phát triển và sử
dụng chủ nghĩa tư bản làm khâu trung gian, làm phương tiện để đi lên chủ nghĩa xã hội, nhất
là hướng tư bản đi vào con đường tư bản Nhà nước. Đó chính là sự thống nhất của các mặt đối
lập thông qua các biện pháp trung gian và quá độ.
Trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, chúng ta không thể phủ định sạch trơn chủ
nghĩa tư bản, không thể cho rằng cái gì đó có trong chủ nghĩa tư bản là không thể có trong chủ
nghĩa xã hội, càng không thể áp dụng nguyên vẹn mô hình chủ nghĩa xã hội ở nước khác để
xây dựng nước ta. Chúng ta phải nhận thức được tính tất yếu của sự phát triển. Do đó, để xây
dựng thành công chủ nghĩa xã hội, chúng ta phải lấy lý luận của C.Mác - Lênin làm kim chi
nam cho hành động, đồng thời phải học hỏi, nghiên cứu tình hình thực tế của các xã hội chủ
nghĩa, tư bản chủ nghĩa trên thế giới để áp dụng vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của nước ta.
Trong quá trình này, chúng ta gặp phải mâu thuẫn giữa phát triển kinh tế và phát triển
xã hội. Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế hàng hoá hoạt động theo cơ chế thị trường. Cơ chế
thị trường là cơ chế tự điều tiết của thị trường thông qua hoạt động của các quy luật kinh tế vốn
có của nó. Cơ chế thị trường có ưu điểm ở chỗ là phát huy được tính năng động sáng tạo của
mọi chủ thể kinh tế trong việc đáp ứng nhu cầu ngày càng phong phú của xã hội. Tuy nhiên cơ
chế thị trường đồng thời kích thích đầu cơ, làm sai lệch các quan hệ thị trường, gây ra khủng
hoảng kinh tế, thất nghiệp, ô nhiễm môi trường, tệ nạn xã hội. Một trong những đặc điểm của
nền kinh tế xã hội chủ nghĩa là xây dựng một Nhà nước “Của dân, do dân, vì dân”, xây dựng
một xã hội "công bằng văn minh". Trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng cộng sản
Việt Nam lần thứ VIII đã khẳng định: "Sản xuất hàng hóa không đối lập với chủ nghĩa xã hội,
mà là thành tựu của nền văn minh nhân loại tồn tại khách quan, cần thiết cho công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội và ngay cả khi chủ nghĩa xã hội đã được xây dựng". Để giữ vững bản
chất chủ nghĩa xã hội trong phát triển kinh tế, Nhà nước cần sử dụng các công cụ của mình để
tiến hành điều tiết lợi ích giữa các thành phần kinh tế, đảm bảo mọi thành viên trong xã hội
được hưởng thành quả trong phát triển kinh tế. Nhà nước có thể sử dụng các công cụ như thuế
thu nhập cao, trợ cấp, bảo hiểm để tiến hành phân phối lại thu nhập xã hội; xây dựng kế hoạch
phát triển kinh tế đi liền với xây dựng kế hoạch phát triển xã hội. Đây chính là công cụ, phương
tiện quan trọng để tác động giải quyết mâu thuẫn trên làm cho nền kinh tế Việt Nam phát triển
theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
3.2. Sự vận dụng của Đảng và Nhà nước ta trong đường lối phát triển kinh tế xã hội
3.2.1 Sự hình thành và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần
Sau độc lập, nền kinh tế nước ta còn gặp nhiều khó khăn do thói quen lao động tự cung
tự cấp, nền sản xuất nhỏ lẻ, trình độ khoa học kém phát triển, đời sống xã hội chưa được nâng
cao… Để tiến lên chủ nghĩa, nước ta phải có một chế độ kinh tế phù hợp, đó là nền kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần.
Thời gian qua, chúng ta quá coi trọng vai trò của quan hệ sản xuất, cho rằng có thể đưa
quan hệ sản xuất đi trước, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Quan niệm ấy là sai lầm, gây
ra sự mâu thuẫn giữa yêu cầu phát triển lực lượng sản xuất với hình thức kinh tế - xã hội được
áp đặt một cách chủ quan trên đất nước ta. Mối mâu thuẫn ấy đã kéo theo nhiều hậu quả ngoài
ý muốn: kinh tế kém phát triển, xã hội nảy sinh nhiều tiêu cực, tệ nạn, trình độ quản lý yếu
kém… yêu cầu cấp thiết là phải giải quyết đúng đắn mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất - quan
hệ sản xuất, từ đó khắc phục khó khăn và tiêu cực của nền kinh tế - xã hội. Thiết lập quan hệ
sản xuất mới với những bước đi phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất để thúc
đẩy sản xuất phát triển với hiệu quả kinh tế cao. Đó là sự cho phép phục hồi và phát triển chủ
nghĩa tư bản, buôn bán tự do rộng rãi, nâng cao đời sống xã hội,… Như lời của đồng chí Lê
Khả Phiêu nói: "… không chất nhận Việt Nam theo con đường chủ quan của tư bản nhưng
không phải triệt tiêu tư bản trên đất nước Việt Nam và vẫn quan hệ với chủ nghĩa tư bản trên
cơ sở có lợi cho đôi bên và như vậy cho phép phát triển thành phần kinh tế tư bản là sáng suốt".
Đại hội Đảng VI cũng khẳng định: không những khôi phục thành phần kinh tế tư bản tư nhân
và kinh tế cá thể mà còn phải phát triển chúng rộng rãi theo chính sách của Đảng và Nhà nước.
Nhưng điều quan trọng là phải nhận thức được vai trò của thành phần kinh tế nhà nước trong
thời kỳ quá độ.
3.2.2 Quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất trong công cuộc Công nghiệp hóa- hiện đại hóa
Công nghiệp hóa – hiện đại hóa được xem xét từ tư duy triết học là thuộc phạm trù của
lực lượng sản xuất trong mối quan hệ biện chứng của phương thức sản xuất. Muốn công nghiệp
hóa – hiện đại hóa đất nước cần phải có tiềm lực về kinh tế, con người, trong đó lực lượng sản
xuất là yếu tố vô cùng quan trọng. Nước ta có tiềm năng lao động lớn nhưng công cụ lao động
lại hết sức thô sơ lạc hậu, công cuộc công nghiệp hóa – hiện đại hóa đứng trước khó khăn lớn
cần nhanh chóng khắc phục.
Đảng ta đã thực hiện một cơ cấu sở hữu hợp quy luật, gắn liền với một cơ cấu thành
phần kinh tế hợp lý và trong thời cơ cũng như thách thức to lớn hiện nay, đất nước ta đang có
rất nhiều tiềm năng phát triển, mà cốt lõi của sự phát triển ấy vẫn là quy luật quan hệ sản xuất
phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Mục tiêu công nghiệp hóa – hiện
đại hóa đất nước đang được nỗ lực thực hiện và đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Tuy còn
nhiều khó khăn, song tương lai phát triển đất nước vẫn mang nhiều yếu tố khả quan.
3.3. Hạn chế
Mặc dù trải qua quá trình lâu dài nhưng chủ nghĩa duy vật nói riêng và khoa học triết
học nói chung vẫn còn nhiều mặt hạn chế cần hoàn thiện. Mặt khác, ảnh hưởng của chủ nghĩa
duy vật đối với xã hội Việt Nam cũng còn chưa sâu rộng. Do nền kinh tế nước ta chủ yếu vẫn
là nông nghiệp, công nghiệp còn nhỏ bé, kết cấu hạ tầng kém phát triển, cơ sở vật chất kỹ thuật
chưa xác được nhiều.
Cơ cấu các ngành trong GDP có chuyển dịch rõ rệt nhưng cơ cấu lao động chậm biến
đổi. Hiện nay, gần 60% dân số vẫn sống ở nông thôn, tỷ lệ đô thị hóa vẫn đang ở mức thấp
(32,8 %) và tăng chậm so với tỷ lệ trung bình của thế giới (52%). Lao động nông nghiệp vẫn
chiếm đa số tổng số lao động xã hội. Nền kinh tế có mức tăng trưởng khá nhưng năng suất,
chất lượng, hiệu quả còn thấp. Vai trò quản lý của Nhà nước đối với nền kinh tế - xã hội còn
yếu: khả năng kiềm chế lạm phát còn chưa vững chắc. Ngân sách thu không đủ chi, tỉ lệ bội
chi ngân sách còn cao. Tình trạng bất công xã hội, tham nhũng, vi phạm kỷ cương còn nặng và
phổ biến. Đây là thách thức cực kỳ to lớn cần phát huy mọi tiềm năng để giải quyết.
3.4. Giải pháp đề xuất
Sức mạnh của chủ nghĩa Mác - Lê nin là ở chỗ trong khi khái quát thực tiễn cách mạng,
lịch sử xã hội, nó vạch rõ quy luật khách quan của sự phát triển, dự kiến những khuynh hướng
cơ bản của sự tiến hoá xã hội. Để khắc phục những quan niệm lạc hậu trước đây cần chúng ta
đòi hỏi phải nắm vững và vận dụng sáng tạo và góp phần phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin,
đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết có hệ thống sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Có như vậy, lý luận mới thực hiện vai trò tích cực của mình đối với thực tiễn. Đổi mới
nhận thức lý luận và công tác lý luận là một quá trình phức tạp, đấu tranh với tính bảo thủ và
sức ỳ của những quan niệm lý luận cũ, đồng thời đấu tranh với những tư tưởng, quan niệm cực
đoan từ bỏ những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, phủ định sạch trơn mọi giá
trị, mọi thành tựu của chủ nghĩa xã hội.
Trong công cuộc xây dựng đất nước, vai trò của Đảng là vô cùng quan trọng. Đảng cần
nắm rõ các quy luật, nguyên lý cơ bản để có định hướng đúng đắn cho các hoạt động. Tuyệt
đối không quá cứng nhắc mà phải biết vận dụng linh hoạt, kết hợp giữa tất cả các trường phái
triết học, để có được cái nhìn tổng quan, có thể hoạch định một số vấn đề của đất nước trong
tương lai gần. “Phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ
nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh’’, phải “Vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa
Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong hoạt động của đảng. Thường xuyên tổng kết thực
tiễn, bổ sung, phát triển lý luận, giải quyết đúng đắn những vấn đề do cuộc sống đặt ra” (- Văn
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X).
Tóm lại đổi mới tư duy chỉ đạo trong sự nghiệp đổi mới nói chung là một bộ phận không
thể thiếu được của sự phát triển xã hội cũng như sự phát triển kinh tế xã hội nước ta hiện nay.
Điều đó còn cho thấy rằng chỉ có gắn lý luận với thực tiễn mới có thể hành động đúng đắn và
phù hợp với quá trình đổi mới ở nước ta hiện nay. Sự khám phá về lý luận phải trở thành tiền
đề và làm cơ sở cho sự đổi mới trong hoạt động thực tiễn. Thực tiễn chính là động lực, là cơ
sở của nhận thức, lý luận. Vì vậy cần khắc phục ngay những khiếm khuyết sai lầm song cũng
phải tìm ra giải pháp khắc phục để hạn chế sự sai sót và thiệt hại
C. KẾT LUẬN
Triết học Mác - Lênin về vật chất, vận động trong không gian, thời gian và về sự thống
nhất vật chất của thế giới đã góp phần xác lập thế giới quan duy vật khoa học và có ý nghĩa về
phương pháp luận to lớn trong nhận thức khoa học và hoạt động thực tiễn. Triết học không
phải là một cái gì quá xa xôi, viển vông, ngược lại nó gắn bó hết sức chặt chẽ với cuộc sống,
thực tiễn, chỉ đạo cho con người hành động. Nắm vững được mọi nội dung của triết học, đặc
biệt là lý luận nhận thức và cải tạo thực tiễn sẽ làm cho con người làm chủ thế giới, chinh phục
thiên nhiên, cải tạo được xã hội, phát triển kinh tế mạnh mẽ. Trên thực tế không thể có sự phù
hợp tuyệt đối giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất song phải tuỳ theo tình hình thực tế
mà chọn giải pháp phù hợp. Sự vận dụng đúng đắn của Đảng và Nhà nước sẽ đem lại thành tựu
vô cùng to lớn cho nền kinh tế - xã hội nước ta, hoàn thành tốt mục tiêu công nghiệp hóa – hiện
đại hóa đất nước.
Tuy vậy, hạn chế, yếu kém vẫn còn rất nhiều, đòi hỏi cần có sự nỗ lực hết sức, phát huy
mọi tiềm năng vốn có để khắc phục. Chúng ta thừa nhận chủ nghĩa duy vật với chủ nghĩa duy
vật biện chứng là hạt nhân luận của thế giới quan khoa học; là phép biện chứng duy vật với tư
cách là “học thuyết về sự phát triển, dưới hình thức hoàn bị nhất, sâu sắc nhất vạn không phiến
diện”. Thế nhưng trong cuộc sống, thực tế chúng ta phải linh hoạt kết hợp với cả chủ nghĩa duy
tâm để có những hướng đi hợp ly trong từng trường hợp cụ thể. Chúng ta đang sống trong kỷ
nguyên của tri thức, trong quá trình xây dựng van phát triển đất nước đòi hỏi mỗi con người
phải luôn tích cực tu dưỡng đạo đức cũng như lao động.
Là một sinh viên, nhiệm vụ hàng đầu vẫn là học tập, bản thân em thấy mình cần chăm
chỉ học tập, nghiên cứu, để có những nhận thức đúng đắn về môn học nói riêng và về định
hướng sống của mình nói chung. Hiểu và biết vận dụng linh hoạt những phép biện chứng, các
phạm trù, các quy luật tất yếu của tự nhiên là điều vô cùng cần thiết và quan trọng hơn hết là
ngay bây giờ phải có được mục tiêu học tập cụ thể, thái độ, ý thức học nghiêm túc. Có vậy
chúng ta mới có thể trở thành những con người có ích cho xã hội, sẵn sàng tiếp thu, bảo vệ và
phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tài liệu tham khảo
1. Giáo trình triết học Mác - Lênin, Bộ GD&ĐT, Hà Nội, 2019.
2. Giáo trình những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, Bộ GD&ĐT, NXB Chính
trị Quốc gia, Hà Nội, 2009.
3. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV, V, VI, XI.
4. Lịch sử triết học Ấn Độ cổ - trung đại, Doãn Chính, NXB Thanh niên, Hà Nội, 1999.
5. Tổng cục Thống kê Việt Nam và Quỹ Dân số Liên hợp quốc (UNFPA) 2018.

You might also like