You are on page 1of 30

Tổng hợp & Biên soạn: Nguyễn Hiền Tính

ÔN TẬP CUỐI KỲ TRIẾT HỌC MÁC – LÊ NIN

Câu 1: Chủ nghĩa duy vật và các hình thức cơ bản của chủ nghĩa duy vật?

⁕⁕⁕ Khái niệm:

Chủ nghĩa duy vật là một trong những trường phái triết học lớn trong lịch sử,
bao gồm trong đó toàn bộ các học thuyết triết học được xây dựng trên lập trường duy
vật trong việc giải quyết vấn để cơ bản của triết học: vật chất là tính thứ nhất, ý thức
hay tinh thần chỉ là tính thứ hai của mọi tồn tại trong thế giới; cũng tức là thừa nhận và
minh chứng rằng: suy đến cùng, bản chất và cơ sở của mọi tồn tại trong thế giới tự
nhiên và xã hội chính là vật chất.

⁕⁕⁕ Các hình thức cơ bản của chủ nghĩa duy vật:

Cho đến nay, chủ nghĩa duy vật đã được thể hiện dưới ba hình thức cơ bản: chủ
nghĩa duy vật chất phác, chủ nghĩa duy vật siêu hình và chủ nghĩa duy vật biện chứng.

1. Chủ nghĩa duy vật chất phác là kết quả nhận thức của các nhà triết học duy
vật thời cổ đại. Chủ nghĩa duy vật thời kỳ này trong khi thừa nhận tính thứ
nhất của vật chất đã đồng nhất vật chất với một hay một số chất cụ thể và
những kết luận của nó mang nặng tính trực quan nên ngây thơ, chất phác. Tuy
còn rất nhiều hạn chế, nhưng chủ nghĩa duy vật chất phác thời cổ đại về cơ
bản là đúng vì nó đã lấy giới tự nhiên để giải thích giới tự nhiên, không viện
đến Thần linh hay Thượng đế. Ví dụ: Quan niệm của Talét, Hêraclit,
Đêmôcrit, thuyết ngũ hành…
2. Chủ nghĩa duy vật siêu hình là hình thức cơ bản thứ hai của chủ nghĩa duy
vật, thể hiện khá rõ ở các nhà triết học thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII và đỉnh
cao vào thế kỷ thứ XVII, XVIII. Đây là thời kỳ mà cơ học cổ điển thu được
những thành tựu rực rỡ nên trong 6 khi tiếp tục phát triển quan điểm chủ nghĩa
duy vật thời cổ đại, chủ nghĩa duy vật giai đoạn này chịu sự tác động mạnh

________________________________________________________________
“Bạn học được thất bại nhiều hơn thành công, vì thế đừng để thất bại khiến bạn
chùn bước. Thất bại sẽ tạo nên nghị lực.”
25/05/2021 Trang 1
Tổng hợp & Biên soạn: Nguyễn Hiền Tính

mẽ của phương pháp tư duy siêu hình, máy móc - phương pháp nhìn thế giới
như một cỗ máy khổng lồ mà mỗi bộ phận tạo nên nó luôn ở trong trạng thái
biệt lập và tĩnh tại. Tuy không phản ánh đúng hiện thực nhưng chủ nghĩa duy
vật siêu hình cũng đã góp phần không nhỏ vào việc chống lại thế giới quan
duy tâm và tôn giáo, điển hình là thời kỳ chuyển tiếp từ đêm trường trung cổ
sang thời phục hưng. Ví dụ: Các quan niệm của Niutơn, Bêcơn và các nhà duy
vật Pháp thế kỉ XVIII.
3. Chủ nghĩa duy vật biện chứng là hình thức cơ bản thứ ba của chủ nghĩa duy
vật, do C.Mác và Ph.Ăngghen xây dựng vào những năm 40 của thế kỷ XIX,
sau đó được V.I.Lênin phát triển. Với sự kế thừa tinh hoa của các học thuyết
triết học trước đó và sử dụng khá triệt để thành tựu của khoa học đương thời,
chủ nghĩa duy vật biện chứng, ngay từ khi mới ra đời đã khắc phục được hạn
chế của chủ nghĩa duy vật chất phác thời cổ đại, chủ nghĩa duy vật siêu hình
và là đỉnh cao trong sự phát triển của chủ nghĩa duy vật. Chủ nghĩa duy vật
biện chứng không chỉ phản ánh hiện thực đúng như chính bản thân nó tồn tại
mà còn là một công cụ hữu hiệu giúp những lực lượng tiến bộ trong xã hội cải
tạo hiện thực ấy.

Câu 2: Vai trò của triết học Mác – Lênin trong đời sống xã hội và trong sự nghiệp
đổi mới ở Việt Nam hiện nay?

Có ba vai trò:

1. Triết học Mác – Lênin là thế giới quan, phương pháp luận khoa học và cách mạng
cho con người và nhận thức trong thực tiễn.

Thứ nhất, các nguyên lý, phạm trù, quy luật của triết học Mác – Lênin giúp con
người khi nhận thức và hoạt động thực tiễn luôn xuất phát từ một lập trường vững chắc,
khoa học, dự báo được phương hướng vận động, phát triển chung của đối tượng.

Thứ hai, để có thể giải quyết hiệu quả các vấn đề cụ thể, phải luôn xuất phát từ
quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Cần tránh hai thái cực sai lầm:

________________________________________________________________
“Bạn học được thất bại nhiều hơn thành công, vì thế đừng để thất bại khiến bạn
chùn bước. Thất bại sẽ tạo nên nghị lực.”
25/05/2021 Trang 2
Tổng hợp & Biên soạn: Nguyễn Hiền Tính

 Nếu xem thường triết học thì sẽ sa vào tình trạng mò mẫm, tùy tiện, dễ bằng
lòng với những biện pháp nhất thời, đi đến chỗ mất phương hướng, thiếu nhìn
xa trông rộng, chủ động sáng tạo.
 Nếu tuyệt đối hóa vai trò của triết học thì sẽ sa vào chủ nghĩa giáo điều, áp
dụng một cách máy móc những nguyên lý, quy luật, phạm trù chung của triết
học mà không căn cứ tình hình cụ thể.

Thứ ba, theo tinh thần của triết học Mác – Lênin, mỗi nguyên lý chung đều phải
được xem xét theo quan điểm lịch sử; gắn liền với các nguyên lý khác; gắn liền với kinh
“nghiệm cụ thể của tính lịch sử”.

2. Triết học Mác – Lênin là cơ sở thế giới quan và phương pháp luận khoa học và
cách mạng để phân tích xu hướng phát triển của xã hội trong điều kiện cuộc cách
mạng khoa học và công nghệ hiện đại phát triển mạnh mẽ.

Thứ nhất, hiện nay, triết học Mác – Lênin đóng vai trò là cơ sở lý luận, phương
pháp luận cho các phát minh khoa học, cho sự tích hợp và truyền bá tri thức khoa học
hiện đại, đồng thời, những vấn đề mới của hệ thống tri thức khoa học hiện đại cũng đặt
ra yêu cầu dối với triết học Mác – Lênin phải có bước phát triển mới để khái quát, tổng
kết những thành tựu đó.

Thứ hai, triết học Mác – Lênin là cơ sở thế giới quan và phương pháp luận khoa
học, cách mạng để phân tích xu hướng vận động, phát triển của thế giới trong bối cảnh
toàn cầu hóa. Thấy được mối liên hệ phổ biến, sự vận động, phát triển của thế giới mang
tính quy luật, khách quan…

Thứ ba, chủ nghĩa Mác – Lênin nói chung và triết học Mác – Lênin nói riêng là
lý luận khoa học và cách mạng soi đường cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động
trong cuộc đấu tranh giai cấp và đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng nhân loại.

3. Triết học Mác – Lênin là cơ sở lý luận khoa học của công cuộc xây dựng chủ nghĩa
xã hội trên thế giới và sự nghiệp đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam.

________________________________________________________________
“Bạn học được thất bại nhiều hơn thành công, vì thế đừng để thất bại khiến bạn
chùn bước. Thất bại sẽ tạo nên nghị lực.”
25/05/2021 Trang 3
Tổng hợp & Biên soạn: Nguyễn Hiền Tính

Thứ nhất, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn xuất phát từ thế giới quan, phương
pháp luận của triết học Mác – Lênin để thực hiện sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam. Nếu
không trung thành và trên cơ sở của chủ nghĩa Mác – Lênin để đổi mới tư duy, nhất là
tư duy lý luận thì sẽ không có sự nghiệp đổi mới thành công.

Thứ hai, thế giới quan triết học Mác – Lênin đã giúp Đảng Cộng sản Việt Nam
nhìn nhận rõ con đường đi lên chủ nghĩa xã hội trong giai đoạn mới, đánh giá đúng bối
cảnh thế giới, các mối quan hệ quốc tế, xu hướng thời đại, thực trạng tình hình đất nước
và con đường phát triển trong tương lai.

Thứ ba, Triết học Mác – Lênin cung cấp phương pháp luận để giải quyết đúng
đắn những vấn đề đặt ra và phát sinh trong thực tiễn đổi mới ở Việt Nam hiên nay. Đòi
hỏi Đảng luôn quán triệt nguyên tắc khách quan, toàn diện, lịch sử - cụ thể, phát triển…
trong quá trình đổi mới.

Câu 3: Nguồn gốc, bản chất và kết cấu của ý thức. Liên hệ tính sáng tạo của ý thức
trong hoạt động thực tiễn?

1. Nguồn gốc của ý thức:

⁕⁕⁕ Nguồn gốc tự nhiên của ý thức:

Các yếu tố tạo thành nguồn gốc tự nhiên của ý thức là bộ óc con người và hoạt
động của nó cùng với mối quan hệ của con người với thế giới khách quan. Trong mối
quan hệ này, thế giới khách quan tác động đến bộ óc con người từ đó tạo ra khả năng
hình thành ý thức con người về thế giới khách quan. Như vậy, ý thức chính là sự phản
ánh của con người về thế giới khách quan.

Phản ánh là sự tái tạo những đặc điểm của dạng vật chất này ở dạng vật chất
khác trong quá trình tác động qua lại lẫn nhau giữa chúng. Phản ánh là thuộc tính của
tất cả các dạng vật chất, nó được thể hiện dưới nhiều hình thức, trình độ: phản ánh vật
lý, hóa học; phản ánh sinh học; phản ánh tâm lý và phản ánh năng động, sáng tạo (phản
ánh ý thức). Những hình thức này tương ứng với quá trình tiến hóa của các dạng vật
chất tự nhiên. Phản ánh năng động, sáng tạo là hình thức phản ánh cao nhất trong các

________________________________________________________________
“Bạn học được thất bại nhiều hơn thành công, vì thế đừng để thất bại khiến bạn
chùn bước. Thất bại sẽ tạo nên nghị lực.”
25/05/2021 Trang 4
Tổng hợp & Biên soạn: Nguyễn Hiền Tính

hình thức phản ánh, nó chỉ được thực hiện ở dạng vật chất phát triển cao nhất, có tổ
chức cao nhất là bộ óc người. Nó được thực hiện qua quá trình hoạt động sinh lý thần
kinh của bộ não người khi thế giới khách quan tác động lên các giác quan của con người.
Đây là sự phản ánh có tính chủ động lựa chọn thông tin, xử lý thông tin để tạo ra những
thông tin mới, phát hiện ý nghĩa của thông tin.

Như vậy, ý thức là sự phản ánh thế giới bởi bộ óc con người. Ý thức gắn liền với
hoạt động sinh lí thần kinh của bộ não người và là chức năng của bộ não người. Tuy
nhiên không thể đồng nhất hoạt động sinh lý ấy với ý thức, ý thức chỉ là một mặt của
quá trình sinh lý.

⁕ Nguồn gốc xã hội của ý thức:

Yếu tố cơ bản và trực tiếp nhất hình thành nên ý thức là lao động và ngôn ngữ.

+ Lao động là hoạt động có mục đích của con người, sử dụng công cụ lao động
tác động vào giới tự nhiên, cải tạo giới tự nhiên nhằm thay đổi giới tự nhiên cho phù
hợp với nhu cầu của con người. Lao động có vai trò: Làm thay đổi cơ thể sinh học của
con người (bộ óc tiếp tục phát triển cả về lượng và chất; do sử dụng công cụ lao động
nên đã giải phóng hai chi trước, tạo thế đứng thẳng cho con người; cơ quan phát âm
phát triển…). Giúp cho con người hiểu biết hơn về giới tự nhiên (làm cho thế giới khách
quan bộc lộ những thuộc tính, kết cấu, quy luật vận động của mình)… Những hiện
tượng ấy, thông qua hoạt động của các giác quan tác động đến bộ óc người và bằng hoạt
động của bộ óc, tri thức nói riêng, ý thức nói chung về thế giới khách quan được hình
thành và phát triển. Mối quan hệ giữa các thành viên trong quá trình lao động làm nảy
sinh nhu cầu phải có phương tiện để giao tiếp, trao đổi tư tưởng, tình cảm, là cơ sở để
xuất hiện ngôn ngữ.

+ Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu vật chất chứa đựng thông tin mang nội dung ý
thức, là cái vỏ vật chất của tư duy. Ngôn ngữ có vai trò: Là công cụ để con người tư
duy trừu tượng, khái quát bản chất sự vật, hiện tượng; Là phương tiện để giao tiếp, biểu
đạt tư duy, ý thức; Là phương tiện tư duy giúp con người lưu giữ thông tin, truyền đạt

________________________________________________________________
“Bạn học được thất bại nhiều hơn thành công, vì thế đừng để thất bại khiến bạn
chùn bước. Thất bại sẽ tạo nên nghị lực.”
25/05/2021 Trang 5
Tổng hợp & Biên soạn: Nguyễn Hiền Tính

kinh nghiệm, tư tưởng từ thế hệ này sang thế hệ khác. Không có ngôn ngữ thì ý thức
không thể hình thành, phát triển, không thể biểu hiện ra bên ngoài.

2. Bản chất của ý thức:

Ý thức là sự phản ánh năng động, sáng tạo thế giới khách quan vào bộ óc người; là
hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Thể hiện:

⁕ Tính chất năng động, sáng tạo của sự phản ánh được thể hiện ở khả năng
hoạt động tâm – sinh lý của con người trong việc: Định hướng tiếp nhận, chọn lọc, xử
lý, lưu giữ thông tin và trên cơ sở những thông tin đã có, có thể tạo ra những thông tin
mới và phát hiện ra ý nghĩa của thông tin được tiếp nhận; có thể tưởng tượng ra những
cái không có trong thực tế; có thể dự báo, tiên đoán tương lai; có thể tạo ra những ý
tưởng, giả thuyết,… trong đời sống tinh thần của mình; khái quát bản chất, quy luật
khách quan, xây dựng các mô hình tư tưởng, tri thức trong các hoạt động của con người.

Tuy nhiên, cần lưu ý khi đề cập đến tính sáng tạo của ý thức không có nghĩa là
ý thức có thể sáng tạo ra vật chất. Sự sáng tạo của ý thức là sự sáng tạo của sự phản ánh,
theo tính chất, quy luật và trong khuôn khổ của sự phản ánh. C.Mác và Ph.Awngghen
đã chỉ ra ý thức không bao giờ có thể là gì khác hơn là sự tồn tại được ý thức và tồn tại
của con người trong quá trình sinh sống của con người. V.I.Lênin cũng đã khẳng định,
ý thức bao giờ cũng là và chỉ là phản ánh tồn tại.

⁕ Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan: Ý thức là hình ảnh về
thế giới khách quan, bị thế giới khách quan quy định cả về nội dung lẫn hình thức biểu
hiện nhưng nó khong còn y nguyên như thế giới khách quan mà nó đã cải biến qua lăng
kính chủ quan (tình cảm, nguyện vọng, sở thích, tri thức, kinh nghiệm,…). Theo C.Mác,
ý thức “chẳng qua chỉ là vật chất được đem chuyển vào trong đầu óc con người và
được cải biến đi trong đó”.

Ý thức là một hiện tượng xã hội và mang bản chất xã hội: Ý thức được thực hiện
qua quá trình hoạt động sinh lý thần kinh của bộ não người nhưng nó không phải là sản
phẩm thuần túy mang tính chất hoạt động riêng lẻ của mỗi cá nhân riêng biệt, trái lại,

________________________________________________________________
“Bạn học được thất bại nhiều hơn thành công, vì thế đừng để thất bại khiến bạn
chùn bước. Thất bại sẽ tạo nên nghị lực.”
25/05/2021 Trang 6
Tổng hợp & Biên soạn: Nguyễn Hiền Tính

nó có tính xã hội. Tính xã hội của ý thức được thể hiện từ nguồn gốc hình thành đến
phương thức tồn tại, phát triển của nó, luôn gắn liền với hoạt động thực tiễn, chịu sự chi
phối của quy luật tự nhiên, quy luật xã hội và nhu cầu giao tiếp… Do đó, C.Mác đã
khẳng định: Ngay từ đầu, ý thức đã là một sản phẩm xã hội và vẫn là như vậy chừng
nào con người còn tồn tại.

3. Kết cấu của ý thức:

Ý thức là một hiện tượng tâm lí – xã hội có kết cấu rất phức tạp. Có nhiều cách
tiếp cận để nghiên cứu về kết cấu của ý thức song ở đây chúng ta chỉ nghiên cứu theo
các yếu tố hợp thành và theo chiều sâu của nội tâm.

3.1. Các yếu tố hợp thành:

Theo các yếu tố hợp thành, ý thức bao gồm các yếu tố cấu thành như tri thức,
tình cảm, niềm tin, lý trí, ý chí... trong đó tri thức là yếu tố cơ bản, cốt lõi.

Tri thức là kết quả quá trình nhận thức của con người về thế giới hiện thực, làm
tái hiện trong tư tưởng những thuộc tính, những quy luật của thế giới ấy và diễn đạt
chúng dưới hình thức ngôn ngữ hoặc các hệ thống ký hiệu khác. Tri thức có nhiều loại
khác nhau như tri thức về tự nhiên, về xã hội, về con người. Tri thức có nhiều cấp độ
khác nhau như: Tri thức thông thường được hình thành do hoạt động hàng ngày của mỗi
cá nhân, mang tính chất cảm tính trực tiếp, bề ngoài và rời rạc. Tri thức khoa học phản
ánh trình độ của con người đi sâu nhận thức thế giới hiện thực. Ngày nay, vai trò động
lực của tri thức đối với sự phát triển kinh tế xã hội trở nên rõ ràng, nổi bật. Loài người
đang bước vào nền kinh tế tri thức - là nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra, phổ cập và
sử dụng tri thức giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển kinh tế. Trong nền kinh
tế tri thức, đa số các ngành kinh tế dựa vào tri thức, dựa vào thành tựu mới nhất của
khoa học và công nghệ, vì vậy, đầu tư vào tri thức trở thành yếu tố then chốt cho sự
tăng trưởng kinh tế dài hạn.

Tình cảm là sự cảm động của con người trong quan hệ của mình với thực tại
xung quanh và đối với bản thân mình. Tình cảm là một hình thái đặc biệt của sự phản

________________________________________________________________
“Bạn học được thất bại nhiều hơn thành công, vì thế đừng để thất bại khiến bạn
chùn bước. Thất bại sẽ tạo nên nghị lực.”
25/05/2021 Trang 7
Tổng hợp & Biên soạn: Nguyễn Hiền Tính

ánh thực tại; nó phản ánh quan hệ của con người đối với nhau, cũng như đối với thế giới
khách quan. Tình cảm tham gia vào mọi hoạt động của con người và giữ một vị trí quan
trọng trong việc điều chỉnh hoạt động của con người. Tình cảm có thể mang tính chất
chủ động, chứa đựng sắc thái cảm xúc tích cực, cũng như trở thành thụ động, chứa đựng
sắc thái cảm xúc tiêu cực. Tình cảm tích cực là một trong những động lực nâng cao
năng lực hoạt động sống của con người. Tri thức kết hợp với tình cảm hình thành nên
niềm tin, nâng cao ý chí tích cực biến thành hành động thực tế, mới phát huy được sức
mạnh của mình.

3.2. Theo chiều sâu của nội tâm:

Tiếp cận theo chiều sâu của thế giới nội tâm con người, ý thức bao gồm tự ý
thức, tiềm thức, vô thức.

- Tự ý thức:

Trong quá trình nhận thức thế giới xung quanh, con người đồng thời cũng tự
nhận thức bản thân mình. Đó chính là tự ý thức. Như vậy, tự ý thức cũng là ý thức, là
một thành tố quan trọng của ý thức, nhưng đây là ý thức về bản thân mình trong mối
quan hệ với ý thức về thế giới bên ngoài. Nhờ vậy con người tự nhận thức về bản thân
mình như một thực thể hoạt động có cảm giác có tư duy, có các hành vi đạo đức và có
vị trí trong xã hội. Những cảm giác của con người về bản thân mình trên mọi phương
diện giữ vai trò quan trọng trong việc hình thành tự ý thức. Con người chỉ tự ý thức
được bản thân mình trong quan hệ với những người khác, trong quá trình hoạt động cải
tạo thế giới. Chính trong quan hệ xã hội, trong hoạt động thực tiễn xã hội và qua những
giá trị văn hóa vật chất và tinh thần do chính con người tạo ra, con người phải tự ý thức
về mình để nhận rõ bản thân mình, tự điều chỉnh bản thân theo các quy tắc, các tiêu
chuẩn mà xã hội đề ra.

Tự ý thức không chỉ là tự ý thức của cá nhân mà còn là tự ý thức của cả xã hội,
của một giai cấp hay của một tầng lớp xã hội về địa vị của mình trong hệ thống những
quan hệ sản xuất xác định, về lý tưởng và lợi ích chung của xã hội mình, của giai cấp
mình, hay của tầng lớp mình.

________________________________________________________________
“Bạn học được thất bại nhiều hơn thành công, vì thế đừng để thất bại khiến bạn
chùn bước. Thất bại sẽ tạo nên nghị lực.”
25/05/2021 Trang 8
Tổng hợp & Biên soạn: Nguyễn Hiền Tính

- Tiềm thức:

Là những hoạt động tâm lý tự động diễn ra bên ngoài sự kiểm soát của chủ thể,
song lại có liên quan trực tiếp đến các hoạt động tâm lý đang diễn ra dưới sự kiểm soát
của chủ thể ấy. Về thực chất, tiềm thức là những tri thức mà chủ thể đã có được từ trước
nhưng đã gần như trở thành bản năng, thành kỹ năng nằm trong tầng sâu của ý thức
chủ thể, là ý thức dưới dạng tiềm tàng. Do đó, tiềm thức có thể chủ động gây ra các
hoạt động tâm lý và nhận thức mà chủ thể không cần kiểm soát chúng một cách trực
tiếp. Tiềm thức có vai trò quan trọng cả trong hoạt động tâm lý hàng ngày của con
người, cả trong tư duy khoa học. Trong tư duy khoa học, tiềm thức chủ yếu gắn với các
loại hình tư duy chính xác, với các hoạt động tư duy thường được lặp đi lặp lại nhiều
lần. ở đây tiềm thức góp phần giảm sự quá tải của đầu óc trong việc xử lý khối lượng
lớn các tài liệu, dữ kiện, tin tức diễn ra một cách lặp đi lặp lại mà vẫn đảm bảo được độ
chính xác và chặt chẽ cần thiết của tư duy khoa học.

- Vô thức:

Vô thức là những trạng thái tâm lý ở chiều sâu, điều chỉnh sự suy nghĩ, hành vi,
thái độ ứng xử của con người mà chưa có sự tranh luận của nội tâm, chưa có sự truyền
tin bên trong, chưa có sự kiểm tra, tính toán của lý trí. Vô thức biểu hiện thành nhiều
hiện tượng khác nhau như bản năng ham muốn, giấc mơ, bị thôi miên, mặc cảm, sự lỡ
lời, nói nhịu, trực giác... Mỗi hiện tượng ấy có vùng hoạt động riêng, có vai trò, chức
năng riêng, song tất cả đều có một chức năng chung là giải tỏa những ức chế trong hoạt
động thần kinh vượt ngưỡng nhất là những ham muốn bản năng không được phép bộc
lộ ra và thực hiện trong quy tắc của đời sống cộng đồng. Nó góp phần lập lại thế cân
bằng trong hoạt động tinh thần của con người mà không dẫn tới trạng thái ức chế quá
mức như ấm ức, “libiđo”...

Như vậy, vô thức có vai trò tác dụng nhất định trong đời sống và hoạt động của
con người. Nhờ vô thức mà con người tránh được tình trạng căng thẳng không cần thiết
khi làm việc “quá tải”. Nhờ vô thức mà chuẩn mực con người đặt ra được thực hiện một

________________________________________________________________
“Bạn học được thất bại nhiều hơn thành công, vì thế đừng để thất bại khiến bạn
chùn bước. Thất bại sẽ tạo nên nghị lực.”
25/05/2021 Trang 9
Tổng hợp & Biên soạn: Nguyễn Hiền Tính

cách tự nhiên... Vì vậy, không thể phủ nhận vai trò cái vô thức trong cuộc sống, nếu
phủ nhận vô thức sẽ không thể hiểu đầy đủ và đúng đắn về con người.

Tuy nhiên không nên cường điệu, tuyệt đối hóa và thần bí vô thức. Không nên
coi vô thức là hiện tượng tâm lý cô lập, hoàn toàn tách khỏi hoàn cảnh xã hội xung
quanh không liên quan gì đến ý thức. Thực ra, vô thức là vô thức nằm trong con người
có ý thức. Giữ vai trò chủ đạo trong con người là ý thức chứ không phải vô thức. Nhờ
có ý thức mới điều khiển được các hiện tượng vô thức hướng tới chân, thiện, mỹ. Vô
thức chỉ là một mắt khâu trong cuộc sống có ý thức của con người.

4. Liên hệ tính sáng tạo của ý thức trong hoạt động thực tiễn:

Đưa ra quan niệm phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là
một đột phá lý luận rất cơ bản và sáng tạo của Đảng ta, là thành quả lý luận quan trọng
qua 35 năm thực hiện đường lối đổi mới, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam và tiếp thu có
chọn lọc kinh nghiệm của thế giới. Theo nhận thức của chúng ta, kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành
đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định
hướng xã hội chủ nghĩa, nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh. Đó là một kiểu kinh tế thị trường mới trong lịch sử phát triển của kinh
tế thị trường; một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị
trường vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của
chủ nghĩa xã hội, thể hiện trên cả ba mặt: Sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối. Đây
không phải là nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa và cũng chưa phải là nền kinh tế
thị trường xã hội chủ nghĩa đầy đủ (vì nước ta còn đang trong thời kỳ quá độ).

________________________________________________________________
“Bạn học được thất bại nhiều hơn thành công, vì thế đừng để thất bại khiến bạn
chùn bước. Thất bại sẽ tạo nên nghị lực.”
25/05/2021 Trang 10
Tổng hợp & Biên soạn: Nguyễn Hiền Tính

Câu 4: Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập. Vận dụng quy luật
này trong thực tiễn?

1. Vị trí của quy luật:

Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là quy luật cơ bản và quan
trọng nhất - hạt nhân của phép biện chứng duy vật. Quy luật này vạch ra nguồn gốc,
động lực của sự vận động, phát triển.

2. Nội dung của quy luật:

Tất cả các sự vật, hiện tượng đều chứa đựng những mặt trái ngược nhau, tức
những mặt đối lập trong sự tồn tại của nó. Các mặt đối lập của sự vật vừa thống nhất
vừa đấu tranh với nhau tạo thành nguồn gốc, động lực của sự vận động, phát triển của
sự vật.

3. Khái niệm mặt đối lập, thống nhất của các mặt đối lập, đấu tranh của các mặt
đối lập:

Mặt đối lập là phạm trù chỉ những mặt, những thuộc tính có đặc điểm hoặc có
khuynh hướng biến đổi trái ngược nhau trong một chỉnh thể.

Thống nhất của các mặt đối lập là sự nương tựa vào nhau, ràng buộc nhau, quy
định nhau mặt này lấy mặt kia làm tiền cho sự tồn tại của nhau.

Đấu tranh của các mặt đối lập là sự tác động qua lại theo khuynh hướng phủ
định lẫn nhau, bài trừ lẫn nhau.

⁕⁕⁕ Cứ có hai mặt đối lập là tạo thành một mâu thuẫn biện chứng:

+ Trong một mâu thuẫn có sự thống nhất của các mặt không tách rời sự đấu tranh
của chúng, bất cứ một sự thống nhất nào của các mặt đối lập mang tính chất tạm thời
tương đối còn sự đấu tranh là tuyệt đối. Đấu tranh giữa các mặt đối lập là nguồn gốc
của sự phát triển.

+ Mối quan hệ giữa thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập trong bản thân
sự vật - tạo thành nguồn gốc, động lực của sự vận động và phát triển của sự vật.

________________________________________________________________
“Bạn học được thất bại nhiều hơn thành công, vì thế đừng để thất bại khiến bạn
chùn bước. Thất bại sẽ tạo nên nghị lực.”
25/05/2021 Trang 11
Tổng hợp & Biên soạn: Nguyễn Hiền Tính

⁕⁕⁕ Các tính chất của mâu thuẫn:

Tính khách quan: mâu thuẫn là nguồn gốc vận động của mọi dạng vật chất. Vật
chất tồn tại khách quan nên mâu thuẫn cung tồn tại khách quan.

Tính phổ biến biểu hiện: Trong bất kể sự vật hiện tượng nào, ở bất cứ địa điểm
nào, ở bất cứ thời gian cũng tồn tại các mặt đối lập.

Tính đa dạng phong phú: Thế giới vật chất có vô vàn các dạng khác nhau chúng
có một không gian khác nhau, thời gian khác nhau, mối liên hệ khác nhau cho nên chúng
có những mâu thuẫn khác nhau, không có một dạng mâu thuãn nào chùng khít lên dạng
mâu thuẫn nào. Có mâu thuẫn trong tự nhiên, có mâu thuẫn trong xã hội, có mâu thuẫn
trong tư duy...

⁕⁕⁕ Các hình thức của mâu thuẫn:

Căn cứ vào quan hệ đối với các sự vật được xem xét người ta phân loại mâu
thuẫn như sau: Có mâu thuẫn bên trong, mâu thuẫn bên ngoài, mâu thuẫn cơ bản, mâu
thuẫn không cơ bản, mâu thuẫn chủ yếu, mâu thuẫn thứ yếu, mâu thuẫn đối kháng mâu
thuẫn không đối kháng...

Mâu thuẫn bên trong là mâu thuân do sự tác đông giữa các mặt, các khuynh
hướng trong cùng một sự vật.

Mâu thuẫn bên ngoài là mâu thuẫn diễn ra trong mối quan hệ giữa sự vật đó với
sự vật khác.

Mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn quy định bản chát của sự vật quy định sự phát
triển ở tất cả các giai đoạn của sự vật.

Mâu thuẫn không cơ bản là mâu thuẫn chỉ đặc trưng cho một phưng diện nào
đó của sự vật.

Mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn hàng đầu ở một giai đoạn phát triển nhất định
của sự vật.

________________________________________________________________
“Bạn học được thất bại nhiều hơn thành công, vì thế đừng để thất bại khiến bạn
chùn bước. Thất bại sẽ tạo nên nghị lực.”
25/05/2021 Trang 12
Tổng hợp & Biên soạn: Nguyễn Hiền Tính

Mâu thuẫn thứ yếu là mâu thuẫn ra đời tồn tại trong một gia đoạn phát triển nào
đó của sự vật, nhưng không phải đóng vai trò chi phối mà bị mâu thuẫn chủ yếu chi
phối.

⁕⁕⁕ Quá trình vận động của mâu thuẫn:

+ Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là hai xu hướng tác động khác
nhau của các mặt đối lập tạo thành mâu thuẫn. Như vậy mâu thuẫn biện chứng bao hàm
cả “sự thống nhất” lẫn “đấu tranh” của các mặt đối lập. Sự thống nhất gắn liền với sự
đứng im, với sự ổn định tạm thời của sự vật. Sự đấu tranh gắn liền với tính tuyệt đối
của sự vận động và phát triển.

+ Sự phát triển của sự vật, hiện tượng gắn liền với quá trình hình thành, phát
triển và giải quyết mâu thuẫn. Trong sự tác động qua lại của các mặt đối lập thì đấu
tranh của các mặt đối lập quy định sự thay đổi của các mặt đang tác động và làm cho
mâu thuẫn phát triển. Khi hai mặt đối lập xung đột gay gắt đã đủ điều kiện, chúng sẽ
chuyển hóa lẫn nhau, mâu thuẫn được giải quyết. Nhờ đó mà thể thống nhất cũ được
thay thế bằng thể thống nhất mới; sự vật cũ mất đi sự vật mới ra đời thay thế.

4. Ý nghĩa phương pháp luận:

- Vì mâu thuẫn là nguồn gốc, động lực của sự vận động, phát triển của sự vật và
là khách quan trong bản thân sự vật nên cần phải phát hiện ra mâu thuẫn của sự vật bằng
cách phân tích sự vật tìm ra những mặt, những khuynh hướng trái ngược nhau và mối
liên hệ, tác động lẫn nhau giữa chúng.

- Phải biết phân tích cụ thể một mâu thuẫn cụ thể, biết phân loại mâu thuẫn và
tìm cách giải quyết cụ thể đối với từng mâu thuẫn.

- Phải nắm vững nguyên tắc giải quyết mâu thuẫn - phù hợp với từng loại mâu
thuẫn, trình độ phát triển của mâu thuẫn. Không được điều hòa mâu thuẫn. Phải tìm ra
phương thức, phương tiện và lực lượng để giải quyết mâu thuẫn khi điều kiện đã chín
muồi.

5. Vận dụng trong thực tiễn:

________________________________________________________________
“Bạn học được thất bại nhiều hơn thành công, vì thế đừng để thất bại khiến bạn
chùn bước. Thất bại sẽ tạo nên nghị lực.”
25/05/2021 Trang 13
Tổng hợp & Biên soạn: Nguyễn Hiền Tính

5.1. Vận dụng vào Việt Nam:

⁕ Những mâu thuẫn phát sinh trong nền kinh tế thị trường.

⁕ Ổn định và đổi mới về chính trị là hai mặt đối lập thống nhất biện chứng. Có ổn định
thì mới đổi mới được. Muốn ổn định được thì cần phải giải quyết những mâu thuẫn sau:

Mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
Mâu thuẫn giữa hình thái trước đây và nền kinh tế thị trường.
Mâu thuẫn giữa nền kinh tế thị trường và mục tiêu xây dựng con người
xã hội chủ nghĩa.

5.2. Vận dụng quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập vào thực tiễn
đời sống hiện nay:

⁕⁕⁕ Các mặt đối lập của mâu thuẫn vừa thống nhất và vừa đấu tranh với nhau

+ Sự thống nhất của các mặt đối lập chính là sự nương tựa, sự ràng buộc quy
định lẫn nhau và làm tiền đề cho nhau để cùng tồn tại; nếu không có sự thống nhất của
các mặt đối lập thì sẽ không tạo ra sự vật.

+ Có thể hiểu một cách đơn giản thì thống nhất chính là sự đồng nhất, sự phù
hợp ngang nhau của hai mặt đối lập đây là trạng thái cân bằng của mâu thuẫn.

+ Thống nhất giữa các mặt đối lập chỉ là tạm thời là tương đối có nghĩa là nó chỉ
tồn tại trong một thời gian nhất định, đó là trạng thái đứng im, ổn định tương đối của sự
vật.

+ Việc đấu tranh của các mặt đối lập là một quá trình phức tạp được diễn ra từ
thấp đến cao và bao gồm nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn sẽ có những đặc điểm riêng.

⁕⁕⁕ Sự đấu tranh và chuyển hóa của các mặt đối lập chính là nguồn gốc, là động lực
của sự phát triển

Việc đấu tranh của các mặt đối lập sẽ gây ra những biến đổi các mặt đối lập khi
cuộc đấu tranh của các mặt đối lập trở nên quyết liệt. Sự chuyển hóa của các mặt đối

________________________________________________________________
“Bạn học được thất bại nhiều hơn thành công, vì thế đừng để thất bại khiến bạn
chùn bước. Thất bại sẽ tạo nên nghị lực.”
25/05/2021 Trang 14
Tổng hợp & Biên soạn: Nguyễn Hiền Tính

lập chính là khi các mâu thuẫn được giải quyết thì sự vật cũ sẽ bị mất đi và sự vật mới
xuất hiện. Các mặt đối lập chuyển hóa lẫn nhau với ba hình thức sau đây:

+ Các mặt đối lập chuyển hóa lẫn nhau mặt đối lập này thành mặt đối lập kia và
ngược lại nhưng ở trình độ cao hơn về phương diện vật chất của sự vật.

+ Cả hai mặt đối lập đều mất đi và chuyển háo thành một mặt đối lập mới.

+ Các mặt đối lập thâm nhập vào nhau và cải biến lẫn nhau.

⁕⁕⁕ Ví dụ về sự thống nhất giữa các mặt đối lập

Trong mỗi mâu thuẫn thường có hai mặt đối lập liên hệ gắn bó với nhau tạo tiền
đề cho nhau cùng tồn tại, triết học gọi đó là sự thống nhất giữa các mặt đối lập.

Ví dụ như trong hoạt động kinh tế thì sản xuất và tiêu dùng phát triển theo những
chiều hướng trái ngược với nhau. Sản xuất chính là việc tạo ra của cải vật chất, sản
phẩm để có thể đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng. Còn tiêu dùng là mục đích
cuối cùng của việc sản xuất, tất cả những sản phẩm được sản xuất ra đều cần có người
tiêu dùng.

Sản xuất là việc tạo ra sản phẩm và là đối tượng có thể cung cấp cho việc tiêu
dùng. Nếu như không có quá trình sản xuất để tạo ra sản phẩm tiêu dùng thì sẽ không
thể có tiêu dùng.

Sản xuất quy định phương thức tiêu dùng, tạo ra đối tượng cho tiêu dùng, đây
không phải là đối tượng nói chúng mà là đối những đối tượng nhất định do bản thân sản
xuất làm môi giới cho người tiêu dùng.

Do đó sản xuất không chỉ là đối tượng của tiêu dùng mà nó còn quyết định về
phương thức tiêu dùng. Sản xuất cung cấp các sản phẩm cho tiêu dùng và tạo ra nhu
cầu cho người tiêu dùng. Điều này có nghĩa là chỉ khi sản xuất ra một loại sản phẩm
nào đó thì mới tạo ra nhu cầu tiêu dùng đối với sản phẩm đó.

________________________________________________________________
“Bạn học được thất bại nhiều hơn thành công, vì thế đừng để thất bại khiến bạn
chùn bước. Thất bại sẽ tạo nên nghị lực.”
25/05/2021 Trang 15
Tổng hợp & Biên soạn: Nguyễn Hiền Tính

Do vậy có thể thấy được rằng sản xuất và tiêu dùng chính là sự thống nhất của
hai mặt đối lập, chúng có tính chất tương đồng và có mối liên hệ mật thiết, chặt chẽ với
nhau từ đó tạo điều kiện cho nhau cùng chuyển hóa, cùng phát triển.

Câu 5: Thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức?

⁕⁕⁕ Phạm trù thực tiễn:

Thực tiễn là toàn bộ những hoạt động vật chất - cảm tính, có tính lịch sử - xã hội
của con người nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội phục vụ nhân loại tiến bộ.

⁕⁕⁕ Đặc trưng của thực tiễn:

Thứ nhất, thực tiễn không phải toàn bộ hoạt động vật chất của con người mà chỉ
là những hoạt động vật chất – cảm tính, khi con người sử dụng lực lượng vật chất, công
cụ vật chất làm biến đổi đối tượng vật chất.

Thứ hai, hoạt động thực tiễn là hoạt động mang tính lịch sử - xã hội của con
người

Thứ ba, thực tiễn là hoạt động có tính mục đích nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội
phục vụ con người.

⁕⁕⁕ Hình thức của thực tiễn:

- Hoạt động sản xuất vật chất là hình thức thực tiễn có sớm nhất, cơ bản nhất,
quan trọng nhất. Đây là hoạt động biểu thị quan hệ của con người với tự nhiên, là
phương thức tồn tại cơ bản của con người và xã hội loài người. Thiếu nó, con người và
xã hội không thể tồn tại và phát triển.

- Hoạt động chính trị - xã hội là hoạt động thực tiễn thể hiện tính tự giác cao
của con người nhằm biết đổi, cải tạo xã hội, phát triển các thiết chế xã hội, quan hệ xã
hội…, tạo môi trường thuận lợi cho con người phát triển.

- Hoạt động thực nghiệm khoa học là hình thức đặc biệt của hoạt động thực
tiễn, khi con người chủ động tạo ra những điều kiện không có sẵn trong tự nhiên để tiến

________________________________________________________________
“Bạn học được thất bại nhiều hơn thành công, vì thế đừng để thất bại khiến bạn
chùn bước. Thất bại sẽ tạo nên nghị lực.”
25/05/2021 Trang 16
Tổng hợp & Biên soạn: Nguyễn Hiền Tính

hành thực nghiệm khoa học có mục đích. Cụ thể là vận dụng những thành tựu khoa học,
kỹ thuật, công nghệ vào sản xuất vật chất, cải tạo chính trị - xã hội… phục vụ con người.

⁕⁕⁕ Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức:

- Thực tiễn là cơ sở, động lực của nhận thức

Thực tiễn cung cấp những tài liệu, vật liệu cho nhận thức con người. thực
tiễn luôn đề ra nhu cầu, nghiệm vụ và phương hướng phát triển của nhận thức,
rèn luyện các giác quan con người, làm cho chúng phát triển tinh tế hơn, hoàn
thiện hơn.

- Thực tiễn là mục đích của nhận thức

Nhận thức của con người là nhằm phục vụ thực tiễn, soi đường, dẫn dắt,
chỉ đạo thực tiễn.

Mọi tri thức khoa học – kết quả của nhận thức chỉ có ý nghĩa khi nó được
áp dụng vào đời sống phục vụ con người

- Thực tiễn là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý

Thực tiễn là tiêu chuẩn khách quan duy nhất để kiểm tra chân lý, bác bỏ
sai lầm.

Câu 6: Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Vận dụng
quy luật trong thực tiễn?

1. Phương thức sản xuất:

Phương thức sản xuất là cách thức con người tiến hành sản xuất ở những giai đoạn
lịch sử nhất định của xã hội. Phương thức sản xuất là sự thống nhất giữa lực lượng sản
xuất và quan hệ sản xuất

⁕⁕⁕ Lực lượng sản xuất là sự kết hợp giữa người lao động và tư liệu sản xuất,
tạo ra sức sản xuất và năng lực thực tiễn làm biến đổi các đối tượng vật chất của
giới tự nhiên theo như cầu nhất định của con người và xã hội.

________________________________________________________________
“Bạn học được thất bại nhiều hơn thành công, vì thế đừng để thất bại khiến bạn
chùn bước. Thất bại sẽ tạo nên nghị lực.”
25/05/2021 Trang 17
Tổng hợp & Biên soạn: Nguyễn Hiền Tính

- Người lao động là con người có tri thức, kinh nghiệm, kỹ năng lao động
và năng lực sáng tạo của cải vật chất xã hội, là nguồn lực cơ bản, vô tận và
đặc biệt

- Tư liệu sản xuất là điều kiện vật chất cần thiết để tổ chức sản xuất, gồm tư
liệu lao động và đối tượng lao động

+ Đối tượng lao động là yếu tố vật chất mà con người dùng dùng tư
liệu lao động tác dụng lên.

+ Tư liệu lao động là những yếu tố vật chất của sản xuất mà con người
đưa vào đó để tác động lên đối tượng lao động, gồm công cụ lao động
và phương tiện lao động

• Phương tiện lao động là những yếu tố vật chất của sản xuất

• Công cụ lao động là phương tiện vật chất mà con người sử dụng
để tác động vào đối tượng lao động, giữ vai trò quyết định đến
năng suất lao động

Đặc trưng chủ yếu của lực lượng sản xuất là quan hệ giữa người lao động và
công cụ lao động, trong đó người lao động giữ vai trò quyết định, là nhân tố hàng đầu,
còn công cụ lao động là yếu tố cơ bản không thế thiếu

Sự phát triển của lực lượng sản xuất thể hiện ở tính chất và trình độ. Tính
chất là tính chất cá nhân hoặc tính chất xã hội hóa trong sử dụng tư liệu sản xuất, còn
trình độ là ở sự phát triển của người lao động và công cụ lao động, gồm:

 Trình độ của công cụ lao động

 Trình độ tổ chức lao động xã hội

 Trình độ ứng dụng khoa học vào sản xuất

 Trình độ kinh nghiệm, kỹ năng người lao động

 Trình độ phân công lao động xã hội.

________________________________________________________________
“Bạn học được thất bại nhiều hơn thành công, vì thế đừng để thất bại khiến bạn
chùn bước. Thất bại sẽ tạo nên nghị lực.”
25/05/2021 Trang 18
Tổng hợp & Biên soạn: Nguyễn Hiền Tính

⁕⁕ Ngày nay, khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.

 Khoa học sản xuất ra của cải đặc biệt, hàng hóa đặc biệt, có những sáng chế, bí
mật công nghệ, là nguyên nhân của mọi sự biến đổi trong lực lượng sản xuất hiện
đại.

 Khoảng cách giữa các phát minh, sáng chế đến ứng dụng vào sản xuất ngày càng
được rút ngắn, giúp gia tăng năng suất lao động và của cải xã hội.

 Khoa học giải quyết kịp những mâu thuẫn, vấn đề của sản xuất, có khả năng
“vượt trước

 Khoa học xâm nhập sâu vào mọi hoạt động sản xuất, là mắt khâu quan trọng
trong hoạt động sản xuất. Tri thức khoa học được kết tinh, “vật hóa” vào người
lao động, người quản lý, công cụ lao động và đối tượng lao động.

 Sự phát triển của khoa học đã kích thích sự phát triển năng lực làm chủ sản xuất
của con người.

⁕⁕⁕ Quan hệ sản xuất là tổng hợp các quan hệ kinh tế - vật chất giữa người với
người trong quá trình sản xuất vật chất, là mối quan hệ vật chất – kinh tế quan
trọng nhất

- Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất là quan hệ giữa các tập đoàn người
trong việc chiếm hữu, sử dụng các tư liệu sản xuất xã hội. Đây là quan hệ
trung tâm, quyết định những mối quan hệ khác.

- Quan hệ về tổ chức – quản lý sản xuất là quan hệ giữa các tập đoàn
người trong việc tổ chức sản xuất và phân công lao động, có vai trò quyết
định đến quy mô, tốc độ và hiệu quả của sản xuất.

- Quan hệ về phân phối sản phẩm lao động là quan hệ giữa các tập đoàn
người trong việc phân phối sản phẩm lao động xã hội, nói lên cách thức và
quy mô của của cải vật chất mà các tập đoàn người được hưởng.

⁕⁕⁕ Vai trò quyết định của lực lượng sản xuất đối với quan hệ sản xuất:

________________________________________________________________
“Bạn học được thất bại nhiều hơn thành công, vì thế đừng để thất bại khiến bạn
chùn bước. Thất bại sẽ tạo nên nghị lực.”
25/05/2021 Trang 19
Tổng hợp & Biên soạn: Nguyễn Hiền Tính

Lực lượng sản xuất vận động, phát triển không ngừng sẽ mâu thuẫn với tính
“đứng im” tương đối của quan hệ sản xuất, khi quan hệ sản xuất trở thành xiềng xích
kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất, đòi hỏi tất yếu là phải xóa bỏ quan hệ sản
xuất cũ, thiết lập quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất đã
phát triển

Lực lượng sản xuất quyết định sự ra đời của một kiểu quan hệ sản xuất mới,
quyết định nội dung và tính chất của quan hệ sản xuất

Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất:

Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất là trạng thái trong đó
quan hệ sản xuất là hình thức phát triển của lực lượng sản xuất và tạo ra địa bàn đầy đủ
cho lực lượng sản xuất phát triển.

Sự tác động của quan hệ sản xuất diễn ra theo hai chiều hướng: thúc đẩy và kìm
hãm. Khi quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất thì sản xuất được thúc đẩy
phát triển mạnh mẽ. Ngược lại thì sẽ kìm hãm, thậm chí phá hoại lực lượng sản xuất,
nhưng sự kìm hãm chỉ là tạm thời.

Nói tóm lại:

Trạng thái vận động mâu thuẫn biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ
sản xuất diễn ra là tự phù hợp đến không phù hợp, rồi đến sự phù hợp mới ở trình độ
cao hơn.

Ý nghĩa: Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất là quy luật phổ biến tác động lên toàn bộ tiến trình lịch sử của nhân loại, tạo ra
nguồn gốc và động lực cơ bản nhất đối với sự vận động, phát triển của phương thức sản
xuất, nền sản xuất vật chất.

Sự phù hợp không diễn ra “tự động”, đòi hỏi trình độ tự giác cao trong nhận thức
và vận dụng quy luật.

________________________________________________________________
“Bạn học được thất bại nhiều hơn thành công, vì thế đừng để thất bại khiến bạn
chùn bước. Thất bại sẽ tạo nên nghị lực.”
25/05/2021 Trang 20
Tổng hợp & Biên soạn: Nguyễn Hiền Tính

⁕⁕⁕ Ý nghĩa mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất:

- Có ý nghĩa phương pháp luận quan trọng

- Muốn phát triển kinh tế phải bắt đầu từ phát triển lực lượng sản xuất, trước hết
là phát triển lực lượng lao động và công cụ lao động.

- Muốn xóa bỏ quan hệ sản xuất cũ, thiết lập quan hệ sản xuất mới phải dựa vào
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, theo tính tất yếu của kinh tế, chống tùy tiện,
chủ quan, duy ý chí.

2. Vận dụng quy luật này vào thực tiễn:

Ở nước ta, trước thời kỳ đổi mới thực hiện cơ chế quản lý kinh tế kế hoạch hóa
tập trung quan liêu, bao cấp. Mặc dù đã huy động được sức người, sức của cho kháng
chiến và phát huy có hiệu quả trong thời kỳ, nhưng kinh tế tăng trưởng chủ yếu theo
chiều rộng. Do không thừa nhận sự tồn tại của nền kinh tế nhiều thành phần, coi cơ chế
thị trường là thứ yếu bổ sung cho kế hoạch hóa; thủ tiêu cạnh tranh, triệt tiêu động lực
kinh tế đối với người lao động, kìm hãm tiến bộ khoa học, công nghệ,… quá nhấn mạnh
một chiều cải tạo quan hệ sản xuất mà không thấy đầy đủ yêu cầu phát triển lực lượng
sản xuất, coi nhẹ quan hệ quản lý, quan hệ phân phối. Trong xác lập quan hệ sản xuất,
chúng ta tuyệt đối hóa vai trò công hữu, làm cho quan hệ sản xuất chỉ còn tồn tại dưới
hai hình thức toàn dân và tập thể; kỳ thị, nóng vội xóa bỏ các thành phần kinh tế phi xã
hội chủ nghĩa, không chấp nhận các hình thức sở hữu hỗn hợp, sở hữu quá độ; xóa bỏ
chế độ sở hữu tư nhân một cách ồ ạt, trong khi nó đang tạo điều kiện cho sự phát triển
lực lượng sản xuất. Dẫn đến lực lượng sản xuất không phát triển, tình trạng trì truệ kéo
dài, sản xuất đình đốn, đời sống người dân gặp nhiều khso khăn. Hạn chế đó, có nhiều
nguyên nhân, song nguyên nhân chủ yếu là chúng ta đã chủ quan, nóng vội, duy ý chí
dẫn đến việc nhận thức và vận dụng không đúng quy luật về sự phù hợp của quan hệ
sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.

Từ Đại hội Đảng lần thứ VI (1989), khởi đầu công cuộc đổi mới, Đảng ta đã nêu
ra quan điểm phát triển nền kinh tế hàng hóa có ké hoạch gồm nhiều thành phần đi lên

________________________________________________________________
“Bạn học được thất bại nhiều hơn thành công, vì thế đừng để thất bại khiến bạn
chùn bước. Thất bại sẽ tạo nên nghị lực.”
25/05/2021 Trang 21
Tổng hợp & Biên soạn: Nguyễn Hiền Tính

xã hội chủ nghĩa, với nhiều chế độ tư hữu. Mặc dù chưa đề cập đến cơ chế thị trường,
phát triển nền kinh tế thị trường. Nhưng đây là dấu mốc quan trọng trong quá trình đổi
mới tư duy lý luận của Đảng về con đường và phương pháp xây dựng xã hội chủ nghĩa
ở nước ta, thể hiện sự nhận thức và vận dụng quy luật về sự hòa hợp giữa quan hệ sản
xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; đồng thời đã đặt cơ sở, nền tảng
quan trọng để các nhân tố mới ra đời, tạo tiền đề để từng bước phát triển nền kinh tế
nước ta. Quá trình vận dụng quy luật và phát sinh từ thực tiễn đất nước, tại Hội nghị
TW 6 khóa VI (3 – 1989), Đảng đã khẳng định: “Thực hiện nhất quán chính sách cơ
cấu kinh tế nhiều thành phần, coi đây là chính sách có ý nghĩa chiến lược lâu dài, có
tính quy luật nhỏ sản xuất nhỏ đi lên chủ nghĩa xã hội; trong đó mọi người được tự do
làm ăn theo pháp luật; các đơn vị sản xuất kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế
vừa hợp tác với nhau, bổ sung cho nhau, vừa cạnh tranh với nhau trên cơ sở bình đẳng
trước pháp luật”.

Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, nhìn tổng thể 30 sau đó đất nước ta đã
đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng chủ nghĩa
xã hội. Trong đó có thành tựu về nhận thức và vận dụng quy luật về sự phù hợp giữa
quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở nước ta.

Để thực hiện điều đó, Đảng và Nhà nước ta đã, đang và sẽ phải tiếp tục thống
nhất nhận thức về kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế vận hành đầy đủ,
đồng bộ theo các quy luật của nền kinh tế thị trường. Đồng thời bảo đảm định hướng
xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Thị trường đóng
vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ hiệu quả các nguồn lực phát triển, là động
lực chủ yếu để giải phóng sức sản xuất.

Bên cạnh đó, Đảng và Nhà nước ta có nhiều chủ trương, biện pháp để đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhằm phát triển lực lượng sản xuất, tạo “cốt vật chất”
cho quan hệ sản xuất mới.

________________________________________________________________
“Bạn học được thất bại nhiều hơn thành công, vì thế đừng để thất bại khiến bạn
chùn bước. Thất bại sẽ tạo nên nghị lực.”
25/05/2021 Trang 22
Tổng hợp & Biên soạn: Nguyễn Hiền Tính

Tóm lại, có thể khẳng định công cuộc đổi mới là quá trình chúng ta ngày càng
nhận thức và vận dụng đúng đắn hơn quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong điều kiện thực tiễn Việt Nam.

Câu 7: Vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp. Đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá
độ lên Chủ nghĩa Xã hội ở Việt Nam hiện nay?

1. Giai cấp:

Định nghĩa giai cấp:

V.I.Lênin chỉ rõ: “Giai cấp là những tập đoàn to lớn gồm những người khác
nhau về địa vị của họ trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử, khác
nhau về quan hệ của họ (thường thì những quan hệ này được pháp luật quy định và
thừa nhận) đối với tư liệu sản xuất, về vai trò của họ trong tổ chức lao động xã hội và
như vậy, là khác khác nhau về cách thức hưởng thụ và về phần của cải xã hội mà họ
được hưởng. Giai cấp là những tập đoàn người, mà tập đoàn này có thể chiếm đoạt lao
động của tập đoàn khác, do chỗ tập đoạn đó có địa vị khác nhau trong một chế độ kinh
tế - xã hội nhất định”.

Đặc trưng cơ bản:

 Giai cấp là tập đoàn người có địa vị kinh tế - xã hội khác nhau trong một hệ thống
sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử.

 Dấu hiệu chủ yếu quy định địa vị kinh tế - xã hội của các giai cấp là mối quan
hệ kinh tế - vật chất giữa các tập đoàn người trong phương thức sản xuất.

 Thực chất của quan hệ giai cấp là quan hệ giữa bóc lột và bị bóc lột, là tập đoàn
người này chiếm đoạt lao động của tập đoàn người khác do đối lập về địa vị
trong một chế độ kinh tế - xã hội nhất định.

 Giai cấp là một phạm trù kinh tế - xã hội có tính lịch sử.

Nguồn gốc giai cấp:

________________________________________________________________
“Bạn học được thất bại nhiều hơn thành công, vì thế đừng để thất bại khiến bạn
chùn bước. Thất bại sẽ tạo nên nghị lực.”
25/05/2021 Trang 23
Tổng hợp & Biên soạn: Nguyễn Hiền Tính

- Nguyên nhân sâu xa: sự phát triển của lực lượng sản xuất làm năng suất lao
động tăng lên, xuất hiện của dư, tạo khả năng khách quan, tiền đề cho tập đoàn này
chiếm đoạt lao động của người khác, từ đó tạo ra sự chênh lệch vể quyền lực, địa vị và
tài sản giữa các nhóm người trong xã hội.

- Nguyên nhân trực tiếp: Xã hội xuất hiện chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất. Chế
độ tư hữu về tư liệu sản xuất là cơ sở trực tiếp của sự hình thành các giai cấp. Và chừng
nào, ở đâu còn tồn tại chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất thì ở đó còn có sự tồn tại của
giai cấp và đấu tranh giai cấp. Giai cấp chỉ mất đi khi chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất
bị xóa bỏ hoàn toàn.

2. Đấu tranh giai cấp:

Định nghĩa:

V.I.Lênin chỉ rõ: “Đấu tranh giai cấp là đấu tranh của bộ phận nhân dân này
chống lại một bộ phận khác, đấu tranh của quần chúng bị tước hết quyền, bị áp bức và
lao động, chống bọn có đặc quyền, đặc lợi, bọn áp bức và ăn bám, cuộc đấu tranh của
những người công nhân làm thuê hay những người vô sản chống lại những người hữu
sản hay giai cấp tư sản”

⁕⁕⁕ Tính tất yếu và thực chất của đấu tranh giai cấp:

Đấu tranh giai cấp là tất yếu do sự đối lập về lợi ích căn bản không thể điều hòa
được giữa các giai cấp.

Thực chất:

 Đấu tranh giai cấp là cuộc đấu tranh của các tập đoàn người to lớn có lợi ích cơ
bản đối lập nhau trong một phương thức sản xuất xã hội nhất định.

 Cuộc đấu tranh giai cấp là cuộc đấu tranh của quần chúng lao động bị áp bức,
bóc lột chống lại giai cấp áp bức, bóc lột nhằm lật độ ách thống trị của chúng.

 Trong đấu tranh, liên minh giai cấp là tất yếu.

⁕⁕ Vai trò của đấu tranh giai cấp trong sự phát triển xã hội có giai cấp:
________________________________________________________________
“Bạn học được thất bại nhiều hơn thành công, vì thế đừng để thất bại khiến bạn
chùn bước. Thất bại sẽ tạo nên nghị lực.”
25/05/2021 Trang 24
Tổng hợp & Biên soạn: Nguyễn Hiền Tính

 Đấu tranh giai cấp là động lực quan trọng, trực tiếp của lịch sử.

 Đấu tranh giai cấp đạt đến đỉnh cao thường dẫn đến cách mạng xã hội, qua đó
xóa bọ quan hệ sản xuất lỗi thời, thiết lập quan hê sản xuất tiến bộ hơn.

 Đấu tranh giai cấp thường xuyên tác động thúc đẩy sự phát triển mọi mặt của đời
sống xã hội.

 Đấu tranh giai cấp là động lực phát triển của xã hội có giai cấp, động lực trực
tiếp và quan trọng.

3. Đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản:

⁕ Đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản khi chưa có chính quyền

Các hình thức đấu tranh bao gồm:

 Đấu tranh kinh tế,

 Đấu tranh chính trị,

 Đấu tranh tư tưởng.

⁕ Đấu tranh giai cấp trong thời kì quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội

Cuộc đấu tranh có:

 Điều kiện mới,


 Nội dung mới,
 Hình thức mới đa dạng, phong phú.

4. Đấu tranh giai cấp trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện
nay:

Quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là quá độ gián tiếp từ một xã hội thuộc
địa, nửa phong kiến với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất còn thấp, tiến lên chủ
nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Trong thời kì này, cơ sở kinh tế để nảy
sinh bóc lột và mâu thuẫn giai cấp vẫn còn tồn tại.

________________________________________________________________
“Bạn học được thất bại nhiều hơn thành công, vì thế đừng để thất bại khiến bạn
chùn bước. Thất bại sẽ tạo nên nghị lực.”
25/05/2021 Trang 25
Tổng hợp & Biên soạn: Nguyễn Hiền Tính

Đòi hỏi tất yếu của đấu tranh là chống lại khuynh hướng tự phát đi lên chủ nghĩa
tư bản, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa. Đấu tranh để chống lại những thế lực
phản động, những yếu tố tiêu cực như tàn dư về tư tưởng, tâm lý và tập quán lạc hậu
của phong kiến, tư sản, tâm lý lạc hậu nảy sinh trong điều kiện phát triển kinh tế thị
trường.

Trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay, đấu tranh giai
cấp là tất yếu, đang diễn ra trong những:

⁕⁕⁕ Điều kiện mới:

 Cùng với những biến đổi to lớn về kinh tế xã hội, cơ cấu xã hội – giai cấp, địa vị
của các giai cấp có biến đổi căn bản, tạo ra so sánh lực lượng có lợi cho sự nghiệp
cách mạng.

 Giai cấp công nhân Việt Nam trở thành giai cấp lãnh đạo sự nghiệp cách mạng
và có sự phát triển mạnh mẽ về số lượng và chất lượng.

 Khối liên minh giai cấp mới công nhân – nông dân – trí thức dưới sự lanh4 đạo
của Đảng được củng cố vững chắc

 Vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam được giữ vững trong bối cảnh
phức tạp của quốc tế.

 Nhà nước pháp quyền tiếp tục được củng cố và hoàn thiện, cùng những thành
tựu to lớn trong sự nghiệp đổi mới đất nước 30 năm qua.

Tuy nhiên, vẫn còn những khó khăn:

 Các thế lực thù địch thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”, gây bạo loạn lật
đổ, hòng thay đổi chế độ chính trị ở Việt Nam.

 Sự tác động của khủng hoảng chủ nghĩa xã hội thế giới, sự điều chỉnh của chủ
nghĩa tư bản hiện đại.

Vì thế, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một nhiệm vụ
trọng đại, nhưng cũng rất khó khăn, phức tạp và lâu dài.
________________________________________________________________
“Bạn học được thất bại nhiều hơn thành công, vì thế đừng để thất bại khiến bạn
chùn bước. Thất bại sẽ tạo nên nghị lực.”
25/05/2021 Trang 26
Tổng hợp & Biên soạn: Nguyễn Hiền Tính

⁕⁕ Nội dung của cuộc đấu tranh:

Nội dung của cuộc đấu tranh giai cấp trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam hiện nay là: Thực hiện thắng lợi mục tiêu độc lập dân chủ và chủ nghĩa
xã hội, xây dựng xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, văn minh. Do đó cần phải thực
hiện hai nhiệm vụ chiến lược:

Bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa để tạo ra môi trường và điều kiện
thuận lợi để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.

Xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội để có điều kiện nâng cao sức mạnh bảo
về Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

Nội dung chủ yếu của cuộc đấu tranh giai cấp ở Việt Nam hiện nay là thực
hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, khắc phục tình trạng đất nước kém phát triển, thực hiện công bằng xã hội, khắc
phục tư tưởng, hành động tiêu cực, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động
chống phá của thế lực thù địch, bảo vệ độc lập dân tộc, xây dựng thành công chủ nghĩa
xã hội.

Cuộc đấu tranh giai cấp diễn ra dưới nhiều hình thức đa dạng, phong phú: hành
chính và giáo dục, cải tạo và xây dựng, mở cửa và hội nhập, phát triển kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa…

Câu 8: Con người và bản chất của con người. Vấn đề của con người trong sự
nghiệp cách mạng ở Việt Nam?

1. Khái niệm con người:

⁕ Con người là một thực thể tự nhiên mang đặc tính xã hội, trong đó, phương
diện tự nhiên và phương diện xã hội thống nhất biện chứng với nhau.

⁕ Con người trước hết mang bản tính tự nhiên, bản tính tự nhiên của con người
được phân tích từ những khía cạnh sau đây:

________________________________________________________________
“Bạn học được thất bại nhiều hơn thành công, vì thế đừng để thất bại khiến bạn
chùn bước. Thất bại sẽ tạo nên nghị lực.”
25/05/2021 Trang 27
Tổng hợp & Biên soạn: Nguyễn Hiền Tính

- Là sản phẩm của tự nhiên, là kết quả của quá trình tiến hóa và phát triển
lâu dài của giới tự nhiên

- Là một bộ phận của giới tự nhiên, đồng thời giới tự nhiên cũng là “thân
thể vô cơ của con người”. Mặc dù mang bản tính tự nhiên, song con người không
đồng nhất với các tòn tại khác của tự nhiên mà còn mang bản tính xã hội. Bản
tính xã hội của con người được phân tích từ những khía cạnh sau:

• Sự hình thành con người không phải chỉ từ sự tiến hóa, sự phát
triển của giới tự nhiên mà còn có nguồn gốc xã hội, mà trước hết và cơ
bản nhất là nhân tố lao động.

• Sự tồn tại, phát triển của con người luôn bị chi phối bởi các nhân
tố xã hội và các quy luật xã hội.

2. Bản chất của con người:

Trong luận đề thứ sáu của tác phẩm Luận cương về Phoiơbắc, C.Mác đã viết:
“Bản chất con người không phải là một cái trừu tượng cổ hữu của các nhân riêng biệt.
Trong tính hiện thực của nó, bản chất của con người là tổng hòa những quan hệ xã hội”.

Là thành viên của xã hội, con người chịu tác động mạnh mẽ của các quan hệ xã
hội. Bản chất của con người do những quan hệ xã hội của con người quy định. Gồm gia
đình, nhà trường và xã hội. Chính ba mối quan hệ xã hội đó quyết định, hình thành và
bộc lộ bản chất của mình.

Bản chất của con người không phải là một hệ thống đóng kín, nhất thành bất
biến, mà là hệ thống mở, luôn biến đổi, tương ứng với điều kiện tồn tại của con người.
Cùng với việc biến đổi của các quan hệ xã hội thì bản chất của con người cũng thay đổi
theo.

Không có con người trừu tượng, thoát ly mọi điều kiện, hoàn cảnh lịch sử xã hội
mà con người luôn cụ thể, xác định, sống trong một điều kiện lịch sử cụ thể nhất định,
một thời đại nhất định.

________________________________________________________________
“Bạn học được thất bại nhiều hơn thành công, vì thế đừng để thất bại khiến bạn
chùn bước. Thất bại sẽ tạo nên nghị lực.”
25/05/2021 Trang 28
Tổng hợp & Biên soạn: Nguyễn Hiền Tính

3. Vấn đề của con người trong sự nghiệp cách mạng ở Việt Nam:

Trong quá trình đổi mới ở Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng, con người ngày
càng có điều kiện phát triển toàn diện. Để tiếp tục đổi mới, thực hiện công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, đưa dất nước ngày một giàu mạnh, việc xây dựng con người mới Việt
Nam đáp ứng được yêu cầu phát triển đất nước là nhiệm vụ có tính cấp bách. Trong
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng Cộng
sản Việt Nam đã chỉ rõ mục tiêu của sự đổi mới, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại
hóa nhầm xây dựng một xã hội: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng và văn
minh; do nhân dân làm chủ… con người có cuộc sống ấm no, hạnh phúc”. Mục tiêu này
cho thấy, sự nghiệp đổi mới, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải tiến tới con
người, vì con người. Bên cạnh đó, chúng ta coi con người là động lực của sự phát triển.

Con người trước hết là sản phẩm của lịch sử, mang những dấu ấn đặc trưng của
thời đại mà mình sinh sống. Trong sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa ở Việt Nam hiện nay, con người có điều kiện phát huy năng lực của bản thân và
cũng được chăm lo về đời sống vật chất và tinh thần. Song, để đáp ứng được yêu cầu
ngày càng cao của sự nghiệp đổi mới, đặc biệt khi đất nước đã và đang bước vào kỷ
nghuyên kinh tế tri thức, hiện nay là cuộc cách mạng 4.0, con người với tư cách là sản
phẩm của sự nghiệp đổi mới phải không ngừng nâng cao tư duy, phẩm chất và sức khỏe
của bản thân mình để có đủ tri thức và kỹ năng cống hiến ngày càng nhiều cho Tổ quốc.
Tuy nhiên con người không chỉ là sản phẩm của xã hội, mà còn là chủ thể cải tạo, làm
thay đổi xã hội. Vai trò chủ thể của con người trong sự nghiệp đổi mới, công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước thể hiện ở việc chính họ dấn thân tạo ra những chuyển biến
đó. Những thành tựu to lớn mà đất nước ta có được trong thời gian qua chính là do con
người tạo dựng nên. Không có sự đoàn kết nhất trí, sự nỗ lực cố gắng của các thế hệ
con người Việt Nam thì sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa do Đảng ta
khởi xướng khó lòng có thể thành công được.

Kết quả của sự nghiệp đổi mới do Dảng ta khởi xướng chính là minh chứng sinh
động tính đúng đắn của đường lối xuất phát từ con người, vì con người. Vì lý do đó,

________________________________________________________________
“Bạn học được thất bại nhiều hơn thành công, vì thế đừng để thất bại khiến bạn
chùn bước. Thất bại sẽ tạo nên nghị lực.”
25/05/2021 Trang 29
Tổng hợp & Biên soạn: Nguyễn Hiền Tính

việc phát huy nguồn lực con người phải được coi là vấn đề chiến lược, là yêu cầu cấp
bách của sự nghiệp đổi mới, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

HẾT./.

“Không có giới hạn nào cho những thành công bạn


đạt được, ngoại trừ các giới hạn bạn tự đặt ra trong
suy nghĩ của chính mình.”!!!

GOOD LUCK!!!

________________________________________________________________
“Bạn học được thất bại nhiều hơn thành công, vì thế đừng để thất bại khiến bạn
chùn bước. Thất bại sẽ tạo nên nghị lực.”
25/05/2021 Trang 30

You might also like