You are on page 1of 86

Đề cương môn Triết học

PHẦN CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG

TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN


VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI

1. Khái niệm và đối tượng của triết học Mác - Lênin


1.1. Khái niệm triết học Mác - Lênin

- Sự xuất hiện triết học Mác - Lênin là một cuộc cách mạng vĩ đại
trong lịch sử triết học. Đó là kết quả tất yếu của sự phát triển lịch sử tư tưởng
triết học và khoa học của nhân loại, là kết quả của sự thống nhất giữa điều
kiện khách quan và nhân tố chủ quan. Triết học Mác - Lênin là hệ thống quan
điểm duy vật biện chứng về tự nhiên, xã hội và tư duy - thế giới quan và
phương pháp luận khoa học, cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân
lao động để nhận thức và cải tạo thế giới.

- Triết học Mác - Lênin là triết học duy vật biện chứng theo nghĩa
rộng. Đó là hệ thống quan điểm duy vật biện chứng cả về tự nhiên, cả về xã
hội. Trong triết học Mác - Lênin, chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng
thống nhất hữu cơ với nhau. Với tư cách là chủ nghĩa duy vật, triết học Mác -
Lênin là hình thức cao nhất của chủ nghĩa duy vật trong lịch sử triết học - chủ
nghĩa duy vật biện chứng. Với tư cách là phép biện chứng, triết học Mác -
Lênin là hình thức cao nhất của phép biện chứng trong lịch sử triết học - phép
biên chứng duy vật.

- Triết học Mác - Lênin ra đời là kết quả của sự kế thừa và phát triển
những thành tựu của tư duy triết học nhân loại. Đồng thời, là kết quả của sự
khái quát hoá những thành tựu quan trọng nhất của khoa học tự nhiên, khoa
học xã hội và thực tiễn xã hội. Chính vì vậy, triết học Mác - Lênin trở thành thế
giới quan và phương pháp luận khoa học của lực lượng vật chất - xã hội năng
2

động và cách mạng nhất tiêu biểu cho thời đại ngày nay là giai cấp công nhân để
nhận thức và cải tạo xã hội.

- Trong thời đại ngày nay, triết học Mác - Lênin đang đứng ở đỉnh cao
của tư duy triết học nhân loại, là hình thức phát triển cao nhất của các hình
thức triết học trong lịch sử. Triết học Mác - Lênin là học thuyết về sự phát
triển thế giới, đã và đang phát triển giữa dòng văn minh nhân loại.

1.2. Đối tượng của triết học Mác - Lênin

Triết học Mác - Lênin giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
trên lập trường duy vật biện chứng và nghiên cứu những quy luật vận động,
phát triển chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy.

- Đối tượng của triết học Mác - Lênin thể hiện sự thống nhất giữa biện
chứng khách quan với biện chứng chủ quan. Do giải quyết vấn đề cơ bản của
triết học triệt để trên lập trường duy vật biện chứng, triết học Mác - Lênin chỉ
ra được các quy luật vận động, phát triển chung nhất của thế giới. Cả thế giới
khách quan và nhận thức, tư duy của con người đều tuân theo những quy luật
biện chứng. Các quy luật biện chứng của thế giới, về nội dung là khách quan
nhưng về hình thức phản ánh là chủ quan. Biện chứng chủ quan là sự phản
ánh của biện chứng khách quan.

- Triết học Mác - Lênin có sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, chỉ ra những quy luật chung nhất của cả tự
nhiên và cả lịch sử xã hội. Các quy luật của chủ nghĩa duy vật biện chứng là
những quy luật chung nhất chi phối sự vận động, phát triển của thế giới. Các
quy luật của chủ nghĩa duy vật lịch sử là quy luật chung nhất chi phối sự vận
động, phát triển của lịch sử xã hội; đó là quy luật biện chứng của lịch sử.

- Đối tượng của triết học Mác - Lênin chứa đựng trong đó vấn đề con
người. Triết học Mác - Lênin xuất phát từ con người, từ thực tiễn, chỉ ra
những quy luật của sự vận động, phát triển của xã hội và của tư duy con
người. Mục đích của Triết học Mác- Lênin là nâng cao hiệu quả của quá trình
nhận thức và thực tiễn nhằm phục vụ lợi ích con người.
3

- Triết học Mác - Lênin chứa đựng sự thống nhất giữa phép biện
chứng, lý luận nhận thức và lôgíc học. Trong triết học Mác- Lênin, những
quy luật chung nhất của tự nhiên xã hội và tư duy đã thể hiện sự đồng nhất
giữa biện chứng của thế giới với biện chứng của quá trình nhận thức và biện
chứng của quá trình tư duy. Tuy nhiên đây là sự đồng nhất trong khác biệt.

- Trong triết học Mác - Lênin có sự thống nhất giữa lý luận và phương
pháp. Các nguyên lý của chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng hoà quyện
với nhau tạo nên một lý luận thống nhất - lý luận biện chứng duy vật. Trong
lịch sử triết học chỉ có triết học Mác - Lênin mới có được sự thống nhất hữu
cơ này.

- Triết học Mác - Lênin với các khoa học cụ thể có mối quan hệ gắn bó
chặt chẽ với nhau, không những không loại trừ nhau mà còn bổ sung cho nhau.
Các khoa học cụ thể cung cấp những dữ liệu, đặt ra những vấn đề khoa học mới,
làm tiền đề, cơ sở cho sự phát triển triết học. Các khoa học cụ thể tuy có đối
tượng và chức năng riêng của mình nhưng đều phải dựa vào một thế giới quan
và phương pháp luận triết học nhất định.

- Kết cấu của triết học Mác - Lênin bao gồm chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Đây là hai mặt thống nhất hữu cơ với
nhau. Chủ nghĩa duy vật biện chứng là hệ thống quan điểm duy vật biện
chứng chung nhất về thế giới. Chủ nghĩa duy vật lịch sử vừa là sự vận dụng,
vừa là sự mở rộng quan điểm duy vật biện chứng vào nhận thức lịch sử xã
hội. Sự thống nhất hữu cơ giữa chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa
duy vật lịch sử đã làm cho triết học Mác - Lênin là triết học duy vật biện
chứng thực sự sâu sắc, hoàn bị và triệt để.

2. Chức năng của triết học Mác - Lênin

2.1. Chức năng thế giới quan

- Thế giới quan là toàn bộ những quan điểm về thế giới và về vị trí của
con người trong thế giới đó. Triết học là hạt nhân lý luận của thế giới quan.
Triết học Mác - Lênin đem lại thế giới quan duy vật biện chứng, là hạt nhân
thế giới quan cộng sản.
4

- Thế giới quan duy vật biện chứng có vai trò đặc biệt quan trọng.
Trước hết, hệ thống quan điểm duy vật mácxít là nhân tố định hướng cho con
người nhận thức đúng đắn thế giới hiện thực. Đây chính là “cặp kính” triết
học để con người xem xét, nhận dạng thế giới, xét đoán mọi sự vật, hiện tượng và
xem xét chính mình.

- Thế giới quan duy vật biện chứng còn giúp con người hình thành
quan điểm khoa học định hướng mọi hoạt động. Từ đó giúp con người xác
định thái độ và cả cách thức hoạt động của mình.

- Thế giới quan duy vật biện chứng nâng cao vai trò tích cực, sáng tạo
của con người. Thế giới quan đúng đắn chính là tiền đề để xác lập nhân sinh
quan tích cực. Trình độ phát triển về thế giới quan là một tiêu chí quan trọng
của sự trưởng thành cá nhân cũng như một cộng đồng xã hội nhất định.

- Các khoa học đều góp phần giúp con người hình thành thế giới quan
đúng đắn. Trong đó, thế giới quan triết học là hạt nhân lý luận của thế giới quan,
làm cho thế giới quan của con người phát triển như một quá trình tự giác.

- Thế giới quan duy vật biện chứng có vai trò là cơ sở khoa học để đấu
tranh với các loại thế giới quan duy tâm, tôn giáo, phản khoa học. Với bản chất
khoa học và cách mạng, thế giới quan duy vật biện chứng là hạt nhân của hệ tư
tưởng của giai cấp công nhân và các lực lượng tiến bộ, cách mạng, là cơ sở lý
luận trong cuộc đấu tranh với các tư tưởng phản cách mạng, phản động.

2.2. Chức năng phương pháp luận

- Phương pháp luận là hệ thống về những quan điểm, những nguyên


tắc xuất phát, những cách thức chung để thực hiện hoạt động nhận thức và
thực tiễn.

- Vai trò phương pháp luận duy vật biện chứng được thể hiện trước hết
là phương pháp chung của toàn bộ nhận thức khoa học. Phương pháp luận
duy vật biện chứng trang bị cho con người hệ thống những nguyên tắc, những
quy tắc, những yêu cầu, những chỉ thị của hoạt động nhận thức và thực tiễn.
5

- Triết học Mác - Lênin trang bị cho con người hệ thống các khái niệm,
phạm trù quy luật làm công cụ nhận thức khoa học; giúp con người phát triển
tư duy khoa học, đó là tư duy ở cấp độ phạm trù, quy luật.

2.3. Các chức năng khác của triết học Mác - Lênin

- Ngoài hai chức năng cơ bản là thế giới quan và phương pháp luận, triết
học Mác - Lênin còn có các chức năng khác như: chức năng nhận thức; giáo
dục; chức năng dự báo khoa học; chức năng đánh giá - phê phán...

- Triết học Mác - Lênin thực hiện chức năng nhận thức.Việc trang
bị một hệ thống tri thức triết học sẽ giúp cho con người có khả năng bao
quát dưới hình thức lý luận chung nhất kho tàng tri thức nhân loại.

- Triết học Mác - Lênin thực hiện chức năng giáo dục con người,
hướng con người đến các giá trị chân, thiện, mỹ. Trên cơ sở thế giới quan
khoa học, con người sẽ có một nhân sinh quan tích cực.
- Các quy luật của triết học là quy luật chung nhất, phổ biến nhất của
tự nhiên, xã hội và tư duy, được khái quát dựa trên cơ sở những kiến thức của
khoa học cụ thể. Do vậy, quy luật của triết học mang trong mình chức năng
dự báo khoa học, chỉ đạo, định hướng cho các khoa học cụ thể tiếp tục đi sâu
khám phá bản chất thế giới.
3. Vai trò của triết học Mác - Lênin trong giải quyết những nhiệm
vụ cấp thiết về lý luận và thực tiễn hiện nay
3.1. Vai trò của triết học Mác - Lênin trong giải quyết những nhiệm
vụ cấp thiết của đời sống xã hội
- Trong thời đại ngày này, vai trò của triết học Mác - Lênin không
giảm đi mà trái lại ngày càng được nâng cao. Điều đó, trước hết do những
đặc điểm và xu thế phát triển của thời đại quy định.
* Triết học Mác - Lênin là cơ sở thế giới quan và phương pháp
luận khoa học và cách mạng để phân tích xu hướng phát triển của xã hội
trong điều kiện cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đã và đang
phát triển mạnh mẽ.
6

- Bản chất của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại là sự cải
biến về chất các lực lượng sản xuất trên cơ sở biến khoa học thành lực lượng sản
xuất trực tiếp. Đặc điểm nổi bật của nó là sự tăng lên mạnh mẽ quá trình toàn cầu
hoá, khu vực hoá nền sản xuất vật chất và các lĩnh vực đời sống xã hội, tạo thời
cơ và thách thức cho các quốc gia, dân tộc trên con đường phát triển.

* Trong thời đại ngày nay, xu thế toàn cầu hoá xã hội đang không
ngừng tăng lên. Bản chất của toàn cầu hoá là quá trình tăng lên mạnh mẽ
các mối liên hệ, sự ảnh hưởng, tác động, phụ thuộc lẫn nhau giữa các khu
vực, các quốc gia, dân tộc trên toàn thế giới.

- Toàn cầu hoá là một qúa trình phức tạp, đầy mâu thuẫn, chứa đựng cả
tích cực và tiêu cực, cả thời cơ và thách thức đối với các quốc gia, dân tộc,
đặc biệt là các nước kém phát triển. Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực tư bản
chủ nghĩa đang lợi dụng toàn cầu hoá để âm mưu thực hiện toàn cầu hoá tư
bản chủ nghĩa.

- Chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung và triết học Mác - Lênin nói
riêng là lý luận khoa học và cách mạng soi đường cho giai cấp công nhân
và nhân dân lao động trong cuộc đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc
đang diễn ra trong điều kiện mới, dưới hình thức mới.

- Triết học Mác - Lênin là cơ sở lý luận khoa học của công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội trên thế giới và sự nghiệp đổi mới theo định hướng xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Như vậy, bước vào thế kỷ XXI, những điều kiện lịch sử mới đã quy
định vai trò của triết học Mác - Lênin ngày càng tăng. Điều đó đòi hỏi phải
bảo vệ, phát triển triết học Mác - Lênin để phát huy tác dụng và sức sống của
nó đối với thời đại và đất nước.
7

Chuyên đề
VẬT CHẤT VÀ CÁC HÌNH THỨC TỒN TẠI CỦA VẬT CHẤT

1. Phạm trù vật chất


1.1. Quan niệm của chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật trước
Mác về phạm trù vật chất
- Các nhà triết học duy tâm, cả duy tâm khách quan và duy tâm chủ
quan, từ thời cổ đại, trung đại đến thời hiện đại tuy buộc phải thừa nhận sự
tồn tại của các sự vật, hiện tượng của thế giới nhưng lại phủ nhận đặc trưng
“tự thân tồn tại” của chúng.
- Nếu chủ nghĩa duy tâm phủ nhận đặc tính khách quan của vật chất,
dựa vào lực lượng tinh thần để giải thích thế giới, thì chủ nghĩa duy vật thừa
nhận sự tồn tại khách quan của thế giới vật chất, lấy bản thân giới tự nhiên để
giải thích tự nhiên. Lập trường đó là đúng đắn, song chưa đủ để các nhà duy
vật trước C. Mác sớm đi đến một quan niệm hoàn chỉnh về phạm trù nền tảng
này.
- Khuynh hướng chung trong phương pháp và quan niệm của các nhà
triết học duy vật cổ đại là tìm ra và đồng nhất vật chất với một vật thể cụ thể
đặc biệt, hay một nguyên thể nào đó. Vật thể này vừa là bản nguyên đầu tiên
sinh ra mọi sự vật, hiện tượng khác; vừa là thực thể duy nhất mà mọi sự vật,
hiện tượng sẽ hoá thành khi phân huỷ, diệt vong.

- Bước tiến mới trên con đường xây dựng quan niệm duy vật về vật
chất được thể hiện trong quan niệm của nhà triết học Hy Lạp cổ đại
Anaximan. Ông cho rằng, cơ sở đầu tiên của mọi vật trong vũ trụ là một dạng
vật chất đơn nhất, vô định, vô hạn và tồn tại vĩnh viễn đó là Apeirôn.

- Theo thuyết nguyên tử thì vật chất theo nghĩa bao quát nhất, chung
nhất không đồng nghĩa với những vật thể mà con người có thể cảm nhận
được một cách trực tiếp, mà là một lớp các phần tử hữu hình rộng rãi nằm sâu
trong mỗi sự vật, hiện tượng. Quan niệm này không những thể hiện một bước
tiến khá xa của các nhà triết học duy vật trong quá trình tìm kiếm một định
8

nghĩa đúng đắn về vật chất mà còn có ý nghĩa như một dự báo khoa học tài
tình của con người về cấu trúc của thế giới vật chất nói chung.

1.2. Cuộc cách mạng trong khoa học tự nhiên cuối thế kỷ XIX, đầu
thế kỷ XX và sự phá sản của các quan điểm duy vật siêu hình về vật chất

- Năm 1895, Rơnghen phát hiện ra tia X. Năm 1896, Béccơren phát
hiện ra hiện tượng phóng xạ của nguyên tố Urani. Năm 1897, Tômxơn phát
hiện ra điện tử. Năm 1901, Kaufman đã chứng minh được khối lượng của
điện tử không phải là bất biến, mà thay đổi theo vận tốc vận động của nguyên
tử. Năm 1898 – 1902, nhà nữ vật lý học Ba Lan Mari Scôlôđốpsca cùng với
chồng là Pie, nhà hoá học người Pháp, đã khám phá ra chất phóng xạ mạnh là
pôlôni và rađium. Những phát hiện vĩ đại đó chứng tỏ rằng nguyên tử không
phải là phần tử nhỏ nhất mà nó có thể bị phân chia, chuyển hoá. Năm 1905,
thuyết tương đối hẹp và năm 1916, thuyết tương đối tổng quát của A
Anhxtanh ra đời đã chứng minh: không gian, thời gian, khối lượng luôn biến
đổi cùng với sự vận động của vật chất.

- Đứng trước những phát hiện trên đây của khoa học tự nhiên, không ít
nhà khoa học và triết học đứng trên lập trường duy vật tự phát, siêu hình đã
hoang mang dao động, hoài nghi tính đúng đắn của chủ nghĩa duy vật. Họ cho
rằng: nguyên tử không phải là phần tử nhỏ nhất, mà có thể bị phân chia, tan rã,
bị “mất đi”, do đó vật chất cũng có thể biến mất.

- Tình hình trên đã làm cho nhiều nhà khoa học tự nhiên trượt từ chủ
nghĩa duy vật máy móc, siêu hình sang chủ nghĩa tương đối, rồi rơi vào chủ
nghĩa duy tâm. V. I. Lênin gọi đó là “chủ nghĩa duy tâm vật lý học” và coi đó
là “một bước ngoặt nhất thời”, là “thời kỳ ốm đau ngắn ngủi”, là “chứng
bệnh của sự trưởng thành”, là “một vài sản phẩm chết, một vài thứ cặn bã nào
đó phải vứt vào sọt rác”. Để khắc phục cuộc khủng hoảng này; V. I. Lênin
cho rằng: “Tinh thần duy vật cơ bản của vật lý học, cũng như của tất cả các
khoa học tự nhiên hiện đại, sẽ chiến thắng tất cả mọi thứ khủng hoảng, nhưng
với điều kiện tất yếu là chủ nghĩa duy vật biện chứng phải thay thế chủ nghĩa
duy vật siêu hình”3.
3
Sđd, tr.379.
9

1.3. Quan niệm của triết học Mác - Lênin về phạm trù vật chất

- C. Mác và Ph. Ăngghen trong khi đấu tranh chống chủ nghĩa duy
tâm, thuyết bất khả tri và phê phán chủ nghĩa duy vật siêu hình, máy móc
đã đưa ra những tư tưởng hết sức thiên tài về vật chất. Theo Ph. Ăngghen,
để có một quan niệm đúng đắn về vật chất, cần phải có sự phân biệt rõ
ràng giữa vật chất với tính cách là một phạm trù của triết học, một sáng
tạo của tư duy con người trong quá trình phản ánh hiện thực, tức vật chất
với tính cách là vật chất, với bản thân các sự vật, hiện tượng cụ thể của
thế giới vật chất.

- Kế thừa những tư tưởng thiên tài đó, V. I. Lênin đã tiến hành tổng kết
toàn diện những thành tựu mới nhất của khoa học, đấu tranh chống mọi biểu
hiện của chủ nghĩa hoài nghi, duy tâm đang lầm lẫn hoặc xuyên tạc những
thành tựu mới trong nhận thức cụ thể của con người về vật chất, mưu toan
bác bỏ chủ nghĩa duy vật, qua đó bảo vệ và phát triển xuất sắc quan niệm duy
vật biện chứng về phạm trù nền tảng này của chủ nghĩa duy vật.

- Để đưa ra được một quan niệm thực sự khoa học về vật chất, V. I.
Lênin đặc biệt quan tâm đến việc tìm kiếm phương pháp định nghĩa cho
phạm trù này. Thông thường, để định nghĩa một khái niệm nào đó, người ta
thực hiện theo cách quy khái niệm cần định nghĩa vào khái niệm rộng hơn nó
rồi chỉ ra những dấu hiệu đặc trưng của nó. Nhưng, theo V. I. Lênin, vật chất
thuộc loại khái niệm rộng nhất, rộng đến cùng cực, cho nên không thể có một
khái niệm nào rộng hơn nữa. Do đó, không thể định nghĩa khái niệm vật chất
theo phương pháp thông thường mà phải dùng một phương pháp đặc biệt -
định nghĩa nó thông qua khái niệm đối lập với nó trên phương diện nhận thức
luận cơ bản, nghĩa là phải định nghĩa vật chất thông qua ý thức.

V. I. Lênin đã đưa ra định nghĩa kinh điển về vật chất: “Vật chất là
một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con
người trong cảm, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh, và
tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”1.

Định nghĩa vật chất của V. I. Lênin bao hàm các nội dung sau đây:
1
V. I. Lênin, toàn tập, Nxb Tiến bộ, M. 1981, tập 18, tr. 151.
10

- Thứ nhất, vật chất là thực tại khách quan, ở bên ngoài ý thức và không lệ
thuộc vào ý thức.

+ Khi nói vật chất là một phạm trù triết học là muốn nói phạm trù này
là sản phẩm của sự trừu tượng hoá, không có sự tồn tại cảm tính. Nhưng khác
về nguyên tắc với mọi sự trừu tượng hoá mang tính chất duy tâm chủ nghĩa
về phạm trù này, V. I. Lênin nhấn mạnh rằng, phạm trù triết học này dùng để
chỉ cái “Đặc tính duy nhất của vật chất mà chủ nghĩa duy vật triết học gắn
liền với việc thừa nhận đặc tính này - là cái đặc tính tồn tại với tư cách là
hiện thực khách quan, tồn tại ở ngoài ý thức chúng ta”1.

+ Mọi sự vật, hiện tượng từ vi mô đến vĩ mô, từ những cái đã biết đến
những cái chưa biết, từ những sự vật “giản đơn nhất” đến những hiện tượng
vô cùng “kỳ lạ”, dù tồn tại trong tự nhiên hay trong xã hội cũng đều là những
đối tượng tồn tại khách quan, độc lập với ý thức con người, nghĩa là đều
thuộc phạm trù vật chất, đều là các dạng cụ thể của vật chất.

- Thứ hai, vật chất là cái mà khi tác động vào các giác quan con người
thì đem lại cho con người cảm giác.

+ Trái với quan niệm “khách quan” mang tính chất duy tâm về sự tồn
tại của vật chất, V. I. Lênin khẳng định rằng, vật chất luôn biểu hiện đặc tính
hiện thực khách quan của mình thông qua sự tồn tại không lệ thuộc vào ý
thức của các sự vật, hiện tượng cụ thể, tức là luôn biểu hiện sự tồn tại hiện
thực của mình dưới dạng các thực thể.

+ Chủ nghĩa duy vật triết học không bàn đến vật chất một cách chung
chung, mà bàn đến nó trong mối quan hệ với ý thức của con người. Trong đó,
xét trên phương diện nhận thức luận thì vật chất là cái có trước, là tính thứ
nhất, là cội nguồn của cảm giác (ý thức); còn cảm giác (ý thức) là cái có sau,
là tính thứ hai, là cái phụ thuộc vào vật chất. Đó cũng là câu trả lời theo lập
trường nhất nguyên duy vật của V. I. Lênin đối với mặt thứ nhất vấn đề cơ
bản của triết học.

1
V. I. Lênin, toàn tập, Nxb Tiến bộ, M. 1981, tập 18, tr. 321.
11

- Thứ ba, vật chất là cái mà ý thức của con người có thể phản ánh
được.

+ Chỉ có một thế giới duy nhất là thế giới vật chất. Trong thế giới ấy,
theo quy luật vốn có của nó mà đến một thời điểm nhất định sẽ cùng một lúc
tồn tại hai hiện tượng - hiện tượng vật chất và hiện tượng tinh thần.

+ Các hiện tượng vật chất luôn tồn tại khách quan, không lệ thuộc vào
các hiện tượng tinh thần. Còn các hiện tượng tinh thần (cảm giác, tư duy, ý
thức…), lại luôn luôn có nguồn gốc từ các hiện tượng vật chất và những gì có
được trong các hiện tượng tinh thần ấy (nội dung của chúng) chẳng qua cũng
chỉ là chép lại, chụp lại, là bản sao của các sự vật, hiện tượng đang tồn tại với
tính cách là hiện thực khách quan.

+ Khẳng định trên đây có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc bác bỏ
thuyết “bất khả tri”, đồng thời có tác dụng khuyến khích các nhà khoa học đi
sâu tìm hiểu thế giới vật chất, góp phần làm giàu kho tàng tri thức nhân loại.
Quan niệm của triết học Mác - Lênin về vật chất nói chung và định nghĩa
vật chất của V. I. Lênin nói riêng, không những đã giải quyết hai mặt vấn
đề cơ bản của triết học trên lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng.

2. Các hình thức tồn tại của vật chất

2.1. Vận động

- Sự tồn tại của thế giới vật chất hết sức phong phú và phức tạp. Vì thế,
với tư cách là một khái niệm triết học khái quát hình thức tồn tại của mọi sự
vật, hiện tượng vật chất, vận động không được hiểu như một hình thức vận
động cụ thể nào đó mà phải được hiểu theo nghĩa chung nhất là mọi sự biến
đổi nói chung. Vận động là phương thức tồn tại của vật chất.

- Trước hết, vận động là thuộc tính cố hữu của vật chất. Không ở
đâu và ở nơi nào lại có thể có vật chất không vận động. Các dạng tồn
tại cụ thể của vật chất không thể không có thuộc tính vận động. Thế
giới vật chất, từ những thiên thể khổng lồ đến những hạt cơ bản vô
cùng nhỏ, từ giới vô cơ đến giới hữu cơ, từ hiện tượng tự nhiên đến
12

hiện tượng xã hội, tất cả đều ở trạng thái không ngừng vận động, biến
đổi.

- Vật chất chỉ có thể tồn tại bằng cách vận động và thông qua vận động
mà biểu hiện sự tồn tại của nó với các hình dạng phong phú muôn vẻ vô tận. Do
đó, con người chỉ nhận thức được sâu sắc sự vật, hiện tượng bằng cách xem xét
chúng trong quá trình vận động. Nhận thức sự vận động của một sự vật, hiện
tượng chính là nhận thức bản thân sự vật, hiện tượng đó.

- Chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo cho rằng có vận động mà không có
vật chất, tức là có lực lượng phi vật chất vận động bên ngoài thế giới vật
chất. Một số nhà duy tâm còn viện dẫn cả những thành tựu của khoa học
hiện đại để minh chứng cho quan điểm của chủ nghĩa duy năng vốn ra đời
từ thế kỷ XIX. Họ giải thích mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau giữa khối
lượng và năng lượng thành sự biến đổi của khối lượng thành năng lượng
phi vật chất.

- Vận động là một thuộc tính cố hữu và là phương thức tồn tại của vật
chất, do đó, nó tồn tại vĩnh viễn, không thể tạo ra và không bị tiêu diệt. Quan
niệm về tính không thể tạo ra và không bị tiêu diệt của vận động đã được các
nhà khoa học tự nhiên chứng minh bằng quy luật bảo toàn và chuyển hoá năng
lượng.

Những hình thức vận động cơ bản của vật chất

- Hình thức vận động của vật chất rất đa dạng, được biểu hiện ra với
các quy mô, trình độ và tính chất hết sức khác nhau. Việc khám phá và phân
chia các hình thức vận động của vật chất diễn ra cùng với sự phát triển nhận
thức của con người. Dựa vào những thành tựu khoa học của thời đại mình,
Ph. Ăngghen đã chia vận động của vật chất thành năm hình thức cơ bản: cơ
học, vật lý, hoá học, sinh học và xã hội.

- Việc phân chia các hình thức vận động cơ bản có ý nghĩa quan trọng
đối với việc phân chia đối tượng và xác định mối quan hệ giữa các ngành
khoa học, đồng thời cũng cho phép vạch ra các nguyên lý đặc trưng cho sự
tương quan giữa các hình thức vận động của vật chất.
13

- Các hình thức vận động tồn tại trong mối liên hệ không thể tách rời
nhau. Giữa hai hình thức vận động cao và thấp có thể có hình thức vận động
trung gian, đó là những mắt khâu chuyển tiếp trong quá trình chuyển hoá lẫn
nhau của các hình thức vận động.

Vận động và đứng im.

- Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, đứng im là
khái niệm triết học phản ánh trạng thái ổn định về chất của sự vật, hiện
tượng trong những mối quan hệ và điều kiện cụ thể, là hình thức biểu
hiện sự tồn tại thực sự của các sự vật, hiện tượng và là điều kiện cho sự
vận động chuyển hoá của vật chất.
- Như vậy, đứng im chỉ có tính tạm thời, chỉ xảy ra trong một mối
quan hệ nhất định chứ không phải trong mọi mối quan hệ cùng một thời
điểm, chỉ xảy ra với một hình thức vận động nào đó, ở một lúc nào đó,
chứ không phải cùng một lúc đối với mọi hình thức vận động. Hơn nữa,
đứng im chỉ là sự biểu hiện của một trạng thái vận động – vận động trong
thăng bằng, trong sự ổn định tương đối.
- Quan điểm vận động đòi hỏi phải xem xét, đánh giá sự vật, hiện
tượng trong quá trình vận động, đồng thời khi tiến hành cải tạo sự vật, hiện
tượng phải thông qua những hình thức vận động vốn có, đặc trưng của chúng.

2.2. Không gian và thời gian

- Không gian và thời gian là những hình thức tồn tại của vật chất vận
động, được con người khái quát khi nhận thức thế giới. Không có không gian
và thời gian thuần tuý tách rời vật chất vận động. V. I. Lênin viết: “Trong thế
giới không có gì ngoài vật chất đang vận động và vật chất đang vận động
không thể vận động ở đâu ngoài không gian và thời gian”1.

- Không gian và thời gian là hai thuộc tính, hai hình thức tồn tại khác
nhau của vật chất vận động, nhưng chúng không tách rời nhau. Không có
sự vật, hiện tượng nào tồn tại trong không gian mà lại không có một quá

1
V. I. Lênin, toàn tập, Nxb Tiến bộ, M. 1980, tập 18, tr. 209.
14

trình diễn biến của nó. Cũng không thể có sự vật, hiện tượng nào có thời
gian tồn tại mà lại không có quảng tính, kết cấu nhất định.

- Sự phát triển của triết học và khoa học đã bác bỏ quan niệm sai lầm
của Niutơn về một không gian, thời gian thuần tuý, đồng nhất.

- Không gian và thời gian của vật chất nói chung là vô tận, xét về cả
phạm vi lẫn tính chất. Khoa học hiện đại đã chứng minh rằng trong thế giới
không ở đâu có tận cùng về không gian, cũng như không ở đâu có ngưng
đọng, không biến đổi hoặc không có sự tiếp nối của các quá trình. Không
gian và thời gian của một sự vật, hiện tượng cụ thể là có tận cùng và hữu hạn.

- Quan niệm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về không gian và thời
gian là cơ sở lý luận khoa học để đấu tranh chống lại quan niệm duy tâm, siêu
hình tách rời không gian và thời gian với vật chất vận động. Quan niệm đó
đòi hỏi phải quán triệt nguyên tắc phương pháp luận về tính lịch sử, cụ thể
trong việc xác định không gian và thời gian của sự vật, hiện tượng.

* Ý nghĩa phương pháp luận rút ra của định nghĩa vật chất của Lênin.
15

Ý THỨC, MỐI QUAN HỆ VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC

1. Phạm trù ý thức

1.1. Nguồn gốc của ý thức

Quan điểm của chủ nghĩa duy tâm

- Khi lý giải nguồn gốc ra đời của ý thức, các nhà triết học duy
tâm cho rằng, ý thức là nguyên thể đầu tiên, tồn tại vĩnh viễn, là nguyên
nhân sinh thành, chi phối sự tồn tại, biến đổi của toàn bộ thế giới vật
chất.

+ Chủ nghĩa duy tâm khách quan với những đại biểu như Platôn,
G. Hêghen đã tuyệt đối hoá vai trò của lý tính, khẳng định thế giới "ý
niệm", hay "ý niệm tuyệt đối" là bản thể, sinh ra toàn bộ thế giới hiện
thực. Ý thức của con người chỉ là sự "hồi tưởng" của "ý niệm", hay "tự ý
thức" lại "ý niệm tuyệt đối".

+ Còn chủ nghĩa duy tâm chủ quan với những đại biểu như
G.Béccơli, E.Makhơ lại tuyệt đối hoá vai trò của cảm giác, coi cảm giác
là tồn tại duy nhất, tiên thiên, sản sinh ra thế giới vật chất. Ý thức của
con người là do cảm giác sinh ra, nhưng cảm giác theo họ quan niệm
không phải là sự phản ánh thế giới khách quan, mà chỉ là cái vốn có của
mỗi cá nhân tồn tại tách biệt với thế giới bên ngoài.

Quan điểm của chủ nghĩa duy vật siêu hình.

- Đối lập với các quan niệm của chủ nghĩa duy tâm, các nhà duy vật
siêu hình phủ nhận tính chất siêu tự nhiên của ý thức, tinh thần. Họ xuất phát
từ thế giới hiện thực để lý giải nguồn gốc của ý thức. Tuy nhiên, do trình độ
phát triển khoa học của thời đại mà họ đang sống còn nhiều hạn chế và bị
phương pháp siêu hình chi phối nên những quan niệm về ý thức còn nhiều sai
lầm. Các nhà duy vật siêu hình đã đồng nhất ý thức với vật chất.
16

- Triệt để lợi dụng những sai lầm, hạn chế của chủ nghĩa duy tâm, duy
vật siêu hình trong quan niệm về ý thức, các giai cấp thống trị lấy đó làm cơ
sở lý luận, công cụ để nô dịch tinh thần quần chúng lao động.

Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng

- Dựa trên những thành tựu mới của khoa học tự nhiên, nhất là sinh lý
học - thần kinh hiện đại, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin đã
khẳng định rằng, xét về nguồn gốc tự nhiên, ý thức chỉ là thuộc tính của vật
chất; nhưng không phải của mọi dạng vật chất, mà là thuộc tính của một dạng
vật chất sống có tổ chức cao nhất là bộ óc người.

- Trái đất hình thành trải qua quá trình tiến hoá lâu dài dẫn đến sự xuất
hiện con người. Đó cũng là lịch sử phát triển năng lực phản ánh của thế giới
vật chất từ thấp đến cao, và cao nhất là trình độ phản ánh - ý thức. Phản ánh
là thuộc tính phổ biến của mọi dạng vật chất, được biểu hiện trong sự liên hệ,
tác động qua lại giữa các đối tượng vật chất với nhau.

- Lịch sử tiến hoá của thế giới vật chất đồng thời là lịch sử phát triển
thuộc tính phản ánh của vật chất. Giới tự nhiên vô sinh có kết cấu vật chất
đơn giản, do vậy trình độ phản ánh đặc trưng của chúng là phản ánh vật lý,
hoá học. Đó là trình độ phản ánh mang tính thụ động, chưa có sự định hướng,
lựa chọn. Giới tự nhiên hữu sinh ra đời với kết cấu vật chất phức tạp hơn, do
đó thuộc tính phản ánh cũng phát triển lên một trình độ mới khác về chất so
với giới tự nhiên vô sinh. Đó là trình độ phản ánh sinh học trong các cơ thể
sống có tính định hướng, lựa chọn, giúp cho các cơ thể sống thích nghi với
môi trường để tồn tại.

- Bộ óc người có cấu trúc đặc biệt phát triển, rất tinh vi và phức tạp,
bao gồm khoảng 14 - 15 tỷ tế bào thần kinh. Sự phân khu của não bộ và hệ
thống dây thần kinh liên hệ với các giác quan để thu nhận và xử lý thông tin
từ thế giới khách quan vào não bộ, hình thành những phản xạ có điều kiện và
không có điều kiện, điều khiển các hoạt động của cơ thể trong quan hệ với
thế giới bên ngoài. Ý thức là hình thức phản ánh đặc trưng chỉ có ở con người
và là hình thức phản ánh cao nhất của thế giới vật chất.
17

- Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác khẳng định rằng, ý thức không
những có nguồn gốc tự nhiên mà còn là và chủ yếu là một hiện tượng mang
bản chất xã hội. Để tồn tại con người phải tạo ra những vật phẩm để thoả
mãn nhu cầu của mình.

+ Ph. Ăngghen đã chỉ rõ những động lực xã hội trực tiếp thúc đẩy sự ra
đời ý thức của con người: "Trước hết là lao động; sau lao động và đồng thời
với lao động là ngôn ngữ; đó là hai sức kích thích chủ yếu đã ảnh hưởng đến
bộ óc của con vượn, làm cho bộ óc đó dần dần biến chuyển thành bộ óc con
người"1.

- Trải qua quá trình hoạt động thực tiễn lâu dài, trong những điều kiện
hoàn cảnh khác nhau, với nhiều loại đối tượng khác nhau; cùng với sự phát triển
của tri thức khoa học, các phương pháp tư duy khoa học cũng dần được hình
thành, phát triển giúp nhận thức lý tính của loài người ngày càng sâu sắc. Nhận
thức lý tính phát triển làm cho ý thức ngày càng trở nên năng động, sáng tạo
hơn.

- Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu vật chất mang nội dung ý thức. Nó
xuất hiện trở thành "vỏ vật chất" của tư duy; là hiện thực trực tiếp của ý thức;
là phương thức để ý thức tồn tại với tư cách là sản phẩm xã hội - lịch sử.
Cùng với lao động, ngôn ngữ có vai trò to lớn đối với sự tồn tại và phát triển
của ý thức. Ngôn ngữ (tiếng nói và chữ viết) vừa là phương tiện giao tiếp,
đồng thời vừa là công cụ của tư duy. Nhờ ngôn ngữ con người có thể khái
quát, trừu tượng hoá, suy nghĩ độc lập, tách khỏi sự vật cảm tính. Cũng nhờ
có ngôn ngữ mà con người có thể giao tiếp trao đổi tư tưởng với nhau, lưu
giữ, kế thừa những tri thức, kinh nghiệm phong phú của xã hội tích luỹ được
qua các thế hệ, các thời kỳ lịch sử.

- Như vậy, lao động và ngôn ngữ là hai sức kích thích chủ yếu làm
chuyển biến dần bộ óc của loài vượn người thành bộ óc con người và tâm lý
động vật thành ý thức con người. Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan
bởi bộ óc của con người. Nhưng không phải cứ có thế giới khách quan và bộ óc

1
C. Mác và Ph. Ăngghen, toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 1994, tập 20, tr. 646.
18

người là có ý thức, mà phải đặt chúng trong mối quan hệ với thực tiễn xã hội. Ý
thức là sản phẩm xã hội, một hiện tượng xã hội đặc trưng của loài người.

1.2. Bản chất của ý thức

- Chủ nghĩa duy vật biện chứng, trên cơ sở nhận thức đúng đắn nguồn
gốc ra đời của ý thức và nắm vững lý thuyết phản ánh đã luận giải một cách
khoa học bản chất của ý thức. Vật chất và ý thức là hai hiện tượng chung nhất
của thế giới hiện thực, mặc dù khác nhau về bản chất, nhưng giữa chúng luôn
có mối liên hệ không tách rời.

- Do vậy, muốn hiểu đúng bản chất của ý thức cần xem xét nó trong
mối quan hệ qua lại với vật chất, mà chủ yếu là đời sống hiện thực có tính
thực tiễn của con người. Bản chất ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới
khách quan1, là quá trình phản ánh tích cực, sáng tạo hiện thực khách quan
của óc người.

- Như vậy, khi xem xét ý thức từ mặt bản thể luận, thì ý thức chỉ là
"hình ảnh" về hiện thực khách quan trong óc người. Đây là đặc tính đầu tiên
để nhận biết ý thức. Đối với con người, cả ý thức và vật chất đều là hiện thực,
nghĩa là đều tồn tại thực.

- Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Về nội dung
mà ý thức phản ánh là khách quan, còn hình thức mà nó phản ánh là chủ
quan. Ý thức là cái vật chất ở bên ngoài "di chuyển" vào trong đầu óc của con
người và được cải biến đi ở trong đó.

- Ý thức có đặc tính tích cực, sáng tạo gắn bó chặt chẽ với thực tiễn xã
hội. Đây là một đặc tính căn bản để phân biệt trình độ phản ánh ý thức người
với trình độ phản ánh tâm lý động vật. Ý thức không phải là kết quả của sự
phản ánh ngẫu nhiên, đơn lẻ, thụ động thế giới khách quan. Trái lại, đó là kết
quả của quá trình phản ánh có định hướng, mục đích rõ rệt.

- Từ kết quả nghiên cứu nguồn gốc và bản chất của ý thức cho thấy: Ý
thức là hình thức phản ánh cao nhất riêng có của óc người về hiện thực
khách quan trên cơ sở thực tiễn xã hội - lịch sử.
1
V.I. Lênin, toàn tập, Nxb Tiến bộ, M. 1980, tập 18, tr. 138.
19

Ý thức không phải là cái không thể nhận thức được như chủ nghĩa duy
tâm quan niệm, nhưng nó cũng không phải cái tầm thường như người duy vật
tầm thường gán cho nó. Thực chất, ý thức chỉ là thuộc tính phản ánh của một
dạng vật chất đặc biệt là bộ óc người; nói cách khác, chỉ có con người mới có
ý thức.

1.3. Kết cấu của ý thức

Các lớp cấu trúc của ý thức.

- Khi xem xét ý thức với các yếu tố hợp thành các quá trình tâm lý tích
cực đem lại sự hiểu biết của con người về thế giới khách quan, ta có: tri thức,
tình cảm, niềm tin, ý chí...;

- Trong đó tri thức là nhân tố cơ bản, cốt lõi nhất. Muốn cải tạo được
sự vật, trước hết con người phải có sự hiểu biết sâu nội dung và phương thức
tồn tại cơ bản của ý thức phải là tri thức.

- Tình cảm là một hình thái đặc biệt của sự phản ánh tồn tại, nó phản
ánh quan hệ giữa người với người và quan hệ giữa người với thế giới khách
quan. Tình cảm tham gia và trở thành một trong những động lực quan trọng
của hoạt động con người. Sự hoà quyện giữa tri thức với tình cảm tạo nên
tính bền vững của niềm tin thôi thúc con người vươn lên trong mọi hoàn
cảnh.

- Ý chí chính là những cố gắng, nỗ lực, khả năng huy động mọi tiềm
năng trong mỗi con người vào hoạt động để có thể vượt qua mọi trở ngại đạt
mục đích đề ra. Nhận rõ vị trí, vai trò của các nhân tố cấu thành ý thức và
mối quan hệ giữa các yếu tố đó, đòi hỏi mỗi chủ thể phải luôn tích cực học
tập, rèn luyện, bồi dưỡng nâng cao tri thức, tình cảm, niềm tin, ý chí trong
nhận thức và cải tạo thế giới.

Các cấp độ của ý thức.

- Tự ý thức là ý thức hướng về nhận thức bản thân mình trong mối
quan hệ với ý thức về thế giới bên ngoài. Đây là một thành tố rất quan trọng
của ý thức, đánh dấu trình độ phát triển của ý thức.
20

- Tiềm thức là những hoạt động tâm lý diễn ra bên ngoài sự kiểm soát
của ý thức. Về thực chất, tiềm thức là những tri thức mà chủ thể đã có được
từ trước nhưng đã gần như trở thành bản năng, thành kỹ năng nằm trong tầng
sâu ý thức của chủ thể, là ý thức dưới dạng tiềm tàng.

- Vô thức là những hiện tượng tâm lý không phải do lý trí điều khiển,
nằm ngoài phạm vi của lý trí mà ý thức không kiểm soát được trong một lúc
nào đó. Chúng điều khiển những hành vi thuộc về bản năng, thói quen...
trong con người thông qua phản xạ không điều kiện.

2. Mối quan hệ vật chất và ý thức

2.1. Quan điểm của chủ nghĩa duy tâm và duy vật siêu hình

- Đối với chủ nghĩa duy tâm, ý thức, tinh thần vốn có của con người đã
bị trừu tượng hoá, tách khỏi con người hiện thực thành một lực lượng thần bí,
tiên thiên. Họ coi ý thức là tồn tại duy nhất, tuyệt đối, là tính thứ nhất từ đó
sinh ra tất cả; còn thế giới vật chất chỉ là bản sao, biểu hiện khác của ý thức
tinh thần, là tính thứ hai, do ý thức tinh thần sinh ra.

- Chủ nghĩa duy vật siêu hình, tuyệt đối hoá yếu tố vật chất, chỉ nhấn
mạnh một chiều vai trò của vật chất sinh ra ý thức, quyết định ý thức, phủ
nhận tính độc lập tương đối của ý thức, không thấy được tính năng động,
sáng tạo, vai trò to lớn của ý thức trong hoạt động thực tiễn cải tạo hiện thực
khách quan. Do vậy, họ đã phạm nhiều sai lầm có tính nguyên tắc bởi thái độ
khách quan chủ nghĩa, thụ động, ỷ lại, trông chờ.

2.2. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng

- Vật chất và ý thức là hai hiện tượng đối lập nhau về bản chất, nhưng
giữa chúng luôn có mối quan hệ biện chứng, mặc dù vai trò không ngang
bằng nhau. Về mặt nhận thức luận, cần quán triệt sâu sắc tư tưởng biện chứng
của V.I. Lênin, rằng "sự đối lập giữa vật chất và ý thức chỉ có ý nghĩa tuyệt
đối trong những phạm vi hết sức hạn chế: trong trường hợp này chỉ giới hạn
trong vấn đề nhận thức luận cơ bản là thừa nhận cái gì có trước và cái gì là
21

cái có sau? Ngoài giới hạn đó, thì không còn nghi ngờ gì nữa rằng sự đối lập
đó là tương đối"1.

- Các thành tựu của khoa học tự nhiên hiện đại đã chứng minh được
rằng, giới tự nhiên có trước con người; vật chất là cái có trước, còn ý thức là
cái có sau; vật chất là tính thứ nhất, còn ý thức là tính thứ hai. Vật chất tồn
tại khách quan, độc lập với ý thức và là nguồn gốc sinh ra ý thức.

- "Ý thức không bao giờ có thể là cái gì khác hơn là sự tồn tại được ý
thức"2. Ý thức chỉ là hình ảnh của thế giới khách quan. Sự phát triển của
hoạt động thực tiễn cả về bề rộng và chiều sâu là động lực mạnh mẽ nhất
quyết định tính phong phú và độ sâu sắc của nội dung của tư duy, ý thức
con người qua các thế hệ, qua các thời đại từ mông muội tới văn minh, hiện
đại.

- Nhưng sau khi ra đời, ý thức không tồn tại thụ động mà có tính độc
lập tương đối tác động trở lại đối với thế giới vật chất, thông qua hoạt động
thực tiễn của con người, chỉ đạo hoạt động cải tạo thế giới trong hiện thực
theo nhu cầu của con người thông qua thực tiễn.

- Sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thông qua hoạt động
của con người. Con người dựa trên những tri thức về thế giới khách quan,
hiểu biết những quy luật khách quan, từ đó đề ra mục tiêu, phương hướng,
biện pháp và ý chí quyết tâm cao để thực hiện thắng lợi mục tiêu đã xác
định.

Ý nghĩa phương pháp luận và vận dụng

- Nghiên cứu nắm vững nguồn gốc, bản chất về ý thức, mối quan hệ
vật chất - ý thức là cơ sở lý luận khoa học để khẳng định thế giới quan duy
vật biện chứng, chống chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật siêu hình
trong giải quyết vấn đề cơ bản của triết học và biết vận dụng linh hoạt lý luận
khoa học đó vào trong hoạt động thực tiễn, giải quyết đúng đắn mối quan hệ
khách quan - chủ quan đem lại hiệu quả trong hoát động thực tiễn.

1
V. I. Lênin, toàn tập, Nxb Tiến bộ, M. 1980, tập 18, tr. 173.
2
C. Mác và Ph. Ăngghen, toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 1995, tập 3, tr. 37.
22

- Khẳng định tính độc lập và vai trò to lớn của ý thức tinh thần, về thực
chất là để khẳng định vai trò to lớn của con người - chủ thể có ý thức đó. Do
đó về thực chất, sự tồn tại của đời sống xã hội là có tính chất thực tiễn.

- Khi nhận thức và hành động phải xuất phát từ bản thân sự vật, hiện
tượng của thực tế khách quan, không được xuất phát từ ý muốn chủ quan,
không lấy ý muốn chủ quan của mình làm cơ sở định ra chính sách, không
lấy ý chí áp đặt cho thực tế.

- Để thực hiện tốt nguyên tắc khách quan, chúng ta cần nắm vững một
vấn đề có ý nghĩa phương pháp luận khoa học: phải luôn tôn trọng khách
quan, xuất phát từ thực tế khách quan; đồng thời phát huy tính năng động,
sáng tạo chủ quan trong nhận thức và cải tạo thế giới. Nhận thức đúng đắn
khách quan là tiền đề xác định mục tiêu, phương hướng, nội dung, biện pháp
phù hợp làm cơ sở cho hoạt động thực tiễn của chủ thể từng bước cải biến
khách quan theo mục đích đặt ra.

- Đó là thực chất của nguyên tắc khách quan của triết học mácxít. Mặt
khác cần khắc phục và ngăn ngừa bệnh chủ quan, duy ý chí, cũng như thái độ
thụ động, ỷ lại, bảo thủ, trì trệ trong các hoạt động của con người.
23

QUY LUẬT CHUYỂN HOÁ TỪ NHỮNG SỰ THAY ĐỔI VỀ


LƯỢNG THÀNH NHỮNG SỰ THAY ĐỔI VỀ CHẤT VÀ NGƯỢC LẠI

1. Chất và lượng của sự vật, hiện tượng

- Quan niệm biện chứng về chất và lượng đạt được bước phát triển mới
trong triết học cổ điển Đức, đặc biệt là trong triết học G. Hêghen. Với quan
điểm biện chứng, G.Hêghen cho rằng chất phát triển từ “chất thuần tuý” đến
“chất được xác định” và đỉnh cao của sự phát triển ấy thì ra đời lượng. Lượng
cũng không ngừng tiến hoá, “số lượng” là đỉnh cao nhất trong sự tiến hoá của
lượng.

- G. Hêghen cũng xem xét tính độc lập tương đối giữa sự thay đổi về
lượng và sự thay đổi về chất trong một khoảng nhất định. Đây là sự luận giải
có tính khoa học về phạm trù “độ”. Trong diễn tiến của quá trình này, G.
Hêghen đặc biệt chú ý đến phạm trù bước nhảy. Chính dựa trên tư tưởng này
của G. Hêghen, mà V.I.Lênin đã rút ra một kết luận quan trọng rằng, việc có
thừa nhận bước nhảy hay không là tiêu chí cơ bản để xem đó là người theo
quan điểm biện chứng hay quan điểm siêu hình về sự phát triển.

- Sự ra đời của phép biện chứng duy vật đánh dấu một giai đoạn phát
triển quan trọng trong quan niệm về chất, lượng và quy luật về mối quan hệ
qua lại giữa sự thay đổi về lượng và sự thay đổi về chất nói chung.

Theo đó, chất là phạm trù triết học dùng để chỉ sự thống nhất hữu cơ
của các thuộc tính thành tính quy định khách quan vốn có của sự vật, hiện
tượng, làm cho nó là nó mà không phải là cái khác.

- Trước hết, chất của sự vật, hiện tượng được tạo nên bởi các thuộc
tính của nó, là sự thống nhất hữu cơ của các thuộc tính. Thuộc tính là những
tính chất của sự vật, là những cái vốn có của sự vật đó. Nhưng thuộc tính của
sự vật, hiện tượng chỉ được bộc lộ ra thông qua mối quan hệ của sự vật đó
với sự vật, hiện tượng khác.
24

- Như vậy, để nhận thức chất của sự vật với tư cách là tổng hợp của các
thuộc tính vốn có của nó, cần nhận thức sự vật trong tổng hợp các mối quan hệ
giữa sự vật đó với sự vật khác. Chất của sự vật không phải là một thuộc tính,
cũng không phải là sự cộng lại giản đơn các thuộc tính, mà là sự thống nhất hữu
cơ của các thuộc tính.

- Chất của sự vật, hiện tượng tồn tại khách quan, là cái để phân biệt sự
vật, hiện tượng này với sự vật, hiện tượng khác. Bởi vì, các sự vật khác nhau
có những đặc trưng, thuộc tính, những tính quy định khác nhau.

- Chủ nghĩa duy vật biện chứng còn chỉ rõ chất của sự vât không
những được xác định bởi chất của các yếu tố cấu thành mà còn bởi phương
thức liên kết giữa các yếu tố cấu thành sự vật đó.

- Như vậy, sự khác nhau về chất ấy được quyết định bởi phương thức
liên kết khác nhau của các phân tử các bon. Cho nên, chất của sự vật không
chỉ thay đổi khi có sự thay đổi những yếu tố cấu thành mà nó còn phụ thuộc
vào sự thay đổi phương thức liên kết giữa các yếu tố đó.

- Cùng với tính quy định về chất, bất kỳ sự vật nào cũng có tính quy
định về lượng của nó. Lượng là phạm trù triết học để chỉ số lượng các thuộc
tính, tổng số các bộ phận, các đại lượng biểu thị tính quy định vốn có của sự
vật, để phân biệt sự vật này với sự vật khác về quy mô, trình độ, nhịp điệu
của sự vận động, phát triển của sự vật đó.

- Lượng của sự vật tồn tại khách quan gắn với chất của sự vật, bất kỳ
một sự vật nào cùng với những tính quy định về chất bao giờ cũng có những
tính quy định về lượng. Ví dụ: hai chiếc bàn giống nhau về chất liệu, hình
dáng nhưng lại khác nhau về kích thước, v. v..

- Triết học Mác - Lênin chỉ rõ, lượng của sự vật vừa biểu hiện tính cụ
thể, vừa biểu hiện tính trừu tượng. Thật vậy, nhận thức về lượng của sự vật
có thể thông qua đong, đo, đếm được bằng các dụng cụ đo lường.

- Sự phân biệt chất và lượng của sự vật chỉ mang tính tương đối tuỳ quan
hệ xem xét. Có những tính quy định trong mối quan hệ này là biểu hiện chất của
sự vật, song trong mối quan hệ khác lại biểu thị lượng của sự vật và ngược lại.
25

2. Nội dung cơ bản của quy luật

- Trong quá trình vận động phát triển của sự vật, cả lượng và chất của nó
đều biến đổi. Nhưng không phải bất kỳ sự thay đổi nào của lượng cũng ngay
lập tức làm thay đổi bản chất của sự vật. Cả lý luận và thực tế đều cho thấy,
lượng của sự vật có thể thay đổi trong một giới hạn nhất định nào đó mà chất
của nó về căn bản vẫn không thay đổi. Đó chính là giới hạn mà lượng và chất
của sự vật là thống nhất với nhau, sự vật vẫn là nó chứ chưa trở thành cái khác.

- Tất nhiên, sự thay đổi về lượng chỉ cần vượt qua một giới hạn xác
định nào đó (đôi khi rất nhỏ) cũng có thể làm cho sự vật không còn là nó,
chất cũ mất đi, chất mới ra đời. Khuôn khổ (hay giới hạn xác định) mà trong
đó, sự thay đổi về lượng chưa làm thay đổi căn bản về chất của sự vật, được
gọi là “độ”. Độ là một phạm trù triết học dùng để chỉ sự thống nhất giữa
lượng và chất của sự vật, nó là khoảng giới hạn mà trong đó sự thay đổi về
lượng chưa làm thay đổi căn bản về chất của sự vật.

- Nhưng sự thống nhất giữa lượng và chất là sự thống nhất giữa hai
mặt đối lập có mối quan hệ chặt chẽ với nhau trong một sự vật. Với tư cách
là cái đặc trưng cho quy mô, tính chất, nhịp điệu của sự vật nên lượng thường
xuyên biến đổi hơn chất. Sự biến đổi về lượng diễn ra từ từ, nhỏ nhặt, chậm
chạp theo đường tiệm tiến trong sự phát triển. Trong thực tế sự biến đổi về
lượng diễn ra thường khó thấy và là quá trình biến đổi để tích tụ dần các
thuộc tính mới, mở rộng dần quy mô, tăng dần nhịp điệu vận động theo
hướng hình thành sự vật mới trong giới hạn “độ” của sự vật cũ.

- Trong hoạt động thực tiễn và trong nghiên cứu khoa học, cái khó
không phải là nhận thức được chất của sự vật mà ở chỗ tìm ra được quy luật
phát triển về lượng, tìm ra cái điểm nút của sự phát triển về lượng trong quá
trình biến đổi về chất. Mặc dù, không phải bất kỳ sự thay đổi nào về lượng
cũng dẫn đến sự thay đổi về chất, nhưng bất kỳ sự biến đổi nào về lượng
cũng có ảnh hưởng đến trạng thái tồn tại của sự vật, đến các thuộc tính của
nó.
26

- Những điểm giới hạn mà khi sự thay đổi về lượng đạt tới đó sẽ làm thay
đổi về chất của sự vật được gọi là điểm nút. Bất kỳ độ nào cũng được giới hạn
bởi hai điểm nút. Sự thay đổi về lượng đạt tới điểm nút sẽ dẫn tới sự ra đời của
chất mới. Sự thống nhất giữa lượng và chất mới tạo thành một độ mới với
những điểm nút mới. Sự liên kết giữa các điểm nút sẽ cho ta một đường nút
trong quá trình vận động, phát triển vô cùng tận của các sự vật, hiện tượng.

Sự thay đổi về chất do những sự thay đổi về lượng trước đó gây ra gọi
là bước nhảy. Nói cách khác, bước nhảy là một phạm trù triết học dùng để
chỉ giai đoạn chuyển hoá về chất của sự vật do những thay đổi về lượng
trước đó gây ra. Xét về bản chất, bước nhảy chính là sự đứt đoạn của tính
tiệm tiến về lượng, là sự tích hợp giữa tính liên tục và tính gián đoạn trong sự
phát triển.

- Sau khi ra đời, chất mới có tác động trở lại sự thay đổi của lượng. V. I.
Lênin đã khẳng định: “sự chuyển hoá lượng thành chất và ngược lại”1. Sở dĩ
như vậy là vì, nói đến chất mới, là nói đến những thuộc tính mới, những quan hệ
mới của sự vật, hiện tượng.

-Từ những điều trình bày trên đây, có thể rút ra nội dung cơ bản của
quy luật chuyển hoá từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi
về chất và ngược lại như sau: Bất kỳ sự vật nào cũng là sự thống nhất giữa
chất và lượng, sự thay đổi dần dần về lượng vượt qua giới hạn của độ sẽ dẫn
tới sự thay đổi căn bản về chất của sự vật thông qua bước nhảy tại điểm nút;
chất mới ra đời sẽ tác động trở lại tới sự thay đổi của lượng

3. Các hình thức của bước nhảy

- Xét về mặt thời gian của sự thay đổi về chất của sự vật và dựa trên
tính chất, nhịp điệu của sự thay đổi có bước nhảy đột biến và bước nhảy dần
dần. Bước nhảy đột biến là sự biến đổi diễn ra một cách nhanh chóng, trong
một thời gian ngắn làm thay đổi căn bản chất của sự vật.

- Xét về quy mô của sự biến đổi về chất của sự vật có bước nhảy toàn
bộ và bước nhảy cục bộ. Bước nhảy toàn bộ là bước nhảy làm thay đổi về

1
V. I. Lênin, toàn tập, Nxb Tiến bộ, M. 1981, tập 29, tr. 240.
27

chất trên tất cả các mặt, các bộ phận, các yếu tố cấu thành sự vật. Bước nhảy
toàn bộ làm thay đổi cả một thời kỳ lịch sử, cả một giai đoạn phát triển của
toàn bộ sự vật, hiện tượng.
- Trong xã hội xem xét sự thay đổi về lượng và thay đổi về chất còn có
thể tiếp cận sự thay đổi mang tính chất cách mạng và sự thay đổi mang tính
chất tiến hoá. Cách mạng là sự thay đổi của xã hội mà trong quá trình đó diễn
ra sự cải tạo căn bản về chất. Tiến hoá là sự thay đổi về lượng cùng với
những biến đổi nhất định về chất trong xã hội.
Ý nghĩa phương pháp luận và vận dụng của quy luật
- Trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn phải biết kiên trì tích luỹ
về lượng, biết chuẩn bị mọi điều kiện thuận lợi cho sự biến đổi về chất. Bởi vì, sự
vận động, phát triển của sự vật bao giờ cũng bắt đầu và diễn ra từ sự tích luỹ, biến
đổi dần dần về lượng, đến một giới hạn nhất định thực hiện bước nhảy về chất.
- Trong hoạt động thực tiễn khi thời cơ xuất hiện, tức là sự biến đổi về
lượng đã đến điểm nút, phải nhanh chóng nắm bắt và chớp thời cơ để thực
hiện bước nhảy về chất. Phải chống bảo thủ, trì trệ, hữu khuynh, ngại đổi
mới v. v.. coi sự phát triển chỉ là sự thay đổi đơn thuần về lượng.

- Trong lĩnh vực xã hội phải thấy được mối quan hệ giữa quá trình tiến
hoá và cách mạng. Sự phát triển của xã hội phải đi từ tiến hoá đến cách mạng
và cách mạng là kết quả của sự tiến hoá. Đây là cơ sở phương pháp luận cho
việc đề ra đường lối chiến lược và sách lược cách mạng của Đảng ta.

- Vì chất của sự vật còn phụ thuộc vào phương thức liên kết giữa các
yếu tố tạo thành sự vật, do đó, trong hoạt động thực tiễn phải biết nghiên cứu
hoàn chỉnh và tác động vào phương thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành sự
vật trên cơ sở hiểu rõ bản chất, quy luật, kết cấu của sự vật đó để tao nên sự
biến đổi về chất theo hướng phục vụ lợi ích của chủ thể.
28

QUY LUẬT THỐNG NHẤT VÀ ĐẤU TRANH


CỦA CÁC MẶT ĐỐI LẬP

1. Mặt đối lập và mâu thuẫn

- Mặt đối lập và mâu thuẫn là hai phạm trù có quan hệ chặt chẽ với
nhau những không phải là một. Để có được một quan niệm thực sự khoa học
về hai phạm trù này cũng như mối quan hệ nội tại giữa chúng là cả một quá
trình lịch sử lâu dài, gắn liền với sự phát triển quan niệm của con người về
nguồn gốc, động lực của sự vận động, phát triển.

- Trước khi phép biện chứng mácxít ra đời, tư tưởng biện chứng về
những đối lập đạt được đỉnh cao nhất trong sự phát triển của nó trong học
huyết biện chứng của các nhà triết học cổ điển Đức, tiêu biểu nhất là ở triết
học của I. Cantơ và G.Hêghen.

- Khi nghiên cứu phép biện chứng trong sự vận động, phát triển của “ý
niệm tuyệt đối”, G.Hêghen đã kịch liệt phê phán quan điểm siêu hình về sự
đồng nhất.

- Bằng việc kết thừa những thành quả tư tưởng biện chứng về mâu thuẫn
và bằng việc tổng kết từ thực tế lịch sử loài người, các nhà kinh điển của chủ
nghĩa Mác đã phát triển học thuyết về mâu thuẫn lên một tầm cao mới. Theo
đó, mâu thuẫn là phạm trù dùng để chỉ các mặt đối lập có mối quan hệ biện
chứng với nhau, cùng tồn tại trong một sự vật, hiện tượng. Mâu thuẫn trong
phép biện chứng, trước hết được cấu thành bởi các mặt đối lập.

2. Nội dung cơ bản của quy luật

-Trước hết, hai mặt đối lập tuy có khuynh hướng biến đổi trái ngược
nhau, nhưng chúng lại gắn bó chặt chẽ với nhau, cùng tồn tại trong sự thống
nhất của chúng. Sự thống nhất của các mặt đối lập là sự nương tựa vào nhau,
đòi hỏi có nhau của mặt đối lập, sự tồn tại của mặt này phải lấy s tồn tại của
mặt kia làm tiền đề. Nói cách khác, cũng có thể xem sự thống nhất của hai
mặt đối lập là tính không thể tách rời nhau của hai mặt đó.
29

- Giữa các mặt đối lập bao giờ cũng có những nhân tố giống nhau,
“đồng nhất” với nhau. Đó là một biểu hiện khác về sự thống nhất của các
mặt đối lập. Do có sự “đồng nhất” này mà trong sự triển khai của mâu thuẫn,
đến một lúc nào đó, mặt đối lập này có thể chuyển hoá sang mặt đối lập kia
(khi xét về một vài đặc trưng nào đó).

- Sự thống nhất của các mặt đối lập còn biểu hiện ở sự tác động ngang
nhau của chúng. Tồn tại trong sự gắn bó chặt chẽ với nhau nhưng lại có khuynh
hướng vận động trái ngược nhau, do đó, đến một lúc nào đó trong quá trình phát
triển của mâu thuẫn, tương quan giữa các mặt đối lập là cân bằng và chúng có
vai trò, tác dụng ngang nhau đối với sự vật.
- Tồn tại trong một thể thống nhất, hai mặt đối lập luôn tác động qua
lại với nhau, “đấu tranh” với nhau. Đấu tranh giữa các mặt đối lập là sự tác
động qua lại theo xu hướng bài trừ và phủ định lẫn nhau giữa chúng.
Như vậy, trong một mâu thuẫn, “đấu tranh” giữa các mặt đối lập là mặt
đối lập với sự “thống nhất” của chúng. Sự thống nhất duy trì tính nương tựa vào
nhau, đồng nhất và tác dụng ngang nhau, còn đấu tranh lại phá vỡ hiện trạng ấy
bằng việc làm gia tăng sự khác nhau và đối lập giữa các mặt của mâu thuẫn.
- Với tính cách là hai trạng thái đối lập nhau trong biện chứng của mâu
thuẫn, sự thống nhất và đấu tranh của hai mặt đối lập có quan hệ chặt chẽ với
nhau. Sự thống nhất duy trì sự đứng im, sự ổn định tạm thời của mâu thuẫn, do
đó, nó là cơ sở, tiền đề cho đấu tranh, chuyển hoá của các mặt đối lập. Sự đấu
tranh trực tiếp quy định sự vận động, sự phát triển không ngừng của mâu thuẫn,
do đó, nó vừa là thực chất, vừa là nội lực quy định sự thay thế lẫn nhau của các
trình độ thống nhất.
- Như vậy, trong phép biện chứng duy vật, mâu thuẫn xét về thực chất, là
sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập. Nhưng không phải sự thống
nhất thuần tuý mà là sự thống nhất gắn bó hữu cơ với đấu tranh; cũng không
phải là sự đấu tranh chung chung mà là sự đấu tranh gắn bó hữu cơ với sự thống
nhất mới là nguyên nhân chân chính, cuối cùng cho sự vận động, biến đổi của
mọi mâu thuẫn nói chung, do đó, cũng là nguyên nhân chân chính cuối cùng cho
sự vận động, biến đổi của từng sự vật, hiện tượng nói riêng.
30

- Sự vận động và phát triển bao giờ cũng là sự thống nhất giữa tính ổn
định và tính thay đổi. Thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập quy định
những tính chất ấy của sự vật. Khi coi “thống nhất” như là một trường hợp
đặc biệt của “đấu tranh” thì hoàn toàn có thể định nghĩa: “Sự phát triển là
một cuộc “đấu tranh” giữa các mặt đối lập”1.

- Từ những điều trình bày trên đây, có thể nêu thực chất quy luật thống
nhất và đấu tranh của các mặt đối lập như sau: Mọi sự vật và hiện tượng đều
chứa đựng những mặt đối lập cấu thành những mâu thuẫn nội tại; sự thống
nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là nguồn gốc, động lực của mọi sự vận
động và phát triển.

3. Phân loại mâu thuẫn

- Căn cứ vào quan hệ giữa các mặt đối lạp đối với một sự vật, người ta phân
loại các mâu thuẫn thành những mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên
ngoài.
- Mâu thuẫn bên trong là sự tác động qua lại giữa các mặt, các khuynh
hướng đối lập của cùng một sự vật. Mâu thuẫn bên ngoài đối với một sự vật
là mâu thuẫn diễn ra trong mối liên hệ giữa sự vật đó với các sự vật khác.
- Mâu thuẫn bên trong có vai trò quyết định trực tiếp đối với quá
trình vận động và phát triển của sự vật. Tuy nhiên, mâu thuẫn bên trong
và mâu thuẫn bên ngoài lại vận động trong sự tác động lẫn nhau. Mỗi
bước giải quyết mâu thuẫn này lại tạo điều kiện để giải quyết mâu thuẫn
kia.
- Dựa trên ý nghĩa đối với sự tồn tại và phát triển của toàn bộ sự vật,
các mâu thuẫn được chia thành mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ
bản.
+ Mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn quy định bản chất của sự vật, quy
định sự phát triển ở tất cả các giai đoạn của sự vật, nó tồn tại trong suốt quá
trình tồn tại của sự vật.

1
V.I.Lênin, toàn tập, Nxb Tiến bộ, M. 1981, tập 29, tr. 379
31

+ Mâu thuẫn không cơ bản là mâu thuẫn đặc trưng cho một phương
diện nào đó của sự vật, nó quy định sự vận dộng và phát triển của một mặt
nào đó của sự vật
- Căn cứ vào vai trò của mâu thuẫn đối với sự tồn tại và phát triển của
sự vật trong một giai đoạn nhất định, các mâu thuẫn được chia thành mâu
thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn thứ yếu.
+ Mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn nổi lên hàng đầu ở một giai đoạn
phát triển nhất định của sự vật, giải quyết nó sẽ tạo điều kiện để giải quyết
mâu thuẫn khác ở cùng giai đoạn (những mâu thuẫn thư yếu).

+ Mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn chủ yếu có quan hệ chặt chẽ với
nhau, trong đó, mâu thuẫn chủ yếu có thể là một hình thức biểu hiện nổi bật
của mâu thuẫn cơ bản hay là kết quả vận động tổng hợp của các mau thuẫn
cơ bản ở một giai đoạn nhất định; việc giải quyết mâu thuẫn chủ yếu tạo điều
kiện giải quyết từng bước mâu thuẫn cơ bản.

- Căn cứ vào tính chất các lợi ích đối lập tạo thành mâu thuẫn xã hội,
người ta chia các mâu thuẫn trong xã hội thành mâu thuẫn đối kháng và mâu
thuẫn không đối kháng.

Hoạt động thực tiễn nhằm biến đổi sự vật là quá trình giải quyết mâu
thuẫn của nó. Muốn vậy, phải xác định đúng trạng thái chín muôpì của mâu
thuẫn; tìm ra phương thức, phương tiện và lực lượng có khả năng giải quyết
mâu thuẫn và tổ chức thực tiễn để giải quyết mâu thuẫn một cách thực tế.

Ý nghĩa phương pháp luận và vận dụng

- Muốn nhận thức đúng bản chất của sự vật, hiện tượng, tìm ra phương
hướng và giải pháp đúng cho hoạt động thực tiễn phải nhận thức đúng mâu
thuẫn của sự vật, tìm ra những mặt, những mối liên hệ, tác động qua lại lẫn
nhau giữa chúng.

- Phải nhận thức rõ vai trò của từng mâu thuẫn và mối quan hệ giữa
các mâu thuẫn, điều kiện chuyển hoá giữa chúng. Trên cơ sở đó tìm ra
phương thức, phương tiện, lực lượng để giải quyết mâu thuẫn.
32

- Khi phân tích mâu thuẫn, phải xem xét quá trình phát sinh, phát triển
của từng mâu thuẫn và mối quan hệ lẫn nhau của mâu thuẫn; hiểu đúng mâu
thuẫn của sự vật, xu hướng vận động, phát triển và điều kiện để giải quyết
mâu thuẫn.

QUY LUẬT PHỦ ĐỊNH CỦA PHỦ ĐỊNH

1. Phủ định và phủ định biện chứng

- Trong lịch sử triết học đã có nhiều cách lý giải khác nhau về sự phủ
định và về nguyên nhân của sự thay thế lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng.
Các nhà triết học duy tâm thường luận giải nguyên nhân của sự phủ định từ ý
thức, tinh thần hoặc từ một lực lượng siêu tự nhiên ở bên ngoài sự vật, hiện
tượng.

- Các nhà triết học siêu hình cũng đã bàn đến quan niệm về sự phủ định
và sự thay thế lẫn nhau của các sự vật, hiện tượng trong thế giới vật chất, song
họ lại quan niệm đó là một sự phủ định sạch trơn, không có kế thừa, lọc bỏ. Họ
phủ nhận tính khách quan của quá trình phủ định, họ hiểu nguyên nhân của sự
phủ định là từ bên ngoài, làm phá huỷ, thủ tiêu sự vật, chấm dứt sự phát triển
của sự vật; không thừa nhận sự phát triển là do những nguyên nhân bên trong
của mỗi sự vật, hiện tượng.

- Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, sự vận động, phát
triển của thế giới vật chất luôn diễn ra sự thay thế lẫn nhau của các sự vật,
hiện tượng; cái cũ mất đi, cái mới ra đời là do quá trình tích luỹ liên tục về
lượng, đến một giới hạn nhất định tạo nên những biến đổi về chất, do sự
thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập bên trong bản thân mỗi sự vật,
hiện tượng.
33

- Phủ định biện chứng là phạm trù triết học chỉ quá trình tự phủ định,
tự phát triển do nguyên nhân bên trong mỗi sự vật, hiện tượng, cái cũ mất đi,
cái mới ra đời trên cơ sở kế thừa những yếu tố tiến bộ và tích cực trong lòng
cái cũ, tạo ra điều kiện, tiền đề cho bước phát triển tiếp theo.

- Trước hết, phủ định biện chứng là quá trình tự thân phủ định. Đây là
đặc trưng cơ bản nhất của sự phủ định biện chứng. Sự vật cũ mất đi, sự vật
mới ra đời là do quá trình chuyển hoá từ những thay đổi về lượng thành
những thay đổi về chất và ngược lại, quá trình chuyển hoá đó lại xuất phát từ
nguyên nhân bên trong của mỗi sự vật, hiện tượng, là do sự đấu tranh giữa
các mặt đối lập, làm cho các mặt đối lập tự bài trừ, phủ định lẫn nhau để giải
quyết các mâu thuẫn vốn có tồn tại của mỗi sự vật, hiện tượng.

- Do đó, phủ định biện chứng mang tính khách quan, không lệ thuộc
vào ý thức của con người, hoặc lệ thuộc vào bất cứ một lực lượng siêu nhiên,
thần bí nào.

- Trong tự nhiên phủ định biện chứng là sự thay thế lẫn nhau của các
giống loài sinh vật là điều kiện tiền đề cho quá trình tiến hoá từ thấp đến cao,
từ đơn giản đến phức tạp của bản thân các giống loài sinh vật đó. Trong xã
hội phủ định biện chứng là sự thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế - xã
hội, các phương thức sản xuất vật chất và sản xuất ra đời sống tinh thần của
xã hội. Trong tư duy phủ định biện chứng là sự thay thế lẫn nhau của các tư
tưởng, của nhận thức, lý luận.

- Phủ định biện chứng được thực hiện bằng con đường tự thân phủ
định, tự thân phát triển trên cơ sở giải quyết mâu thuẫn vốn có bên trong sự
vật, hiện tượng, cho nên cái mới ra đời không thủ tiêu hoàn toàn cái bị phủ
định. Trái lại, để phát triển (ra đời cái mới), quá trình phủ định biện chứng
không đoạn tuyệt hoàn toàn với cái cũ mà nó giữ lại những nội dung tích cực,
tiến bộ của cái bị phủ định, làm cho cái mới phát triển ngày càng hoàn thiện
hơn. Do vậy, phủ định biện chứng mang tính kế thừa, đây là một tiêu chí căn
bản để phân biệt phủ định biện chứng và phủ định siêu hình.
34

- Tính kế thừa là một đặc trưng cơ bản, là nhân tố duy trì mối liên hệ
giữa cái cũ và cái mới, giữa cái phủ định và cái khẳng định, giữa các giai đoạn
phát triển khác nhau của sự vật, hiện tượng, giữa quá khứ, hiện tại và tương
lai. Nội dung kế thừa trong phủ định biện chứng là giữ lại, bảo tồn, duy trì
những yếu tố tích cực, tiến bộ và hợp quy luật và khuynh hướng vận động phát
triển của sự vật, hiện tượng, giữ lại, duy trì những yếu tố tạo tiền đề, điều kiện
cho sự phát triển tiếp theo.

- Chủ nghĩa xã hội ra đời là kết quả của sự kế thừa những thành tựu
phát triển rực rỡ trong chủ nghĩa tư bản: lực lượng sản xuất, cơ sở vật chất
kỹ thuật, khoa học và văn hoá, v.v.. Tất nhiên, những yếu tố đó phải được
cải biến trên cơ sở của một cái mới, cho phù hợp với sự phát triển của xã
hội mới. Trong lĩnh vực nhận thức, các học thuyết khoa học ra đời sau bao
giờ cũng phải kế thừa những giá trị tư tưởng của các học thuyết khoa học
ra đời trước, v.v..

2. Nội dung cơ bản của quy luật

Chủ nghĩa duy vật biện chứng không những khẳng định phủ định biện chứng
là một vòng khâu, một giai đoạn của sự phát triển mà còn khẳng định cơ chế nội tại,
theo đó các lần phủ định biện chứng gắn kết với nhau để đem đến sự phát triển chính
là tính chất chu kỳ của chúng.

- Cái mới ra đời thay thế cái cũ bao giờ cũng diễn ra theo chu kỳ từ
khẳng định đến phủ định và từ phủ định đến phủ định của phủ định. Tính chu
kỳ của sự phát triển, con đường phát triển thông qua phủ định của phủ định
đã được một số nhà triết học trước C. Mác với phương pháp tư duy biện
chứng thừa nhận luận giải, đặc biệt là G. Hêghen, người đầu tiên trình bày
tương đối đầy đủ nội dung cơ bản của quy luật phủ định của phủ định, qua đó
ông đã có những phỏng đoán thiên tài về sự vận động, phát triển của thế giới
thông qua những chu kỳ của sự phát triển.

- Trên lập trường thế giới quan duy vật và phương pháp biện chứng,
cách mạng, C. Mác, Ph. Ăngghen và V. I. Lênin đã loại bỏ được những yếu
tố duy tâm, thần bí và hư vô, đồng thời giữ lại, kế thừa những hạt nhân hợp lý
35

của phép biện chứng G. Hêghen trong đó có tư tưởng về phủ định của phủ
định. C. Mác, Ph. Ăngghen và V. I. Lênin đã luận giải quy luật phủ định của
phủ định trong giới tự nhiên, trong xã hội và lĩnh vực tư duy của con, qua đó
đã khẳng định tính khách quan và phổ biến của quy luật này, "Một quy luật
phát triển của tự nhiên, của lịch sử và của tư duy vô cùng phổ biến và chính
vì vậy mà nó có một tầm quan trọng và có tác dụng vô cùng to lớn"1.

- Như vậy, tính chu kỳ, tính lặp lại diễn ra trong các sự vật, hiện tượng
là biểu hiện và đặc trưng quan trọng nhất của sự phát triển thông qua những
lần phủ định biện chứng. Số lần phủ định trong một chu kỳ có thể nhiều, ít
khác nhau tuỳ theo từng sự vật, hiện tượng và quá trình cụ thể, nhưng về thực
chất, trong một chu kỳ phủ định của phủ định phải trải qua ít nhất hai lần phủ
định cơ bản có đặc điểm và tính chất hoàn toàn khác nhau: phủ định lần một
và phủ định lần hai.

- Phủ định lần một là quá trình phủ định biện chứng nhằm chuyển hoá
cái xuất phát ban đầu (cái khẳng định) sang cái đối lập với nó (cái phủ định)
để tạo ra bước trung gian trong sự phát triển của sự vật. Cái mới ra đời thông
qua cuộc đấu tranh giữa các mặt đối lập, loại bỏ được những mặt tiêu cực và
kế thừa những yếu tố tích cực, cơ bản của cái cũ để tạo ra cái đối lập với sự
vật ban đầu cả nội dung và hình thức.

- Phủ định lần hai nhằm chuyển hoá khâu trung gian (cái phủ định)
sang cái đối lập với nó, sự vật mới ra đời dường như lặp lại cái ban đầu (cái
khẳng định), nhưng trên cơ sở cao hơn. Phủ định lần hai là sự tổng hợp các
nhân tố tích cực đã được phát triển vững chắc trong cái phủ định và được bổ
sung nhiều nhân tố mới. Do vậy, kết quả của phủ định lần hai đã nói rõ được
sự phát triển của sự vật, hiện tượng. Phủ định lần hai được gọi là phủ định
của phủ định.

- Về nguyên tắc, một chu kỳ của sự phát triển (phủ định của phủ định)
phải trải qua ít nhất hai lần phủ định cơ bản, khác nhau về chất. Sau mỗi lần
phủ định cơ bản đó, sự vật, hiện tượng phải chuyển hoá sang cái đối lập với

1
C. Mác và Ph.Ăng ghen, toàn tập, Nxb CTQG. Hà Nội 1994, tập 20, tr. 202.
36

cái xuất phát ban đầu, từ cái khẳng định sang cái phủ định, hoặc từ cái phủ
định trở lại cái khẳng định nhưng trên cơ sở cao hơn.

- Sau lần phủ định cơ bản thứ hai sự vật dường như lặp lại cái ban đầu
nhưng trên cơ sở cao hơn. Đây là đặc điểm quan trọng của phủ định của phủ
định. Tuy nhiên, sự lặp lại ở đây không phải lặp lại máy móc, nguyên xi cái
ban đầu, mà trên cơ sở cao hơn. Sự phát triển hình như diễn lại những giai
đoạn đã qua nhưng dưới hình thức khác, ở một trình độ cao hơn.

- Do tính chất chu kỳ phủ định của phủ định, do tính lặp lại một số
mặt, một số yếu tố ban đầu trên cơ sở mới cao hơn, nên sự vận động, phát
triển của sự vật, hiện tượng trong thế giới vật chất không diễn ra theo đường
thẳng, mà có những bước quanh co, phức tạp theo đường “xoáy ốc”. Hình
thức xoáy ốc là biểu thị khuynh hướng và con đường tiến lên trong quá trình
phát triển của các sự vật, hiện tượng.

- Hình thức “xoáy ốc” là sự biểu thị rõ ràng, đầy đủ các đặc trưng
cơ bản của quá trình phát triển thông qua phủ định của phủ định: tính chu
kỳ, tính kế thừa, tính lặp lại nhưng không quay trở lại và tính chất tiến
lên của sự phát triển. Mỗi vòng mới của đường “xoáy ốc” thể hiện một
trình độ cao hơn của sự phát triển, đồng thời dường như quay trở lại cái
đã qua, dường như lặp lại vòng trước, nhưng không bao giờ trùng khít lên
nhau. Mỗi vòng “xoáy ốc” thể hiện mối liên hệ ràng buộc không tách rời
nhau trong quá trình vận động, phát triển của sự vật.

- Khuynh hướng chung của sự phát triển là vận động tiến lên, nhưng
những yếu tố riêng lẻ của sự vận động đó có thể không tiến lên, mà thụt lùi,
thoái bộ. Nói cách khác, phát triển là khuynh hướng chung của toàn bộ thế
giới vật chất, nhưng từng sự vật, hiện tượng cụ thể thì có sự phát sinh, phát
triển và diệt vong.

- Phủ định của phủ định không chỉ diễn tả tính chất chu kỳ, tính phức
tạp, tính lặp lại, mà còn khẳng định phát triển là một quá trình tất yếu dẫn
đến sự ra đời của cái mới. Phát triển dù có quanh co phức tạp nhưng cuối
cùng cái mới nhất định sẽ chiến thắng cái cũ. Bởi vì, cái mới là cái tiến bộ, tích
37

cực, đại diện cho xu hướng đi lên, là giai đoạn cao về chất trong sự phát triển, biểu
hiện khuynh hướng phát triển tất yếu và là kết quả của quá trình phát triển hợp quy
luật của các sự vật, hiện tượng. Do vậy, cái mới thay thế cái cũ là tất yếu trong xu
thế phát triển của sự vật, đóng vai trò là động lực của sự phát triển.

- Nghiên cứu sự xuất hiện của cái mới cũng cần phân biệt cái mới đích thực
với cái mới giả hiệu, cái giả mới. Cái giả mới, cái mới giả hiệu, thực chất là cái cũ,
cái lỗi thời được nguỵ trang, đội lốt và được tái tạo lại dưới hình thức mới.

- Từ những sự phân tích trên có thể khái quát nội dung cơ bản của quy luật
phủ định của phủ định như sau: Phát triển là quá trình cái mới phủ định cái cũ; cái
mới vừa gạt bỏ cái cũ, vừa kế thừa những hạt nhân hợp lý trong lòng cái cũ theo
chu kỳ phủ định của phủ định để khẳng định sự tiến lên; con đường tiến lên trong
quá trình phát triển, do đó, không theo đường thẳng mà theo đường “xoáy ốc”; cái
mới là cái tất thắng.

Ý nghĩa phương pháp luận và vận dụng

- Quy luật phủ định của phủ định giúp ta hiểu đúng xu hướng của sự
phát triển, do đó xem xét sự vật phải phân tích bản chất của nó để vạch ra
chiều hướng phát triển cơ bản, đồng thời dự kiến được những bước quanh co
trong sự phát triển, đặc biệt là sự vận động, phát triển của xã hội loài người.

- Trong hoạt động thực tiễn cần chú ý đến tất cả các bước phủ định cơ
bản và các khâu trung gian, quá độ của sự vật, hiện tượng.

- Trong khi phủ định cái cũ, cần biết sàng lọc, kế thừa những yếu tố
hợp lý, những tinh hoa của cái cũ; chống thái độ phủ định sạch trơn, không
thấy mối liên hệ giữa quá khứ, hiện tại và tương lai.

- Nhận thức đúng đắn con đường của sự phát triển thông qua những
chu kỳ phủ định của phủ định là cơ sở để xây dựng thế giới quan duy vật và
phương pháp luận khoa học trong xem xét các vấn đề thời đại, xây dựng lòng
tin vào tương lai, vào sự tất thắng của cái mới với tinh thần lạc quan cách
mạng, xây dựng ý chí quyết tâm, tính vững vàng, kiên định trước những khó
khăn, thử thách trong cuộc sống.
38

LÝ LUẬN NHẬN THỨC

1. Nhận thức
1.1. Quan niệm ngoài mácxít về nhận thức
- Chủ nghĩa duy vật trước Mác với các đại biểu như Hêraclit, Đêmôcrit,
Ph. Bêcơn, T. Hôpxơ, đặc biệt là L. Phoiơbắc đã đấu tranh quyết liệt chống lại
chủ nghĩa duy tâm, cố gắng lý giải bản chất nhận thức trên lập trường duy vật.
Họ thừa nhận khả năng nhận thức của con người đối với thế giới và coi nhận
thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào bộ óc người. Song, do hạn chế bởi
điều kiện xã hội và trình độ nhận thức nên những quan điểm triết học của họ còn
thiếu cơ sở khoa học, còn mang tính siêu hình, trực quan, máy móc trong giải
quyết các vấn đề về nhận thức, chưa phản ánh đúng bản chất và mối quan hệ
giữa các giai đoạn nhận thức.
Đặc biệt, hạn chế lớn nhất của chủ nghĩa duy vật trước Mác là không đề
cập được vai trò của thực tiễn đối với nhận thức, nên giải thích một cách siêu
hình mối quan hệ giữa chủ thể và khách thể nhận thức.
- Trái với chủ nghĩa duy vật, chủ nghĩa duy tâm xuất phát từ việc không
thừa nhận thế giới vật chất tồn tại độc lập với ý thức nên đã phủ định khả năng
nhận thức thế giới của con người, hoặc nếu thừa nhận thì cho đó chỉ là sự áp đặt,
chi phối từ những lực lượng “siêu nhiên” và kết quả nhận thức không phải sự
phản ánh hiện thực khách quan.

- Các nhà duy tâm khách quan, mặc dù không phủ nhận khả năng nhận
thức thế giới, song luôn coi nhận thức không phải là sự phản ánh hiện thực
khách quan, mà chỉ là “tự nhận thức” của ý niệm, còn tư tưởng là sự tồn tại ở
đâu đó ngoài con người.

Các nhà duy tâm chủ quan hoàn toàn thủ tiêu khách thể khi đề cập đến
nhận thức luận. Họ cho rằng, tất cả mọi cái đang tồn tại đều là "phức hợp cảm
giác" của con người.

- Những nhà bất khả tri luận khẳng định thế giới là không thể biết được;
lý trí con người có tính chất hạn chế và ngoài giới hạn của cảm giác, con người
39

không thể biết được gì. E. Cantơ cho rằng con người chỉ nhận thức được “hiện
tượng”, còn “vật tự nó” thuộc về “siêu nghiệm”, tuyệt đối không biết được,
không phải là đối tượng nhận thức; cảm giác chủ quan là nguồn gốc duy nhất
của nhận thức, là cái đứng giữa chủ thể và “vật tự nó”.

1.2 Quan niệm duy vật biện chứng về bản chất nhận thức
- C. Mác và Ph. Ăngghen đã đưa ra những quan điểm, nguyên tắc nền
tảng khi trình bày về lý luận nhận thức. C. Mác và Ph. Ăngghen đã đưa ra quan
điểm đúng đắn về thực tiễn, vai trò của nó đối với nhận thức, nhận thức khoa học;
hai ông đã thực hiện bước ngoặt cách mạng trong lý luận nói chung và lý luận
nhận thức nói riêng. C. Mác và Ph. Ăngghen đã khẳng định: nhận thức là sự thu
nhận tri thức vào ý thức con người; đời sống xã hội về bản chất là có tính thực
tiễn; ý thức, nhận thức chỉ là sự phản ánh hiện thực khách quan vào đầu óc con
người, v.v..
- V. I. Lênin đã kế tục tư tưởng vĩ đại của C. Mác và Ph. Ăngghen, đồng
thời phát triển sâu sắc lý luận về nhận thức và xác định nhận thức là bộ phận cấu
thành hệ thống triết học mácxít hoàn chỉnh. Trong tác phẩm "Chủ nghĩa duy vật
và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán", V. I. Lênin kết luận:
“1) Có những sự vật tồn tại độc lập với ý thức của chúng ta, độc lập với
cảm giác của chúng ta, ở ngoài chúng ta...
2) Dứt khoát là không có và không thể có bất kỳ sự khác nhau nào về
nguyên tắc giữa hiện tượng và vật tự nó. Chỉ có sự khác nhau giữa cái đã nhận
thức và cái chưa được nhận thức...
3) Trong lý luận nhận thức, cũng như trong tất cả những lĩnh vực khác
của khoa học, cần suy luận một cách biện chứng, nghĩa là đừng giả định rằng
nhận thức của chúng ta là bất di bất dịch và có sẵn...”1.
- Cùng với kết luận trên, V. I. Lênin đã chỉ rõ: “Quan điểm về đời
sống, về thực tiễn, phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận về nhận
thức”2. Với tinh thần đó, V. I. Lênin đã chỉ ra những vấn đề bản chất nhất của
nhận thức như: đối tượng nhận thức, khả năng nhận thức thế giới khách quan

1
V. I. Lênin, toàn tập, Nxb Tiến bộ, M.1980, tập 18, tr.117.
2
V. I. Lênin, toàn tập, Nxb Tiến bộ, M.1980, tập 18, tr. 167.
40

của con người, sự thống nhất giữa nhận thức với thực tiễn và biện chứng
phức tạp của quá trình nhận thức.

- Như vậy, nhận thức hiểu theo nghĩa chung nhất là sự hiểu biết của
con người đối với hiện thực khách quan, là quá trình tạo thành tri thức trong
bộ óc con người về hiện thực khách quan. Bản chất nhận thức là quá trình
phản ánh biện chứng, tích cực, tự giác và sáng tạo thế giới khách quan và óc
người trên cơ sở thực tiễn.

- Nhận thức là quá trình tác động biện chứng giữa chủ thể và khách thể
nhận thức trên cơ sở thực tiễn. Quá trình nhận thức diễn ra mang tích tích
cực, chủ động, sáng tạo. Điều này được thể hiện ở sự nhận thức có mục đích;
sự phản ánh vượt trước thông qua hoạt động thực tiễn; nội dung phản ánh là
do hiện thực khách quan quy định, nhưng sự phản ánh đó đã thông qua lăng
kính chủ quan của chủ thể, là “hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan”,
là “cái vật chất được di chuyển vào óc người” nhưng đã được cải biến ở trong
đó”.
- Nhận thức là một quá trình phản ánh biện chứng phức tạp của con
người đối với hiện thực khách quan, thông qua các giai đoạn và mối quan hệ
chặt chẽ giữa các giai đoạn.
- Là sự phản ánh thế giới vật chất phong phú, phức tạp luôn vận động
biến đổi cho nên nhận thức của con người cũng có một quá trình “vĩnh viễn
của vận động”, từ chưa hoàn thiện tới ngày càng hoàn thiện.
1.3. Các cấp độ nhận thức

- Nhận thức kinh nghiệm là loại nhận thức hình thành từ sự quan sát trực
tiếp các sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội hay trong các thí nghiệm khoa
học. Kết quả của nhận thức kinh nghiệm là những tri thức kinh nghiệm.

- Nhận thức lý luận là loại nhận thức gián tiếp, trừu tượng và khái quát
về bản chất, quy luật của các sự vật, hiện tượng. Nhận thức lý luận có tính
trừu tượng và khái quát vì nó chỉ tập trung phản ánh cái bản chất mang tính
quy luật của sự vật và hiện tượng.
41

- Nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận là hai giai đoạn nhận thức
khác nhau, nhưng có quan hệ biện chứng với nhau, Chủ tịch Hồ Chí Minh
khẳng định: “Có kinh nghiệm mà không có lý luận, cũng như một mắt sáng,
một mắt mờ”1.

- Việc nắm vững bản chất, chức năng của từng loại nhận thức cũng
như mối quan hệ biện chứng giữa chúng có ý nghĩa phương pháp luận quan
trọng trong việc đấu tranh khắc phục bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa và bệnh
giáo điều.

Căn cứ vào tính chất tự phát hay tự giác của sự xâm nhập vào bản chất
của sự vật thì nhận thức lại có thể được phân chia ra thành nhận thức thông
thường và nhận thức khoa học.

- Nhận thức thông thường (nhận thức tiền khoa học) là loại nhận thức
được hình thành một cách tự phát, trực tiếp từ trong hoạt động hàng ngày của
con người.
Nhận thức thông thường và nhận thức khoa học là hai bậc thang khác
nhau về chất của quá trình nhận thức, giữa chúng có mối quan hệ chặt chẽ
với nhau.
2. Thực tiễn và vai trò thực tiễn đối với nhận thức

2.1. Phạm trù thực tiễn

- Theo quan điểm mácxít, thực tiễn là toàn bộ những hoạt động vật
chất có mục đích, mang tính lịch sử – xã hội của con người nhằm cải biến tự
nhiên và xã hội.

- Hoạt động thực tiễn là hoạt động vật chất diễn ra ngoài đầu óc con
người song luôn có mối quan hệ biện chứng với hoạt động tinh thần, tư
tưởng.

- Hoạt động sản xuất vật chất là hình thức hoạt động cơ bản, đầu tiên
của thực tiễn. Đây là hoạt động mà trong đó con người sử dụng những công
cụ lao động tác động vào giới tự nhiên để tạo ra những của cải và các điều
kiện thiết yếu nhằm duy trì sự tồn tại và phát triển của mình và xã hội. Hoạt
1
Hồ Chí Minh, toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 1996, tập 5, tr..234.
42

động chính trị xã hội là hoạt động của các tổ chức cộng đồng người khác
nhau trong xã hội nhằm cải biến những mối quan hệ xã hội để thúc đẩy xã hội
phát triển. Thực nghiệm khoa học là hình thức đặc biệt của thực tiễn, là hoạt
động mà con người tạo ra những trạng thái gần giống, giống hoặc lặp lại của
tự nhiên và xã hội nhằm xác định các quy luật biến đổi và phát triển của đối
tượng nghiên cứu.

- Mỗi hình thức hoạt động cơ bản của thực tiễn có chức năng quan trọng
riêng, song giữa chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động qua lại lẫn
nhau. Trong mối quan hệ đó, hoạt động sản xuất vật chất là hoạt động cơ bản
nhất, đóng vai trò quyết định đối với các hoạt động khác.

2.2. Vai trò thực tiễn đối với nhận thức

- Trước hết, thực tiễn là cơ sở của nhận thức. Con người bắt đầu quan
hệ với tự nhiên không phải bằng lý luận mà bằng thực tiễn, chính trong quá
trình thực tiễn, cải tạo thế giới mà nhận thức lý luận của con người mới được
hình thành và phát triển.

- Trên cơ sở thực tiễn con người mới có khả năng trực tiếp tạo ra công cụ,
phương tiện phục vụ cho quá trình nhận thức - hoạt động tinh thần không thể có
khả năng trực tiếp về vấn đề đó. Với hệ thống công cụ, phương tiện ngày càng
hiện đại giúp con người có khả năng nhận thức một cách nhanh hơn, xa hơn,
trong những điều kiện khó khăn phức tạp hơn, nhận thức ngày một hiệu quả
hơn.

- Bằng hoạt động thực tiễn con người tác động vào thế giới, buộc thế
giới phải bộc lộ những thuộc tính, những quy luật để con người có điều kiện,
khả năng nhận thức. Không có thực tiễn thì không có nhận thức; mọi tri thức
dù trực tiếp hay gián tiếp, đối với người này hay người kia, thế hệ này hay
thế hệ khác, dù ở giai đoạn cảm tính hay lý tính xét đến cùng đều bắt nguồn
từ thực tiễn.

- Thực tiễn không những là cơ sở mà còn là động lực của quá trình
nhận thức. Thông qua thực tiễn đã xuất hiện những nhu cầu vật chất, tinh
thần và nhu cầu đó ngày càng cao. Tuy nhiên, khả năng của chủ thể nhận
43

thức luôn có hạn, điều này đã thúc thẩy sự nỗ lực về tri thức, trí tuệ để thoả
mãn nhu cầu của mình.

- Con người ngay từ khi mới xuất hiện đã bị quy định bởi nhu cầu sống.
Để sống, để tồn tại con người phải tìm hiểu thế giới xung quanh, đồng thời
những tri thức khoa học – kết quả nhận thức của con người chỉ có ý nghĩa đích
thực khi nó được vận dụng vào sản xuất vật chất, hoạt động chính trị – xã hội và
thực nghiệm khoa học... Với nghĩa đó thực tiễn là mục đích của nhận thức.

- Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức còn thể hiện ở chỗ, nó là tiêu chuẩn
của chân lý. C. Mác viết: “Vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con người có thể đạt tới
chân lý khách quan không, hoàn toàn không phải là một vấn đề lý luận mà là vấn
đề thực tiễn.

- Qua phân tích vai trò to lớn của thực tiễn đối với nhận thức trên đây,
đòi hỏi chủ thể hoạt động phải luôn quán triệt đúng đắn quan điểm thực tiễn.
Trong nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn, dựa trên cơ sở thực tiễn, đi sâu,
đi sát thực tiễn, coi trọng việc tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận. Nếu xa
rời thực tiễn dẫn tới các sai lầm của bệnh chủ quan, giáo điều, quan liêu và
chủ nghĩa xét lại.

3. Con đường biện chứng của quá trình nhận thức chân lý

3.1. Từ nhận thức cảm tính tới nhận thức lý tính

- Nhận thức cảm tính (hay còn gọi là trực quan sinh động) là giai
đoạn đầu của quá trình nhận thức, mà chủ thể tiếp cận, phản ánh trực tiếp
các đối tượng. Nhờ chức năng của các giác quan con người có thể phản ánh
được những thuộc tính, những mặt, những mối liên hệ bên ngoài của sự vật,
hiện tượng. Sự phản ánh diễn ra khi các đối tượng trực tiếp tác động vào các
giác quan. Phản ánh của giai đoạn nhận thức cảm tính thông qua các hình
thức: cảm giác, tri thức, biểu tượng. Cảm giác là sự phản ánh những thuộc
tính riêng lẻ của các sự vật, hiện tượng khi chúng trực tiếp tác động vào các
giác quan của con người. Tri giác là hình ảnh tương đối trọn vẹn về sự vật
khi sự vật đó đang trực tiếp tác động vào các giác quan. Tri giác nảy sinh
dựa trên cơ sở của cảm giác, là tổng hợp của nhiều cảm giác, là hình thức
44

nhận thức cao hơn, đầy đủ hơn, phong phú hơn cảm giác. Biểu tượng là
hình thức phản ánh cao nhất và phức tạp nhất của giai đoạn trực quan sinh
động. Đó là hình ảnh cảm tính và tương đối hoàn chỉnh còn lưu lại trong bộ
óc người về sự vật khi nó không còn trực tiếp tác động vào các giác quan.
Biểu tượng là “hình ảnh lưu trữ của tri giác” là hình thức chuyển tiếp trung
gian từ nhận thức cảm tính tới nhận thức lý tính.

- Như vậy, cảm giác, tri giác, biểu tượng là những quá trình kế tiếp
nhau của nhận thức cảm tính. Những hình thức này là tiền đề là quá trình tiến
tới giai đoạn nhận thức cao hơn.

- Nhận thức lý tính là giai đoạn tiếp theo nhưng cao hơn về chất so với
nhận thức cảm tính, nó phản ánh sâu sắc bản chất, quy luật bên trong của sự
vật, hiện tượng. Tư duy trừu tượng dựa vào những tài liệu cảm tính, thông
qua các thao tác tư duy để khái quát tìm ra bản chất, quy luật của sự vật.

+ Đây là giai đoạn phản ánh gián tiếp, trừu tượng hiện thực khách
quan, chủ thể không trực tiếp với khách thể, mà chỉ dựa vào những tài liệu
cảm tính để phân tích, so sánh, tổng hợp, tìm ra cái chung, cái bản chất và
quy luật của khách thể.

- Giai đoạn tư duy trừu tượng của quá trình nhận thức diễn ra qua các
hình thức:

+ Khái niệm, phán đoán và suy luận. Khái niệm là hình thức cơ bản
của tư duy trừu tượng, phản ánh những đặc tính bản chất của sự vật. Sự hình
thành khái niệm là kết quả của sự khái quát, tổng hợp biện chứng các đặc
điểm, thuộc tính của sự vật hay một lớp sự vật.

+ Phán đoán là hình thức cơ bản của tư duy, nó liên kết các khái niệm
lại với nhau để khẳng định hoặc phủ định một đặc điểm, một thuộc tính nào
đó của đối tượng.

+ Suy luận cũng là hình thức cơ bản của tư duy, liên kết các phán đoán
lại với nhau để rút ra tri thức mới. Khái niệm, phán đoán, suy luận là các hình
thức cơ bản kế tiếp nhau trong giai đoạn nhận thức lý tính có mối quan hệ
thống nhất với nhau.
45

3.2. Từ nhận thức lý tính trở về thực tiễn

- Thực tiễn với tư cách là cơ sở, nền tảng của quá trình nhận thức, nó
vừa tham gia vào các giai đoạn, vừa là tiêu chuẩn kiểm nghiệm chân lý. Nhận
thức xuất phát từ thực tiễn, song nó tiếp tục trở về thực tiễn để phát huy chức
năng chỉ đạo hoạt động thực tiễn.

- Nhận thức lý tính trở về thực tiễn thông qua việc tham gia vào mọi hình
thức của thực tiễn, định ra mục đích, nhiệm vụ, phương hướng cho hoạt động thực
tiễn, từ đó nhận thức lý tính được kiểm nghiệm, bổ sung và phát triển. Những tri
thức được kiểm nghiệm đúng sẽ trở thành chân lý, tri thức sai lầm hoặc không phù
hợp sẽ bị loại bỏ, tri thức mới phù hợp thực tiễn sẽ được bổ sung phát triển. Cũng
thông qua thực tiễn sẽ đặt ra những vấn đề tiếp tục phải giải quyết về mặt nhân
thức.

- Từ nhận thức lý tính trở về thực tiễn là một công việc khó khăn, đòi
hỏi phải qua bước nhảy với ý chí, quyết tâm cao và có năng lực tổ chức hoạt
động thực tiễn của con người.

* Tuân thủ con đường biện chứng của quá trình nhận thức chân lý có ý
nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn. Nó cung cấp cho chúng ta cơ sở khoa học
trực tiếp để luận giải nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, bảo
đảm cho nhận thức luôn xuất phát từ thực tiễn và phục vụ đắc lực cho thực
tiễn của con người trên các lĩnh vực hoạt động khác nhau.

PHẦN CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ


46

LÝ LUẬN HÌNH THÁI KINH TẾ – XÃ HỘI


VÀ CON ĐƯỜNG QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

1. Bản chất khoa học và cách mạng của học thuyết hình thái
kinh tế - xã hội

I.1. Sản xuất vật chất là cơ sở, nền tảng của sự tồn tại và phát
triển xã hội

- Sản xuất vật chất là quá trình con người sử dụng công cụ lao động tác
động trực tiếp hoặc gián tiếp vào tự nhiên, cải biến các dạng vật chất của giới
tự nhiên để tạo ra của cải xã hội, nhằm thoả mãn nhu cầu tồn tại và phát triển
của con người.
- Triết học Mác - Lênin khẳng định, vai trò của sản xuất vật chất là cơ sở,
nền tảng của sự tồn tại và phát triển xã hội loài người. Trước hết, sản xuất vật
chất là tiền đề trực tiếp tạo ra “tư liệu sinh hoạt của con người “nhằm duy trì
sự tồn tại và phát triển của con người nói chung cũng như từng cá thể người
nói riêng.
- Sản xuất vật chất là tiền đề của mọi hoạt động lịch sử của con người.
Hoạt động sản xuất vật chất là cơ sở hình thành nên quan hệ kinh tế - vật chất
giữa người với người, từ đó hình thành nên các quan hệ xã hội khác. Nhờ sự
sản xuất ra của cải vật chất để duy trì sự tồn tại và phát triển của mình, con
người đã đồng thời sáng tạo ra toàn bộ đời sống vật chất và đời sống tinh
thần của xã hội với tất cả sự phong phú và phức tạp của nó.
- Sản xuất vật chất là điều kiện chủ yếu sáng tạo ra bản thân con người.
Nhờ hoạt động sản xuất vật chất mà con người hình thành nên ngôn ngữ,
nhận thức, tư duy, tình cảm, đạo đức…Sản xuất vật chất là điều kiện cơ bản
quyết định nhất hình thành, phát triển phẩm chất xã hội của con người.
- Sản xuất vật chất là cơ sở của sự tồn tại và phát triển của xã hội
loài người là một nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử. Do đó,
để giải thích mỗi hiện tượng của xã hội, phải xuất phát từ đời sống sản
xuất, từ nền sản xuất vật chất xã hội.
47

1.2. Biện chứng của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
- Phương thức sản xuất là sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất với
một trình độ nhất định và quan hệ sản xuất tương ứng. Lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất là các khái niệm chỉ “quan hệ song trùng" của nền sản xuất
vật chất của xã hội: quan hệ giữa con người với tự nhiên và quan hệ giữa con
người với nhau.

- Lực lượng sản xuất là phương thức kết hợp giữa người lao động có
kinh nghiệm, kỹ năng và tri thức nhất định với tư liệu sản xuất, trước hết là
công cụ lao động, tạo ra sức sản xuất và năng lực chinh phục tự nhiên của
con người. Lực lượng sản xuất là phương thức kết hợp giữa lao động sống
với lao động vật hóa.

- Quan hệ sản xuất là tổng hợp các quan hệ kinh tế vật chất giữa người
với người trong quá trình sản xuất, bao gồm quan hệ về sở hữu đối với tư liệu
sản xuất, quan hệ trong tổ chức quản lý và trao đổi hoạt động với nhau, quan hệ
về phân phối sản phẩm lao động.

- Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của một phương
thức sản xuất có tác động biện chứng, trong đó lực lượng sản xuất quyết định
quan hệ sản xuất, quan hệ sản xuất tác động trở lại to lớn đối với lực lượng
sản xuất.

- Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất là quy luật phổ biến tác động trong toàn bộ tiến trình lịch sử
nhân loại. Lịch sử xã hội loài người phát triển từ phương thức sản xuất cộng
sản nguyên thuỷ qua phương thức sản xuất chiếm hữu nô lệ, phương thức sản
xuất phong kiến, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và đang phát triển
đến phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa.

1.3 . Biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của xã
hội

- Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những quan hệ sản xuất của một xã hội


trong sự vận động hiện thực của chúng hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội
48

đó. Cấu trúc của cơ sở hạ tầng bao gồm quan hệ sản xuất thống trị, quan hệ
sản xuất tàn dư, quan hệ sản xuất mầm mống.
- Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những tư tưởng xã hội với những
thiết chế xã hội tương ứng cùng những quan hệ nội tại của thượng tầng hình
thành trên một cơ sở hạ tầng nhất định.
- Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
là một quy luật cơ bản của sự vận động, phát triển lịch sử xã hội. Cơ sở hạ
tầng và kiến trúc thượng tầng là hai mặt cơ bản của xã hội gắn bó hữu cơ, có
quan hệ biện chứng, trong đó cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng,
còn kiến trúc thượng tầng tác động trở lại to lớn, mạnh mẽ đối với cơ sở hạ
tầng.
- Chủ nghĩa duy vật lịch sử khẳng định cơ sở hạ tầng quyết định kiến
trúc thượng tầng. Bởi vì, quan hệ vật chất quyết định quan hệ tinh thần; tính
tất yếu kinh tế, quyết định tính tất yếu chính trị - xã hội. Cơ sở hạ tầng quyết
định sự ra đời (nguồn gốc) của kiến trúc thượng tầng; quyết định cơ cấu của
kiến trúc thượng tầng; quyết định tính chất của kiến trúc thượng tầng; quyết
định sự vận động, phát triển của kiến trúc thượng tầng.
- Kiến trúc thượng tầng là sự phản ánh cơ sở hạ tầng, do cơ sở hạ tầng
quyết định. Kiến trúc thượng tầng có tính độc lập tương đối. Ý thức, tinh thần
khi ra đời, tồn tại có quy luật vận động nội tại của nó. Vai trò của kiến trúc
thượng tầng còn do sức mạnh vật chất của bộ máy tổ chức - thể chế.
- Quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng là cơ sở khoa học cho việc nhận thức một cách đúng đắn mối
quan hệ giữa kinh tế và chính trị. Kinh tế và chính trị tác động biện chứng,
trong đó kinh tế quyết định chính trị, chính trị tác động trở lại to lớn, mạnh
mẽ đối với kinh tế.

1.4. Sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình
lịch sử - tự nhiên

- Hình thái kinh tế xã hội là một phạm trù cơ bản của chủ nghĩa duy
vật lịch sử dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định với một
kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó, phù hợp với một trình độ
49

nhất định của lực lượng sản xuất và một kiến trúc thượng tầng tương ứng
được xây dựng trên những quan hệ sản xuất ấy.

- Lực lượng sản xuất là nền tảng vật chất của xã hội, tiêu chuẩn khách
quan để phân biệt các thời đại kinh tế khác nhau, yếu tố xét đến cùng quyết
định sự vận động, phát triển của hình thái kinh tế xã hội. Quan hệ sản xuất là
quan hệ khách quan, cơ bản, chi phối và quyết định mọi quan hệ xã hội, đồng
thời là tiêu chuẩn quan trọng nhất để phân biệt bản chất các chế độ xã hội
khác nhau. Kiến trúc thượng tầng thể hiện bộ mặt tinh thần của xã hội.

- Ba yếu tố lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng
tầng tác động qua lại một cách biện chứng, hình thành sự vận động tổng hợp
của hai quy luật cơ bản: quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất và quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa cơ
sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của xã hội.

- Sự vận động, phát triển của xã hội bắt đầu từ sự phát triển của lực
lượng sản xuất mà trước hết là sự phát triển của công cụ sản xuất, của về tri
thức, kinh nghiệm và kỹ năng của người lao động. Mỗi sự phát triển của lực
lượng sản xuất đều tạo khả năng, điều kiện và đặt ra yêu cầu khách quan cho
sự biến đổi của quan hệ sản xuất. Sự phù hợp biện chứng giữa quan hệ sản
xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là yêu cầu khách quan của
nền sản xuất xã hội.

- Trong đó, thống nhất giữa quy luật chung cơ bản phổ biến với quy
luật đặc thù và quy luật riêng của lịch sử xã hội. C. Mác viết: "Tôi coi sự phát
triển của những hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên"1.

- Xu hướng chung của sự vận động , phát triển lịch sử xã hội, loài
người là do sự chi phối của quy luật khách quan (thống nhất giữa cái chung
với cái đặc thù và cái riêng), là sự phát triển của lực lượng sản xuất. Lôgíc
của toàn bộ tiến trình lịch sử loài người là sự kế tiếp nhau của các hình thái
kinh tế - xã hội từ thấp đến cao. Đó là con đường tất yếu của tiến bộ lịch
sử.

1
C. .Mác và Ph Ăngghen, toàn tập, Nxb CTQG, H. 1993, t. 23, tr. 21
50

- Lý luận hình thái kinh tế - xã hội ra đời đem lại một cuộc cách mạng
trong toàn bộ quan niệm về lịch sử xã hội. Đây là biểu hiện tập trung của quan
niệm duy vật về lịch sử xã hội, bác bỏ quan niệm duy tâm, phi lịch sử về xã hội
trước đó, trở thành hòn đá tảng của khoa học xã hội, cơ sở phương pháp luận
khoa học và cách mạng cho sự phân tích lịch sử xã hội.

- Lý luận hình thái kinh tế xã hội đã giải quyết một cách khoa học về vấn
đề phân loại các chế độ xã hội và phân kỳ lịch sử, thay thế các quan niệm duy
tâm, siêu hình trước đó đã thống trị trong khoa học xã hội. Đồng thời, chỉ ra
động lực phát triển của lịch sử xã hội không phải do một lực lượng tinh thần
hoặc lực lượng siêu nhiên thần bí nào cả, mà do hoạt động thực tiễn của con
người, trước hết là thực tiễn sản xuất vật chất dưới sự tác động của các quy luật
khách quan.

- Muốn nhận thức và cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới phải nhận
thức và tác động cả ba yếu tố cơ bản: lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất
(cơ sở hạ tầng) và kiến trúc thượng tầng. Xem nhẹ hoặc tuyệt đối hoá một
yếu tố nào cũng sai lầm, xét đến cùng là bắt đầu từ việc xây dựng, phát triển
lực lượng sản xuất.
- Đây là cơ sở lí luận, phương pháp luận khoa học trong quán triệt
quan điểm, đường lối của Đảng ta. Mô hình, mục tiêu chủ nghĩa xã hội ở
nước ta được xác định với các tiêu chí về lực lượng sản xuất, quan hệ sản
xuất, kiến trúc thượng tầng. Đồng thời, xác định các phương hướng xây dựng
chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
- Học thuyết hình thái kinh tế xã hội là cơ sở khoa học cho việc xác
định con đường phát triển của nước ta, đó là quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Đây chính là sự lựa chọn duy nhất đúng
đắn, có khả năng và điều kiện để thực hiện.
2. Tính tất yếu, khả năng và điều kiện của con đường phát triển quá độ
lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
2.1. Tính tất yếu của con đường phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã
hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
51

- Vấn đề quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã và đang bị chủ nghĩa cơ hội,
xét lại tìm mọi cách để bác bỏ. Các luận điểm sai trái ấy được thể hiện trong
các học thuyết “sự tận cùng của thế giới”, “ngõ cụt của lịch sử”, “chủ nghĩa
xã hội đẻ non”..

- Hiện nay, họ cho rằng Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông
Âu sụp đổ chứng tỏ chủ nghĩa tư bản còn khả năng phát triển, phương thức
sản xuất tư bản chủ nghĩa chưa lỗi thời, lạc hậu, phương thức sản xuất xã hội
chủ nghĩa chưa tỏ rõ tính tiên tiến của nó và điều kiện chủ quan của chúng ta
chưa sẵn sàng, rằng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu không phù hợp
với nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa xã hội khoa học, không đủ điều kiện vật
chất, văn hoá cần thiết cho sự phát triển..

- Ở Việt Nam, những người theo quan điểm cơ hội, xét lại cho rằng
quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là quá sớm và sai, do đó phải “quay lại
chủ nghĩa tư bản” như hiện nay ở Liên Xô và các nước Đông Âu “đang quá
độ từ chủ nghĩa xã hội lên chủ nghĩa tư bản”! Quá độ lên chủ nghĩa ở Việt Nam
không phải là tất yếu, không có khả năng và chưa sẵn sàng các điều kiện để thực
hiện .

- Theo quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, một dân tộc muốn quá độ lên
chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa phải có đủ những điều kiện
khách quan và nhân tố chủ quan. Muốn thực hiện thành công quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, trước hết trên thế giới, hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ
nghĩa đã ra đời và tỏ rõ sự ưu việt trong thực tế; chủ nghĩa tư bản phải bộc lộ
sự hạn chế, lỗi thời, phản động; phải có sự giúp đỡ về vật chất và tinh thần
của các nước xã hội chủ nghĩa đi trước.

- Quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt
Nam hiện nay là phù hợp với quy luật khách quan của lịch sử

+ Tiến trình lịch sử - tự nhiên của xã hội loài người bao hàm cả sự phát
triển tuần tự đối với lịch sử phát triển toàn thế giới, cả sự phát triển “bỏ qua”
một hay vài hình thái kinh tế xã hội đối với một số quốc gia, dân tộc cụ thể.
52

+ Toàn bộ tiến trình lịch sử loài người vận động, phát triển theo một
lôgíc khách quan. Do sự chi phối của các quy luật khách quan, trước hết là
các quy luật cơ bản, xét đến cùng là sự phát triển của lực lượng sản xuất, lịch
sử xã hội loài người là lịch sử kế tiếp nhau của các hình thái kinh tế - xã hội
từ thấp đến cao.

+ Sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội cụ thể, của các giai
đoạn lịch sử xã hội, các quốc gia, dân tộc cụ thể mang tính phong phú,
nhiều vẻ, đa dạng, phức tạp. Sự phát triển của xã hội loài người trong lịch
sử bao gồm cả những bước quanh co, thậm chí những bước thụt lùi lớn; bao
gồm cả khả năng rút ngắn, bỏ qua những giai đoạn phát triển lịch sử nhất
định.

+ Con đường phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư
bản chủ nghĩa ở Việt Nam là phù hợp với tính quy luật của việc “bỏ qua” một
hay vài hình thái kinh tế - xã hội trong sự phát triển lịch sử.

+ Thực tiễn lịch sử đã chứng minh toàn bộ lịch sử xã hội loài người
phát triển tuần tự qua tất cả các giai đoạn của các hình thái kinh tế - xã hội đã
có. Nhưng do đặc điểm về lịch sử, về không gian, thời gian, về sự tác động
của nhân tố khách quan và nhân tố chủ quan, có những quốc gia phát triển
tuần tự, nhưng có những quốc gia phát triển bỏ qua một hay vài hình thái
kinh tế - xã hội nào đó.

+ Do quy luật phát triển không đều, trên thế giới thường xuất hiện
những trung tâm phát triển cao hơn, đồng thời bên cạnh đó còn có những
vùng, những quốc gia, dân tộc ở trình độ phát triển thấp, thậm chí rất thấp.

- Con đường phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư
bản chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay là do tính tất yếu về chính trị và kinh tế.

+ Sự nghiệp cách mạng Việt Nam do nhân dân lao động tiến hành, dưới
sự lãnh đạo của Đảng cộng sản trải qua các giai đoạn giành độc lập dân tộc và
tiến lên chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn của chính lịch sử. Đầu thế kỷ XX, cách
mạng Việt Nam khủng hoảng đường lối, thiếu một đảng cách mạng lãnh đạo.
53

+ Xét về tiền đề kinh tế vật chất thì ở Việt Nam tiền đề đó đang trong
quá trình phát triển. Những cơ sở kinh tế, kỹ thuật và tài nguyên quốc gia
chúng ta đã bước đầu có được và giành được – là thành quả của nhân dân lao
động trải qua các cuộc đấu tranh cách mạng chống các thế lực xâm lược
Pháp, Mỹ và tay sai.
- Quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là bảo
đảm tốt nhất cho độc lập dân tộc thật sự ở nước ta, phù hợp với hoàn cảnh
lịch sử của Việt Nam hiện nay.
+ Nước ta thuộc nhóm nước kém phát triển của thế giới, đang xây
dựng chủ nghĩa xã hội, yêu cầu giữ vững độc lập dân tộc đặt ra gay gắt, bao
gồm cả giữ vững chủ quyền quốc gia, chủ quyền kinh tế, chính trị và văn hóa.
+ Thực tiễn chứng minh rằng, chỉ có lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa
mới đảm bảo cho ta đủ sức cạnh tranh trong cơ chế thị trường quốc tế, hội nhập
kinh tế quốc tế; đủ sức mở cửa làm ăn với chủ nghĩa tư bản; đủ sức giải quyết
các vấn đề xã hội, giải quyết các “chấn động” kinh tế - xã hội; đủ sức động viên vật
chất - tinh thần để bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện hiện nay.
2.2. Khả năng quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản
chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
- Thời đại ngày nay mở ra khả năng khách quan cho các nước đang
phát triển trong đó có Việt Nam quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ
tư bản chủ nghĩa.
+ Hiện nay, mặc dù hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới bị tan vỡ
nhưng chủ nghĩa xã hội vẫn là mục tiêu lý tưởng phấn đấu của hơn một tỷ
người trên hành tinh. Qua khủng hoảng, thoái trào phong trào xã hội chủ
nghĩa đang nhận thức lại cả lý luận và thực tiễn, tiến hành đổi mới cải
cách, phát triển phù hợp với xu thế của tiến bộ xã hội.

+ Chủ nghĩa tư bản tuy lợi dụng được những thành quả của khoa học công
nghệ hiện đại, “điều chỉnh” các chính sách xã hội, “thích nghi” và còn “phát
triển” nhưng không hề thay đổi bản chất kinh tế và chính trị, không thể khắc phục
được những mâu thuẫn nội tại.
54

- Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, toàn cầu hoá tạo
ra khả năng khách quan cho các dân tộc đang phát triển và Việt Nam có thể
“phát triển rút ngắn”, quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

+ Trong xu thế toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế, sự phát triển
của nền kinh tế tri thức, các dân tộc đang đứng trước cả thời cơ và thách
thức.Sự phát triển của khoa học công nghệ hiện đại, của nền kinh tế tri thức
là phù hợp với bản chất của chủ nghĩa xã hội - một chế độ xã hội vì hạnh
phúc con người.

+ Thành tựu của trí tuệ loài người về khoa học và công nghệ hiện đại,
về kinh tế tri thức phải được sử dụng để phục vụ lợi ích chung của con người.
Trong điều kiện toàn cầu hoá, chúng ta có thể chủ động hội nhập, tận dụng
những thành tựu đó để đẩy nhanh, rút ngắn sự phát triển.

- Việt Nam nằm trong một khu vực phát triển năng động nhất của
thé giới, thông qua giao lưu hợp tác quốc tế có thể tận dụng lợi thế để
phát triển.

Trong xu thế toàn cầu hoá, khu vực hoá, giao lưu, hợp tác quốc tế, chúng
ta có thể tận dụng lợi thế so sánh như về vị trí địa lý, dân số, lao động, tài nguyên,
sự ổn định chính trị để đi tắt, đón đầu và phát triển.

2.3. Điều kiện của sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua
chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay

- Các điều kiện bên trong chủ yếu là có sự lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam; có nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
dân, do dân, vì dân; có tiềm năng to lớn của đất nước và con người Việt Nam...

+ Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản là nhân tố hàng đầu bảo đảm
cho thắng lợi của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng
đã được chứng minh, khẳng định trong thực tiễn cách mạng Việt Nam.

+ Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, của dân, do dân,
vì dân là công cụ chính trị mạnh mẽ nhất của nhân dân ta đang chứng minh
trên thực tế hiệu lực, hiệu quả quản lý kinh tế xã hội.
55

+ Đất nước và con người Việt Nam có tiềm năng to lớn về điều kiện
tự nhiên, vị trí địa lý, tài nguyên, quy mô dân số, nguồn nhân lực, phẩm chất
con người và sự ổn định chính trị xã hội…

- Muốn thực hiện quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, còn phải có
những điều kiện bên ngoài quan trọng, không thể thiếu được.

+ Trong điều kiện quốc tế mới, khi hệ thống xã hội chủ nghĩa không còn
nữa, các quan hệ quốc tế của Việt Nam đã được đa dạng hoá, đa phương hoá.
Trong xu thế toàn cầu hoá, Việt Nam tham gia cơ chế thị trường quốc tế, chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế. Hiện nay, nước ta có điều kiện hơn bao giờ hết
để mở rộng quan hệ hợp tác giao lưu quốc tế.

+ Trên thế giới hiện nay, thế mạnh về khoa học và công nghệ hiện đại
đang nằm trong tay các nước tư bản chủ nghĩa phát triển nhất. Do đó, đòi hỏi
chúng ta phải mở cửa, hợp tác, làm ăn trên cơ sở có nguyên tắc với các nước
có chế độ chính trị xã hội khác nhau mới có thể rút ngắn khoảng cách lạc hậu về
kinh tế, khoa học công nghệ.

+ Hiện nay, nước ta muốn quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ
tư bản chủ nghĩa phải kết hợp tốt điều kiện bên trong với điều kiện bên
ngoài, kết hợp nội lực với ngoại lực, trong đó nội lực là quyết định, ngoại
lực là quan trọng không thể thiếu được.

* Thực chất của việc quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư
bản chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay

- Trước hết, đó là bỏ qua việc xác lập quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa
thống trị. Trong phát triển kinh tế, một mặt phải thừa nhận sự tồn tại khách quan
của nền kinh tế nhiều thành phần với nhiều hình thức sở hữu, đặc trưng cho các
quan hệ sản xuất khác nhau.

- Quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa còn là
bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của kiến trúc thượng tầng tư bản chủ
nghĩa. Trong kiến trúc thượng tầng của xã hội, chúng ta tiếp thu những thành
tựu về văn hoá, khoa học, về những kinh nghiệm quản lý xã hội hiện đại, về
kỹ thuật tổ chức bộ máy nhà nước…
56

- Quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở nước
ta không có nghĩa là phủ định sạch trơn chủ nghĩa tư bản, mà là kế thừa thành tựu
nhân loại đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt là về khoa học và công
nghệ để phát triển nhanh lực lượng sản xuất.
- Bản chất của con đường phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ
qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam là phát triển rút ngắn, cốt lõi là tăng
trưởng nhảy vọt lực lượng sản xuất, vì mục tiêu dân giầu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh. Đòi hỏi trong nhận thức và thực tiễn phải
chống chủ quan duy ý chí, đốt cháy giai đoạn, đồng thời chống quan điểm
duy vật máy móc, duy vật kinh tế.

ĐẤU TRANH GIAI CẤP TRONG THỜI ĐẠI NGÀY NAY


VÀ TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
Ở VIỆT NAM
57

1. Đấu tranh giai cấp trong thời đại ngày nay

1.1. Cục diện chính trị thế giới hiện nay

- Một là, chủ nghĩa xã hội thế giới lâm vào khủng hoảng, thoái
trào; chủ nghĩa tư bản đang tạm thời thắng thế; phong trào cách mạng
thế giới đang gặp những khó khăn phức tạp.

+ Vào những thập kỷ cuối thế kỷ XX, do phạm phải những sai lầm
chủ quan trong cải tổ, đổi mới, chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu
đã sụp đổ, hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới tan vỡ. Chủ nghĩa tư bản do
tận dụng được những thành tựu của khoa học công nghệ hiện đại, có sự
điều chỉnh, thích nghi và phát triển.

+ Hiện nay, một số nước xã hội chủ nghĩa còn lại đang tiến hành cải cách,
đổi mới, quyết tâm giữ vững định hướng phát triển đất nước theo con đường xã
hội chủ nghĩa. Chủ nghĩa xã hội và phong trào cách mạng thế giới đang trong quá
trình nhận thức lại cả lý luận và thực tiễn, có khả năng phục hồi và phát triển, tuy
chậm chạp và ở trong điều kiện rất khó khăn. Cục diện chính trị mới của thế giới
đã tác động mạnh mẽ đến mọi mặt đời sống xã hội trên thế giới hiện nay.

- Hai là, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đã và
đang tác động mạnh mẽ đến tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.

+ Cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại đã làm thay đổi mọi
mặt đời sống xã hội. Sự phát triển của lực lượng sản xuất đã làm thay đổi cơ
cấu kinh tế trong mỗi nước và trên cả phương diện quốc tế, đẩy nhanh quá
trình quốc tế hoá nền sản xuất xã hội, tạo nên sự thay đổi cơ cấu xã hội-giai
cấp trong các nước phát triển và trên phạm vi toàn thế giới.

+ Trong các nước tư bản chủ nghĩa phát triển, giai cấp công nhân có sự
thay đổi về cơ cấu. Bộ phận công nhân trí thức (công nhân với tay nghề đòi
hỏi tri thức khoa học – kỹ thuật cao), công nhân dịch vụ tăng nhanh, công
nhân áo xanh (công nhân sản xuất trong nhà máy) ngày càng giảm.

+ Ở các nước thuộc địa và phụ thuộc, quá trình quốc tế hóa sản xuất
cũng đưa lại cho họ những cơ hội nhất định trên con đường phát triển như:
58

tận dụng những yếu tố thuận lợi để khai thác vốn; kỹ thuật; công nghệ; kinh
nghiệm quản lý nền sản xuất v.v..
- Ba là, xu thế toàn cầu hoá, khu vực hoá phát triển, sự tác động và
phụ thuộc giữa các quốc gia dân tộc, giữa các khu vực và toàn thế giới
ngày càng chặt chẽ.
+ Xu thế toàn cầu hóa mang tính khách quan do sự phát triển mạnh mẽ
của lực lượng sản xuất xã hội đem lại. Thực tế cho thấy, sự phụ thuộc lẫn nhau
giữa các quốc gia đã hình thành từ lâu, song lúc đầu còn hạn hẹp trong khuôn
khổ một số quốc gia, hoặc một số lĩnh vực.
+ Với sự phát triển của lực lượng sản xuất, sự phụ thuộc lẫn nhau giữa
các quốc gia, dân tộc ngày càng chặt chẽ hơn, với mức độ và trình độ cao hơn,
với quy mô rộng hơn. Sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia trong giai đoạn
hiện nay có những đặc điểm cơ bản: sự phụ thuộc ấy bao hàm cả hai mặt vừa
hợp tác, vừa đấu tranh; sự phụ thuộc lẫn nhau bao hàm không chỉ về phương
diện kinh tế, mà còn về phương diện chính trị,văn hoá, tư tưởng.
- Bốn là, sự phát triển của lực lượng sản xuất và sự tác động của toàn
cầu hoá làm nẩy sinh những vấn đề toàn cầu liên quan đến sự tồn vong và
phát triển của nhân loại.
+ Sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội đã tạo ra những tiền đề
quan trọng cho con người cải tạo tự nhiên và xã hội, phục vụ cho cuộc sống
của mình. Những cũng chính từ hoạt động cải tạo đó làm nẩy sinh nhiều vấn
đề có liên quan đến sự tồn vong của nhân loại như: vấn đề chiến tranh hạt
nhân; sự bùng nổ dân số cùng với sự cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên; ô nhiễm
môi trường, mất cân bằng sinh thái, thiên tai, bệnh tật. v.v.
+ Do tận dụng được các thành tựu của cuộc cách mạng khoa học và
công nghệ hiện đại, các nước công nghiệp có bước phát triển mạnh mẽ. Sự
gia tăng tác động của con người vào tự nhiên như: tình trạng khai thác rừng
một cách bừa bãi; không quan tâm đến việc xử lý các chất thải công nghiệp…
đã làm ô nhiễm môi trường sống, ảnh hưởng trầm trọng cho hệ sinh thái bề
mặt trái đất và bầu khí quyển.
59

+ Sự phát triển của khoa học và công nghệ chính là cơ sở quan trọng cho
con người, một mặt khắc phục được tình trạng mất cân bằng sinh thái, mặt khác
có thể làm gia tăng tình trạng khai thác bừa bãi tài nguyên thiên nhiên, gây ô
nhiễm môi trường, làm cạn kiệt tài nguyên đẫn đến mất cân bằng sinh thái.

+ Trước những biến động đó của thế giới đã làm xuất hiện không ít
quan điểm cho rằng, thời đại ngày nay vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp
đã trở nên lỗi thời hoặc ít ra cũng bị đẩy xuống hàng thứ yếu.

1.2. Tính tất yếu của đấu tranh giai cấp trong thời đại ngày nay

- Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, giai cấp là một phạm trù
lịch sử. Giai cấp gắn liền và là sản phẩm của nền sản xuất vật chất của xã hội.
C. Mác khẳng định rằng: “Sự tồn tại của các giai cấp chỉ gắn liền với những
giai đoạn lịch sử nhất định của sản xuất…” 1, khi sản xuất vật chất xã hội tạo
ra được những tiền đề cần thiết cho sự xuất hiện ấy.

- Chủ nghĩa Mác - Lênin không những đã vạch rõ cơ sở khách quan


của việc phân chia xã hội thành các giai cấp, mà đồng thời còn chỉ rõ thực
chất của quan hệ giai cấp là quan hệ giữa bóc lột và bị bóc lột, thống trị và
bị thống trị, là tình trạng tập đoàn người này chiếm đoạt lao động của tập
đoàn người khác do có địa vị khác nhau trong một chế độ kinh tế-xã hội
nhất định.

- Sự đối kháng giữa những lợi ích cơ bản không thể điều hòa ấy là
nguyên nhân cơ bản của mọi xung đột xã hội từ khi lịch sử xã hội loài
người có sự phân chia thành các giai cấp cho đến nay.

- Mặc dù thế giới có những biến động hết sức nhanh chóng và khó
lường, song tính chất của thời đại vẫn không hề thay đổi. Thời đại ngày nay
vẫn là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản tiến lên chủ nghĩa xã hội trên phạm
vi toàn thế giới bắt đầu từ thắng lợi của cuộc cách mạng Tháng Mười Nga vĩ
đại, năm 1917.

- Trong xã hội tư bản hiện nay, mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất đã
phát triển có tính chất xã hội hoá cao với quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa
1
C. Mác và Ph. Ăngghen, toàn tập, Nxb CTQG, H. 1995, t. 28, tr. 662.
60

dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất ngày càng gay gắt.
Mâu thuẫn này biểu hiện về mặt xã hội là mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản và
giai cấp tư sản, mâu thuẫn giữa lao động và bóc lột.

- Mâu thuẫn giữa các trung tâm tư bản chủ nghĩa phát triển với nhau
ngày càng gay gắt và biểu hiện những hình thức mới. Thực chất là mâu thuẫn
giữa những tập đoàn tư bản độc quyền đang tìm cách thống trị, bóc lột nhân
dân thế giới để thu lợi nhuận nhiều hơn và bảo vệ các lợi ích cơ bản của giai
cấp tư sản thống trị.

- Mâu thuẫn giữa các nước tư bản phát triển với các nước đang phát
triển ngày càng gay gắt. Sự phân cực giàu – nghèo giữa các nước này ngày
càng mở rộng. Sự bóc lột về kinh tế và sự áp đặt các giá trị, sự “xâm lăng” về
văn hoá ngày càng tinh vi và trắng trợn hơn.

- Mâu thuẫn giữa các thế lực đế quốc với các dân tộc trên thế giới. Đây
là mâu thuẫn giữa một bên là các thế lực đế quốc phản động tìm mọi cách áp
đặt sự thống trị, nô dịch các dân tộc với một bên là các quốc gia dân tộc đang
tìm mọi cách để bảo vệ chủ quyền về kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hoá.

1.3. Nội dung, hình thức và vai trò của đấu tranh giai cấp trong thời
đại ngày nay

- Nội dung đấu tranh giai cấp trong thời đại ngày nay

+ Thực chất của cuộc đấu tranh giai cấp trong thời đại ngày nay là
cuộc đấu tranh giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản, đấu tranh “ai thắng ai”
giữa hai con đường: Tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa. Mục tiêu của
cuộc đấu tranh giai cấp trong thời đại ngày nay là xoá bỏ chủ nghĩa tư bản,
xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.

+ Nội dung đấu tranh giai cấp bao gồm những phong trào đấu tranh
cụ thể nhằm giải quyết các mâu thuẫn cơ bản của thời đại. Những phong
trào đấu tranh này luôn có sự hỗ trợ và gắn bó mật thiết với nhau tạo nên
một sức mạnh tổng hợp thủ tiêu chế độ tư bản chủ nghĩa, giành thắng lợi
cho chủ nghĩa xã hội, giải phóng lao động, xoá bỏ mọi áp bức, bóc lột.
61

+ Cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản và quần chúng nhân dân
lao động trong thời đại ngày nay không tách rời cuộc đấu tranh giải quyết
những vấn đề có tính chất toàn cầu.

- Những hình thức cơ bản của đấu tranh giai cấp trong thời đại ngày nay

+ Trong các nước tư bản phát triển, cuộc đấu tranh giai cấp của giai
cấp vô sản và quần chúng nhân dân lao động trong các nước này được thể
hiện ở các hình thức cơ bản như: đấu tranh nhằm hạn chế sự bóc lột của giai
cấp tư sản;

+ Đối với các nước xã hội chủ nghĩa, do đã giành được chính quyền về
tay giai cấp công nhân và nhân dân lao động, nên cuộc đấu tranh giai cấp ở
các nước này về thực chất đó là cuộc đấu tranh “ai thắng ai”giữa một bên là
những nhân tố xã hội chủ nghĩa đang trong quá trình hình thành, phát triển,
với một bên là các thế lực cản trở độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

+ Thực tế cho thấy, mặc dù các hình thức đấu tranh này có sự khác
nhau về mục tiêu, vai trò, nhiệm vụ cụ thể… song chúng có mối liên hệ
chặt chẽ với nhau, hỗ trợ lẫn nhau, tạo nên sức mạnh tổng hợp tấn công
vào chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa đế quốc giành thắng lợi cho giai cấp
công nhân và nhân dân lao động.

- Vai trò của đấu tranh giai cấp trong thời đại ngày nay

+ Bên cạnh việc điều tiết về quan hệ sản xuất, chủ nghĩa tư bản đồng
thời tiến hành điều tiết các quan hệ xã hội cho phù hợp với tình hình mới. Để
tránh cho mâu thuẫn kinh tế trở nên gay gắt, chủ nghĩa tư bản có chính sách
mềm dẻo hơn đối với người lao động. Chủ nghĩa tư bản còn có những cải
cách nhất định cơ chế dân chủ trong phạm vi cho phép của thiết chế dân chủ
tư sản.

+ Trên thực tế, sự tự điều chỉnh đó đã làm cho tính chất của mâu thuẫn
giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa phần nào “dịu
đi”. Đó chính là nguyên nhân làm cho chủ nghĩa tư bản có sự phát triển tiếp
tục trong những thập kỷ gần đây và phong trào đấu tranh giai cấp gặp không
ít những khó khăn nhất định.
62

+ Mâu thuẫn trên lĩnh vực kinh tế được phản ánh vào trong lĩnh vực
xã hội đó là cuộc đấu tranh giai cấp giữa các giai cấp tiến bộ đại diện cho
phương thức sản xuất mới với giai cấp tư sản đại diện cho quan hệ sản
xuất tư bản chủ nghĩa đã trở nên lỗi thời lạc hậu.

+ Vai trò của đấu tranh giai cấp trong thời đại ngày nay không chỉ thể
hiện trong những thời kỳ bão tạp cách mạng, mà còn được thể hiện ở cả quá
trình tiến hoá xã hội. Thực tiễn cho thấy, đấu tranh giai cấp có tác dụng tích
cực đến sự phát triển mọi mặt của đời sống xã hội về kinh tế chính trị, văn
hoá tư tưởng…

2. Đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta hiện nay

2.1. Tính tất yếu của đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ ở nước
ta hiện nay

- Chủ nghĩa Mác khẳng định rằng, thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư
bản tiến lên chủ nghĩa cộng sản đó là thời kỳ tiếp tục đấu tranh giai cấp
để đi đến một xã hội không còn giai cấp.

- Sau khi giành được chính quyền, mục tiêu cuối cùng của cuộc đấu
tranh giai cấp của giai cấp vô sản là xây dựng thành công xã hội xã hội chủ
nghĩa vẫn chưa đạt được. Bởi vì, đó là một cuộc cải biến cách mạng toàn diện
và sâu sắc trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hoá. Cuộc
đấu tranh này đòi hỏi phải trải qua một quá trình lâu dài và gian khổ mới
giành được thắng lợi cuối cùng.

- Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa ở nước ta hiện nay vẫn tồn tại
những cơ sở kinh tế xã hội khách quan cho sự tồn tại và phát triển của các
giai cấp. Đó là khuynh hướng “tự phát” của việc phân hoá giai cấp trên cơ sở
sự vận động của nền sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa.

- Trong thời kỳ quá độ, các giai cấp bóc lột tuy đã bị đánh đổ nhưng
chúng vẫn còn lực lượng và còn tiềm lực, chúng tìm mọi thủ đoạn chống phá
cách mạng hòng khôi phục lại địa vị thống trị đã mất. Bên cạnh đó, giai cấp
63

tư sản và bọn phản động quốc tế không từ bỏ âm mưu xoá bỏ chủ nghĩa xã
hội ở nước ta.

2.2. Điều kiện mới của cuộc đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay

- Cuộc đấu tranh giai cấp ở nước ta hiện nay diễn ra trong điều kiện
cơ cấu giai cấp-xã hội có sự biến đổi căn bản tạo nên so sánh lực lượng có
lợi cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động.

+ Giai cấp công nhân từ chỗ là giai cấp bị thống trị và bóc lột, nay trở
thành giai cấp lãnh đạo chính quyền nhà nước và lãnh đạo xã hội. Cùng với
sự phát triển của sự nghiệp cách mạng, giai cấp công nhân có sự phát triển
mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng.

- Bên cạnh giai cấp công nhân, giai cấp nông dân cũng có sự biến đổi.
Nhìn chung, sau khi được giải phóng, giai cấp nông dân dưới sự lãnh đạo của
Đảng đã và đang có những đóng góp tích cực vào sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước.

- Bên cạnh hai giai cấp cơ bản nói trên, đội ngũ trí thức ở nước ta cũng
có sự phát triển nhanh chóng. Trí thức Việt Nam có lòng yêu nước, nhiều
người ngay từ đầu đã tham gia cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân, ngày nay tầng lớp này đang có nhiều đóng góp đối
với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

- Cuộc đấu tranh giai cấp ở nước ta hiện nay diễn ra trong điều kiện
đất nước phát triển trong thế ổn định và vững chắc.

+ Dưới sự lãnh đạo của Đảng, cách mạng nước ta trong những năm qua
đã giành được những thắng lợi hết sức quan trọng: cơ sở kinh tế xã hội chủ
nghĩa được củng cố và phát triển; chính trị - xã hội về cơ bản được ổn định;
quốc phòng - an ninh được tăng cường; hệ thống chính trị xã hội được củng cố;
địa vị của các giai cấp công nhân, nông dân và đội ngũ trí thức xã hội chủ nghĩa
được nâng cao; trận địa chính trị – tư tưởng của giai cấp công nhân được củng
cố vững chắc v.v..
64

+ Đảng ta khẳng định những thắng lợi đó đã làm “thay đổi bộ mặt của đất
nước và cuộc sống của nhân dân; củng cố vững chắc độc lập dân tộc và chế độ
xã hội chủ nghĩa”1 ở nước ta. Những thắng lợi đó đã tạo ra những điều kiện hết
sức thuận lợi cho cuộc đấu tranh giai cấp ở nước ta hiện nay.

- Cuộc đấu tranh giai cấp ở nước ta hiện nay diễn ra trong bối cảnh quốc tế
rất phức tạp.

+ Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đang ráo riết thực hiện âm
mưu “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ hòng xóa bỏ những thành quả cách
mạng xã hội chủ nghĩa trên thế giới,trong đó chúng coi nước ta là một trọng
điểm.

+Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại cùng với xu hướng
khách quan, quốc tế hóa lực lượng sản xuất, tăng cường giao lưu và hợp tác
quốc tế… đang tạo ra cho đất nước ta cả những khả năng bỏ qua và rút ngắn
quá trình phát triển lịch sử và những thách thức gay gắt có thể bị tụt hậu ngày
càng xa hơn về kinh tế – xã hội so với sự phát triển của nhân loại.

- Cuộc đấu tranh giai cấp ở nước ta hiện nay có sự gắn bó mật thiết hơn
với cuộc đấu tranh dân tộc.
+ Ngay từ khi chưa có chính quyền, giai cấp công nhân Việt Nam đã đặt lợi
ích giải phóng dân tộc lên trên hết. Từ khi có chính quyền do Đảng ta lãnh đạo, nội
dung, nhiệm vụ đấu tranh giai cấp vẫn luôn nhằm mục tiêu trước hết là hoàn thành
sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Ngày nay, xây dựng đất nước
và bảo vệ Tổ quốc vẫn là hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam không
thể tách rời.
+ Lợi ích giai cấp công nhân và lợi ích dân tộc hòa quyện với nhau trong
cuộc đấu tranh bảo vệ, củng cố độc lập dân tộc, cũng như trong cuộc đấu tranh cho
thắng lợi của chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta. Độc lập dân tộc cũng là nội dung
của xây dựng chủ nghĩa xã hội; ngược lại, xây dựng chủ nghĩa xã hội cũng là nội
dung của sự nghiệp bảo vệ, củng cố độc lập dân tộc.

1
Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, H. 2001, tr.16.
65

+ Những điều kiện đó vừa nói lên cuộc đấu tranh giai cấp ở nước ta
hiện nay là quá trình vừa tận dụng những yếu tố tiến bộ, vừa loại bỏ những
yếu tố tiêu cực, không phù hợp để phát triển xã hội.
2.3. Nội dung, hình thức mới của cuộc đấu tranh giai cấp ở nước
ta hiện nay
- Về nội dung của cuộc đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ ở nước
ta hiện nay được Đảng ta xác định trong toàn bộ đường lối cách mạng xã hội
chủ nghĩa và ngày càng được bổ sung phát triển. Nội dung xuyên suốt của
cuộc đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ ở nước ta hiện nay đó là cuộc
đấu tranh nhằm xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta.
- Mục tiêu của cuộc đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta là xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Nội dung
đó là một phức hợp bao gồm nhiều nội dung cụ thể khác nhau, nhằm giải
quyết nhiều mâu thuẫn của quá trình vận động đi lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta.

- Đấu tranh giai cấp ở nước ta hiện nay bao gồm nhiều hình thức.
Tính chất phức tạp và quy mô rộng lớn của cuộc đấu tranh đó đòi hỏi
phải sử dụng tổng hợp và kết hợp các biện pháp, phương pháp linh hoạt
tùy điều kiện hoàn cảnh cụ thể.

- Để thực hiện thắng lợi nội dung đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá
độ ở nước ta hiện nay, Đảng ta đã xác định những phương hướng cơ bản:

- Sự hiện diện của các giai cấp và đấu tranh giai cấp ở xã hội ta hiện
nay là một thực tế khách quan. Cuộc đấu tranh đó đang diễn ra hết sức phức
tạp và quyết liệt. Những phương hướng cơ bản mà Đảng ta xác định là sợi chỉ
đỏ định hướng cho giai cấp công nhân và quần chúng nhân dân lao động
trong thực tiễn đấu tranh cần được quán triệt và nắm vững.

HỌC THUYẾT MÁC - LÊNIN VỀ NHÀ NƯỚC


VÀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
66

1. Quan niệm về nhà nước trong lịch sử

1.1. Những quan điểm ngoài mác xít về nhà nước

- Trong thời kỳ cổ đại và trung đại, các nhà tư tưởng giải thích sự xuất
hiện và tồn tại của nhà nước theo hai khuynh hướng. Một số nhà tư tưởng cho
rằng, nhà nước là do Thượng đế sáng tạo ra để bảo vệ trật tự chung, nhà nước
là lực lượng siêu nhiên, quyền lực nhà nước là tuyệt đối, là vĩnh viễn, vì vậy,
sự phục tùng quyền lực là cần thiết và tất yếu.

- Một số người khác không thừa nhận cách giải thích đó, song họ lại
cho rằng, nhà nước là kết quả của sự phát triển của gia đình. Những quan
điểm tư tưởng trên đã đóng một vai trò khá quan trọng trong xây dựng và bảo
vệ các nhà nước chủ nô, phong kiến.

- Đến thế kỷ XVI, XVII, XVIII, quan niệm của con người về nhà nước
từng bước phát triển mới. Để chống lại sự chuyên quyền độc đoán của nhà
nước phong kiến, đòi sự bình đẳng cho giai cấp tư sản trong việc tham gia
nắm giữ quyền lực nhà nước, đa số các học giả tư sản đều cho rằng, nhà nước
ra đời là sản phẩm của một khế ước được ký kết, trước hết là giữa những con
người sống trong trạng thái tự nhiên không có nhà nước.

- Sau khi giai cấp tư sản chiến thắng giai cấp địa chủ phong kiến,
xác lập quyền thống trị của mình. Để bảo vệ lợi ích giai cấp, các học giả tư
sản tìm mọi cách xuyên tạc bản chất của nhà nước.

- Tất cả những cách giải thích trên về nhà nước đều không có căn
cứ khoa học, đều nhằm mục đích biện hộ cho sự thống trị của các giai cấp
bóc lột.

1.2. Quan điểm của triết học Mác - Lênin về nhà nước

- Về nguồn gốc, bản chất của nhà nước

- Lực lượng sản xuất phát triển đã dẫn đến sự ra đời chế độ tư hữu, xã
hội có sự phân chia thành các giai cấp . Do đối lập về lợi ích, nên đấu tranh
giai cấp là hiện tượng không thể tránh khỏi.
67

- Như vậy, nhà nước không phải là cái bẩm sinh sẵn có, không
phải là cái được sinh ra bên ngoài xã hội, áp đặt vào xã hội. Sự ra đời và
tồn tại của nhà nước là tất yếu khách quan. Nguyên nhân sâu xa của sự ra
đời của nhà nước đó là sự phát triển của lực lượng sản xuất vật chất dẫn
đến sự ra đời của chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Nguyên
nhân trực tiếp là mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được.

- Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin: Bản chất của nhà nước là
công cụ chính trị của giai cấp thống trị về kinh tế dùng để thống trị xã hội. Thực
tế lịch sử đã chững minh điều đó.

- Thực tế lịch sử đã chứng minh rằng, cho dù được che đậy dưới hình
thức tinh vi như thế nào, thì nhà nước trong mọi xã hội có giai cấp đối kháng
cũng chỉ là công cụ bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị.

- Tuy nhiên, cũng có trường hợp, nhà nước giữ một mức độ độc lập
nào đó đối với cả hai giai cấp đối địch, khi cuộc đấu tranh giữa chúng đạt
tới thế cân bằng nhất định; hoặc nhà nước cũng có thể thực hiện sự thoả
hiệp về quyền lợi tạm thời giữa những giai cấp để chống lại một giai cấp
khác…

* Về đặc trưng của nhà nước.

- Nhà nước quản lý dân cư trên một vùng lãnh thổ nhất định.

Bất kỳ một nhà nước nào cũng có một lãnh thổ riêng, có chủ quyền về
vùng lãnh thổ đó. Quản lý dân cư theo lãnh thổ khác về chất với quản lý của
các thị tộc, bộ lạc trước đây. Nhà nước quản lý tất cả các thành viên của xã
hội bất kể họ thuộc quan hệ huyết thống nào.

- Nhà nước có một hệ thống các cơ quan quyền lực chuyên nghiệp
mang tính cưỡng chế đối với mọi thành viên trong xã hội.

Khác với các cơ quan điều hành công việc chung trong thị tộc, bộ lạc,
nhà nước của giai cấp thống trị nào cũng có bộ máy quyền lực chuyên
nghiệp. Trong số các cơ quan quyền lực đó, “những đội vũ trang đặc biệt”
(như quân đội nhà nghề, cảnh sát vũ trang), nhà tù, và những cơ quan cưỡng
bức, hệ thống cơ quan hành chính từ trung ương đến địa phương để thực hiện
68

chức năng cai trị buộc mọi người phải phục tùng ý chí của giai cấp cầm
quyền.

- Nhà nước đặt ra thuế khoá và thực hiện việc thu thuế dưới hình thức
bắt buộc là chủ yếu để duy trì và tăng cường bộ máy cai trị.

Bộ máy nhà nước sẽ không tồn tại nếu không có nguồn nuôi dưỡng từ
thuế khoá. Thông qua việc thực hiện chính sách thuế khoá, quốc trái và các
hình thức bóc lột khác, nhà nước của giai cấp thống trị, bóc lột đã thể hiện rõ
không những là công cụ trấn áp giai cấp mà còn là công cụ thực hiện sự bóc
lột giai cấp.

* Về chức năng của nhà nước

- Chức năng nhà nước là phương diện hoạt động chủ yếu của cả bộ
máy nhà nước mà mỗi cơ quan nhà nước đều phải tham gia thực hiện ở
những mức độ khác nhau.

- Khi xem xét nhà nước từ góc độ tính chất của quyền lực chính trị,
nhà nước có chức năng là công cụ thống trị chính trị của giai cấp và thực
hiện chức năng xã hội mà giai cấp thống trị buộc phải làm. Trong hai chức
năng đó thì chức năng chính trị-giai cấp là chức năng chủ yếu quyết định.
- Khi xem xét phạm vi tác động của quyền lực nhà nước ở tầm vĩ mô,
nhà nước có chức năng đối nội và đối ngoại. Nhà nước thực hiện chức năng
đối nội nhằm duy trì trật tự kinh tế, xã hội, chính trị và những trật tự khác
hiện có trong xã hội theo lợi ích của giai cấp thống trị. Nhà nước thực hiện
chức năng đối ngoại nhằm bảo vệ lãnh thổ quốc gia và thực hiện các mối
quan hệ với các nước khác vì lợi ích của giai cấp thống trị.
- Chức năng đối nội và chức năng đối ngoại của nhà nước là hai mặt của
một thể thống nhất, trong đó tính chất của chức năng đối nội quyết định tính chất
của chức năng đối ngoại. Nhà nước thực hiện các chức năng của mình đều xuất
phát từ lợi ích của giai cấp thống trị.
*Về nhà nước vô sản

- Tổ chức ra nhà nước xã hội chủ nghĩa, đó là quy luật phổ biến của
mọi quốc gia dân tộc khi tiến vào chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, do đặc điểm,
69

điều kiện của mỗi giai cấp, dân tộc khác nhau, vì vậy hình thức tổ chức nhà
nước cũng hết sức phong phú và đa dạng. Song dù hình thức tổ chức của nhà
nước có phong phú đến đâu đi chăng nữa, về bản chất chỉ là một - đó là nhà
nước do giai cấp vô sản tổ chức ra và lãnh đạo.

- Nhà nước do giai cấp vô sản tổ chức ra (nhà nước xã hội chủ nghĩa)
là nhà nước kiểu mới, khác về bản chất so với các nhà nước của các giai cấp
bóc lột trước đây. Trước hết, nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà nước của dân,
do dân và vì dân, là tổ chức thực hiện quyền làm chủ của nhân dân lao động,
dưới sự lãnh đạo của Đảng của giai cấp vô sản.

- Nhà nước xã hội chủ nghĩa có sự thống nhất giữa hai chức năng: trấn
áp và tổ chức xây dựng, trong đó chức năng tổ chức xây dựng là chủ yếu.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa có sự thống nhất giữa tính dân tộc và tính
quốc tế. Nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà nước “tự tiêu vong”.
2. Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
hiện nay
2.1. Các quan điểm về nhà nước pháp quyền trong lịch sử
- Trong lịch sử nhân loại, tư tưởng về nhà nước pháp quyền đã xuất
hiện từ rất sớm trong các học thuyết triết học, pháp luật của các nhà tư
tưởng và ngày càng được hoàn thiện theo sự phát triển của lịch sử.
Ở thời kỳ cổ đại, các nhà tư tưởng Hy Lạp và La Mã đã tìm kiếm
những nguyên tắc, hình thức, những cơ chế của mối quan hệ tương hỗ giữa
pháp luật với tổ chức và hoạt động của quyền lực nhà nước. Tuy chưa có
được một quan niệm đầy đủ về nhà nước pháp quyền, song họ cũng đã nói
lên được một sự thật rằng: Nhà nước cần phải quản lý xã hội bằng pháp luật
và chỉ có pháp luật mới làm cho quyền của con người không bị xâm phạm.
- Sau thắng lợi của cuộc cách mạng lật đổ chế độ phong kiến tàn
bạo, chuyên chế, độc tài và vô pháp luật, các tư tưởng về nhà nước pháp
quyền tiếp tục có sự phát triển và dần dần hình thành một cách rõ ràng và
thành hệ thống trong các học thuyết chính trị xã hội.
70

- Trên cơ sở kế thừa những tư tưởng của nhân loại về vấn đề này, các
nhà nghiên cứu đã tranh luận và làm sáng tỏ nhiều vấn đề về nhà nước pháp
quyền như: Vấn đề về tính tất yếu của nhà nước pháp quyền; bản chất của
nhà nước pháp quyền; vấn đề tổ chức quyền lực của nhà nước pháp quyền
v.v.. Đây là cơ sở lý luận quan trọng cho việc tiếp tục nghiên cứu vấn đề này.

2.2. Bản chất của nhà nước pháp quyền, sự khác nhau cơ bản giữa
nhà nước pháp quyền tư sản và nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

- Phương thức tổ chức, xây dựng và vận hành bộ máy nhà nước phải do
pháp luật quy định. Nhà nước và công dân phải thừa nhận tính tối cao của pháp
luật (các đảng phái, tổ chức, tôn giáo… phải được tổ chức và hoạt động trong
khuôn khổ của pháp luật). Quyền lực nhà nước được xác định gồm: quyền lập
pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp. Nhà nước có hệ thống pháp luật đầy
đủ, rõ ràng, minh bạch, thể hiện ý chí và nguyện vọng của nhân dân để điều
chỉnh những quan hệ pháp luật phát sinh trong xã hội; đặc biệt là bảo đảm
quyền và lợi ích hợp pháp cơ bản của công dân (hoặc con người nói chung).

- Từ những dấu hiệu đó rút ra định nghĩa: Nhà nước pháp quyền là
nhà nước được xem xét dưới góc độ pháp luật, trong đó tính tối cao của
pháp luật được tôn trọng, các tư tưởng và hành vi của bất cứ tổ chức xã hội
hoặc cá nhân nào cũng được giới hạn bởi khuôn khổ pháp luật và chịu sự
điều chỉnh của pháp luật 1.

- Nhà nước pháp quyền quản lý xã hội theo khuôn khổ của pháp luật và
bản thân nhà nước, phương thức tổ chức, xây dựng và vận hành của nó cũng
bị ràng buộc bởi pháp luật.

- Phương tiện chủ yếu của nhà nước pháp quyền trong quản lý xã hội đó
là pháp luật. Nhưng nhà nước pháp quyền không đồng nghĩa với mọi nhà nước
quản lý xã hội bằng pháp luật.

- Nhà nước pháp quyền là nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật.
Trong khi đó, pháp luật bao giờ cũng mang tính giai cấp và tính đặc thù của
mỗi quốc gia, mỗi dân tộc;

1
Website Tạp chí Cộng sản, số 60, tháng 6/2004.
71

- Trong lịch sử đã tồn tại hai loại hình nhà nước pháp quyền cơ bản.
Đó là nhà nước pháp quyền tư sản và nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Do có sự khác nhau về bản chất xã hội, nên hai loại nhà nước này khác nhau
về chất. Sự khác nhau đó thể hiện ở chỗ:

- Nhà nước pháp quyền tư sản coi thuyết “tam quyền phân lập” là học
thuyết cơ bản trong việc thực hiện quyền lực nhà nước, các cơ quan lập pháp,
hành pháp và tư pháp hoàn toàn độc lập với nhau trong việc thực hiện ba
quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa không thừa nhận việc phân chia quyền lực mà coi quyền lực nhà nước
là thống nhất và thuộc về nhân dân; trong đó, có sự phân công, phối hợp, để
thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp nhằm bảo đảm cho
quyền lực nhà nước thống nhất, được thực hiện với hiệu quả cao nhất.

2.3. Tính tất yếu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam hiện nay

- Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay
là phù hợp với quy luật khách quan của lịch sử.

+ Sự phát triển của sản xuất vật chất làm xuất hiện chế độ chiếm hữu
tư nhân về tư liệu sản xuất, xã hôi có sự phân chia thành giai cấp và đấu tranh
giai cấp, có sự phân hoá sâu sắc về lợi ích giữa các tập đoàn người.v.v.

+ Thực tế cho thấy, trong xã hội có đối kháng giai cấp, xã hội càng
phát triển thì mâu thuẫn đó càng trở nên gay gắt. Để giải quyết mâu thuẫn đó
xã hội đòi hỏi phải thay thế nhà nước độc tài, chuyên chế bằng nhà nước
pháp quyền, quản lý xã hội bằng pháp luật. Thắng lợi của cuộc cách mạng lật
đổ chế độ phong kiến tàn bạo, chuyên chế, độc tài và vô pháp luật, và sự ra
đời của của nhà nước pháp quyền tư sản đã chứng minh cho khuynh hướng
phát triển tất yếu đó.

+ Lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về tính tất yếu của sự thay thế đó
được xây dựng dần dần dựa vào kinh nghiệm đấu tranh của giai cấp vô sản và
nhân dân lao động chống giai cấp tư sản.
72

- Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay xuất
phát từ mục tiêu và thực tiễn của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.

+ Trong quá trình đi tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã tìm thấy
ở chủ nghĩa Mác - Lênin con đường đúng đắn cho cách mạng Việt Nam.
Người chỉ rõ: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường
nào khác – con đường cách mạng vô sản”.

+ Cách mạng xã hội chủ nghĩa, về bản chất là cuộc cách mạng do giai
cấp công nhân và nhân dân lao động tiến hành, thực hiện xóa bỏ chế độ xã
hội có áp bức, bóc lột, bất công, xây dựng một xã hội mới không có giai cấp
áp bức và bóc lột, giải phóng xã hội và con người thoát khỏi nghèo nàn, lạc
hậu, bất bình đẳng. Thực tiễn cho thấy, một trong những tiền đề quan trọng
đưa cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa đến thành công đó là quyền lực nhà
nước phải thuộc về nhân dân.
+ Chính vì vậy, khái niệm Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của dân, do dân, vì dân dần dần được nhận thức ngày càng đầy đủ và sâu
sắc, được chính thức đưa vào các văn kiện của Đảng. Vấn đề xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân được khẳng
định trở thành một quan điểm chỉ đạo xây dựng Nhà nước ta và được đưa
vào Hiến pháp.
2. 4. Những nội dung cơ bản xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước
ta hiện nay
- Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa.
+ Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với sự nghiệp cách
mạng Việt Nam là một tất yếu lịch sử. Điều đó đã được hiến pháp của nước ta
ghi nhận: Đảng Cộng sản Việt Nam là “lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội”.
+ Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước nhằm giữ vững
bản chất giai cấp công nhân của nhà nước, đảm bảo mọi quyền lực thuộc về
nhân dân, đưa sự nghiệp cách mạng đi đúng hướng xã hội chủ nghĩa.
73

+ Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước phải gắn liền với
đổi mới, chỉnh đốn Đảng, bao gồm cả đổi mới nội dung, phương thức lãnh
đạo. “Đảng lãnh đạo Nhà nước thông qua việc đề ra đường lối, chủ trương, các
chính sách lớn, định hướng cho sự phát triển và kiểm tra việc tổ chức thực hiện
đường lối, chủ trương của Đảng và Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước”.
+ Xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân, lấy
liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm
nền tảng do đảng cộng sản lãnh đạo. Thực hiện đầy đủ quyền làm chủ của
nhân dân, giữ vững kỷ cương xã hội, chuyên chính với mọi hành động xâm
phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân.
- Thực hiện quyền lực nhà nước thống nhất, có sự phân công và phối
hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp,
hành pháp và tư pháp.
+ Đây vừa là nội dung có tính chất chỉ đạo quá trình xây dựng bộ máy nhà
nước ta, vừa là nguyên tắc tổ chức và hoạt động của nó. Thực chất quan điểm này
thể hiện ở chỗ: Hoạt động của nhà nước ta không theo nguyên tắc phân quyền như
trong chính thể nhà nước cộng hoà tư sản khác, mà thực hiện nguyên tắc quyền lực
thống nhất, quyền lực đó thuộc về nhân dân. Nhân dân là chủ thể duy nhất thực
hiện quyền lực nhà nước.

+ Quyền lực thống nhất không có nghĩa là không có sự phân công phối hợp
giữa các cơ quan nhà nước trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư
pháp. Các cơ quan này tuy có chức năng quyền hạn riêng, song giữa chúng có quan
hệ phụ thuộc, chi phối lẫn nhau đảm bảo nguyên tắc thống nhất quyền lực nhà
nước và phân công, phối hợp chặt chẽ ba quyền đó.
- Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động
của nhà nước.
+ Đây là nguyên tắc nền tảng trong tổ chức, hoạt động của hệ thống
chính trị nói chung và của bội máy nhà nước ta nói riêng. Một trong số
những nội dung căn bản nhất của nguyên tắc tập trung dân chủ là thiểu số
phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên. Tập trung dân chủ phải được
74

quán triệt trong toàn bộ quá trình tổ chức và xây dựng bộ máy quyền lực
của Nhà nước.
+ Tuy nhiên, khi áp dụng nguyên tắc này phải cân nhắc, xem xét các
điều kiện cần và đủ để phát huy tác dụng, hiệu quả tích cực của nguyên
tắc; đặc biệt là phải lưu ý đến quyền hạn và trách nhiệm cá nhân trong việc
thực hiện công vụ của bộ máy công quyền. Xa rời nguyên tắc này bộ máy
nhà nước sẽ kém hiệu lực và sức mạnh.
- Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, quản lý xã hội bằng pháp
luật, coi trọng giáo dục, nâng cao đạo đức.
+ Đây là quan điểm có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, chỉ đạo suốt quá
trình cải cách, xây dựng nhà nước ta hiện nay.
+ Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, theo pháp luật là nguyên tắc
có tính hiến định xác lập các cơ sở chủ yếu điều chỉnh các quan hệ cơ bản
trong xã hội giữa công dân với công dân, giữa công dân với Nhà nước, giữa Nhà
nước với các tổ chức xã hội.

+ Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa phải được tiến hành một cách
đồng bộ trên cả ba mặt: Xây dựng pháp luật, chấp hành pháp luật và bảo vệ pháp
luật. Vì vậy, tuân thủ nghiêm chỉnh pháp luật, thực hiện tích cực các quy định của
pháp luật, sống và làm việc có kỷ cương, kỷ luật là đòi hỏi khách quan đối với mọi
công dân.
+ Mở rộng dân chủ và phát huy quyền làm chủ của nhân dân là một
trong những nhân tố quan trọng làm nên nội lực trong nước đưa sự nghiệp
cách mạng của nước ta phát triển.
+ Cùng với việc mở rộng dân chủ và phát huy quyền làm chủ của nhân
dân thì đẩy mạnh cải cách nền hành chính nhà nước nhằm nâng cao hiệu lực
quản lý của nhà nước giữ một vị trí đặc biệt quan trọng.
+ Hiện nay, một bộ phận cán bộ có chức, có quyền đang rơi vào tham
nhũng, thoái hóa, biến chất, làm giảm đi sức mạnh và hiệu lực của nhà nước,
phá hoại niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng. Việc đấu tranh
chống lại các biểu hiện tiêu cực càng trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết.
75

+ Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là
nhiệm vụ chung của mọi lực lượng xã hội. Quân đội nhân dân Việt Nam với
tư cách là một bộ phận không tách rời của nhà nước, cần phải quán những
vấn đề có tính nguyên tắc chung đó để tự hoàn thiện mình, tự nâng cao trách
nhiệm của mình trong thực hiện các nhiệm vụ do cách mạng giao phó. Mặt
khác, với tính cách là một lực lượng tiên tiến của xã hội, cần tham gia tích
cực vào hoạt động xây dựng Nhà nước ta nói chung.

VẤN ĐỀ CON NGƯỜI VÀ PHÁT HUY NHÂN TỐ CON NGƯỜI


TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

1. Quan điểm triết học Mác - Lênin về con người và nhân tố con người

1.1. Các quan điểm triết học ngoài mácxít về con người

1.1.1. Triết học phương Đông quan niệm về nguồn gốc, bản chất con
người
76

- Trong lịch sử tư tưởng triết học phương Đông đã có nhiều quan điểm
khác nhau về nguồn gốc con người. Theo quan điểm duy tâm, tôn giáo, con
người do một vị thần tối cao sinh ra và chịu sự điều khiển của vị thần đó.
Quan niệm đó được phản ánh trực tiếp hoặc gián tiếp trong Kinh Vêđa (Ấn
Độ) và Kinh thi (Trung Quốc). Theo quan niệm duy vật mộc mạc, con người do
Thái cực, Ngũ hành hoặc do nước, khí… tạo thành.

- Như vậy, trong triết học phương Đông cổ đại, các quan điểm duy
tâm, tôn giáo đều quan niệm con người do thần thánh, do lực lượng siêu
nhiên tạo ra, cuộc sống con người do Trời, thần sắp đặt, an bài. Ngược lại,
các quan niệm duy vật về nguồn gốc con người còn mộc mạc, ngây thơ, chưa
có cơ sở khoa học vững chắc.

- Trong triết học phương Đông, tính người là một khía cạnh thuộc bản
chất con người được quan tâm bàn đến. Vấn đề tính người được Nho giáo
quan tâm và giải thích theo các khuynh hướng khác nhau. Khổng Tử cho
rằng tính người gần nhau, do tập nhiễm mà xa nhau.

Trong quan niệm của Lão Tử, tính người không thiện cũng không ác.
Thiện ác là do hoàn cảnh và giáo dục tạo ra. Phật giáo cho rằng, tính người
có hai thuộc tính: tính Phật và tính trần tục. Hàn Phi Tử cho rằng, tính người
ích kỷ, cá nhân, vụ lợi.

1.1.2. Triết học phương Tây trước Mác quan niệm về nguồn gốc, bản
chất con người.

- Chủ nghĩa duy vật cổ đại, bằng nhiều cách, giải thích nguồn gốc, bản
chất con người theo quan điểm duy vật chất phác, mộc mạc. Theo quan điểm
của các nhà triết học duy vật, con người là một bộ phận cấu thành của tồn tại,
của thế giới, là một bản nguyên vật chất xác định. Phái nguyên tử luận, tiêu biểu
là Đêmôcrít cho rằng, mọi sinh vật đều cấu tạo từ nguyên tử. Linh hồn con
người cũng là vật chất, được cấu tạo từ nguyên tử.

- Trong triết học thời kỳ trung cổ, quan niệm con người bị chi phối bởi
quan điểm duy tâm của tôn giáo. Theo giáo lý Kitô, con người do Chúa sáng
77

tạo ra, con người có thể xác và linh hồn. Thể xác mất đi, linh hồn sẽ còn lại.
Thể xác và linh hồn đối lập nhau như cái thấp hèn và cái cao thượng.

- Trong triết học Tây Âu thời kỳ Phục hưng - Cận đại, quan niệm về
con người có bước phát triển. Đây là thời kỳ nhận thức về nguồn gốc, bản
chất con người có bước tiến đáng kể, phản ánh những vấn đề do khoa học
và thực tiễn đặt ra. Các nhà triết học duy vật, dựa trên cơ sở những thành
tựu của khoa học tự nhiên đã phê phán mạnh mẽ chủ nghĩa duy tâm và tôn
giáo về vấn đề nguồn gốc, bản chất con người.

- Trong triết học cổ điển Đức, quan niệm con người đã phát triển mạnh
mẽ cả hai khuynh hướng duy tâm và duy vật. Hêghen tuyệt đối hoá con người lý
tính, cho rằng ý niệm tuyệt đối tha hoá thành tự nhiên, xã hội và con người. Ý
niệm tuyệt đối là thực thể tinh thần sinh ra vũ trụ và con người.

1.2. Quan điểm triết học Mác - Lênin về con người và nhân tố con người

1.2.1. Khái niệm con người và nhân tố con người

- Trên cơ sở quan điểm duy vật biện chứng về lịch sử xã hội và về con
người, triết học Mác – Lênin đã đem lại một quan niệm hoàn chỉnh về con
người. Theo quan điểm chung nhất, con người là thực thể sinh học xã hội.

- Con người là một sinh vật có tính xã hội, vừa là sản phẩm cao nhất
trong quá trình tiến hoá của tự nhiên và lịch sử xã hội, vừa là chủ thể sáng tạo
mọi thành tựu văn hoá trên trái đất. Triết học Mác chỉ rõ hai mặt, hai yếu tố
cơ bản cấu thành con người là mặt sinh học và mặt xã hội. Con người có mặt
tự nhiên, vật chất, nhục thể, sinh vật, tộc loại…
- Quan niệm về con người của triết học Mác – Lênin đã bao hàm trong
đó sự khẳng định vai trò chủ thể lịch sử xã hội của con người. Điều đó đòi
hỏi tất yếu từ quan niệm chung về con người, cần phải có một quan niệm cụ
thể hơn về nhân tố con người.
- Nhân tố con người là hệ thống các thuộc tính, các đặc trưng quy định
vai trò chủ thể tích cực, tự giác, sáng tạo của con người, bao gồm một chỉnh
thể thống nhất giữa mặt hoạt động với tổng hoà những đặc trưng về phẩm
chất, năng lực của con người trong quá trình phát triển lịch sử. Quan niệm
78

nhân tố con người trong triết học Mác – Lênin đã chỉ ra sự thống nhất giữa
hai mặt là hoạt động và phẩm chất, năng lực của con người.
- Triết học Mác – Lênin đã chỉ ra vai trò chủ thể tích cực, tự giác, sáng
tạo của con người. Chính vì vậy, nhân tố con người là cội nguồn của mọi sự phát
triển, của mọi nền văn minh xã hội.
1.2.2. Các quan điểm cơ bản của triết học Mác – Lênin trong tiếp cận
nguồn gốc, bản chất con người
- Sự hình thành, phát triển con người là một quá trình gắn liền với lịch
sử sản xuất vật chất
+ Con người khác con vật ở chỗ, con vật sống dựa hoàn toàn vào
tặng phẩm của tự nhiên, còn con người phải bằng lao động sản xuất để cải
tạo tự nhiên, sáng tạo ra của cải vật chất, thoả mãn nhu cầu ngày càng phát
triển của mình.
+ Triết học Mác – Lênin khẳng định, thông qua lịch sử sản xuất vật chất,
nhờ lao động mà một loài sinh vật mới ra đời, đó là Homo sapiens – con người
có lý tính, mang tính chất xã hội. Lao động đã biến đổi bản chất tự nhiên của tổ
tiên loài người. Khoa học đã chứng minh rằng, con người là một tổ chức sinh
vật có trình độ phát triển cao nhất trên hành tinh, từ một loài sinh vật có xương
sống phát triển lên, là một nấc thang cao nhất trong lịch sử tiến hoá của các
giống loài qua hàng trăm triệu năm.
+ Lao động đã cải tạo bản năng sinh học của con người, bắt bản năng
phục tùng lý trí, phát triển bản năng con người thành một trạng thái mới về chất.
C. Mác cho rằng, “trong con người, ý thức thay thế bản năng, hoặc bản năng
con người là bản năng đã được ý thức”1. Lao động là điều kiện chủ yếu quyết
định sự hình thành phát triển phẩm chất xã hội của con người. Trong lao động
tất yếu hình thành quan hệ xã hội, thông qua hoạt động giao tiếp hình thành lên
ngôn ngữ, nhận thức, tình cảm, ý chí và cả phương pháp tư duy của con người.
+ Nhờ lao động mà con người vừa tách khỏi tự nhiên, vừa hoà nhập
với tự nhiên trở thành một thực thể sáng tạo. Hoạt động lịch sử đầu tiên mang

4 C.Mác và Ph.Ăngghen, toàn tập, Nxb CTQG, H. 1994, t. 20, tr. 641.
1
79

ý nghĩa sáng tạo chân chính của con người là chế tạo ra công cụ lao động.
Con người bắt đầu lịch sử của mình từ đó.

- Con người là một chỉnh thể thống nhất giữa mặt sinh học và mặt xã hội.

+ Triết học Mác – Lênin tiếp cận con người trong tính toàn vẹn, khẳng
định con người là một chỉnh thể tồn tại và phát triển trong sự thống nhất giữa
mặt sinh học và mặt xã hội. Đây là một chỉnh thể phức tạp, năng động, luôn
luôn vận động, phát triển.

+ Về mặt sinh học, con người tồn tại ở cấp độ cơ thể, biểu hiện trong
các hiện tượng sinh lý, di truyền, thần kinh, điện - hoá và các quá trình khác
của cơ thể. Về mặt này, con người phục tùng các quy luật của tự nhiên, sinh học. Về mặt
xã hội, con người tồn tại ở cấp độ nhân cách, biểu hiện trong những quá trình
ý thức, tính cách, tính khí…là chủ thể quan hệ xã hội, lao động, giao tiếp,
tinh thần…Về mặt này. con người phục tùng các quy luật xã hội.
+ Con người tồn tại và phát triển trong tính toàn vẹn thống nhất của
hai quá trình sinh học và xã hội. Sự hình thành, phát triển con người
thông qua một quá trình thống nhất giữa cơ chế di truyền và hoạt động xã
hội. Cơ chế di truyền quyết định quá trình tiến hoá sinh học của con
người, tạo nên cơ sở sinh học cho sự tiến hoá xã hội.
- Con người tồn tại, phát triển trong môi trường cư trú và mang thuộc
tính xã hội- hành tinh- vũ trụ.
+ Triết học Mác – Lênin tiếp cận con người trong hệ thống con người
– môi trường cư trú, từ trái đất đến vũ trụ. Môi trường là điều kiện cần thiết
cho sự tồn tại và phát triển của con người. Đó là toàn bộ hoàn cảnh tự nhiên
và xã hội được thu hút vào quá trình đời sống con người. Theo nghĩa rộng
nhất, môi trường bao gồm môi trường tự nhiên và môi trường xã hội.
+ Con người là một bộ phận của tự nhiên, giao tiếp với tự nhiên và
phụ thuộc vào tự nhiên. Con người thuộc về giới tự nhiên, nằm trong giới
tự nhiên, sống trên hành tinh và phụ thuộc vào các quá trình cơ, lý, hoá,
sinh học của hành tinh.
80

+ Con người tồn tại trong môi trường xã hội, thông qua xã hội mà thích
nghi với tự nhiên. Bởi vì, xã hội là một bộ phận của giới tự nhiên, một kết
cấu vật chất đặc thù của giới tự nhiên. Toàn bộ quần thể xã hội hoạt động
trong giới tự nhiên, chỉ có thể tồn tại và phát triển trong mối quan hệ hài hoà
với tự nhiên.
- Con người là một thực thể cá nhân - xã hội.

+ Trước hết, con người là một nhân cách mang đặc trưng chung, đại biểu
cho nhân loại, tộc loại. Thuộc tính chung nhất và cao nhất của con người là sáng
tạo. Con người mang những phẩm chất đặc thù đại biểu cho một xã hội lịch sử -
cụ thể, đại biểu cho một dân tộc, giai cấp, tập đoàn xã hội, tập thể, nhóm xã hội,
gia đình…Những phẩm chất xã hội của con người mang dấu ấn của một thời đại
lịch sử và những quan hệ xã hội cụ thể.

+ Những phẩm chất riêng có của mỗi người là cái đơn nhất, cái đặc thù
của cá nhân tạo nên kinh nghiệm, tính đơn nhất về tâm lý xã hội của mỗi người.
Cái riêng của con người do đặc điểm di truyền, do điều kiện sống riêng của mỗi
người quy định. Nhờ những phẩm chất riêng mà phân biệt được giữa cá nhân
này và cá nhân khác về trí tuệ, tình cảm, ý chí, động cơ hành động, tính cách…

- Sự thống nhất biện chứng giữa con người giai cấp và con người nhân loại

+ Con người mang tính nhân loại. Đây là thuộc tính vốn có hình
thành trong suốt chiều sâu lịch sử của cuộc sống cộng đồng phổ biến rộng
lớn nhất. Tính nhân loại thể hiện trong thuộc tính chung nhất cao nhất của
con người là sáng tạo và trong những giá trị văn hoá chung mà nhân loại
đạt được.

+ Tính nhân loại còn được thể hiện trong những quy tắc chuẩn mực
của cuộc sống chung được hình thành như những đạo lý. Tính nhân loại
thể hiện trong những giá trị chung mà con người quan tâm như nhân đạo,
dân chủ, công bằng xã hội, hoà bình, bảo vệ môi trường sinh thái

+ Trong xã hội có giai cấp, con người mang tính giai cấp. Mỗi người là
một thành viên của giai cấp mang địa vị kinh tế xã hội của giai cấp đó. Địa vị
kinh tế xã hội mang tính khách quan, do toàn bộ điều kiện sinh hoạt vật chất
81

quy định, mặc dù mỗi thành viên giai cấp có thể ý thức được hoặc không ý
thức được địa vị của mình.

+ Tính giai cấp và tính nhân loại trong con người vừa đồng nhất vừa khác
biệt. Con người tồn tại thông qua những cá nhân hiện thực với tư cách là các chủ
thể hành động xã hội. Tính nhân loại vĩnh hằng. Bởi vì, trật tự kinh tế, chính trị xã
hội có thể bị thay đổi, nhưng con người luôn luôn phải biết dựa vào người khác,
khai thác sự phong phú của người khác để tồn tại, làm phong phú cho mình là
không bao giờ mất đi.
- Con người là sự thống nhất biện chứng giữa tất yếu và tự do.
+ Hoạt động của con người bị chi phối bởi tính tất yếu. Tính tất yếu tồn
tại dưới hình thức các quy luật khách quan. Mặc dù con người nhận thức được
quy luật khách quan hay không thì lịch sử xã hội vẫn vận động phát triển theo
quy luật.
+ Hoạt động của con người có sự thống nhất giữa tất yếu và tự do.
Hoạt động con người có ý thức là hoạt động tiếp cận dần, nắm bắt quy luật
khách quan làm tiền đề cho sự sáng tạo. Lịch sử xã hội loài người là lịch sử
con người vươn lên giành lấy tự do ngày càng cao hơn. Con người muốn tự
do, trước hết phải được giải phóng về mặt xã hội, phải có chế độ kinh tế xã
hội tạo điều kiện tốt nhất cho hoạt động con người vươn tới tự do.
2. Vấn đề phát huy nhân tố con người trong sự nghiệp đổi mới đất
nước

2.1. Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng Việt Nam

- Con người, tự do và hạnh phúc của con người là vấn đề trung tâm của
chủ nghĩa xã hội. Mục tiêu cao nhất, bao trùm của chủ nghĩa xã hội là độc
lập, tự do, hạnh phúc của con người. Đó là lợi ích lớn nhất của con người
Việt Nam. Cách mạng Việt Nam trải qua giai đoạn giành độc lập dân tộc, tiến
lên chủ nghĩa xã hội là một cuộc cách mạng vì mục đích giải phóng con
người .
82

- Xuất phát từ quan điểm coi con người là vốn quý nhất của chủ nghĩa
xã hội, trong mọi giai đoạn cách mạng, Đảng cộng sản Việt Nam và Hồ Chí
Minh luôn luôn coi con người là vốn quý nhất, trong đó nhấn mạnh nhân dân.

- Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, phát động quần chúng đấu tranh
giành thắng lợi cho cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nối tiếp truyền
thống nhân đạo của dân tộc, có quan điểm nhất quán luôn luôn bảo vệ con
người, hạn chế mức thấp nhất sự hy sinh xương máu của nhân dân, trân trọng
sinh mệnh con người, tiếp kiệm sức người và luôn quan tâm đến chính sách
khoan thư sức dân.

- Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam và Hồ Chí Minh là luôn luôn
tin tưởng vào mặt tốt, mặt tiến bộ của con người, tin tưởng sức mạnh tuyệt đối
của nhân dân. Trên cơ sở nhìn nhận mặt tiến bộ, tính cực của con người và tin
tưởng ở con người, kể cả những người trong hoàn cảnh nhất định bị lầm đường
lạc lối, cần phải có lòng khoan dung rộng lớn đối với con người. Từ đó tin
tưởng vào sức mạnh của toàn dân được tổ chức, đoàn kết đấu tranh.

2.2. Về chiến lược con người trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam

- Chiến lược con người là một bộ phận hợp thành chiến lược kinh tế-xã
hội. Trong giai đoạn đổi mới đất nước toàn diện theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, con người được đặt ở vị trí trung tâm của sự phát triển kinh tế- xã hội.
Xây dựng con người có tầm quan trọng đặc biệt, phải đi trước một bước so với hoàn
cảnh kinh tế xã hội.

- Mục tiêu của chiến lược con người là phát triển con người toàn diện,
vừa “hồng” vừa “chuyên”, trong đó ưu tiên đạo đức cách mạng, coi đức là
gốc. Đào tạo ra những người công dân và những cán bộ tốt, kế tục xứng
đáng sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta.

- Mô hình con người xã hội chủ nghĩa là con người kế thừa, phát triển
những giá trị truyền thống và giá trị cách mạng lên tầm cao mới. Nhân cách
con người xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam đã được Hồ Chí Minh khái quát là
Đức và Tài, tức là phẩm chất và năng lực. Trong đó, đạo đức là cái gốc của
người cách mạng.
83

- Phẩm chất và năng lực con người Việt Nam được biểu hiện ở các đặc
trưng: Yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội; trung thành với Tổ quốc, nhân dân và
Đảng; có đạo đức cách mạng cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; có đạo
lý truyền thống con người Việt Nam: nhân ái, bao dung, hiếu thảo, khiêm
tốn, trung thực, giản dị, đoàn kết cộng đồng, dễ thích nghi; dũng cảm, mưu trí
sáng tạo; yêu lao động; có ý thức tổ chức kỷ luật; ham học hỏi, cầu tiến bộ; có
năng lực chuyên môn tốt; có tri thức hiện đại; có đời sống văn hoá - tinh thần lành
mạnh, phong phú và có khả năng hội nhập trong đời sống xã hội hiện đại.

- Phẩm chất và năng lực con người Việt Nam gắn với nhiệm vụ cách
mạng và từng giai đoạn lịch sử cụ thể, được khái quát thành mô hình nhân
cách cụ thể như nhân cách đảng viên, nhân cách người cán bộ, quân nhân,
công an, phụ nữ, nông dân, công nhân, thanh niên, học sinh, nhi đồng
2.3. Những động lực phát huy nhân tố con người trong đổi mới đất nước
- Trước hết là quan tâm đến lợi ích của con người.
+ Theo quy luật chung, lợi ích là động lực tích cực hoá nhân tố con
người. Quan tâm lợi ích con người, thoả mãn nhu cầu ngày càng cao của con
người chính là hiện thực hoá quan điểm của Đảng và Hồ Chí Minh coi con
người vừa là mục đích, vừa là động lực phát triển của cách mạng Việt Nam.
+ Mục đích chủ nghĩa xã hội là vì tự do, hạnh phúc con người, thoả
mãn nhu cầu ngày càng cao của con người cả vật chất và tinh thần. Quan tâm lợi
ích con người để con người trở thành chủ thể tích cực xây dựng xã hội mới. Con
người vừa là vốn quý, vừa là nguồn sức mạnh vô tận của sự nghiệp cách mạng,
sự nghiệp đổi mới ở nước ta.
+ Thực hiện chính sách xã hội nhằm kết hợp hài hoà các lợi ích, điều
chỉnh quan các hệ xã hội. Các chế độ, chính sách, pháp luật nhà nước phải được
cụ thể hoá để thực sự trở thành công cụ thực hiện công bằng xã hội, từng bước
hiện thực hóa các giá trị xã hội chủ nghĩa vào thực tiễn đời sống xã hội.
- Thực hiện dân chủ hoá mọi mặt đời sống xã hội.
+ Dân chủ hoá đời sống xã hội là một quá trình xây dựng những tiền
đề, điều kiện cho mọi hoạt động của con người được thực hiện trên cơ sở dân
84

chủ, bảo đảm cho giá trị dân chủ xã hội chủ nghĩa được thể hiện đầy đủ trong
đời sống xã hội nhằm phát huy tính tích cực, tự giác, sáng tạo của con người.
+ Để thực hiện dân chủ hoá cần tập trung một số giải pháp cơ bản.
Trước hết cần phải thu hút rộng rãi các tầng lớp nhân dân tham gia quản lý
nhà nước, thực sự làm chủ vận mệnh của mình, làm chủ xã hội mới.

+ Phối hợp chặt chẽ dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp. Khắc phục
mọi biểu hiện dân chủ hình thức, dân chủ cực đoan, lợi dụng dân chủ để
chống lại chế độ. Phát huy dân chủ đi đôi tăng cường kỷ luật, pháp luật, pháp
chế xã hội chủ nghĩa. Lấy dân chủ trong Đảng, trong bộ máy nhà nước làm
nòng cốt cho dân chủ hoá xã hội chủ nghĩa.

- Đặc biệt coi trọng phát triển giáo dục đào tạo.

+ Phải thực sự coi giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu nhằm phát triển
toàn diện con người Việt Nam, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Giáo dục là sự nghiệp có tính chiến lược.

+ Mục tiêu của sự nghiệp giáo dục là nâng cao dân trí, phát triển nhân lực,
đào tạo nhân tài, trên nền tảng phát triển nhân cách con người Việt Nam vừa
“hồng”, vừa “chuyên”.

+ Phương hướng nhiệm vụ của sự nghiệp giáo dục là phải giải quyết tốt
quan hệ đào tạo và sử dụng, giải quyết tốt việc làm cho người lao động. Nâng cao
trình độ dân trí và phát triển nguồn nhân lực. Nâng cao hiệu quả công tác giáo
dục đào tạo.
Tóm lại, quan điểm triết học Mác – Lênin về con người và phát huy
nhân tố con người là toàn diện, phong phú và sâu sắc. Toàn bộ mục đích cao
nhất và bao trùm nhất của chủ nghĩa Mác – Lênin là giải phóng giai cấp, giải
phóng dân tộc, và giải phóng con người. Tư tưởng về con người và phát huy
nhân tố con người đã được Đảng Cộng sản Việt Nam và Hồ Chí Minh phát
triển lên một tầm cao mới phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam. Quan
điểm triết học Mác - Lênin vì con người và phát huy nhân tố con người có ý
nghĩa khoa học và cách mạng to lớn trong sự nghiệp đổi mới đất nước và
trong xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay.
85
86

You might also like