You are on page 1of 60

1. Nêu khái niệm triết học Mác – Lênin?

Phân tích tính tất yếu cho sự ra


đời của triết học Mác-Lênin? Vì sao nói sự ra đời của triết học Mác là một
cuộc cách mạng trên lĩnh vực triết học? Ý nghĩa phương pháp luận của vấn
đề nghiên cứu?
Trả lời:
- Khái niệm triết học Mác – Lênin: Triết học là hệ thống tri thức lý luận chung
nhất của con người về thế giới; về vị trí, vai trò của con người trong thế giới ấy.
- Tính tất yếu cho sự ra đời của triết học: Triết học ra đời do hoạt động nhận
thức của con người phục vụ nhu cầu sống; song, với tư cách là hệ thống tri thức
chung nhất, triết học chỉ có thể xuất hiện trong những điều kiện sau đây:
Con người đã phải có một vốn hiểu biết nhất định và đạt đến khả năng rút
ra được cái chung trong muôn vàn những sự kiện, hiện tượng riêng lẻ.
Xã hội đã phát triển đến thời ký hình thành tầng lớp lao dộng trí óc. Họ
đã nghiên cứu, hệ thống hóa các quan điểm, quan niệm rời rạc lại thành học
thuyết , thành lý luận và triết học ra đời.
 Tất cả những điều kiện trên cho thấy : Triết học ra đời từ thực tiễn, do
nhu cầu của thực tiễn ; nó có nguoền gốc nhận thực và nguồn gốc xã hội
- Sự ra đời của triết học Mác là một cuộc cách mạng trên lĩnh vực triết học
bởi vì:
 – Triết học Mác đã khắc phục được sự tách rời giữa thế giới quan duy vật
và phép biện chứng trong lịch sử phát triển của triết học trước đó. Trên cơ
sở cải tạo chủ nghĩa duy vật cũ mang tính siêu hình cũng như phép biện
chứng duy tâm. Triết học C.Mác và Ph.Ăngghen đã xây dựng nên một
nền triết học mới – triết học duy vật biện chứng.
 – Sự ra đời chủ nghĩa duy vật lịch sử, một bộ phận của triết học Mác
chính là thành tựu vĩ đại nhất của tư tưởng khoa học. Với việc xây dựng
chủ nghĩa duy vật lịch sử của mình, C.Mác và Ph.Ăngghen đã làm cho
chủ nghĩa duy vật trở nên hoàn bị và triệt để, biểu hiện sự mở rộng học
thuyết này từ chỗ nhận thức giới tự nhiên đến chỗ nhận thức xã hội loài
người.
 – Với sự ra đời triết học Mác, vai trò xã hội của triết học cũng như vị trí
của triết học trong hệ thống tri thức khoa học đã có sự biến đổi. Nếu như
đối với triết học trước kia chủ yếu đóng vai trò giải thích thế giới thì triết
học Mác ra đời không chỉ giải thích thế giới mà chủ yếu là công cụ cải
tạo thế giới. Triết học Mác trở thành công cụ nhận thức thế giới và cải tạo
thế giới bằng thực tiễn cách mạng của giai cấp công nhân và quần chúng
lao động. Triết học Mác là thế giới quan khoa học của giai cấp công nhân,
là “vũ khí lý luận” của giai cấp này trong công cuộc cải tạo xã hội, giải
phóng bản thân và giải phóng loài người nói chung. Tương tự, giai cấp
công nhân chính là vũ khí vật chất, là lực lượng vật chất quan trọng của
triết học mác, để nhờ đó, triết học Mác thể hiện được vai trò cải tạo thế
giới của mình.
 Ngoài ra, triết học Mác cũng trở thành thế giới quan và phương pháp luận
chung cần thiết cho sự phát triển của các khoa học cụ thể. Đồng thời, sự
ra đời triết học Mác cũng chấm dứt quan niệm của triết học cũ coi triết
học là “khoa học của các khoa học”, đứng trên mọi khoa học. Trái lại,
triết học Mác khẳng định về vai trò của khoa học tự nhiên và khoa học xã
hội đối với sự phát triển của bản thân triết học; trong đó, tùy vào sự phát
triển của khoa học tự nhiên và khoa học xã hội, đòi hỏi triết học cũng
phải biến đổi theo, phải thay đổi hình thức cho phù hợp.
- Ý nghĩa phương pháp luận:
- -Chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối, về thế giới quan.
- -Khắc phục tính chất trực quan siêu hình của chủ nghĩa duy vật cũ; khắc phục
tính chất duy tâm, thần bí của phép biện chứng duy tâm
- -Sáng tạo ra một triết học chân chính khoa học- triết học duy vật biện  chứng
2. Triết học là gì? Phân tích vai trò của triết học trong đời sống xã hội, hoạt
động nhận thức và thực tiễn của con người? Sự vận dụng triết học trong
cuộc sống của bản thân sinh viên.
- triết học là hệ thống quan điểm lý luận chung nhất về thế giới và vị trí con
người trong thế giới đó, là khoa học về những quy luật vận động, phát triển
chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy.
- Vai trò của triết học trong đời sống xã hội, hoạt động nhận thức và
thực tiễn của con người:
Vai trò của triết học trong đời sống xã hội được thể hiện qua chức năng của
triết học. Triết học có nhiều chức năng như: Chức năng nhận thức, chức năng
đánh giá, chức năng giáo dục…. Nhưng quan trọng nhất kà chức năng thế giới
quan và chức năng phương pháp luận
Thế giới quan là toàn bộ những quan điểm về thế giới và về vai trò của con
người trong thế giới. Thế giới quan đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong cuộc
sống của con người và xã hội loài người. Tồn tại trong thế giới dù muốn hay
không con người cũng phải nhận thức thế giới và nhận thức bản thân mình. Thế
giới quan đóng vai trò là nhân tố định hướng cho quá trình hoạt động sống của
con người.
Từ thế giới quan đúng đắn, con người sẽ có khả năng nhận thức, quan sát,
nhìn nhận mọi vấn đề trong thế giới xung quanh. Từ đó giúp con người định
hướng thái độ và cách thức hoạt động sinh sống của mình. Triết học ra đời với
tư cách là hạt nhân lý luận của thế giới quan, làm cho thế giới quan phát triển
như một quán trình tự giác dựa trên sự tổng kế kinh nghiệm thực tiễn và tri thức
do các khoa học đưa lại.
Phương pháp luận là lý luận về phương pháp, là hệ thống các quan điểm chỉ
đạo việc tìm tòi, xây dựng, lựa chọn và vận dụng các phương pháp. Đây là hệ
thống những quan điểm chung nhất đóng vai trò xây dựng, lựa chọn vận dụng
các phương pháp.
Phương pháp luận chia thành nhiều cấp độ: phương pháp luận ngành, phương
pháp luận chung và phương pháp luận chung nhất (phương pháp luận triết học).
Tuy không phải là một ngành khoa học độc lập nhưng phương pháp luận là một
bộ phận không thể thiếu được trong bất kỳ một ngành khoa học nào.Phương
pháp luận triết học đóng vai trò chỉ đạo, định hướng trong quá trình tìm kiếm,
lựa chọn và vận dụng các phương pháp hợp lý, có hiệu quả tối đa để thực hiện
hoạt động nhận thức và thực tiễn.
Do vậy, trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn, chúng ta cần tránh
cả hai thái cực sai lầm:
Xem thường triết học sẽ sa vào tình trạng mò mẫm, dễ bằng lòng với những
biện pháp cụ thể nhất thời, đi đến chỗ mất phương hướng, thiếu nhìn xa trông
rộng, thiếu chủ động và sáng tạo trong công tác.
Tuyệt đối hóa vai trò của triết học sẽ sa vào chủ nghĩa giáo điều, áp dụng một
cách máy móc những nguyên lý, những quy luật vào từng trường hợp riêng mà
không tính đến tình hình cu the và kết quả là dễ bị vấp váp, thất bại.
Bồi dưỡng thế giới quan duy vật và rèn luyện tư duy biện chứng để phòng và
chống chủ nghĩa chủ quan, pháp tư duy siêu hình, đó vừa là kết quả vừa là tránh
phương muc đích truc tiếp của việc nghiên cứu lý luận triết học nói chung, triết
học Mác - Lênin nói riêng.
Nghiên cứu khái niệm và nguồn gốc của triết học cho chúng ta hiểu được
Triết học là hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người về thế giới; về vị
trí vai trò của con người trong thế giới đó. Triết học đóng vai trò hạt nhân lý
luận của thế giới quan, giữ vai trò định hướng cho quá trình củng cố và phát
triển thế giới quan của mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng người trong lịch sử.
Nghiên cứu vấn đề cơ bản của triết học cho chúng ta hiểu được sự hình thành
các trường phái triết học duy vật và duy tâm trong lịch sử, cũng như hai phương
pháp nghiên cứu đối lập nhau trong lịch sử là phương pháp siêu hình và phương
pháp biện chứng, giúp chúng ta xây dựng được phương pháp biện chứng trong
nhận thức và cải tạo thế giới.
Với chức năng thế giới quan và phương pháp luận, triết học trở thành công cụ
đắc lực trong hoạt động cải tạo thiên nhiên và sự nghiệp giải phóng con người
của những lực lượng xã hội tiến bộ.
- Sự vận dụng triết học trong cuộc sống của bản thân sinh viên:
Trong cuộc sống của bản thân em thì em dựa trên triết học mà em có sự
nhận thức đúng đắn về việc học tập của bản thân, em đề ra những biện pháp cụ
thể, lâu dài để giúp việc học của bản thân được cải thiện và hiệu quả hơn, giúp
phân bố thời gian học và thời gian đi làm thêm được hợp lý, có phương hướng,
nhìn xa trông rộng, luôn năng động, tự giác, chủ động và sáng tạo trong học tập
lẫn công việc.
3. Nêu nội dung vấn đề cơ bản của triết học? Vì sao gọi vấn đề trên là vấn
đề cơ bản của triết học? Ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề này trong
nhận thức và hoạt động thực tiễn của bản thân?
Trả lời:
1. Vấn đề cơ bản của Triết học
- Theo Ăng-ghen, “Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học, đặc biệt là của triết
học hiện đại, là vấn đề quan hệ giữa tư duy với tồn tại”.
- Vấn đề cơ bản của triết học gồm hai mặt:
+ Mặt thứ nhất: Giữa vật chất và ý thức cái nào có trước, cái nào có sau, cái
nào quyết định cái nào? Việc trả lời này phân định thành hai khuynh hướng
triết học đối lập nhau: CNDV và CNDT.
+ Mặt thứ hai: Con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không? –
Lý luận nhận thức.
2. Vì sao gọi vấn đề trên là vấn đề cơ bản của Triết học
Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức được gọi là vấn đề cơ bản của Triết học vì:
- Mọi trào lưu triết học đều xoay quanh giải quyết vấn đề này
- Giải quyết được vấn đề cơ bản của Triết học, giải quyết mọi vấn đề khác
trong phạm vi và đối tượng nghiên cứu triết học.
=>- Ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề này trong nhận thức và hoạt
động thực tiễn của bản thân:
- Thứ nhất, giải quyết vấn đề cơ bản của triết học là cơ sở để giải quyết các
vấn đề khác của triết học.
- Thứ nhất, giải quyết vấn đề cơ bản của triết học còn là tiêu chí khách
quan hay nói cách khác nó còn là cơ sở để phân chia các trường phái triết
học lớn trong lịch sử đó là chủ nghĩa duy vật, chủ nghĩa duy tâm, trường
phái khả tri luận,...
- Xem thường các vấn đề cơ bản của triết học sẽ sa vào tình trạng mò mẫm,
dễ bằng lỏng với những biện pháp cụ thể nhất thời, đi đến chỗ mất
phương hướng, thiếu nhìn xa trông rộng, thiếu chủ động và sáng tạo trong
công tác.
- Tuyệt đối hóa các vấn đề cơ bản của triết học sẽ sa vào chủ nghĩa giáo
điều, áp dụng một cách máy móc những nguyên lý, những quy luật vào
từng trường hợp riêng mà không tính đến tinh hình cụ thể trong từng
trường hợp riêng và kết quả là dễ bị vấp váp, thất bại.
- Từ các vấn đề cơ bản của triết học giúp bản thân em bồi dưỡng thế giới
quan duy vật biện chứng, giúp bản thân em tránh mắc bệnh duy tâm chủ
quan, duy ý chí,...và rèn luyện tư duy biện chứng để phòng và chồng chủ
nghĩa chủ quan. tránh phương pháp tư duy siêu hình, đó vừa là kết quả
vừa là mục đích trực tiếp của việc nghiên cứu lý luận triết học nói chung,
triết học Mác - Lênin nói riêng.
4.Quan niệm của Ănghen về vận động. Tại sao nói vận động là phương
thức tồn tại của vật chất? Là thuộc tính cố hữu của vật chất? Rút ra ý
nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề này. Cho ví dụ minh họa?
Trả lời:
- Quan điểm của Ăng-ghen về vận động: "Vận động, hiểu theo nghĩa chung nhất,
tức được hiểu là một phương thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của
vật chất, thì bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể
từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy”.
- Tại sao nói vận động là phương thức tồn tại của vật chất, là thuộc tính cố
hữu của vật chất?
Theo Ăngghen: “Vận động, hiểu theo nghĩa chung nhất, – tức được hiểu là
một phương thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất, –
thì bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự
thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy.”
– Vận động là phương thức tồn tại của vật chất, điều đó có nghĩa là vật chất
tồn tại phải bằng cách vận động và thông qua vận động biểu hiện sự tồn tại của
mình.
– Vận động là thuộc tính cố hữu của vật chất. Vận động gắn liền với vật chất,
ở đâu có vận động thì ở đó có vật chất. Chỉ khi nào vật chất mất đi thì vận động
mới mất đi. Nhưng vật chất không tự nhiên sinh ra, không tự nhiên mất đi, vì
vậy vận động cũng không tự nhiên sinh ra, không tự nhiên mất đi mà tồn tại
vĩnh viễn, vô tận, vô hạn, điều này đã được định luật bảo toàn và chuyển hóa
năng lượng chứng minh.
– Nguồn gốc của sự vận động nằm trong chính bản thân của sự vật, là sự đấu
tranh giữa các mặt đối lập, vì vậy vận động là tự thân và tuyệt đối.
==> Vận động là phương thức tồn tại của vật chất.
- Rút ra ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề này. Cho ví dụ minh họa?
+ Để xác định một sự vật có thay đổi về vị trí hay không thì phải xem xét nó
trong quan hệ với một sự vật khác; phương thức của vận động là chuyển hóa từ
những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại;
khuynh hướng của vận động là phủ định của phủ định; nguyên nhân của vận
động là thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập
+Ví dụ minh họa: Trái đất quay quanh trục xung quanh Mặt trời, Các electron
chuyển động xung quanh hạt nhân,…
Hay ví dụ:
– Vận động cơ học: Chim bay và sự dao động của con lắc.
    – Vận động vật lí: Ma sát sinh ra nhiệt và nước bay hơi.
    – Vận động hóa học: Sự chuyển hóa của các chất hóa học.
    – Vận động sinh học: Sự trao đổi chất giữa cơ thể với môi trường và cây cối
ra hoa, kết quả.
    – Vận động xã hội: Sự biến đổi của công cụ lao động từ đồ đá đến kim loại và
sự thay đổi của các chế độ xã hội từ cộng sản nguyên thủy đến nay.
5.Quan niệm của chủ nghĩa Mác-Lênin về ý thức. Phân tích quan điểm của
chủ nghĩa duy vật biện chứng về nguồn gốc, bản chất, kết cấu của ý thức. Ý
nghĩa của vấn đề nghiên cứu trong cuộc sống.
Trả lời:
1. Quan niệm của CNDVBC về mối quan hệ giữa Vật chất và Ý thức
- Khái niệm vật chất, ý thức
+ Vật chất: là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được
đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại,
chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác
+ Ý thức: là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc của con
người một cách năng động, sáng tạo
- Mối quan hệ:
+ Vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất là nguồn gốc, quyết định ý thức
+ Ý thức có thể tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con
*Nguồn gốc
-Tự nhiên:là não người và thế giới khách quan
-Xã hội:là lao động và ngôn ngữ
*Bản chất
-ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan tức là thông qua lăng kính
phản ảnh của mọi người mà thu được các hình ảnh khác nhau
-ý thức là sự phản ánh sáng tạo, phản ánh thì có ở mọi dạng vật chất nhưng phản
ánh sáng tạo thì chỉ có ở ý thức con người. Sáng tạo thể hiện ở chỗ nó chỉ phản ánh
các bản chất, các thông tin từ đó đưa ra được các mô hình lý thuyết hoặc các dự
báo
-Ý thức mang bản chất xã hội vì nó chỉ được thông qua thực tiễn xã hội
*Kết cấu: phức tạp nhiều yếu tố có 3 yếu tố cơ bản
-Tri thức(quan trọng nhất):là hiểu biết phương thức tồn tại của ý thức
-Tình cảm là sự rung động của 1 chủ thể với 1 khách thể
-Ý chí là sức mạnh giúp con người vượt qua rào cản và đạt được mục đích.Ý chí mà
không có ý chí là ý chí viển vông
* Ý nghĩa của vấn đề nghiên cứu trong cuộc sống:
-Do ý thức chỉ là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan nên trong nhận
thức và hoạt động thực tiễn cuộc sống phải xuất phát từ thực tế khách quan. Do
đó, cần phải chống lại bệnh chủ quan duy ý chí.
-Ý thức là sự phản ánh tự giác, sáng tạo, hiện thực nên cần phải chống lại tư
tưởng thụ động của chủ nghĩa giáo điều, xa rời thực tiễn cuộc sống.
2. Ý nghĩa phương pháp luận.
- Phải có quan điểm khách quan trong nhận thức và hoạt động thực tiễn
- Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn phải biết xuất phát từ thực tiễn
khách quan, tôn trọng quy luật khách quan
6.Quan niệm của chủ nghĩa Mác-Lênin về vật chất. Phân tích quan điểm
của chủ nghĩa duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức?
Rút ra ý nghĩa phương pháp luận?
Trả lời:
- Quan niệm của chủ nghĩa Mác-Lênin về vật chất:
Với tư cách là một phạm trù triết học, vật chất không phải là sự sáng tạo tuỳ
tiện của tư duy con người, mà trái lại, là kết quả của sự khái quát, trừu tượng
hoá, những thuộc tính, những mối liên hệ vốn có của sự vật, hiện tượng nên nó
phản ánh cái chung, cái vô tận, không sinh ra, không mất đi. Từ đó mà trong
quá trình xem xét ta cần tránh sự nhận định vật chất với bản chất của các sự vật
hiện tương luôn có sự phát sinh, phát triển, thay đổi là một.
“Thứ nhất, vật chất là thực tại khách quan – cái tồn tại bên ngoài ý thức và
không lệ thuộc vào ý thức”.
“Thứ hai, vật chất là cái mà khi tác động vào giác quan của con người thì
đem lại cho con người cảm giác”.
“Thứ ba, vật chất là cái mà chẳng qua ý thức là sự phản ánh của nó”.
- Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật
chất và ý thức:
+Vật chất quyết định ý thức:
Thứ nhất,vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức.
Thứ hai,vật chất quyết định nội dung của ý thức
Thứ ba,vật chất quyết định bản chất của ý thức
Thứ tư,vật chất quyết định sự vận động,phát triển của ý thức
+         Ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất:
Thứ nhất, ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất vào trong đầu óc con người. Ý
thức có tính độc lập tương đối, tác động trở lại thế giới vật chất.
T2, sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thông qua hoạt động thực tiễn của
con người.
T3, ý thức chỉ đạo hoạt động hành động của con người.
T4, ý thức có tính năng động sáng tạo.
- Ý nghĩa phương pháp luận:
Thứ nhất, khi xem xét, nhận thức sự vật phải xuất phát từ chính sự vật,
phải phản ánh sự vật trung thành như nó vốn có, phải tôn trọng sự thật,
không được lấy ý chí chủ quan áp đặt cho sự vật.
Thứ hai, trong nhận thức và hoạt động thực tiễn phải xuất phát từ thực tế,
tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan.
Phát huy tính năng động chủ quan của ý thức
Khắc phục bệnh trì trệ, thụ động, chủ quan duy ý chí
7.Phân tích cơ sở lý luận của quan điểm toàn diện trong phép biện chứng
duy vật? Ý nghĩa phương pháp luận của quan điểm này? Lấy ví dụ minh
họa và sự vận dụng trong thực tiễn.
1. Cơ sở lý luận của quan điểm toàn diện - nguyên lý về mối liên hệ phổ
biến
- Trong phép biện chứng, mối liên hệ dùng để chỉ sự quy định, sự tác động và
chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng, hay giữa các mặt, các yếu tố
của mỗi sự vật, hiện tượng trong thế giới.
- Mối liên hệ phổ biến dùng để chỉ tính phổ biến của các mối liên hệ của các sự
vật, hiện tượng của thế giới
- Tính chất của các mối liên hệ:
+ Tính khách quan
+ Tính phổ biến
+ Tính đa dạng phong phú
2. Ý nghĩa phương pháp luận
Nguyên tắc toàn diện
- Quan điểm toàn diện đòi hỏi trong nhận thức và thực tiễn cần phải xem xét
sự vật, hiện tượng trong mối quan hệ biện chứng qua lại giữa các bộ phận,
giữa các yếu tố, giữa các mặt của chính sự vật, hiện tượng và trong sự tác
động qua lại giữa sự vật, hiện tượng đó với các sự vật, hiện tượng khác.
Trong nhận thức và thực tiễn phải có trọng tâm, trọng điểm, không dàn dều một
cách chung chung.
Ví dụ mịnh họa và vận dụng thực tiễn: Khi muốn trồng 1 cái cây thì cần phải có
hạt giống tốt, đất trồng và phải tưới nước cho nó thường xuyên, cho nó quang hợp
tiếp xúc với ánh nắng mặt trời… có như vậy hạt giống đó mới nảy mầm và phát triển
thành câyđược.
8.Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về Phát triển. Phân tích nội dung
nguyên lý về sự phát triển trong phép biện chứng duy vật? Ý nghĩa phương
pháp luận của việc nghiên cứu nguyên lý này?
Trả lời:
- Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về Phát triển:
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, phát triển là một quá trình tiến
lên từ thấp đến cao; sự phát triển không phải lúc nào cũng theo đường thẳng, mà
rất quanh co phức tạp, thậm chí có thể có những bước lùi tạm thời, khuynh
hướng của sự phát triển diễn ra theo đường xoáy ốc; sự phát triển là kết quả của
quá trình thay đổi dần dần về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất. “V.I. Lênin cho
rằng, sự phát triển không phải là một sự lớn lên, một sự tăng thêm hay giảm đi
đơn giản, thuần túy về lượng”; nguồn gốc của sự phát triển nằm trong chính bản
thân sự vật, do sự đấu tranh của các mặt đối lập nằm trong sự vật quy định.
1. Nguyên lý về sự phát triển:
- Phát triển là quá trình vận động đi lên từ thấp đến cao, từ kém hoàn thiện đến
hoàn thiện hơn. Phát triển là khuynh hướng chung của thế giới và có tính
phổ biến.
- Tính chất của phát triển:
+ Tính khách quan của sự phát triển
+ Tính phổ biến
+ Tính kế thừa trong sự phát triển
+Tính đa đạng, phong phú nhiều vẻ
+ Tính phức tạp của sự phát triển
- Nguồn gốc của sự phát triển: nằm bên trong sự vật hiện tượng, do mâu thuẫn
bên trong sự vật hiện tượng quy định
2. Ý nghĩa phương pháp luận
Nguyên tắc phương pháp luận phát triển
- Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn đặt sự vật, hiện tượng trong sự vận
động, phát triển
- Nhận thức sự phát triển là một quá trình vận động, được trải qua nhiều giai
đoạn khác nhau, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện.

9. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về cái riêng, cái chung, cái đơn
nhất? Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa cái riêng và cái chung. Rút
ra ý nghĩa phương pháp luận của việc nghiên cứu vấn đề này?
Trả lời:
- Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về cái riêng, cái chung, cái đơn
nhất:
Cái riêng là phạm trù triết học dùng để chỉ một sự vật, hiện tượng, một quá
trình riêng lẻ nhất định.
Cái chung là một phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính
chung không những có ở một kết cấu vật chất nhất định mà còn được lặp lại
trong nhiều sự vật, hiện tượng hay quá trình riêng lẻ khác.
Cái đơn nhất là phạm trù dùng để chỉ những nét, những mặt, những thuộc
tính chỉ có ở một kết cấu vật chất và không được lặp lại ở bất cứ một kết cấu vật
chất nào khác.
-Mối quan hệ biện chứng giữa cái riêng, cái chung:
+Thứ nhất, cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng mà
biểu hiện sự tồn tại của mình, nghĩa là không có cái chung thuần tuý tồn tại
bên ngoài cái riêng vì cái chung được khái quát từ những cái riêng.
+Thứ hai, cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ đưa đến cái chung.
+Thứ ba, cái riêng là cái toàn bộ, phong phú hơn cái chung, cái chung là cái
bộ phận nhưng sâu sắc hơn cái riêng vì nó phản ánh những thuộc tính
chung, bản chất, lặp đi lặp lại ở nhiều sự vật.
Ví dụ, Thủ đô Hà Nội (cái riêng) bên cạnh những đặc điểm chung của mọi
thủ đô khác có thì nó còn có những nét văn hóa truyền thống riêng biệt nên nó
là cái toàn bộ và phong phú hơn. Còn đã là thủ đô (cái chung) thì nó phải phản
ánh những đặc điểm chung nhất, được lặp đi lặp lại ở mọi thủ đô khác như đông
dân cư, là trung tâm phát triển kinh tế, chính trị, xã hội... nên nó là cái sâu sắc.
+ Thứ tư, cái đơn nhất và cái chung có thể chuyển hoá lẫn nhau trong quá
trình phát triển của sự vật. Cái chung chuyển hoá thành cái đơn nhất, đó là
quá trình tồn tại và tiêu vong dần dần của cái cũ. Ngược lại, cái đơn nhất có
thể chuyển hoá thành cái chung, đó là quá trình ra đời và phát triển của cái
mới.
- Ý nghĩa phương pháp luận của việc nghiên cứu vấn đề này:
-Chỉ có thể tìm cái chung trong cái riêng,xuất phát từ cái riêng,từ những sự vật,hiện
tượng riêng lẻ,ko đc xuất phát từ ý muốn chủ quan của con người nên ngoài cái
riêng vì cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng,thông qua cái riêng để biểu thị sự tồn tại
của mình.
-Cái chung là cái sâu sắc,cái bản chất chi phối cái riêng,nên nhận thức phải nhằm
tìm ra cái chung và trong hoạt động thực tiễn phải dựa vào cái chung để cải tạo cái
riêng.Trong hđ thực tiễn nếu ko hiểu biết những nguyên lý chung(ko hiểu biết lý
luận),sẽ ko tránh khỏi rơi vào tình trạng hđ một cách mò mẫm,mù quáng.
-Trong quá trình phát triển của sự vật,trong những điều kiện nhất định”cái đơn
nhất”có thể biến thành”cái chung”và ngược lại”cái chung”có thể biến thành”cái đơn
nhất”,nên trong hđ thực tiễn có thể và cần phải tạo điều kiện thuận lợi để”cái đơn
nhất”có lợi cho con người trở thành”cái chung”và”cái chung”bất lợi trở thành”cái đơn
nhất”.
10.Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về nguyên nhân và kết quả? Phân
tích mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả. Rút ra ý nghĩa
phương pháp luận của việc nghiên cứu vấn đề này?
Trả lời:
- Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về nguyên nhân và kết quả:
Nguyên nhân là phạm trù chỉ sự tác động lẫn nhau giữa các mặt trong một sự
vật hoặc giữa các sự vật với nhau, gây ra một biến đổi nhất định nào đó. Còn
“kết quả” là phạm trù chỉ những biến đổi xuất hiện do tác động lẫn nhau giữa
các mặt trong một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau gây ra.
- Mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả:
+”Nguyên nhân” sinh ra “kết quả”:
Nguyên nhân là cái sinh ra kết quả nên nguyên nhân luôn luôn có trước kết
quả, còn kết quả bao giờ cũng xuất hiện sau khi nguyên nhân đã xuất hiện và
phát sinh tác dụng.
Mặc dù nguyên nhân là cái có trước kết quả nhưng không phải hai hiện tượng
nào nối tiếp nhau về mặt thời gian cũng là quan hệ nhân quả của nhau. Ví dụ:
chớp và sấm là hai hiện tượng nối tiếp nhau về mặt thời gian nhưng không phải
chớp sinh ra sấm mà cả hai hiện tượng đều do sự tác động của hai đám mây tích
điện trái đấu nhau nhưng vận tốc của ánh sáng nhanh hơn vận tốc của âm thanh
nên chúng ta thấy chớp trước khi nghe thấy tiếng sấm.
+Sự tác động trở lại của “kết quả” đối với “nguyên nhân”:
Kết quả do nguyên nhân sinh ra, nhưng sau khi xuất hiện kết quả lại có tác
động trở lại đối với nguyên nhân theo hai hướng tích cực hoặc tiêu cực. Chẳng
hạn nghèo đói, ít đầu tư cho giáo dục là một trong những nguyên nhân đưa đến
kết quả trình độ dân trí thấp và trình độ dân trí thấp lại tác động không tốt đến
việc thoát khỏi tình trạng nghèo đói, thất học.
+”Nguyên nhân” và “kết quả” có thể thay đổi vị trí cho nhau:
Có nghĩa là một sự vật, hiện tượng nào đó trong mối quan hệ này là nguyên
nhân nhưng trong mối quan hệ khác lại là kết quả và ngược lại.
- Ý nghĩa phương pháp luận của việc nghiên cứu vấn đề này:
Mối liên hệ nhân-quả có tính khách quan, phổ biến, nghĩa là không có sự vật
hiện tượng nào trong thế giới vật chất lại không có nguyên nhân. Do vậy, nhiệm
vụ của nhận thức khoa học là phải tìm ra được nguyên nhân để giải thích và cải
tạo hiện tượng đó. Muốn tìm nguyên nhân của một hiện tượng nào đó phải tìm
trong những mối liên hệ trước khi hiện tượng đó xuất hiện.
Trong hoạt động thực tiễn ta cần phân loại các nguyên nhân, tìm ra nguyên
nhân cơ bản, nguyên nhân chủ yếu, nguyên nhân bên trong, nguyên nhân bên
ngoài, và phải nắm được chiều hướng tác động của các nguyên nhân, từ đó có
biện pháp thích hợp để tạo điều kiện cho nguyên nhân tích cực và hạn chế
nguyên nhân tiêu cực. Khi muốn loại bỏ hiện tượng tiêu cực nào đó chúng ta
cần tìm ra và loại bỏ nguyên nhân đưa đến hiện tượng đó.
Nhiều nguyên nhân cùng chiều tác động sẽ đưa đến kết quả thuận lợi hơn nên
chúng ta cần phải tạo ra sức mạnh tổng hợp từ nhiều nguyên nhân cùng chiều để
đạt được kết quả mong muốn.
Kết quả có tác động trở lại nguyên nhân (tích cực và tiêu cực) nên cần phải
khai thác, tận dụng các kết quả đã đạt được để tạo điều kiện thúc đẩy nguyên
nhân phát huy tác dụng nhằm đạt được mục đích.
11.Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về nội dung và hình thức? Phân
tích mối quan hệ biện chứng giữa nội dung và hình thức. Rút ra ý nghĩa
phương pháp luận của việc nghiên cứu vấn đề này?
Trả lời:
- Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về nội dung và hình thức:
Nội dung là tổng hợp tất cả những mặt, những yếu tố, những quá trình tạo
nên sự vật. Hình thức là phương thức tồn tại và phát triển của sự vật, là hệ thống
các mối liên hệ tương đối bền vững giữa các yếu tố cấu thành sự vật.
- Mối quan hệ biện chứng giữa nội dung và hình thức:
+Thứ nhất, nội dung và hình thức không tách rời nhau:
+Thứ hai, nội dung giữ vai trò quyết định đối với hình thức trong quá
trình vận động, phát triển của sự vật :
+Thứ ba, hình thức luôn có tính độc lập tương đối và tác động tích cực
ngược trở lại nội dung và khi phù hợp với nội dung nó sẽ mở đường và
thúc đẩy sự phát triển của nội dung.
- Ý nghĩa phương pháp luận của việc nghiên cứu mối quan hệ giữa nội
dung và hình thức:
Thứ nhất, nếu nội dung và hình thức luôn luôn gắn bó chặt chẽ với nhau thì
trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn chúng ta phải chống lại mọi
khuynh hướng tách rời nội dung và hình thức - ở đây cần chống lại cả hai thái
cực sai lầm hoặc là tuyệt đối hóa hình thức xem thường nội dung hoặc là tuyệt
đối hóa nội dung lại xem thường hình thức.
Thứ hai, vì cùng một nội dung trong tình hình phát triển khác nhau có thể có
nhiều hình thức và ngược lại, cùng một hình thức có thể thể hiện nhiều nội dung
khác nhau nên cần sử dụng mọi hình thức có thể có mới cũng như cũ kể cả phải
cải biến những hình thức vốn có, lấy cái này bổ sung, thay thế cho cái kia để
phục vụ cho những nhiệm vụ nhất định tùy theo yêu cầu của hoạt động thực
tiễn. Cần chống lại cả hai thái cực sai lầm hoặc chỉ bám lấy hình thức cũ bảo
thủ, trì trệ, chỉ muốn làm theo kiểu cũ hoặc hoàn toàn phủ nhận vai trò của nó
trong hoàn cảnh mới dẫn đến chủ quan, nóng vội, thay đổi hình thức cũ một
cách tùy tiện, không có căn cứ.
Thứ ba, vì nội dung quyết định hình thức nên để xét đoán sự vật nào đó cần
căn cứ trước hết vào nội dung của nó và nếu muốn làm biến đổi sự vật thì cần
tác động làm thay đổi trước hết nội dung của nó. Đồng thời về hình thức có thể
tác động trở lại đối với nội dung thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của nội
dung khi nó phù hợp hay không phù hợp với nội dung nên trong hoạt động thực
tiễn cần luôn luôn theo dõi mối quan hệ giữa hình thức và nội dung của sự vật
để có thể kịp thời can thiệp vào tiến trình phát triển của nó tạo cho hình thức của
sự vật một sự phù hợp hay không phù hợp cần thiết với nội dung đang biến đổi
của nó nhằm đẩy nhanh hoặc kìm hãm sự phát triển đó tùy theo yêu cầu của
hoạt động thực tiễn. V.I. Lênin đã chỉ ra cần phải thường xuyên đối chiếu giữa
nội dung và hình thức, kế thừa hình thức cũ, xây dựng hình thức mới cho phù
hợp với nội dung.
12.Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về tất nhiên và ngẫu nhiên? Rút
ra ý nghĩa phương pháp luận của việc nghiên cứu vấn đề này?
Trả lời:
- Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về tất nhiên và ngẫu nhiên:
Tất nhiên là một phạm trù triết học chỉ những cái do những nguyên nhân bên
trong, do bản chất của sự vật sinh ra, do đó trong những điều kiện nhất định thì
nó phải xảy ra đúng như thế chứ không thể khác được. Ví dụ: Những hạt giống
lúa tốt khi có độ ẩm cần thiết thì tất nhiên sẽ nảy mầm.
Ngẫu nhiên là phạm trù triết học chỉ cái xuất hiện do các nguyên nhân bên
ngoài quyết định, không do bản chất của sự vật sinh ra. Do đó trong những điều
kiện nhất định nó có thể xảy ra hoặc không xảy ra, có thể xảy ra như thế này
hoặc xảy ra như thế khác. Ví dụ: Những hạt lúa lẫn cả hạt tốt cả hạt lép, hạt bị
sâu bệnh đem gieo thì tất nhiên chỉ có những hạt tốt nảy mầm còn những hạt
lép, hạt sâu thì không thể nảy mầm được.
Mối quan hệ biện chứng giữa tất nhiên và ngẫu nhiên:
 - Tất nhiên và ngẫu nhiên đều tồn tại khách quan và đều có vai trò đối với sự vận
động, phát triển
 + Tất nhiên đóng vai trò quyết định, chi phối sự phát triển
  + Ngẫu nhiên ảnh hưởng, làm cho diễn ra nhanh hay chậm, tốt hay xấu
 - Tất nhiên và ngẫu nhiên tồn tại thống nhất với nhau. Không có cái tất nhiên và
ngẫu nhiên thuần tuý
 + Cái tất nhiên bao giờ cũng vạch đường đi cho mình thông qua vô số cái ngẫu
nhiên
 + Cái ngẫu nhiên là hình thức biểu hiện của cái tất nhiên, bổ sung cho cái tất nhiên
 - Tất nhiên và ngẫu nhiên có thể thay đổi vị trí cho nhau
 + Tất nhiên có thể biến thành ngẫu nhiên và ngược lại
 - Ranh giới giữa tất nhiên và ngẫu nhiên chỉ có tính tương đối
 + Trong mối quan hệ này là tất nhiên, nhưng trong mối quan hệ khác lại là ngẫu
nhiên và ngược lại

- Ý nghĩa phương pháp luận của việc nghiên cứu vấn đề này:
        - Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn cần phải căn cứ vào cái tất nhiên,
nhưng không được bỏ qua cái ngẫu nhiên
- Tất nhiên luôn biểu lộ thông qua cái ngẫu nhiên, nên muốn nhận thức cái tất nhiên
cần bắt đầu từ cái ngẫu nhiên
Tất nhiên và ngẫu nhiên có thể chuyển hóa lẫn nhau. Vì vậy, cần tạo ra những điều
kiện nhất định để cản trở hoặc thúc đẩy sự chuyển hóa của chúng theo mục đích
nhất định
13. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về bản chất và hiện tượng? Phân
tích mối quan hệ biện chứng giữa bản chất và hiện tượng. Rút ra ý nghĩa
phương pháp luận của việc nghiên cứu vấn đề này?
Trả lời:
- Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về bản chất và hiện tượng:
Bản chất là tổng hợp tất cả những mặt, những mối liên hệ tất nhiên, tương đối
ổn định bên trong sự vật, quy định sự vận động và phát triển của sự vật.
Hiện tượng là sự biểu hiện ra bên ngoài của bản chất. V.I. Lênin viết: “bản
chất hiện ra. Hiện tượng là có tính bản chất”.
Ví dụ: bản chất của giai cấp tư sản là bóc lột giá trị thặng dư nên hiện tượng
biểu hiện ra là giai cấp tư sản tìm mọi cách để kéo dài thời gian lao động, tăng
cường độ lao động. Hay bản chất của con người là tổng hòa những mối quan hệ
xã hội nên hiện tượng biểu hiện ra ngoài là mỗi cá nhân nằm trong chẳng chịt
các mối quan hệ với nhau.
- Mối quan hệ biện chứng giữa bản chất và hiện tượng:
Bản chất và hiện tượng tồn tại khách quan trong cuộc sống:
– Cả bản chất và hiện tượng đều có thực, tồn tại khách quan bất kể con người có
nhận thức được hay không.
Lý do là vì:
+ Bất kỳ sự vật nào cũng được tạo nên từ những yếu tố nhất định. Các yếu tố ấy
tham gia vào những mối liên hệ qua lại, đan xen chằng chịt với nhau, trong đó có
những mối liên hệ tất nhiên, tương đối ổn định. Những mối liên hệ này tạo nên bản
chất của sự vật.
+ Sự vật tồn tại khách quan. Mà những mối liên hệ tất nhiên, tương đối ổn định lại ở
bên trong sự vật, do đó, đương nhiên là chúng cũng tồn tại khách quan.
+ Hiện tượng chỉ là sự biểu hiện của bản chất ra bên ngoài để chúng ta nhìn thấy,
nên hiện tượng cũng tồn tại khách quan.
b.2. Sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng:
– Không những tồn tại khách quan, bản chất và hiện tượng còn có mối liên hệ hữu
cơ, gắn bó hết sức chặt chẽ với nhau.
b.3. Mỗi sự vật đều là sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng:
 
Sự thống nhất đó thể hiện trước hết ở chỗ:
+Bản chất bao giờ cũng bộc lộ ra qua hiện tượng. Bất kỳ bản chất nào cũng được
bộc lộ qua những hiện tượng tương ứng.
+ Hiện tượng bao giờ cũng là sự biểu hiện của bản chất. Bất kỳ hiện tượng nào
cũng là sự bộc lộ của bản chất ở mức độ nào đó nhiều hoặc ít.
b.4. Bản chất khác nhau sẽ bộc lộ ra những hiện tượng khác nhau:
Khi bản chất thay đổi thì hiện tượng tương ứng với nó cũng sẽ thay đổi theo. Khi
bản chất mất đi thì hiện tượng biểu hiện nó cũng mất đi.
C.Ý nghĩa phương pháp luận:
Muốn nhận thức đúng sự thật, hiện tượng thì không dừng lại ở hiện tượng bên
ngoài mà phải đi vào bản chất. Phải thông qua nhiều hiện tượng khác nhau mới
nhận thức đúng và đầy đủ bản chất. Theo V.I.Lênin: “Tư tưởng của người ta đi sâu
một cách vô hạn, từ hiện tượng đến bản chất, từ bản chất cấp một… đến bản chất
cấp hai…”.
Còn trong hoạt động thực tiễn, cần dựa vào bản chất chứ không phải dựa vào hiện
tượng.
– Vì bản chất tồn tại khách quan ở ngay trong bản thân sự vật nên chỉ có thể tìm ra
bản chất sự vật ở bên trong sự vật ấy chứ không phải ở bên ngoài nó. Khi kết luận
về bản chất của sự vật, cần tránh những nhận định chủ quan, tùy tiện.
– Vì bản chất không tồn tại dưới dạng thuần túy mà bao giờ cũng bộc lộ ra bên
ngoài thông qua các hiện tượng tương ứng của mình nên chỉ có thể tìm ra cái bản
chất trên cơ sở nghiên cứu các hiện tượng.
– Trong quá trình nhận thức bản chất của sự vật phải xem xét rất nhiều hiện tượng
khác nhau từ nhiều góc độ khác nhau.
14. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về vị trí, vai trò của quy luật
lượng – chất. Nội dung quy luật chuyển hóa từ sự biến đổi về lượng dẫn
đến những biến đổi về chất và ngược lại. Ý nghĩa phương pháp luận của
quy luật này?
Trả lời
- Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về vị trí, vai trò của quy luật lượng
– chất:

Quy luật lượng đổi-chất đổi là


một trong ba quy luật cơ bản
của phép biện chứng duy vật.
Nó chỉ ra cách
thức chung nhất của sự vận
động và phát triển của sự vật,
hiện tượng, khi cho rằng sự
thay đổi về chất chỉ xẩy ra
khi sự vật, hiện tượng đã tích
luỹ được những thay đổi về
lượng đã đạt đến giới hạn - đến
độ. Quy luật lượng đổi
chất đổi cũng chỉ ra tính chất
của sự phát triển, khi cho rằng
sự thay đổi về chất của sự vật,
hiện tượng vừa diễn
ra từ từ, vừa có bước nhảy vọt
làm cho sự vật, hiện tượng có
thể vừa có những bước tiến
tuần tự, vừa có thể có
những bước tiến vượt bậc.
Quy luật lượng đổi-chất đổi là
một trong ba quy luật cơ bản
của phép biện chứng duy vật.
Nó chỉ ra cách
thức chung nhất của sự vận
động và phát triển của sự vật,
hiện tượng, khi cho rằng sự
thay đổi về chất chỉ xẩy ra
khi sự vật, hiện tượng đã tích
luỹ được những thay đổi về
lượng đã đạt đến giới hạn - đến
độ. Quy luật lượng đổi
chất đổi cũng chỉ ra tính chất
của sự phát triển, khi cho rằng
sự thay đổi về chất của sự vật,
hiện tượng vừa diễn
ra từ từ, vừa có bước nhảy vọt
làm cho sự vật, hiện tượng có
thể vừa có những bước tiến
tuần tự, vừa có thể có
những bước tiến vượt bậc.
Quy luật lượng đổi-chất đổi là
một trong ba quy luật cơ bản
của phép biện chứng duy vật.
Nó chỉ ra cách
thức chung nhất của sự vận
động và phát triển của sự vật,
hiện tượng, khi cho rằng sự
thay đổi về chất chỉ xẩy ra
khi sự vật, hiện tượng đã tích
luỹ được những thay đổi về
lượng đã đạt đến giới hạn - đến
độ. Quy luật lượng đổi
chất đổi cũng chỉ ra tính chất
của sự phát triển, khi cho rằng
sự thay đổi về chất của sự vật,
hiện tượng vừa diễn
ra từ từ, vừa có bước nhảy vọt
làm cho sự vật, hiện tượng có
thể vừa có những bước tiến
tuần tự, vừa có thể có
những bước tiến vượt bậc.
Quy luật lượng đổi-chất đổi là
một trong ba quy luật cơ bản
của phép biện chứng duy vật.
Nó chỉ ra cách
thức chung nhất của sự vận
động và phát triển của sự vật,
hiện tượng, khi cho rằng sự
thay đổi về chất chỉ xẩy ra
khi sự vật, hiện tượng đã tích
luỹ được những thay đổi về
lượng đã đạt đến giới hạn - đến
độ. Quy luật lượng đổi
chất đổi cũng chỉ ra tính chất
của sự phát triển, khi cho rằng
sự thay đổi về chất của sự vật,
hiện tượng vừa diễn
ra từ từ, vừa có bước nhảy vọt
làm cho sự vật, hiện tượng có
thể vừa có những bước tiến
tuần tự, vừa có thể có
những bước tiến vượt bậc
Theo chủ nghĩa Mác – Lênin thì quy luật lượng - chất là một trong ba quy
luật cơ bản nhất của phạm trù triết học. Quy luật lượng chất tác động đến toàn
bộ quá trình hình thành, chuyển hóa của các sự vật, hiện tượng trong đời sống
xã hội. Nó chỉ ra cách thức chung nhất của sự vận động và phát triển của sự vật
hiện tượng, khi cho rằng sự thay đổi về chất chỉ xảy ra khi sự vật, hiện tượng đã
tích luỹ được những thay đổi về lượng đã đạt đến giới hạn - đến độ. Quy luật
lượng chất cũng chỉ ra tính chất của sự phát triển. Khi cho rằng sự thay đổi về
chất của sự vật, hiện tượng vừa diễn ra từ từ, vừa có bước nhảy vọt làm cho sự
vật hiện tượng có thể vua có những bước tiến tuần tự, vừa có thể có những bước
tiến vượt bậc.
1. Nội dung quy luật
- Vị trí, vai trò của quy luật: Chỉ ra cách thức chung nhất của sự phát triển
- Khái niệm chất, lượng
+ Chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan
vốn có của sự vật và hiện tượng, là sự thống nhất hữu cơ các thuộc tính
làm cho nó là nó mà không phải là cái khác.
+ Lượng là một phạm trù triết học để chỉ tính quy định vốn có của sự vật,
biểu thị số lượng, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát
triển của sự vật cũng như các thuộc tính của nó.
- Mối quan hệ biện chứng giữa chất và lượng
+ Độ
+ Điểm nút
+ Bước nhảy
2. Ý nghĩa Phương pháp luận của quy luật
- Trong nhận thức và thực tiễn, nên tránh 2 khuynh hướng
+ Tả khuynh
+ Hữu khuynh
- Thự hiện những bước nhảy trong cuộc sống phải chú ý điều kiện khách quan
và chủ quan

15. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về vị trí, vai trò của quy luật
thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập. Phân tích nội dung quy luật
thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập? Ý nghĩa phương pháp luận
của quy luật này?
Trả lời:
- Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về vị trí, vai trò của quy luật thống
nhất và đấu tranh của các mặt đối lập:
Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập hay còn gọi là quy luật
mâu thuẫn là một trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật và là
quy luật quan trọng nhất của phép biện chứng trong triết học Mác - Lênin, là hạt
nhân của phép biện chứng. Quy luật này vạch ra nguồn gốc, động lực của sự
vận động, phát triển.
1. Nội dung quy luật
- Vị trí, vai trò của quy luật: chỉ ra nguồn gốc, động lực của sự phát triển
- Mặt đối lập: là những mặt có những đặc điểm, những thuộc tính, những
tính quy định có khuynh hướng biến đổi trái ngược nhau, tồn tại một cách
khách quan trong tự nhiên, xã hội và tư duy.
- Mâu thuẫn biện chứng là trạng thái mà các mặt đối lập liên hệ, tác động
qua lại lẫn nhau, bài trừ phủ định lẫn nhau
- Sự “thống nhất” của các mặt đối lập
- Sự “đấu tranh” của các mặt đối lập
- Mâu thuẫn là nguồn gốc, động lực của sự phát triển
2. Ý nghĩa phương pháp luận của quy luật
- Mâu thuẫn là khách quan, phổ biến, là cái vốn có của các sự vật, hiện tượng
do đó, nghiên cứu sự vật hiện tượng, phải xem xét quá trình phát sinh, phát
triển của mâu thuẫn
- Để thúc đẩy sự vật phát triển, ta phải tìm mọi cách để giải quyết mâu
thuẫn, không được điều hòa mâu thuẫn
16. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về phủ định biện chứng. Phân
tích nội dung quy luật phủ định của phủ định. Ý nghĩa phương pháp luận
của quy luật này?
Trả lời:
- Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về phủ định biện chứng:
Phủ định biện chứng: Là sự phủ định gắn liền với sự phát triển, làm tiền đề,
điều kiện cho sự phát triển tiếp theo của sự vật.
- Nội dung quy luật phủ định của phủ định:
Quy luật phủ định của phủ định biểu hiện sự phát triển của sự vật là do mâu
thuẫn trong bản thân sự vật quyết định. Mỗi lần phủ định là kết quả đấu tranh và
chuyển hóa giữa các mặt đối lập trong bản thân sự vật - giữa mặt khẳng định và
phủ định.
Sự phủ định lần thứ nhất diễn ra là cho sự vật cũ chuyển thành cái đối lập với
mình (cái phủ định. phủ định cái bị phủ định, cái bị phủ định là tiền đề là cái cũ,
cái phủ định là cái mới xuất hiện sau cái phủ định là cái đối lập với cái bị phủ
định. Cái phủ định sau khi khi phủ định cái bị phủ định, cái phủ định định lại
tiếp tục biến đổi và tạo ra chu khỷ phủ định lần thứ hai). Sự phủ định lần thứ hai
được thực hiện dẫn tới sự vật mới ra đời. Sự vật này đối lập với cái được sinh ra
ở lần phù định thứ nhất. Nó dường như lập lại cái ban đầu nhưng nó được bổ
sung nhiều nhân tố mới cao hơn tích cực hơn.
Như vậy sau hai lần phủ định sự vật dường như quay trở lại cái cũ, nhưng
trên cơ sở mới cao hơn là đặc điểm quan trọng nhất của sự phát triển biện chứng
thông qua phủ định của phủ định.
Phủ định của phủ định làm xuất hiện sự vật mới là kết quả của sự tổng hợp tất
cả nhân tố tích cực đã có và đã phát triển trong cái khẳng định ban đầu và trong
những lần phủ định tiếp theo. Do vậy. Sự vật mới với tư cách là kết quả của phủ
định của phủ định có nội dung toàn diện hơn. phong phú hơn. có cái khẳng định
bạn đầu và kết quả của sự phủ định lần thứ nhất.
Kết quả của sự phủ định của phủ định là điểm kết thúc của một chu kỳ phát
triển và cũng là điểm khởi đầu của chu kỳ phát triển tiếp theo. Sự vật lại tiếp tục
phủ định biện chứng chính minh để phát triển. Cứ như vậy sự vật mới ngày
càng mới hơn.
Quy luật phủ định của phủ định khái quát xu hướng tất yếu tiến lên của sự vật
- xu hướng phát triển. Song phát triển đó không theo hướng thẳng mà theo
đường "xoáy ốc".
Sự phát triển "xoáy ốc" là sự biểu thị rõ ràng, đầy đủ các đặc trưng của quá
trình phát triển biện chứng của sự vật tính kế thừa, tính lặp lại, tính tiến lên. Mỗi
vòng của đường xoáy ốc dường như thể hiện sự lặp lại, nhưng cao hơn, thể hiện
trình độ cao hơn của sự phát triển. Tính vô tận của sự phát triển từ thấp đến cao
được thể hiện ở sự nổi tiếp nhau từ dưới lên của các vòng trong đường “xoáy
ốc”.
- Ý nghĩa phương pháp luận:
+ Khuynh hướng phát triển của sự vật không diễn ra đơn giản mà rất phức tạp.
+ Tránh phủ định sạch trơn cái cũ. Phải biết kế thừ yếu tố tích cực ừ cái cũ, khác
phục tư tưởng bảo thủ, khư khư giữ lấy cái cũ.
+Phát hiện ủng hộ cái mới đích thực nhưng phải loại bỏ cái cũ núp bóng cái mới

17. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về thực tiễn. Phân tích vai trò của
thực tiễn đối với quá trình nhận thức của con người? Ý nghĩa phương pháp
luận?
Trả lời:
- Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về thực tiễn:
Theo quan điểm của triết học Mác – Lênin: “Thực tiễn là những hoạt động vật
chất có mục đích mang tính lịch sử – xã hội của con người nhằm cải tạo tự
nhiên và xã hội”.
1. Vai trò của thực tiễn đối với quá trình nhận thức
- Thực tiễn là nguồn gốc, cơ sở của nhận thức
- Thực tiễn là động lực của nhận thức
- Thực tiễn là mục đích của nhận thức
- Thực tiễn là tiêu chuẩn kiểm tra chân lý
2. Ý nghĩa phương pháp luận
- Phải quán triệt quan điểm thực tiễn: việc nhận thức phải xuất phát từ thực
tiễn.
- Nghiên cứu lý luận phải đi đôi với thực tiễn; học phải đi đôi với hành.
- Xa rời thực tiễn dẫn đến bệnh chủ quan, giáo điều, máy móc, quan liêu.
- .
18. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về bản chất của nhận thức. Trình
bày quá trình nhận thức của con người? Phân tích mối quan hệ biện chứng
của quá trình nhận thức? Ý nghĩa của vấn đề nghiên cứu?
Trả lời:
- Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về bản chất của nhận thức:
Chủ nghĩa Mác - Lênin đã đưa ra quan niệm khoa học về bản chất của nhận
thức. Theo đó, nhận thức là quá trình phản ánh tích cực, tự giác, chủ động hiện
thực khách quan vào trong bộ óc người dựa trên cơ sở thực tiễn.
1. Quá trình nhận thức của con người
- Nhận thức cảm tính
+ Cảm giác
+ Tri giác
+ Biểu tượng
- Nhận thức lý tính
+ Khái niệm
+ Phán đoán
+ Suy luận
2. Mối quan hệ biện chứng của quá trình nhận thức
- Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính tồn tại trong mối quan hệ biện
chứng, liên quan mật thiết với nhau.
- Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính thống nhất với nhau, cơ sở thống
nhất đó là thực tiễn.
- Ý nghĩa của vấn đề nghiên cứu:
+ Nhận thức là một hoạt động - quá trình phản ánh hình thành nên tri thức về sự
vật nên quá trình nhận thức bao gồm nhiều giai đoạn, trình độ cụ thể khác nhau.
+ Trong quá trình vận động, phát triển không ngừng thì nhận thức là một quá
trình vô tận, từ chưa biết đến biết, từ biết ít đến biết nhiều, từ biết chưa đầy đủ
đến đầy đủ hơn.
20. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về Chân lý. Phân tích các tính
chất của chân lý? Ý nghĩa của vấn đề nghiên cứu?
Trả lời:
- Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về Chân lý:
Chân lý là những tri thức phù hợp với hiện thực khách quan và được thực tiễn
kiểm nghiệm. Như vậy chân lý là sản phẩm của quá trình nhận thức về thế giới
của con người. Nó được hình thành, phát triển dần dần từng bước và phụ thuộc
vào điều kiện lịch sử cụ thể của nhận thức, vào hoạt động thực tiễn và hoạt động
nhận thức của con người.
- Các tính chất của chân lý:
Chân lý có những tính chất cơ bản là tính khách quan, tính cụ thể, tính tương
đối và tính tuyệt đối.

Tính khách quan: chân lý là tri thức phản ánh đúng đắn hiện thực khách quan
và được thực tiễn kiểm nghiệm do đó chân lý khách quan là chân lý mà nội
dung của nó là khách quan, là phù hợp với khách thể nhận thức. Nghĩa là nó
không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người và loài người, chỉ phụ
thuộc vào bản thân sự vật khách quan. Ví dụ: ánh sáng có bản chất lưỡng tính
sóng - hạt là chân lý vì nó phản ánh đúng đắn hiện thực khách quan và được
thực tiễn kiểm nghiệm.
Tính cụ thể: theo triết học Mác - Lênin, không có chân lý chung chung trừu
tượng, chân lý luôn luôn là cụ thể vì nó phản ánh sự vật hiện tượng luôn phải
trong điều kiện lịch sử cụ thể, trong một không gian thời gian xác định. Thoát ly
những điều kiện ấy sẽ không phản ánh đúng đắn sự vật, hiện tượng. Vì vậy, khi
nhận thức sự vật hiện tượng phải có quan điểm lịch sử - cụ thể. Ví dụ như
thuyết vạn vật hấp dẫn của Niutơn đúng với thế giới các vật thể vĩ mô, nhưng
đối với thế giới các hạt cơ bản (vi mô) thì thuyết này không còn phù hợp, phải
thay thế bằng thuyết tương đối của Anhxtanh và cơ học lượng tử.
Tính tương đối và tính tuyệt đối của chân lý. Chân lý là tri thức đúng đắn và
được thực tiễn kiểm nghiệm nhưng nó cũng không phải là bất biến, vĩnh viễn
không thay đổi. Bởi thực tiễn luôn biến đổi, vạn vật luôn biến đổi, phát triển, vì
vậy, quá trình nhận thức chân lý chính là quá trình giải quyết mâu thuẫn giữa
tinh tương đối và tính tuyệt đối của chân lý.
- Ý nghĩa của vấn đề nghiên cứu:
Việc nắm vững những nguyên tắc tính cụ thể của chân lý có ý nghĩa quan trọng
trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn. Nó đòi hỏi khi xem xét, đánh
giá mỗi sự vật, hiện tượng, việc làm của con người phải dựa trên quan điểm lịch
sử cụ thể, phải xuất pháy từ điều kiện cụ thể mà vận dụng lý luận chung cho phù
hợp
21. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về sản xuất vật chất. Phân tích
vai trò của sản xuất vật chất đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội loài
người. Ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề này?
Trả lời:
- Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về sản xuất vật chất: Sản xuất vật
chất là quá trình con người sử dụng công cụ lao động tác động vào tự nhiên, cải
biến các dạng vật chất của giới tự nhiên nhằm tạo ra của cải vật chất thỏa mãn
nhu cầu tồn tại và phát triển của mình.
- Vai trò của sản xuất vật chất đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội
loài người:
Sản xuất vật chất là cơ sở quyết định sự hình thành, tồn tại và phát triển của
con người, xã hội.
Nhờ có lao động, thông qua lao động sản xuất mà hình thành nên con người.
Nói cách khác, sản xuất vật chất quyết định sự hình thành con người, do vậy Ph.
Ăngghen khẳng định: "Lao động đã sáng tạo ra bản thân con người".
Hoạt động sản xuất tạo ra của cải vật chất nuôi sống con người, nhờ đó con
người và xã hội mới có thể tồn tại, phát triển. Theo C. Mác: tiền đề đầu tiên của
mọi sự tồn tại của con người là người ta phải có khả năng sống đã rồi mới có
thể làm ra lịch sử. Nhưng muốn sống được thì trước hết cần phải có thức ăn,
thức uống, nhà ở, quần áo và một vài thứ khác nữa. Như vậy hành vi lịch sử đầu
tiên là việc sản xuất ra những tư liệu để thỏa mãn những nhu cầu ấy, việc sản
xuất ra bản thân đời sống vật chất".
Sản xuất vật chất là hoạt động nền tảng làm phát sinh, phát triển những mối
quan hệ xã hội. Bởi vì để tiến hành sản xuất, con người tất yếu phải thiết lập nên
những mối quan hệ nhất định với nhau, đó chính là những quan hệ sản xuất và
trên cơ sở những quan hệ sản xuất này làm phát sinh những mối quan hệ xã hội
khác như chính trị, đạo đức, pháp luật,...
Sự phát triển của sản xuất vật chất quyết định sự biến đổi, phát triển các mặt
của đời sống xã hội, quyết định phát triển xã hội từ thấp tới cao, từ xã hội này
sang xã hội khác cao hơn. Bởi vì khi sản xuất phát triển đến một trình độ mới,
tức là lực lượng sản xuất phát triển có sự thay đổi về chất sẽ đặt ra yêu cầu cần
phải thay đổi quan hệ sản xuất cho phù hợp, khi quan hệ sản xuất thay đổi thì tất
yếu kiến trúc thượng tầng của xã hội cũng sẽ thay đổi theo, dẫn đến sự ra đời
của một hình thái kinh tế - xã hội mới, xã hội loài người bước sang một giai
đoạn phát triển mới tiến bộ hơn.
-Ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề này:
Để giải thích và giải quyết đúng đắn các vấn đề của đời sống xã hội thì cần
phải tìm nguyên nhân cuối cùng của nó từ tình trạng phát triển của nền sản xuất
vật chất xã hội. Do vậy, "ta không thể nhận định về một thời đại đảo lộn như thế
nào căn cứ vào ý thức của thời đại ấy. Trái lại phải giải thích ý thức ấy bằng
những mâu thuẫn của đời sống vật chất”.
22. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về lực lượng sản xuất và quan
hệ sản xuất. Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất. Đảng ta đã nhận thức vận dụng mối quan hệ này như thế
nào trong thực tiễn?
Trả lời:
- Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về lực lượng sản xuất và quan hệ
sản xuất”
Về lực lượng sản xuất:
“Lực lượng sản xuất”, mặt nội dung của phương thức sản xuất là mối quan hệ
giữa con người và giới tự nhiên trong quá trình sản xuất, nói cách khác đó là sự
tác động của con người vào giới tự nhiên, cải biến giới tự nhiên nhằm tạo ra của
cải, vật chất phục vụ cho đời sống của con người.
Lực lượng sản xuất bao gồm người lao động với kỹ năng lao động của họ và
tự liệu sản xuất, trước hết là công cụ lao động. Trong quá trình sản xuất, lao
động của con người và tư liệu sản xuất, trước hết là công cụ sản xuất kết hợp
với nhau thành lực lượng sản xuất. Trong các yếu tố của lực lượng sản xuất
người lao động giữ vị trí quyết định nhất, Lênin nhận định “lực lượng sản xuất
hàng đầu của toàn thể nhân loại là công nhân, là người lao động”.
Về quan hệ sản xuất:
Quan hệ sản xuất, mặt hình thức của phương thức sản xuất, chính là mối quan
hệ giữa con người với con người trong quá trình sản xuất.
Quan hệ sản xuất phản ánh quan hệ giữa người với người, nó được hình
thành khách quan trong quá trình sản xuất, không phụ thuộc vào ý muốn chủ
quan của con người.
Quan hệ sản xuất gồm ba mặt: Các quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất, các quan
hệ trong tổ chức và quản lý sản xuất, các quan hệ trong phân phối sản phẩm lao
động. Ba mặt của quan hệ sản xuất thống nhất với nhau, tạo thành một hệ thống
mang tính tương đối ổn định so với sự vận động, phát triển không ngừng của
lực lượng sản xuất.
Trong ba mặt của quan hệ sản xuất, quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất là
quan hệ xuất phát, quan hệ cơ bản đặc trưng cho phương thức sản xuất.
-Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất:
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của phương thức sản xuất,
vừa thống nhất, lại vừa đấu tranh với nhau. Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất
và quan hệ sản xuất tồn tại khách quan, tự nhiên ở mọi quá trình sản xuất vật
chất và trong sự hình thành, phát triển của xã hội loài người.
Thứ nhất, lực lượng sản xuất quyết định sự hình thành và biến đổi của
quan hệ sản xuất:
Lực lượng sản xuất là mặt nội dung của phương thức sản xuất, quan hệ sản
xuất là mặt hình thức của phương thức sản xuất, do vậy lực lượng sản xuất
quyết định sự hình thành và biến đổi của quan hệ sản xuất, hơn nữa lực lượng
sản xuất lại có yếu tố động là “công cụ lao động” do vậy nó không ngừng biến
đổi, sao cho quá trình sản xuất vật chất, của cải vật chất, ngày càng nhiều hơn.
Tương ứng với lực lượng sản xuất nào, ta sẽ có quan hệ sản xuất ấy, Mác viết
“Cái cối xay bằng tay đưa lại xã hội có lãnh chúa, cái cối xay bằng hơi nước
đưa lại xã hội có nhà tư bản công nghiệp”. Chẳng hạn thời kỳ Cộng xã nguyên
thủy, với trình độ của con người là thấp, công cụ lao động rất thô sơ (gậy, gộc,
đá, hái lượm…) ta có quan hệ sản xuất tương ứng trong các thị tộc, bộ tộc, bộ
lạc (không có tư hữu về tư liệu sản xuất, phân công lao động đơn giản, phân
phối sản phẩm làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu, ăn chung, ở chung…),
đến chế độ chiếm hữu nô lệ ta có quan hệ sản xuất là chủ nô - nô lệ. Đến chế độ
Phong kiến với lực lượng sản xuất chủ yếu là người nông dân thì quan hệ sản
xuất chi phối là mối quan hệ giữa địa chủ phong kiến và người nông dân mà đặc
trưng là địa tô, đến chế độ Tư bản chủ nghĩa, công cụ lao động là máy móc hiện
đại, robot…. thì quan hệ sản xuất tương ứng sẽ là nền sản xuất đại công nghiệp
tư bản chủ nghĩa với kỷ luật, phân công lao động, phân phối sản phẩm đều ở
mức cao.
Đồng thời, sự phát triển của lực lượng sản xuất đến một trình độ nhất định sẽ
làm cho quan hệ sản xuất trở nên không còn phù hợp nữa. Khi ấy, sẽ xuất hiện
mâu thuẫn giữa quan hệ sản xuất cũ đã lỗi thời với lực lượng sản xuất mới tiến
bộ với trình độ phát triển cao. Về mặt chính trị của nội dung này chính là sự đấu
tranh giai cấp giữa giai cấp thống trị (lực lượng nắm tư liệu sản xuất chủ yếu) và
giai cấp bị trị (lực lượng đại diện cho phương thức sản xuất tiến bộ), đỉnh điểm
của cuộc đấu tranh là cách mạng xã hội sẽ nổ ra nhằm “cởi trói” lớp vỏ quan hệ
sản xuất lỗi thời cho lực lượng sản xuất, từ đó quan hệ sản xuất mới ra đời để
phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Thứ hai, quan hệ sản xuất tác động ngược trở lại với lực lượng sản xuất:
Quan hệ sản xuất có tính độc lập tương đối và tác động ngược trở lại lên lực
lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất tác động trở lại lực lượng sản xuất theo hai
chiều hướng: Một là, chiều hướng phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất thì sẽ thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển; Hai là, nếu không phù
hợp (quá cao hoặc quá thấp) với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất sẽ
kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất, khi đó sẽ gây ra hiện tượng khủng
hoảng xã hội, trong một số trường hợp còn có thể gây ra sự sụp đổ.
- Đảng ta đã nhận thức vận dụng mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất trong thực tiễn như sau:
Vận dụng đúng mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất và
quy luật khách quan của quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất Đảng ta đã từng bước xóa bỏ cơ chế kinh tế kế hoạch hóa,
tập trung, bao cấp, từng bước thừa nhận nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần
tồn tại khách quan trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và xây dựng Việt
Nam một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa như hiện nay. Tiếp
nữa là Đảng ta đã xóa bỏ cái cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp.
Chính từ chỗ Đảng ta đẩy mạnh phát triển lực lượng sản xuất, từng bước cải tạo
quan hệ sản xuất như vậy dẫn tới quan hệ sản xuất dần dần phù hợp với sự phát
triển về trình độ của lực lượng sản xuất khiến cho kinh tế Việt Nam ngày càng
phát triển, đời sống nhân dân được nâng cao, thu nhập và mức sống của nhân
dân ngày càng được cải thiện. Điều đó cho thấy rằng là khi nhận thức về cái quy
luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất,
Đảng và Nhà nước phải căn cứ vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam để xây
dựng, phát triển lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất cho phù hợp. Còn nếu
làm sai quy luật, làm trái quy luật thì chắc chắn sẽ bị trả giá. Cho nên chúng ta
thấy cái quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất là một trong những quy luật rất quan trọng và chính sự vận động nội tại
của quy luật này mà làm cho các hình thái kinh tế xã hội vận động thay thế nhau
từ thấp đến cao. Tiếp đó Đảng ta thừa nhận hóa, hợp pháp hóa sự phát triển của
kinh tế tư nhân và xem đó chính là “lực lượng bổ sung cho nền kinh tế xã hội
chủ nghĩa”. Nhà nước cũng cải cách lĩnh vực ngân hàng, tách các ngân hàng
thương mại ra khỏi ngân hàng trung ương, xây dựng nên thị trường chứng
khoán và tạo điều kiện cho sự ra đời của các ngân hàng tư nhân. Ngoài ra, tốc
độ tăng trưởng kinh tế ngày càng cao, GDP ngày càng lớn, chúng ta đã thoát ra
khỏi nhóm các nước kém phát triển,... Không chỉ vậy, Đảng ta tiếp tục tái cơ
cấu nền kinh tế, thực hiện cổ phần hóa, thoái vốn tại các doanh nghiệp nhà
nước; sắp xếp lại các tổ chức tín dụng, tiếp tục sử dụng có hiệu quả các nguồn
vốn ODA,…Việc tuân thủ quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất đã giúp Việt Nam có sự phát triển vượt bậc về kinh
tế- xã hội so với giai đoạn trước đây.
23. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về hình thái kinh tế - xã
hội.Phân tích quá trình lịch sử tự nhiên của hình thái kinh tế - xã hội? Ý
nghĩa phương pháp luận của vấn đề nghiên cứu?
Trả lời:
- Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về hình thái kinh tế - xã hội:
Hình thái kinh tế - xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử chỉ xã
hội cụ thể ở từng nấc thang lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc
trưng thiết lập trên trình độ nhất định của lực lượng sản xuất và với một kiểu
kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những quan hê sản xuất
đó.
- Quá trình lịch sử tự nhiên của hình thái kinh tế - xã hội:
Quá trình lịch sử tự nhiên của các hình thái kinh tế - xã hội được hiểu trên các
nội dung chủ yếu:
Thứ nhất, con người làm ra lịch sử của mình, họ tạo ra xã hội, nhưng sự vận
động, phát triển của xã hội không tuân theo ý chí chủ quan của con người mà
tuân theo các quy luật khách quan, đó chính là những quy luật trong bản thân
mỗi hình thái kinh tế - xã hội, cơ bản nhất là quy luật về sự phù hợp của quan hệ
sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, kiến trúc thượng tầng
phù hợp với cơ sở hạ tầng.
Thứ hai, nguồn gốc sâu xa của sự vận động phát triển của xã hội suy đến cùng
là do sự phát triển của lực lượng sản xuất. Chính sự phát triển của lực lượng sản
xuất đã kéo theo sự thay đổi của quan hệ sản xuất. Đến lượt mình, khi quan hệ
sản xuất thay đổi sẽ làm cho kiến trúc thượng tầng thay đổi theo, và do đó mà
hình thái kinh tế - xã hội cũ được thay thế bằng hình thái kinh tế - xã hội mới
tiến bộ hơn.
Thứ ba, sự vận động, phát triển của xã hội còn chịu sự tác động của nhân tố
chủ quan, tuy nhiên các quy luật khách quan có vai trò quyết định. Điều đó có
nghĩa là con người không thể tuỳ tiện lựa chọn cho mình một hình thái xã hội
theo ý muốn chủ quan của mình.
Thứ tư, quá trình lịch sử tự nhiên trong sự phát triển của các hình thái kinh tế -
xã hội vừa bao hàm sự phát triển tuần tự từ thấp đến cao (xét theo lịch sử toàn
nhân loại); vừa bao hàm sự bỏ qua một vài hình thái kinh tế - xã hội trong
những điều kiện nhất định (xét theo lịch sử của một số quốc gia dân tộc nhất
định). Dưới sự tác động của các quy luật khách quan mà lịch sử nhân loại, xét
trong tính chất toàn bộ của nó là quá trình thay thế tuần tự của các hình thái
kinh tế - xã hội: nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến và tương lai nhất
định thuộc về hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Tuy nhiên, thực tế
cho thấy, có những dân tộc lần lượt trải qua các hình thái kinh tế - xã hội từ thấp
đến cao, nhưng cũng có những dân tộc bỏ qua một hay một số hình thái kinh tế -
xã hội nào đó. Tuy nhiên, sự bỏ qua đó không phải là tùy tiện, mà phải có
những điều kiện khách quan và chủ quan nhất định.
- Ý nghĩa phương pháp luận của vấn đề nghiên cứu:
+ Để giải thích các hiện tượng trong đời sống xã hội, phải xuất phát từ thực
trạng phát triển của nền sản xuất vật chất, từ phương thức sản xuất với cốt lõi
của nó là trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
+ Muốn lý giải, nhận thức đúng đời sống xã hội, phải phân tích một cách sâu
sắc các mặt của đời sống xã hội và mối quan hệ lẫn nhau giữa chúng. Đặc biệt
là phân tích quan hệ sản xuất phải gắn liền với lực lượng sản xuất; phải xuất
phát từ quan hệ sản xuất hiện thực của xã hội để tiến hành phân tích các phương
diện khác nhau của đời sống xã hội và mối quan hệ giữa chúng.
+Trong thực tiễn, quả trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới phải tiến
hành đồng bộ tất cả các mặt của đời sống xã hội, từ lực lượng sản xuất đến quan
hệ sản xuất, từ cơ sở hạ tầng đến kiến trúc thượng tầng, trong đó lực lượng sản
xuất là yếu tố quyết định.
+ Muốn nhận thức đúng đời sống xã hội phải đi sâu nghiên cứu các quy luật vận
động phát triển của xã hội.
+ Để nhận thức đúng đắn con đường phát triển của mỗi dân tộc phải kết hợp
chặt chẽ giữa việc nghiên cứu các quy luật chung với việc nghiên cứu điều kiện
cụ thể của mỗi dân tộc. Trong thực tiễn, cần phải vận dụng một cách sáng tạo
những quy luật chung vào những điều kiện cụ thể của mỗi quốc gia, dân tộc để
tìm ra con đường đi đúng đắn.
24. Khái niệm tồn tại xã hội và ý thức xã hội theo quan điểm của chủ nghĩa
Mác – Lênin. Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý
thức xã hội? Ý nghĩa của vấn đề nghiên cứu?
Trả lời:
-Khái niệm tồn tại xã hội và ý thức xã hội theo quan điểm của chủ nghĩa
Mác – Lênin:
+ Tồn tại xã hội là toàn bộ sinh hoạt vật chất và những điều kiện sinh hoạt vật
chất của xã hội. Tồn tại xã hội của con người là thực tại xã hội khách quan, là
một kiểu vật chất xã hội, là các quan hệ xã hội vật chất được ý thức xã hội phản
ánh. Trong các quan hệ xã hội vật chất ấy thì quan hệ giữa con người với giới tự
nhiên và quan hệ giữa con người với con người là những quan hệ cơ bản nhất.
Tồn tại xã hội bao gồm các yếu tố cơ bản như điều kiện tự nhiên, hoàn cảnh
địa lý, dân số và mật độ dân số, phương thức sản xuất vật chất…
Như vậy, tồn tại xã hội là mặt vật chất xã hội. Tổn tại xã hội không chỉ quyết
định sự hình thành của ý thức xã hội mà còn quyết định cả nội dung và hình
thức biểu hiện của nó.
+ Ý thức xã hội là phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử được vận dụng để giải
quyết vấn đề cơ bản của triết học trong lĩnh vực xã hội. Ý thức xã hội là mặt
tinh thần của đời sống xã hội, bao gồm những quan điểm, tư tưởng cùng những
tình cảm, tâm trạng, truyền thống… nảy sinh từ tồn tại xã hội và phản ánh tồn
tại xã hội trong những giai đoạn phát triển nhất định.
-Mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội:
+Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội: tồn tại xã hội quyết định sự hình
thành, quyết định nội dung và hình thức biểu hiện của ý thức xã hội.
+Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội:
Quan điểm duy vật lịch sử khẳng định rằng, ý thức xã hội và tồn tại xã hội
có mối quan hệ biện chứng với nhau. Trong ấy, tồn tại xã hội quyết định ý thức
xã hội, tuy nhiên ý thức xã hội mà cụ thể là các hình thái ý thức xã hội không hề
thụ động, cô lập mà trái lại mỗi hình thái ý thức xã hội đều có sự tác động
ngược trở lại với tồn tại xã hội, trước hết là tác động trở lại cơ sở kinh tế. Đồng
thời, các hình thái ý thức xã hội cũng tác động lẫn nhau theo những cách thức
khác nhau.
Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội, được thể hiện ở những điểm cơ
bản sau:
(+)Ý thức xã hội thường lạc hậu hơn tồn tại xã hội
Lịch sử xã hội cho thấy, nhiều khi xã hội cũ mất đi, thậm chí mất đi rất lâu,
nhưng ý thức xã hội do xã hội đó sinh ra vẫn tồn tại dai dẳng. Tính độc lập của
ý thức xã hội thể hiện rõ nhất trong lĩnh vực tâm lý xã hội, trong truyền thống,
thói quen và đặc biệt là tập quán xã hội… V.I Lênin đã từng nói rằng, “sức
mạnh của tập quán ở hàng triệu và hàng chục triệu người là một sức mạnh ghê
gớm nhất”. Còn Ph.Ăngghen khi nói rẳng, “chúng ta đau khổ không những vì
những người đang sống mà còn vì những người đã chết nữa. Người chết nắm
lấy người sống” cũng là theo nghĩa ấy. Thực tế trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay, những ý thức xã hội của xã hội phong kiến và
thời kỳ thuộc địa như trọng nam kinh nữ, gia trưởng, tham nhũng, quan liêu…là
lạc hậu hơn so với xã hội mà chúng ta đang xây dựng.
Ý thức xã hội thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội từ những nguyên nhân
sau:
Một là, theo nguyên lý phản ánh của Lênin: ý thức xã hội là cái phản ánh tồn
tại xã hội nên nó chỉ biến đổi sau khi có sự biến đổi của tồn tại xã hội. Hơn nữa
sự biến đổi của tồn tại xã hội do tác động thường xuyên mạnh mẽ và trực tiếp
của những hoạt động thực tiễn của con người, nên nó thường diễn ra với tốc độ
rất nhanh mà ý thức xã hội có thể không phản ánh kịp và trở nên lạc hậu.
Hai là, do sức mạnh của thói quen, truyền thống, tập quán cũng như do tính
lạc hậu, bảo thủ của một số hình thái ý thức xã hội.
Ba là, ý thức xã hội luôn gắn với lợi ích của những nhóm, những tập đoàn
người, những giai cấp nhất định trong xã hội. Vì vậy, những tư tưởng cũ lạc hậu
thường được các lực lượng xã hội phản tiến bộ lưu giữ và truyền bá chống lại
các lực lượng xã hội tiến bộ.
(+) Ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội
Triết học Mác - Lênin khi khẳng định tính lạc hậu của ý thức xã hội so với
tồn tại xã hội thì đồng thời thừa nhận rằng trong những điều kiện nhất định, tư
tưởng của con người, đặc biệt là những tư tưởng khoa học tiên tiến có thể vượt
trước sự phát triển của tồn tại xã hội. Tư tưởng đó có thể dự báo được tương lai,
có tác dụng chỉ đạo, tổ chức hoạt động thực tiễn của con người, hướng hoạt
động của con người vào giải quyết những nhiệm vụ mới do sự chín muồi của
đời sống vật chất tạo ra.
Thực tế lịch sử cũng đã chỉ rõ, có những quan điểm, phát minh, sáng chế của
những nhà khoa học vượt trước thời đại, thậm chí là vượt trước rất xa. Chẳng
hạn như những phát minh của nhà Bác học Thomas Edison, những phát minh
của ông chủ yếu ở cuối thế kỷ XIX nhưng mãi đến đầu, giữa Thế kỷ XX mới
được ứng dụng rộng rãi, một ví dụ khác là những phát minh, sáng chế của
Nikola Tesla ở cuối Thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX nhưng đến hôm nay vẫn còn
nguyên giá trị và được ứng dụng một cách rộng rãi.
(+) Ý thức xã hội có tính kế thừa trong sự phát triển của mình
Thực tiễn đã chỉ rõ, không một tri thức nào sinh ra từ mảnh đất trống không.
Quy luật phủ định của phủ định của Triết học Mác – Lênin cũng chỉ rõ, hình
thức của sự phát triển sẽ đi theo con đường xoáy ốc, nghĩa là kế thừa những cái
tốt đẹp đồng thời xóa bỏ những cái cũ kỹ, lạc hậu. Ý thức xã hội cũng thỏa mãn
quy luật trên. Chẳng hạn, chủ nghĩa Mác – Lênin là sự kế thừa trực tiếp những
mặt đúng đắn của triết học cổ điển Đức, kinh tế chính trị học cổ điển Anh và
chủ nghĩa xã hội không tưởng ở Pháp. Hay như, Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự kế
thừa của Chủ nghĩa Mác, truyền thống văn hóa dân tộc và tinh hoa văn hóa thời
đại.
Như vậy, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay, ý thức
xã hội của thời kỳ quá độ với hệ tư tưởng chủ đạo là Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, nhưng đồng thời là sự kế thừa có chắc lọc những điều tốt
đẹp từ hệ tư tưởng phong kiến, hay hệ tư tưởng của xã hội tư bản phương Tây…
(+) Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội
Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội cũng là một biểu hiện của
tính độc lập tương đối của ý thức. Đây là qui luật phát triển của ý thức xã hội.
Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội làm cho mỗi hình thái có
những mặt, những tính chất không thể giải thích được một cách trực tiếp bằng
tồn tại xã hội hay bằng các điều kiện vật chất.
Trong sự tác động lẫn nhau giữa các hình thái ý thức xã hội, ý thức chính trị
có vai trò đặc biệt quan trọng, ý thức chính trị của giai cấp cách mạng định
hướng cho sự phát triển theo chiều hướng tiến bộ của các hình thái ý thức khác.
Trong điều kiện của nước ta hiện nay, những hoạt động tư tưởng như triết học,
văn học, nghệ thuật… mà tách rời đường lối chính trị đổi mới đúng đắn của
Đảng sẽ không tránh khỏi rơi vào những quan điểm sai lầm, không thể đóng góp
tích cực vào sự nghiệp cách mạng của nhân dân.
(+) Ý thức xã hội tác động trở lại tồn tại xã hội
Đây là biểu hiện quan trọng của tính độc lập tương đối của ý thức xã hội. Chủ
nghĩa Mác - Lênin không những chống lại quan điểm tuyệt đối hoá vai trò của ý
thức xã hội mà còn bác bỏ quan điểm duy vật tầm thường phủ nhận vai trò tích
cực của ý thức xã hội trong đời sống xã hội. Ph.Ăngghen đã khẳng định “Sự
phát triển về mặt chính trị, pháp luật, triết học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật…
đều dựa vào sự phát triển kinh tế. Nhưng tất cả chúng cũng có ảnh hưởng lẫn
nhau và ảnh hưởng đến cơ sở kinh tế”.
Mức độ ảnh hưởng của tư tưởng đối với sự phát triển của xã hội phụ thuộc
vào những điều kiện lịch sử cụ thể; vào tính chất các mối quan hệ kinh tế mà
trên đó tư tưởng nảy sinh; vào vai trò lịch sử của giai cấp mang ngọn cờ tư
tưởng; vào mức độ phản ánh đúng đắn của tư tưởng đối với các nhu cầu phát
triển xã hội; vào mức độ thâm nhập của tư tưởng đó vào quần chúng. Vì vậy cần
phân biệt vai trò của ý thức tư tưởng tiến bộ và ý thức của tư tưởng phản tiến bộ
đối với sự phát triển của xã hội.
- Ý nghĩa của vấn đề nghiên cứu:
+Ý thức xã hội chỉ là sự phản ánh tồn tại xã hội, do tồn tại xã hội quyết định,
cho nên không thể tìm nguồn gốc tư tưởng, lý luận trong đầu óc con người, mà
phải tìm trong hiện thực vật chất đã sinh ra nó, tức là trong tồn tại xã hội.
+Ý thức xã hội có tính độc lập tương đối, nó có sự tác động trở lại đối với tồn
tại xã hội cho nên trong hoạt động thực tiễn, chúng ta cần phải phát huy những
tư tưởng tiến bộ cách mạng, đồng thời cũng phải đẩy lùi những tư tưởng lạc
hậu, phản động. Trong hoạt động thực tiễn, chúng ta cần phải tránh hai khuynh
hướng:
+Chỉ thấy tồn tại xã hội quyết ý thức xã hội một cách máy móc, điều đó sẽ rơi
vào chủ nghĩa duy vật tầm thường.
+Tuyệt đối hóa vai trò của ý thức xã hội, không thấy vai trò quyết định của tồn
tại xã hội đối với ý thức xã hội, sẽ rơi vào chũ nghĩa duy vật chủ quan.
Trong nhận thức:
+Một mặt, việc nhận thức các hiện tượng của đời sống tinh thần xã hội cần phải
căn cứ vào tồn tại xã hội đã làm nảy sinh ra nó
+Nhưng mặt khác, cũng cần phải giải thích các hiện tượng đó từ những phương
diện khác nhau thuộc nội dung tính độc lập tương đối của chúng
25. Khái niệm tồn tại xã hội và ý thức xã hội theo quan điểm của chủ nghĩa
Mác – Lênin. Phân tích tính độc lập tương đối và vai trò của ý thức xã hội
đối với tồn tại xã hội? Ý nghĩa của vấn đề nghiên cứu?
Trả lời:
-Khái niệm tồn tại xã hội và ý thức xã hội theo quan điểm của chủ nghĩa
Mác – Lênin:
+ Tồn tại xã hội là toàn bộ sinh hoạt vật chất và những điều kiện sinh hoạt vật
chất của xã hội. Tồn tại xã hội của con người là thực tại xã hội khách quan, là
một kiểu vật chất xã hội, là các quan hệ xã hội vật chất được ý thức xã hội phản
ánh. Trong các quan hệ xã hội vật chất ấy thì quan hệ giữa con người với giới tự
nhiên và quan hệ giữa con người với con người là những quan hệ cơ bản nhất.
Tồn tại xã hội bao gồm các yếu tố cơ bản như điều kiện tự nhiên, hoàn cảnh
địa lý, dân số và mật độ dân số, phương thức sản xuất vật chất…
Như vậy, tồn tại xã hội là mặt vật chất xã hội. Tổn tại xã hội không chỉ quyết
định sự hình thành của ý thức xã hội mà còn quyết định cả nội dung và hình
thức biểu hiện của nó.
+ Ý thức xã hội là phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử được vận dụng để giải
quyết vấn đề cơ bản của triết học trong lĩnh vực xã hội. Ý thức xã hội là mặt
tinh thần của đời sống xã hội, bao gồm những quan điểm, tư tưởng cùng những
tình cảm, tâm trạng, truyền thống… nảy sinh từ tồn tại xã hội và phản ánh tồn
tại xã hội trong những giai đoạn phát triển nhất định.
- Tính độc lập tương đối và vai trò của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội:
Ý thức xã hội có tính độc lập tương đối, có vai trò to lớn tác động trở lại tồn tại
xã hội. Đồng thời ý thức xã hội có tính độc lập tương đối đối với tồn tại xã hội.
Chỉ có thể hiểu sâu sác sự tác động trở lại của ý thức xã hội đối với tồn tại xã
hội khi nắm được tính độc lập tương đối của ý thức xã hội.
Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội, được thể hiện ở những điểm cơ
bản sau:
(+)Ý thức xã hội thường lạc hậu hơn tồn tại xã hội
Lịch sử xã hội cho thấy, nhiều khi xã hội cũ mất đi, thậm chí mất đi rất lâu,
nhưng ý thức xã hội do xã hội đó sinh ra vẫn tồn tại dai dẳng. Tính độc lập của
ý thức xã hội thể hiện rõ nhất trong lĩnh vực tâm lý xã hội, trong truyền thống,
thói quen và đặc biệt là tập quán xã hội… V.I Lênin đã từng nói rằng, “sức
mạnh của tập quán ở hàng triệu và hàng chục triệu người là một sức mạnh ghê
gớm nhất”. Còn Ph.Ăngghen khi nói rẳng, “chúng ta đau khổ không những vì
những người đang sống mà còn vì những người đã chết nữa. Người chết nắm
lấy người sống” cũng là theo nghĩa ấy. Thực tế trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay, những ý thức xã hội của xã hội phong kiến và
thời kỳ thuộc địa như trọng nam kinh nữ, gia trưởng, tham nhũng, quan liêu…là
lạc hậu hơn so với xã hội mà chúng ta đang xây dựng.
Ý thức xã hội thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội từ những nguyên nhân
sau:
Một là, theo nguyên lý phản ánh của Lênin: ý thức xã hội là cái phản ánh tồn
tại xã hội nên nó chỉ biến đổi sau khi có sự biến đổi của tồn tại xã hội. Hơn nữa
sự biến đổi của tồn tại xã hội do tác động thường xuyên mạnh mẽ và trực tiếp
của những hoạt động thực tiễn của con người, nên nó thường diễn ra với tốc độ
rất nhanh mà ý thức xã hội có thể không phản ánh kịp và trở nên lạc hậu.
Hai là, do sức mạnh của thói quen, truyền thống, tập quán cũng như do tính
lạc hậu, bảo thủ của một số hình thái ý thức xã hội.
Ba là, ý thức xã hội luôn gắn với lợi ích của những nhóm, những tập đoàn
người, những giai cấp nhất định trong xã hội. Vì vậy, những tư tưởng cũ lạc hậu
thường được các lực lượng xã hội phản tiến bộ lưu giữ và truyền bá chống lại
các lực lượng xã hội tiến bộ.
(+) Ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội
Triết học Mác - Lênin khi khẳng định tính lạc hậu của ý thức xã hội so với
tồn tại xã hội thì đồng thời thừa nhận rằng trong những điều kiện nhất định, tư
tưởng của con người, đặc biệt là những tư tưởng khoa học tiên tiến có thể vượt
trước sự phát triển của tồn tại xã hội. Tư tưởng đó có thể dự báo được tương lai,
có tác dụng chỉ đạo, tổ chức hoạt động thực tiễn của con người, hướng hoạt
động của con người vào giải quyết những nhiệm vụ mới do sự chín muồi của
đời sống vật chất tạo ra.
Thực tế lịch sử cũng đã chỉ rõ, có những quan điểm, phát minh, sáng chế của
những nhà khoa học vượt trước thời đại, thậm chí là vượt trước rất xa. Chẳng
hạn như những phát minh của nhà Bác học Thomas Edison, những phát minh
của ông chủ yếu ở cuối thế kỷ XIX nhưng mãi đến đầu, giữa Thế kỷ XX mới
được ứng dụng rộng rãi, một ví dụ khác là những phát minh, sáng chế của
Nikola Tesla ở cuối Thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX nhưng đến hôm nay vẫn còn
nguyên giá trị và được ứng dụng một cách rộng rãi.
(+) Ý thức xã hội có tính kế thừa trong sự phát triển của mình
Thực tiễn đã chỉ rõ, không một tri thức nào sinh ra từ mảnh đất trống không.
Quy luật phủ định của phủ định của Triết học Mác – Lênin cũng chỉ rõ, hình
thức của sự phát triển sẽ đi theo con đường xoáy ốc, nghĩa là kế thừa những cái
tốt đẹp đồng thời xóa bỏ những cái cũ kỹ, lạc hậu. Ý thức xã hội cũng thỏa mãn
quy luật trên. Chẳng hạn, chủ nghĩa Mác – Lênin là sự kế thừa trực tiếp những
mặt đúng đắn của triết học cổ điển Đức, kinh tế chính trị học cổ điển Anh và
chủ nghĩa xã hội không tưởng ở Pháp. Hay như, Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự kế
thừa của Chủ nghĩa Mác, truyền thống văn hóa dân tộc và tinh hoa văn hóa thời
đại.
Như vậy, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay, ý thức
xã hội của thời kỳ quá độ với hệ tư tưởng chủ đạo là Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, nhưng đồng thời là sự kế thừa có chắc lọc những điều tốt
đẹp từ hệ tư tưởng phong kiến, hay hệ tư tưởng của xã hội tư bản phương Tây…
(+) Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội
Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội cũng là một biểu hiện của
tính độc lập tương đối của ý thức. Đây là qui luật phát triển của ý thức xã hội.
Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội làm cho mỗi hình thái có
những mặt, những tính chất không thể giải thích được một cách trực tiếp bằng
tồn tại xã hội hay bằng các điều kiện vật chất.
Trong sự tác động lẫn nhau giữa các hình thái ý thức xã hội, ý thức chính trị
có vai trò đặc biệt quan trọng, ý thức chính trị của giai cấp cách mạng định
hướng cho sự phát triển theo chiều hướng tiến bộ của các hình thái ý thức khác.
Trong điều kiện của nước ta hiện nay, những hoạt động tư tưởng như triết học,
văn học, nghệ thuật… mà tách rời đường lối chính trị đổi mới đúng đắn của
Đảng sẽ không tránh khỏi rơi vào những quan điểm sai lầm, không thể đóng góp
tích cực vào sự nghiệp cách mạng của nhân dân.
(+) Ý thức xã hội tác động trở lại tồn tại xã hội
Đây là biểu hiện quan trọng của tính độc lập tương đối của ý thức xã hội. Chủ
nghĩa Mác - Lênin không những chống lại quan điểm tuyệt đối hoá vai trò của ý
thức xã hội mà còn bác bỏ quan điểm duy vật tầm thường phủ nhận vai trò tích
cực của ý thức xã hội trong đời sống xã hội. Ph.Ăngghen đã khẳng định “Sự
phát triển về mặt chính trị, pháp luật, triết học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật…
đều dựa vào sự phát triển kinh tế. Nhưng tất cả chúng cũng có ảnh hưởng lẫn
nhau và ảnh hưởng đến cơ sở kinh tế”.
Mức độ ảnh hưởng của tư tưởng đối với sự phát triển của xã hội phụ thuộc
vào những điều kiện lịch sử cụ thể; vào tính chất các mối quan hệ kinh tế mà
trên đó tư tưởng nảy sinh; vào vai trò lịch sử của giai cấp mang ngọn cờ tư
tưởng; vào mức độ phản ánh đúng đắn của tư tưởng đối với các nhu cầu phát
triển xã hội; vào mức độ thâm nhập của tư tưởng đó vào quần chúng. Vì vậy cần
phân biệt vai trò của ý thức tư tưởng tiến bộ và ý thức của tư tưởng phản tiến bộ
đối với sự phát triển của xã hội.
- Ý nghĩa của vấn đề nghiên cứu:
+Ý thức xã hội có tính độc lập tương đối, nó có sự tác động trở lại đối với tồn
tại xã hội cho nên trong hoạt động thực tiễn, chúng ta cần phải phát huy những
tư tưởng tiến bộ cách mạng, đồng thời cũng phải đẩy lùi những tư tưởng lạc
hậu, phản động. Trong hoạt động thực tiễn, chúng ta cần phải tránh hai khuynh
hướng:
+Chỉ thấy tồn tại xã hội quyết ý thức xã hội một cách máy móc, điều đó sẽ rơi
vào chủ nghĩa duy vật tầm thường.
+Tuyệt đối hóa vai trò của ý thức xã hội, không thấy vai trò quyết định của tồn
tại xã hội đối với ý thức xã hội, sẽ rơi vào chũ nghĩa duy vật chủ quan.
Trong nhận thức:
+Một mặt, việc nhận thức các hiện tượng của đời sống tinh thần xã hội cần phải
căn cứ vào tồn tại xã hội đã làm nảy sinh ra nó
+Nhưng mặt khác, cũng cần phải giải thích các hiện tượng đó từ những phương
diện khác nhau thuộc nội dung tính độc lập tương đối của chúng

26. Khái niệm cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng theo quan điểm của
chủ nghĩa Mác – Lênin. Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ
tầng và kiến trúc thượng tầng. Sự vận dụng của Đảng ta hiện nay?
Trả lời:
- Khái niệm cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng theo quan điểm của chủ
nghĩa Mác – Lênin:
“Cơ sở hạ tầng” là tổng hợp những quan hệ sản xuất hợp thành kết cấu
kinh tế của một xã hội nhất định. Cơ sở hạ tầng hình thành một cách khách quan
trong quá trình sản xuất vật chất của xã hội.
“Kiến trúc thượng tầng” là toàn bộ những quan điểm chính trị, pháp luật,
triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật…cùng với những thiết chế tương ứng
của nó như nhà nước, đảng phái, giáo hội, các đoàn thể…được hình thành trên
một cơ sở hạ tầng nhất định.
-Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng(CSHT) và kiến trúc thượng
tầng(KTTT):
CSHT và KTTT là hai mặt thống nhất biện chứng trong một hình thái
kinh tế - xã hội. Trong mối quan hệ giữa CSHT và KTTT thì CSHT quyết định
KTTT, đồng thời KTTT cũng có những tác động ngược trở lại với CSHT.
Thứ nhất, CSHT quyết định KTTT:
CSHT quyết định KTTT ở chỗ, CSHT là tổng hợp những QHSX hợp
thành kết cấu kinh tế của một xã hội nhất định, có nghĩa là CSHT quy định cơ
cầu kinh tế, nội dung về kinh tế của xã hội đó. Trên nền của cơ cầu kinh tế ấy,
KTTT được xây dựng nên.
CSHT quyết định KTTT còn thể hiện ở sự biến đổi căn bản trong CSHT
sớm hay muộn cũng dẫn đến sự biến đổi căn bản của KTTT. CSHT quy định
nội dung kinh tế của xã hội đó, do vậy những bộ phận phận của KTTT được xây
nên trên nền của cơ cấu kinh tế này, sớm hay muộn cũng sẽ bị biến đổi để phù
hợp với cơ cấu kinh tế đó, tức là sự biến đổi căn bản trong CSHT sẽ dẫn đến sự
biến đổi căn bản trong KTTT.
Thứ hai, sự tác động ngược trở lại của KTTT với CSHT:
KTTT có tính độc lập tương đối của nó, tính độc lập này thể hiện ở sự
độc lập tương đối (có sự tác động qua lại) giữa những bộ phận trong kiến trúc
thượng tầng với nhau, và giữa những bộ phận ấy với cơ sở hạ tầng. Chẳng hạn
sự tác động từ những chính sách của nhà nước lên nền kinh tế, giai quyết những
mâu thuẫn về lợi ích giữa các giai cấp…có tác dụng hoặc thúc đẩy, hoặc kìm
hãm sự phát triển của xã hội.
Trong các yếu tố của KTTT, nhà nước giữ vai trò đặc biệt quan trọng vì
nhà nước không chỉ sở hữu cho mình về sức mạnh kinh tế mà còn có những
công cụ khác để bảo vệ quyền lực của mình như pháp luật, quân đội, tòa án…
Nhà nước (bộ phận giữ vai trò quan trọng nhất của KTTT) tác động lên CSHT
thông qua những chủ trương, chính sách của mình.
Sự tác động ngược trở lại của KTTT lên CSHT theo hai chiều hướng cơ
bản:
Một là, sự tác động phù hợp với các quy luật kinh tế khách quan sẽ thúc
đẩy CSHT phát triển, chẳng hạn nhà nước có những chính sách phù hợp, đúng
đắn trong phát triển kinh tế sẽ giúp xã hội ổn định và phát triển.
Hai là, ngược lại sự tác động không phù hợp với các quy luật kinh tế
khách quan sẽ kìm hãm sự phát triển của CSHT, thậm chí gây ra sự khủng
hoảng. Nếu KTTT (chủ yếu từ các chính sách của nhà nước) kìm hãm sự phát
triển CSHT thì sớm hay muộn, KTTT ấy cũng sẽ bị thay thế bởi một KTTT mới
tiến bộ hơn.
- Sự vận dụng của Đảng ta hiện nay:
Cơ sở hạ tầng kinh tế của nước ta hiện nay là một kết cấu kinh tế nhiều
thành phần với nhiều hình thức sở hữu đan xen lẫn nhau. Thừa nhận sự tồn tại
của một kết cấu kinh tế với nhiều hình thức sở hữu và nhiều thành phần kinh tế
cùng tồn như vậy là một tất yếu khách quan. Bởi lẽ, trình độ lực lượng sản xuất
của chúng còn thấp và chưa đồng đều. Song, đây lại là một nền kinh tế năng
động, phong phú. Chính tính chất đan xen của kết cấu kinh tế ấy nó đặt ra nhu
cầu khách quan là kiến trúc thượng tầng cũng phải được đổi mới để đáp ứng đòi
hỏi của cơ sở kinh tế. Lẽ dĩ nhiên, không phải với nền kinh tế nhiều thành phần
và nhiều hình thức sở hữu khác nhau thì nhất thiết phải đa đảng và đa nguyên về
chính trị, nhưng nhất thiết phải đổi mới kiến trúc thượng tầng theo hướng: đổi
mới tổ chức, đổi mới bộ máy hành chính nhà nước, đổi mới con người, đổi mới
phong cách lãnh đạo, đa dạng hoá các tổ chức, đoàn thể, hiệp hội, mở rộng dân
chủ (đặc biệt là dân chủ cơ sở), tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc… nhằm
tập trung sức mạnh của quần chúng nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam.
Kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa phản ánh cơ sở hạ tầng của xã hội chủ
nghĩa, vì vậy mà có sự thống trị về chính trị và tinh thần Nhà nước phải thực
hiện biện pháp kinh tế có vai trò quan trọng  nhằm từng bước xã hội hoá nền sản
xuất với hình thức và bước đi thích hợp theo hướng như : kinh tế quốc doanh
được củng cố và phát triển vươn lên giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tập thể dưới
hình thức thu hút phần lớn những người sản xuất nhỏ trong các ngành nghề, các
hình thức xí nghiệp , công ty cổ phần phát triển mạnh, kinh tế tư nhân và gia
đình phát huy được mọi tiềm năng để phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ
sở kinh tế hợp lý. Các thành phần đó vừa khác nhau về vai trò, chức năng, tính
chất, vừa thống nhất với nhau trong một cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất mà
còn cạnh tranh nhau, liên kết và bổ xung cho nhau.
Vận dụng đúng đắn mối quan hệ biện chứng giữa CSHT và KTTT, Đảng ta
không ngừng đổi mới kinh tế bởi đổi mới kinh tế là cơ sở, tiền đề cho đổi mới
chính trị. Song, muốn đổi mới kinh tế phải đổi mới chính trị để tạo điều kiện
thuận lợi cho đổi mới kinh tế. Đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị là hai quá
trình gắn bó hữu cơ với nhau trên tinh thần ổn định chính trị để đổi kinh tế một
cách toàn diện và có hiệu quả trong sự nghiệp đổi mới.
27. Khái niệm giai cấp và đấu tranh giai cấp theo quan điểm của chủ nghĩa
Mác – Lênin. Phân tích khái niệm giai cấp và đấu tranh giai cấp theo quan
điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin. Ý nghĩa của vấn đề nghiên cứu?
Trả lời:
- Khái niệm giai cấp và đấu tranh giai cấp theo quan điểm của chủ nghĩa
Mác – Lênin:
+ Khái niệm giai cấp: “Được gọi là giai cấp, là những tập đoàn người to lớn,
khác nhau về địa vị của họ trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong
lịch sử, về quan hệ của họ đối với những tư liệu sản xuất (thường thì những
quan hệ này được pháp luật quy định và thừa nhận), về vai trò của họ trong tổ
chức lao động xã hội, và do đó khác nhau về cách thức hưởng thụ phần của cải
xã hội ít hay nhiều mà họ được hưởng. Giai cấp là những tập đoàn người, mà
một tập đoàn có thể chiếm đoạt lao động của các tập đoàn khác, do địa vị khác
nhau của họ trong một chế độ kinh tế xã hội nhất định".
- Khái niệm đấu tranh giai cấp: “Đấu tranh giai cấp là đấu tranh của một bộ
phận nhân dân này chống một bộ phận khác, cuộc đấu tranh của quần chúng bị
tước hết quyền, bị áp bức và lao động chống bọn có đặc quyền, đặc lợi, bọn ăn
bám, cuộc đấu tranh của những người làm thuê hay những người vô sản chống
người hữu sản hay giai cấp tư sản”.
-Phân tích khái niệm giai cấp và đấu tranh giai cấp theo quan điểm của chủ
nghĩa Mác – Lênin:
Khái niệm giai cấp của chủ nghĩa Mác - Lênin cho thấy, giai cấp là một phạm
trù kinh tế - xã hội có tính lịch sử, sự tồn tại của nó gắn với những hệ thống sản
xuất xã hội dựa trên cơ sở của chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất. Sự xuất hiện và
tồn tại của giai cấp xét đến cùng là do nguyên nhân kinh tế. Tuy nhiên, không
được biến khái niệm giai cấp thành một phạm trù kinh tế đơn thuần. Chỉ có thể
xem xét các giai cấp trong hệ thống những mối quan hệ xã hội đa dạng, phức
tạp và không ngừng vận động, biến đổi mới có thể nhận thức một cách đầy đủ
và sâu sắc sự khác biệt của các giai cấp về kinh tế, chính trị, tư tưởng, tâm lý,
đạo đức, lối sống... Khái niệm giai cấp của chủ nghĩa Mác – Leenin mang bản
chất cách mạng và khoa học, có giá trị to lớn về lý luận và thực tiễn. Đây là cơ
sở để nhận thức đúng đắn vị trí, vai trò, bản chất của các giai cấp trong lịch sử;
đồng thời trang bị cho giai cấp vô sản cơ sở lý luận khoa học để nhận thức được
vai trò lịch sử của giai cấp vô sản trong cuộc đấu tranh xóa bỏ giai cấp và xây
dựng xã hội mới.
Khái niệm đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa Mác - Lênin cho thấy, đấu tranh
giai cấp là tất yếu, do sự đối lập về lợi ích căn bản không thể điều hòa được giữa
các giai cấp. Trong xã hội có giai cấp, đấu tranh giai cấp là quy luật tất yếu của
xã hội. Tính tất yếu của đấu tranh giai cấp xuất phát từ tính tất yếu kinh tế,
nguyên nhân là do sự đối kháng về lợi ích cơ bản giữa giai cấp bị trị và giai cấp
thống trị.
Đấu tranh giai cấp là một hiện tượng lịch sử khách quan, không phải do một
lý thuyết xã hội nào tạo ra, cũng không phải do ý muốn chủ quan của một lực
lượng xã hội hay một cá nhân nào nghĩ ra. Ở đâu và khi nào còn áp bức, bóc lột,
thì ở đó và khi đó còn đấu tranh giai cấp chống lại áp bức, bóc lột. Thực tiễn
lịch sử của xã hội loài người đã và đang chứng minh điều đó. Đấu tranh giai cấp
là cuộc đấu tranh của các tập đoàn người to lớn có lợi ích căn bản đối lập nhau
trong một phương thức sản xuất xã hội nhất định.
Thực chất của đấu tranh giai cấp là cuộc đấu tranh của quần chúng lao động bị
áp bức, bóc lột chống lại giai cấp áp bức, bóc lột nhằm lật đổ ách thống trị của
chúng.
Trong xã hội có đối kháng giai cấp, thực chất đấu tranh giai cấp là cuộc đấu
tranh của quần chúng lao động bị áp bức, bóc lột chống lại giai cấp áp bức, bóc
lột do sự đối lập về lợi ích không thể dung hòa trong một chế độ kinh tế - xã hội
nhất định.
- Ý nghĩa của vấn đề nghiên cứu:
Khái niệm giai cấp theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin có giá trị cả về lý
luận và thực tiễn. Về mặt lý luận, khái niệm đã chỉ ra nguồn gốc phát sinh giai
cấp, khẳng định sự ra đời, tồn tại của mỗi giai cấp gắn với những hệ thống sản
xuất xã hội nhất định. Chẳng hạn như giai cấp chủ nô gắn với quan hệ sản xuất
thời chiếm hữu nô lệ, giai cấp phong kiến gắn với quan hệ sản xuất phong
kiến...

Về mặt thực tiễn, khái niệm giai cấp của chủ nghĩa Mác – Lênin là cơ sở để
xác định kết cấu giai cấp trong một hình thái kinh tế xã hội nhất định, đó là phải
căn cứ vào tình hình sở hữu đối với tư liệu sản xuất, vai trò trong tổ chức, quản
lý sản xuất và tình trạng phân phối sản phẩm, thu nhập. Ngoài ra, căn cứ theo
khái niệm giai cấp ta còn xác định giai cấp nào là giai cấp cơ bản, giai cấp nào
không là giai cấp cơ bản và các tầng lớp trung gian khác trong xã hội.
+ Từ khái niệm đấu tranh giai cấp, ta thấy đấu tranh giai cấp chính là đấu tranh
giữa hai mặt đối lập cơ bản của xã hội có giai cấp, là biểu hiện về mặt xã hội
của mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Qua đấu tranh giai
cấp mới giải quyết được mâu thuẫn nói trên làm cho lực lượng sản xuất phát
triển, qua đó thúc đẩy xã hội có giai cấp phát triển. Góp phần xoá bỏ thế lực
phản động, lạc hậu đồng thời còn có tác dụng cải tạo bản thân các giai cấp cách
mạng và quần chúng cách mạng.
28. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin về dân tộc. Phân tích các đặc
trưng cơ bản của dân tộc Việt Nam? Ý nghĩa của vấn đề nghiên cứu?
Trả lời:
-Quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin về dân tộc: Theo quan điểm của chủ
nghĩa Mác – Lênin, dân tộc là quá trình phát triển lâu dài của xã hội loài người,
trải qua các hình thức cộng đồng từ thấp đến cao, bao gồm thị tộc, bộ lạc, bộ
tộc, dân tộc. Sự biến đổi của phương thức sản xuất chính là nguyên nhân quyết
định sự biến đổi của cộng đồng dân tộc.
- Các đặc trưng cơ bản của dân tộc Việt Nam:
Thứ nhất, dân tộc là một cộng đồng về ngôn ngữ.
Ngôn ngữ là công cụ giao tiếp xã hội, trước hết là công cụ giao tiếp trong
cộng đồng (thị tộc, bộ lạc, bộ tộc, dân tộc). Các thành viên của một dân tộc có
thể dùng nhiều ngôn ngữ trong giao tiếp với nhau. Có một số ngôn ngữ được
nhiều dân tộc sử dụng.
Điều quan trọng là mỗi dân tộc có một ngôn ngữ chung thông nhất mà các
thành viên của dân tộc coi đó là tiếng mẹ đẻ của họ. Tính thống nhất trong ngôn
ngữ dân tộc thể hiện trước hết ở sự thống nhất về cấu trúc ngữ pháp và kho từ
vựng cơ bản. Ngôn ngữ của một dân tộc thể hiện đặc trưng chủ yếu của dân tộc
đó.
Thứ hai, dân tộc là một cộng đồng về lãnh thổ.
Mỗi dân tộc có lãnh thổ riêng thống nhất, không bị chia cắt. Lãnh thổ dân tộc
bao gồm cả vùng đất, vùng trời, vùng biển, hải đảo thuộc chủ quyền của quốc
gia dân tộc. Trong trường hợp quốc gia có nhiều dân tộc, lãnh thổ quốc gia gồm
lãnh thổ của các dân tộc thuộc quốc gia ấy hợp thành.
Phạm vi lãnh thổ dân tộc hình thành trong quá trình lịch sử lâu dài. Chủ
quyền quốc gia dân tộc về lãnh thổ là một khái niệm xác định, thường được thể
chế hóa thành luật pháp quốc gia và luật pháp quốc tế.
Cộng đồng lãnh thổ là đặc trưng quan trọng không thể thiếu được của dân
tộc. Lãnh thổ là địa bàn sinh tồn và phát triển của dân tộc, không có lãnh thổ thì
không có khái niệm tổ quốc, quốc gia.
Thứ ba, dân tộc là một cộng đồng về kinh tế.
Từ các cộng đồng người nguyên thủy chuyển sang bộ tộc, yếu tố liên kết
cộng đồng dựa trên quan hệ huyết thống dần dần bị suy giảm, vai trò của nhân
tố” kinh tế – xã hội ngày càng tăng. Đây là nhu cầu hoàn toàn khách quan trong
đời sống xã hội.
Những mối liên hệ kinh tế làm tăng tính thống nhất, ổn định, bền vững của
cộng đồng người sống trong một lãnh thổ rộng lớn. Những mối liên hệ kinh tế
thường xuyên và mạnh mẽ đặc biệt là mối liên hệ thị trường đã làm tăng tính
thông nhất, tính ổn định, bền vững của cộng đồng người đông đảo sống trong
lãnh thổ rộng lớn. Thiếu sự cộng đồng chặt chẽ, bền vững về kinh tế thì cộng
đồng người chưa phải là dân tộc.
Thứ tư, dân tộc là một cộng đồng về văn hóa, tâm lý, tính cách…
Văn hóa là yếu tố đặc biệt quan trọng của sự liên kết cộng đồng. Văn hóa dân
tộc mang nhiều sắc thái của các địa phương, các sắc tộc, các tập đoàn người
song nó vẫn là một nền văn hóa thông nhất không bị chia cắt.
Tính thống nhất trong đa dạng là đặc trưng của văn hóa dân tộc. Văn hóa dân
tộc hình thành trong quá trình lâu dài của lịch sử, hơn bất cứ yếu tố’ nào khác,
tạo ra sắc thái riêng đa dạng, phong phú của từng dân tộc. Mỗi dân tộc có một
nền văn hóa riêng để phân biệt dân tộc này với dân tộc khác
- Ý nghĩa của vấn đề nghiên cứu:
Việc nghiên cứu quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về dân tộc có ý nghĩa
vô cùng quan trọng trong việc giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ đất nước
(làm sao giữ cho được ổn định, hòa bình giữa các dân tộc, giai tầng trong xã hội với
nhau) và vấn đề dân tộc giữa các quốc gia, dân tộc trên thế giới với nhau (mối quan
hệ mở cửa, hợp tác giữa đất nước ta với các quốc gia trên thế giới”, từ đó tạo sự ổn
định, phát triển của dân tộc trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
29. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin về Nhà nước. Phân tích đặc
trưng, bản chất của Nhà nước theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin?
Sự vận dụng của Đảng và Nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay
Trả lời:
-Quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin về Nhà nước: Theo quan điểm của
Chủ nghĩa Mác-Lênin thì nhà nước thực chất là một tổ chức đặc biệt của quyền
lực chính trị, một bộ máy chuyên làm nhiệm vụ cưỡng chế và thực hiện chức
năng quản lý đặc biệt nhằm duy trì trật tự xã hội, thực hiện mục đích bảo vệ địa
vị của giai cấp thống trị trong xã hội. 
- Phân tích đặc trưng, bản chất của Nhà nước theo quan điểm của chủ
nghĩa Mác – Lênin:
+ Đặc trưng của Nhà nước theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin:
(1) Nhà nước quản lý dân cư trên một vùng lãnh thổ nhất định:
Khác với các tổ chức thị tộc, nhà nước phân chia dân cư không theo huyết
thống mà theo lãnh thổ quốc gia. Mỗi nhà nước được xác định bằng một biên
giới quốc gia nhất định. Quyền lực của nhà nước trực tiếp tác động đến dân cư
trong lãnh thổ quốc gia đó, bất kể người dân thuộc quan hệ huyết thống nào.
(2)Nhà nước có một bộ máy quyền lực chuyên nghiệp mang tính cưỡng
chế đối với mọi thành viên trong xã hội:
Nhà nước thiết lập một bộ máy quyền lực chuyên nghiệp bao gồm cơ quan
hành chính cai trị; các lực lượng vũ trang như quân đội, cảnh sát; các cơ quan
tình báo của nhà nước, nhà tủ, trại giam... để cưỡng chế mọi thành viên trong xã
hội, buộc những giai cấp khác phải phục tùng giai cấp thống trị. Nhà nước thực
hiện quyền lực của mình trên cơ sở sức mạnh cưỡng bức của pháp luật.
(3)Nhà nước hình thành hệ thống thuế khoá để duy trì và tăng cường bộ
máy cai trị:
Nhà nước không thể tồn tại nếu không dựa vào thuế khoá, quốc trái. Để duy
trì, nuôi sống và tăng cường bộ máy quyền lực chuyên nghiệp từ trung ương đến
địa phương, nhà nước phải hình thành một hệ thống thuế khóa có tính chất bắt
buộc đối với các thành viên của xã hội.
+ Bản chất của Nhà nước theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin:
(+) Nhà nước chỉ ra đời và tồn tại trong xã hội có mâu thuẫn giai cấp và đấu
tranh giai cấp.
(+)Giai cấp thống trị lập ra và sử dụng nhà nước như một công cụ quyền lực
để: trấn áp giai cấp bị trị, duy trì trật tự xã hội; bảo vệ địa vị và quyền lợi của
mình.
Về bản chất, nhà nước là một tổ chức chính trị của một giai cấp thống trị về
mặt kinh tế nhằm bảo vệ trật tự hiện hành và đàn áp sự phản kháng của các giai
cấp khác.
- Sự vận dụng của Đảng và Nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay:
- Với nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam có mang những đặc
trưng riêng và bản chất riêng điển hình:
+ Nhà nước Việt Nam là nhà nước do dân vì dân tất cả vì nhân dân, thể hiện
quyền làm chủ của nhân –mọi hoạt động được dựa trên cơ sở Hiến pháp và pháp
luật.

(+)Nhà nước Việt Nam thực hiện duy trì và đảm bảo vị trí tối cao của pháp
luật trong đời sống xã hội, mọi hoạt động vận hành trong khuôn khổ pháp luật.
- Nhà nước Việt Nam mang bản chất của giai cấp công nhân đứng đầu là Đảng
Cộng sản Việt Nam.
– Nhà nước là mang bàn chất công dân thể hiện tính nhân dân và tính dân tộc.
Đảng và Nhà nước ta ta đã đề cập ngày càng sâu sắc, toàn diện và có bước
phát triển mới về quan điểm, định hướng, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp đối với
từng yếu tố trong mô hình nhà nước pháp quyền xét về đặc trưng phổ quát của
nhà nước pháp quyền nói chung và đặc thù của Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam nói riêng. Tong quan điểm chỉ đạo, tiếp nối chủ trương từ
các kỳ đại hội trước, đặc biệt là từ văn kiện Đại hội XII và các hội nghị của Ban
Chấp hành Trung ương khóa XII, Đảng ta khẳng định “xây dựng Nhà nước tinh
gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”là một trong những nhân tố có ý nghĩa quyết
định thành công sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước, bảo vệ Tổ quốc. Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa về bản chất khác với nhà nước pháp quyền tư
sản là ở chỗ: pháp quyền dưới chế độ tư bản chủ nghĩa về thực chất là công cụ
bảo vệ và phục vụ cho lợi ích của giai cấp tư sản, còn pháp quyền dưới chế độ
XHCN là công cụ thể hiện và thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm
và bảo vệ lợi ích của đại đa số nhân dân. Thông qua thực thi pháp luật, Nhà
nước bảo đảm các điều kiện để nhân dân là chủ thể của quyền lực chính trị, thực
hiện chuyên chính với mọi hành động xâm hại lợi ích của Tổ quốc và nhân
dân”. Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng,
sự điều chỉnh tối thượng của Hiến pháp và hệ thống pháp luật bảo đảm công
khai, tính minh bạch, khả thi, hiệu quả, nguyên tắc bình đẳng, bảo vệ quyền con
người, tính thượng tôn pháp chế XHCN. Nhà nước pháp quyền XHCN vì mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, phồn vinh, hạnh phúc;
hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn.
30. Cách mạng xã hội là gì? Phân tích vai trò của nó trong sự phát triển
của xã hội? Ý nghĩa của vấn đề nghiên cứu?
Trả lời:
-Cách mạng xã hội là gì?
Theo nghĩa rộng, cách mạng xã hội là sự biến đổi có tính chất bước ngoặt và
căn bản về chất trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, là phương thức thay thế
hình thái kinh tế - xã hội lỗi thời bằng hình thái kinh tế - xã hội cao hơn. Theo
nghĩa hẹp, cách mạng xã hội là việc lật đổ một chế độ chính trị đã lỗi thời, thiết
lập một chế độ chính trị tiến bộ hơn.
-Vai trò của cách mạng xã hội trong sự phát triển của xã hội:
Các cuộc cách mạng xã hội có vai trò to lớn trong đời sống xã hội. Chỉ có
cách mạng xã hội mới thay thế được quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất
mới tiến bộ hơn, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển từ đó dẫn đến thay thế
hình thái kinh tế - xã hội cũ bằng hình thái kinh tế - xã hội mới cao hơn.
Mặt khác, chính nhờ những cuộc cách mạng xã hội mà các mâu thuẫn cơ bản
của đời sống xã hội trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa,... được giải
quyết triệt để, từ đó tạo ra động lực cho sự tiến bộ và phát triển của xã hội.
Trong những thời kỳ cách mạng, năng lực sáng tạo của quần chúng nhân dân
được phát huy cao độ, có thể sáng tạo ra lịch sử mới với một sức mạnh phi
thường: "một ngày bằng hai mươi năm".
Lịch sử nhân loại đã chứng minh đầy đủ và rõ nét vai trò của các cuộc cách
mạng xã hội đã từng diễn ra trong lịch sử mấy nghìn năm qua. Đó là: cuộc cách
mạng thực hiện bước chuyển từ hình thái kinh tế - xã hội nguyên thủy lên hình
thái kinh tế - xã hội chiếm hữu nô lệ; cuộc cách mạng xóa bỏ chế độ nô lệ và
thay thế nó bằng chế độ phong kiến; cuộc cách mạng tư sản lật đổ chế độ phong
kiến, xác lập chế độ tư bản chủ nghĩa; cuộc cách mạng vô sản thực hiện việc
xóa bỏ chế độ chuyên chính vô sản, xác lập chế độ xã hội chủ nghĩa - đây là
cuộc cách mạng vĩ đại nhất, sâu sắc nhất trong lịch sử nhân loại, làm thay đổi
hoàn toàn bản chất chế độ chính trị xã hội cũ, xóa bỏ triệt để nguồn gốc chế độ
tư hữu sản sinh đối kháng giai cấp đã từng tồn lại hàng ngàn năm trong lịch sử
nhân loại.
-Ý nghĩa của vấn đề nghiên cứu:
Từ những lý luận về cách mạng xã hội giúp chúng ta tổng kết thực tiễn, nghiên
cứu lý luận từ đó chinh sửa, bổ sung lý luận, phát triển sáng tạo học thuyết cách
mạng xã hội của chủ nghĩa Mác - Lênin là một yêu cầu cấp bách.
Và giải quyết được mâu thuẫn ngày càng gay gắt giữa trình độ xã hội hóa cao
của lực lượng sản xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất.
31.Nêu khái niệm quần chúng nhân dân. Phân tích vai trò của quần chúng
nhân dân trong lịch sử? Ý nghĩa của vấn đề này trong việc quán triệt bài
học “Lấy dân làm gốc”.
Trả lời:
- Khái niệm quần chúng nhân dân: Quần chúng nhân dân là bộ phận có cùng
chung lợi ích căn bản, bao gồm những thành phần, những tầng lớp và những
giai cấp, liên kết lại thành tập thể dưới sự lãnh đạo của một cá nhân, tổ chức hay
đảng phái nhằm giải quyết những vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội của một thời
đại nhất định.
- Vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử:
Quần chúng nhân dân là chủ thể sáng tạo chân chính ra lịch sử, giữ vai trò
quyết định đối với tiến trình lịch sử. Bởi vì: một lý tưởng giải phóng xã hội, giải
phóng con người chỉ được chứng minh thông qua sự tiếp thu và hoạt động của
quần chúng nhân dân. Hơn nữa tư tưởng, tự bản thân nó không làm biến đổi xã
hội mà phải thông qua hành động cách mạng, hoạt động thực tiễn của quần
chúng nhân dân, để biến lý tưởng, ước mơ thành hiện thực trong đời sống xã
hội.
Vai trò sáng tạo chân chính ra lịch sử của quần chúng nhân dân được biểu
hiện ở ba nội dung sau:
Thứ nhất, quần chúng nhân dân giữ vai trò quyết định trong sản xuất ra của
cải vật chất, đảm bảo cho xã hội tồn tại, phát triển.
Thứ hai, quần chúng nhân dân là động lực cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã
hội. Lịch sử nhân loại đã chứng minh rằng, không có cuộc chuyển biến cách
mạng nào mà không là hoạt động đông đảo của quần chúng nhân dân. Họ là lực
lượng cơ bản của cách mạng, đóng vai trò quyết định thắng lợi của mọi cuộc
cách mạng.
Thứ ba, quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra các giá trị văn hóa tinh
thần. Vì quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra đời sống vật chất thì cũng
quyết định đời sống tinh thần của xã hội. Triết học Mác không phủ nhận vai trò
của các danh nhân văn hóa, nhưng khẳng định vai trò quyết định của quần
chúng nhân dân. Quần chúng nhân dân đóng vai trò to lớn trong sự phát triển
của khoa học nghệ thuật, văn học đồng thời áp dụng những thành tựu đó vào
thực tiễn. Những sáng tạo về văn học, nghệ thuật, khoa học, y học, quân sự,
kinh tế, chính trị, đạo đức…của nhân dân vừa là cội nguồn, vừa là điều kiện để
thúc đẩy sự phát triển của nền văn hóa tinh thần của các dân tộc trong mọi thời
đại.
- Ý nghĩa của vấn đề này trong việc quán triệt bài học “Lấy dân làm gốc”:
Quan điểm "Lấy dân làm gốc” là một trong những bài học quan trọng, góp
phần làm nên những thành tựu to lớn, xuyên suốt chiều dài lịch sử, nhằm phát
huy vai trò làm chủ, sức sáng tạo và nguồn lực của Nhân dân trong sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ đất nước. Đảng Cộng sản Việt Nam đã kế thừa và vận dụng
thành công quan điểm này. Từ khi được thành lập cho đến nay, Đảng luôn xác
định cách mạng là sự nghiệp của quần chúng Nhân dân, do Nhân dân và vì
Nhân dân.
Quán triệt quan điểm “lấy dân làm gốc” trong đường lối lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam, đòi hỏi mỗi chúng ta cần thực hiện tốt một số vấn đề sau:
Một là, phát huy dân chủ trong Đảng, trong Nhân dân nhằm phát huy trí tuệ
của Nhân dân trong xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam. Để có
dân chủ rộng rãi trong Đảng, điều cốt yếu là nhận thức đúng đắn và thực hiện
nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ.
Hai là, quán triệt quan điểm “lấy dân làm gốc” cần đưa phương châm “dân
biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” vào hoạt
động chủ đạo thực tiễn nhằm thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội.
 
Ba là, xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh nhằm củng cố niềm tin của Nhân
dân đối với Đảng, đối với con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội
  Bởi vậy, dựa trên những lý luận về quần chúng nhân dân của chủ nghĩa Mác -
Lênin, giúp Đảng ta đề ra những chính sách phát huy tinh thần đoàn kết trong
quần chúng nhân dân, đảm bảo những yêu cầu, quyền lợi của quần chúng nhân
dân, phát huy những vai trò sáng tạo, năng động của quần chúng nhân dân trong
mọi lĩnh vực của đời sống – có như vậy mới quán triệt tốt quan điểm “ lấy dân
làm gốc”.

You might also like