You are on page 1of 19

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN


----------*****----------

BÀI TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC

Đề tài: Triết học và vai trò của triết học trong đời sống xã hội

Sinh viên thực hiện: Lê Tấn Anh


Mã sinh viên: 11190188
Lớp: POHE – Quản trị lữ hành K61
Giảng viên hướng dẫn: TS. Lê Ngọc Thông

Hà Nội, tháng 11 – 2019


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
----------*****----------

BÀI TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC

Đề tài: Triết học và vai trò của triết học trong đời sống xã hội

Hà Nội, tháng 11 – 2019


MỤC LỤC

A. LỜI MỞ ĐẦU......................................................1

B. NỘI DUNG CHÍNH

1. Những vấn đề chính liên quan đến triết học

1.1. Nguồn gốc của triết học............................................................2

1.2. Khái niệm triết học...................................................................3

1.3 Đối tượng của triết học và sự biến đổi đối tượng triết học qua các
giai đoạn lịch sử..............................................................................3

1.4. Đặc điểm của triết học..............................................................5

1.5. Chức năng của triết học...........................................................5

1.6. Những vấn đề cơ bản của triết học...........................................6

2. Vai trò của triết học trong đời sống xã hội

2.1. Vai trò thế giới quan...............................................................10

2.1. Vai trò phương pháp luận.......................................................11

2.3. Vai trò của triết học Mác – Lênin...........................................11

C. KẾT LUẬN........................................................13
A. LỜI MỞ ĐẦU

Trong giai đoạn toàn cầu hoá hiện nay, cái giúp cho con người vượt qua những
khó khăn, thử thách, giải thoát con người khỏi những thách đố và vướng mắc
của cuộc sống, đáp ứng nhu cầu thường nhật và lâu dài của nhân loại không chỉ
là kinh tế, kỹ thuật hiện đại và công nghệ cao, mà còn là triết học. Triết học
giúp cho con người tìm ra lời giải không chỉ cho những thách đố muôn thuở, mà
còn cho những vấn đề hoàn toàn mới do quá trình toàn cầu hoá đặt ra. Triết học
không chỉ giúp con người nhận thức rõ địa vị của mình, lối sống xứng đáng với
con người, mà còn giúp họ xác định mục tiêu và lý tưởng sống để từ đó, góp
phần biến đổi hiện thực nhằm phục vụ cho chính mình. Không chỉ thế, trong
giai đoạn toàn cầu hoá hiện nay, triết học còn giúp cho con người có được sự
định hướng đúng đắn trong hành động và củng cố quyết tâm hành động, đánh
giá đúng những biến động đang diễn ra, gợi mở cách đi, hướng giải quyết các
vấn đề  mà cuộc sống đang đặt ra. Trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay,
triết học cũng đang giữ một vụ trí vô cùng quan trọng. Chính vì lí do đó nên em
xin chọn đề tài “Triết học và vai trò của triết học trong đời sống xã hội” cho
bài tiểu luận lần này.
Nội dung của tiểu luận được trình bày theo 2 phần:
- Phần 1: Những vấn đề chung về Triết học
- Phần 2: Vai trò của Triết học trong đời sống xã hội

1
B. NỘI DUNG CHÍNH
1. Những vấn đề chính liên quan đến triết học
1.1. Nguồn gốc của triết học
- Do nhu cầu của cuộc sống ngày càng được nâng cao -> con người cần có tri
thức -> tích luỹ.
- Tri thức được chia thành 2 loại:
+ Tri thức cụ thể: là những tri thức liên quan đến Toán học, Vật lý, Hoá học…
+ Tri thức khái quát, trừu tượng: là những tri thức phản ánh về nhiều lĩnh vực
của thế giới. Những tri thức này được bao quát, mang tính chung nhất tạo thành
những tri thức phổ quát (hay còn gọi là tri thức triết học) -> bộ phận quan trọng
hình thành nên triết học.
 Triết học ra đời từ nhu cầu của cuộc sống với các nguồn gốc: nhận thức
và xã hội. Đây là những điều kiện cần và đủ để tạo nên triết học
+ Nhận thức: Trình độ nhận thức phát triển cao, con người có khả năng khái
quát -> tìm ra tri thức chung
+ Xã hội: Xã hội phát ngày càng phát triển, có sự phân công giữa lao động trí
óc và lao động chân tay. Bộ phận lao động trí óc sẽ nghiên cứu để tìm ra tri
thức và khái quát lại những tri thức ấy. Họ được gọi là những triết gia.
- Triết học ra đời xong xã hội cổ đại – xã hội chiếm hữu nô lệ và được gọi là
triết học cổ đại.
- Sau đó được gọi với những từ, những cái tên tương ứng

+ Ở phương Đông: 

Trung Quốc: Người Trung quốc cổ đại quan niệm “ triết” chính là “ trí”, là cách
thức và nghệ thuật diễn giải, bắt bẻ có tính lý luận trong học thuật nhằm đạt tới
chân lý tối cao. 

2
Ấn Độ: Theo người Ấn Độ, triết học được đọc là darshana, có nghĩa là chiêm
ngưỡng nhưng mang hàm ý là tri thức dựa trên lý trí, là con đường suy ngẫm để
dẫn dắt con người đến với lẽ phải. 

+ Ở phương Tây, thuật ngữ triết học xuất hiện ở Hy Lạp được la tinh hoá là
Philôsôphia - nghĩa là yêu mến, ngưỡng mộ sự thông thái. Như vậy Philôsôphia
vừa mang tính định hướng, vừa nhấn mạnh đến khát vọng tìm kiếm chân lý của
con người

 Dù ở phương Đông hay phương Tây, triết học được xem là hình thái cao
nhất của tri thức, nhà triết học là nhà thông thái có khả năng tiếp cận
chân lý, nghĩa là có thể làm sáng tỏ bản chất của mọi vật.

1.2. Khái niệm triết học


Triết học là hệ thống tri thức, quan điểm chung nhất của con người về thế
giới (tự nhiên, xã hội, tư duy); về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức; về vị trí,
vai trò của con người trong thế giới ấy.

1.3. Đối tượng của triết học và sự biến đổi đối tượng triết học qua
các giai đoạn lịch sử 
- Khi mới xuất hiện, Triết học Cổ đại còn được gọi là Triết học tự nhiên - bao
hàm trong nó tri thức về tất cả các lĩnh vực, không có đối tượng riêng. Đây là
nguyên nhân sâu xa làm nảy sinh quan niệm sau này cho rằng Triết học là khoa
học của mọi khoa học. 

- Thời kỳ Trung cổ, ở Tây Âu khi quyền lực của giáo hội Thiên chúa bao trùm
mọi lĩnh vực đời sống xã hội thì Triết học trở thành một bộ phận của thần học.
Triết học chỉ có nhiệm vụ lý giải và chứng minh cho sự đúng đắn của nội dung
trong kinh thánh. Triết học tự nhiên bị thay thế bởi nền Triết học kinh viện. 

- Từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 18, để đáp ứng yêu cầu của sản xuất công nghiệp, các
bộ môn khoa học chuyên ngành có tính chất là khoa học thực nghiệm đã ra đời

3
với tính cách là các khoa học độc lập. Triết học lúc này có tên gọi là Siêu hình
học - Khoa học hậu vật lý. Đối tượng của Triết học thời kỳ này là nghiên cứu
cái ẩn dấu, cái bản chất đằng sau các sự vật, hiện tượng “vật thể” có thể thực
nghiệm được. 

+ Triết học duy vật dựa trên cơ sở tri thức của khoa học thực nghiệm đã phát
triển nhanh chóng, đạt tới đỉnh cao mới với các đại biểu như Ph. Bây cơn,
T.Hốpxơ (Anh), Diđrô, Hen Vêtiúyt (Pháp), Xpinôda (Hà Lan)... 

+ Mặt khác, tư duy Triết học cũng được phát triển trong các học thuyết duy tâm
mà đỉnh cao là Triết học Hêghen. 

+ Song, cũng chính sự phát triển của các bộ môn khoa học độc lập chuyên
ngành cũng từng bước làm phá sản tham vọng của Triết học muốn đóng vai trò
“Khoa học của mọi khoa học”, mà Triết học Heghen là Triết học cuối cùng
mang tham vọng đó. Heghen xem Triết học của mình là một hệ thống phổ biến
của nhận thức, trong đó những ngành khoa học riêng biệt chỉ là những mắt khâu
phụ thuộc vào Triết học. 

- Đầu thế kỷ 19, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, cùng với sự chuyển biến
tính chất từ khoa học thực nghiệm sang khoa học lý thuyết là cơ sở khách quan
cho triết học đoạn tuyệt triệt để với quan niệm “khoa học của mọi khoa học”.
Triết học Mác - Triết học duy vật biện chứng ra đời thể hiện sự đoạn tuyệt đó.
Triết học Mác xít xác định đối tượng nghiên cứu của mình là tiếp tục giải quyết
mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trên lập trường duy vật biện chứng và
nghiên cứu những qui luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy. 

- Do tính đặc thù của Triết học là xem xét thế giới như một chỉnh thể và tìm
cách đưa ra một hệ thống lý luận về chỉnh thể đó.Và điều đó chỉ thực hiện được
bằng cách tổng kết toàn bộ lịch sử của khoa học, lịch sử của bản thân tư tưởng
Triết học. Cho nên, vấn đề tư cách khoa học của Triết học và đối tượng của nó
đã gây ra cuộc tranh luận kéo dài cho đến hiện nay. 

4
Tóm lại, cái chung trong các học thuyết Triết học từ cổ tới kim là nghiên cứu
những vấn đề chung nhất của giới tự nhiên, của xã hội và con người, mối quan
hệ của con người nói chung, của tư duy con người nói riêng với thế giới xung
quanh. 

1.4. Đặc điểm của triết học


- Mang tính hệ thống
- Mang tính lý luận, trừu tượng cao (được thế hiện bằng khái niệm, phạm trù,
nguyên lý -> phản ánh tính quy luật, cao hơn là quy luật)
- Có sự khác nhau giữa triết học và tôn giáo
Các bước để tìm ra sự khác biệt này:
Bước 1: Liệt kê các tôn giáo
Bước 2: Chỉ ra điểm chung
Bước 3: Đối chiếu với đặc tính chung của triết học
Triết học dựa trên cơ sở tri thức (dù đúng hay sai) còn tôn giáo dựa trên
cơ sở của lòng tin

1.5. Chức năng của triết học


Triết học có rất nhiều chức năng như:
- Giáo dục
- Thẩm mỹ (hướng con người sáng tạo, thưởng thức thức cái đẹp, những giá trị
chân chính) với 3 phạm trù: chân – thiện – mỹ - tam giác vàng của cái đẹp
- Tiếp cận với khoa học

Tuy nhiên ta cần chú trọng vào 2 chức năng chính là:
- Thế giới quan
+ Là toàn bộ những quan niệm của con người về thế giới, về bản thân con
người, về cuộc sống và vị trí của con người trong thế giới. 

5
+ Là sự hoà nhập giữa tri thức và niềm tin: Tri thức là cơ sở trực tiếp cho sự
hình thành thế giới quan; niềm tin định hướng cho hoạt động của con người, từ
đó tri thức trở thành niềm tin, niềm tin phải trên cơ sở tri thức. 
+ Các loại thế giới quan (phân chia theo sự phát triển):

+Thế giới quan huyền thoại: Là phương thức cảm nhận thế giới của người
nguyên thuỷ, có đặc điểm là các yếu tố tri thức và cảm xúc, lý trí và tín ngưỡng,
hiện thực và tưởng tượng, cái thật và cái ảo, cái thần và cái người hoà quyện
vào nhau thể hiện quan niệm về thế giới. 

+ Thế giới quan tôn giáo: Niềm tin tôn giáo đóng vai trò chủ yếu, tín ngưỡng
cao hơn lý trí, cái ảo lấn át cái thật, cái thần trội hơn cái người. 

+ Thế giới quan triết học diễn tả quan niệm dưới dạng hệ thống các phạm trù,
qui luật đóng vai trò như những bậc thang trong quá trình nhận thức. Như vậy,
Triết học được coi như trình độ tự giác trong quá trình hình thành phát triển của
thế giới quan. Triết học là hạt nhân lý luận của thế giới quan, đóng vai trò định
hướng, củng cố và phát triển thế giới quan của mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng
trong lịch sử. 

 Triết học - hạt nhân lý luận của thế giới quan 

- Phương pháp luận: nền tảng lý luận để xây dựng phương pháp -> rút ra ý
nghĩa phương pháp luận

1.6. Những vấn đề cơ bản của triết học


Là mối quan hệ giữa vật chất và ý thức. Chia thành 2 mặt:
- Bản thể luận: Trả lời cho câu hỏi “Giữa vật chất và ý thức cái nào tính số 1,
cái nào tính số 2”. Từ câu trả lời chia thành:
+ Chủ nghĩa duy vật
+ Chủ nghĩa duy tâm

6
- Nhận thức luận: Trả lời cho câu hỏi: “Có sư phù hợp giữa tri thức và đối tượng
được phản ánh hay không”. Từ câu trả lời chia thành:
+ Thuyết khả tri
+ Thuyết bất khả tri
 Vấn đề cơ bản của triết học là 1 bộ phận rất quan trọng trong đối tượng
của triết học.
 Đối tượng của triết học hiện nay:
+ Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
+ Các quy luật chung nhất trong sự vận động, tồn tại của tự nhiên, xã hội, tư
duy

Các quy luật Các quy


tự nhiên luật tư duy

Các quy luật


xã hội

Các quy luật triết học

 Phương pháp triết học: Là phương pháp tư duy, phương pháp nhận thức.
Trong lịch sử từng tồn tại 2 phươg pháp là biện chứng và siêu hình

7
Phương pháp siêu hình Phương pháp biện chứng

Thừa nhận đối tượng ở trạng thái cô Thừa nhận đối tượng qua các mối liên
lập,tách rời với các chỉnh thể khác và hệ của nó với các đối tượng khác
giữa các mặt đối lập nhau có một ranh và sự ảnh hưởng ràng buộc lẫn nhau
giới tuyệt đối. giữa chúng.

Thừa nhận đối tượng ở trạng thái Thừa nhận đối tượng ở trạng thái vận
tĩnh tại; nếu có biến đổi thì đấy chỉ là động biến đổi có khuynh hướng
biến đổi về mặt số lượng, nguyên chung là phát triển, có sự thay đổi về
nhân của mọi sự biến đổi nằm ngoài chất, mà nguyên nhân của mọi sự
đối tượng. biến đổi ấy là do nguồn gốc bên
trong đối tượng. Đó là sự đấu tranh
của các mặt đối lập.

Phương pháp siêu hình chỉ nhìn Phương pháp biện chứng không
thấysự vật riêng biệt mà không thấy chỉ thấy những sự vật cá biệt mà còn
mối liên hệ qua lại giữa chúng; chỉ thấy cả mối quan hệ qua lại giữa
thấy sự tồn tại mà không thấy quá chúng, không chỉ thấy sự tồn tại của
trình sự phát sinh và tiêu vong .(Về sự vật mà còn thấy cả sự sinh thành
bản chất là không hiểu được mối và sự tiêu vong của sự vật.- Phương
quan hệ giữa vận động và đứng im, pháp biện chứng thể hiện tư duy mềm
hay đứng im chỉ là một hình thức vận dẻo, linh hoạt trong sự phản ánh hiện
động đặc biệt).- Tư duy của nhà siêu thực,- Phương pháp biện chứng thừa
hình chỉ dựa trên những phản đề nhận trong những trường hợp cần
tuyệt đối không thể dung nhau được, thiết thì bên cạnh cái “ hoặc là.. hoặc

8
họ nói có là có, không là không. Đối là” còn có cái “vừa là... vừa là”; đối
với họ, một sự vật hoặc tồn tại hoặc tượng hay chỉnh thể trong lúc tồn tại
không tồn tại, một hiện tượng không là nó thì cũng đồng thời bao hàm sự
thể vừa là chính nó lại vừa là cái tồn tại không là nó; cái khẳng định và
khác, cái khẳng định và cái phủ định cái phủ định vừa loại trừ nhau vừa
tuyệt đối bài trừ lẫn nhau, v.v… gắn bó nhau. Do đó, nó phản ánh hiện
Nguồn gốc của phương pháp siêu thực ngày càng chân thực chính xác,
hình: Là bắt nguồn từ việc muốn nhận và nó trở thành công cụ hữu hiệu giúp
thức đối tượng, trước hết con người con người nhận thức và cải tạo thế
phải tách đối tượng ra khỏi những giới.
mối liên hệ và nhận thức nó ở trạng
thái không biến đổi trong một không
gian và thời gian xác định. Tuy
phương pháp đó là cần thiết và có tác
dụng trong một phạm vi nhất định,
nhưng thực tế thì hiện thực không rời
rạc và ngưng đọng như phương pháp
này quan niệm.

 Tóm lại, phương pháp siêu hình là phương pháp xem sét sự vật trong
trạng thái biệt lập, ngưng đọng với một tư duy cứng nhắc; còn phương
pháp biện chứng là phương pháp xét sự vật trong mối liên hệ ràng buộc
lẫn nhau và trong trạng thái vận động biến đổi không ngừng với tư duy
mềm dẻo, linh hoạt. 

2. Vai trò của triết học trong đời sống xã hội

9
2.1. Vai trò thế giới quan
- Tồn tại trong mối quan hệ với thế giới xung quanh, dù muốn hay không con
người cũng phải nhận thức thế giới và nhận thức bản thân mình. Những tri thức
này cùng với niềm tin vào nó dần dần hình thành nên thế giới quan. 

- Thế giới quan là nhân tố định hướng cho quá trình hoạt động sống của con
người. Thế giới quan như một “thấu kính” qua đó con người xác định mục đích,
ý nghĩa cuộc sống và lựa chọn cách thức đạt mục đích đó. 

- Trình độ phát triển của thế giới quan là tiêu chí quan trọng về sự trưởng thành
của mỗi cá nhân cũng như mỗi cộng đồng nhất định. 

- Triết học ra đời với tư cách là hạt nhân lý luận của thế giới quan, làm cho thế
giới quan phát triển như một quá trình tự giác dựa trên sự tổng kết kinh nghiệm
thực tiễn và tri thức do các khoa học đưa lại. Đó là chức năng thế giới quan của
triết học. 

- Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm là cơ sở lý luận của hai thế giới quan
cơ bản đối lập nhau. Chính vì vậy chúng đóng vai trò là nền tảng thế giới quan
của các hệ tư tưởng đối lập. Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa
duy tâm trong triết học biểu hiện bằng cách này hay cách khác cuộc đấu tranh
giữa những giai cấp, những lực lượng xã hội đối lập nhau. 

 Do vậy

+ Thế giới quan đúng đắn là tiền đề để xác lập nhân sinh quan tích cực giúp
cho con người sáng tạo trong hoạt động. 

+ Thế giới quan sai lầm làm cho con người sống thụ động hoặc sai lệch trong
hoạt động.

+ Việc nghiên cứu triết học giúp ta định hướng hoàn thiện thế giới quan.

2.2. Vai trò phương pháp luận

10
- Phương pháp luận là lý luận về phương pháp; là hệ thống quan điểm có tính
nguyên tắc chỉ đạo việc tìm tòi, xây dựng, lựa chọn và vận dụng các phương
pháp.

- Triết học thực hiện chức năng phương pháp luận chung nhất 

+ Tri thức triết học là hệ thống tri thức chung nhất về thế giới và vai trò con
người trong thế giới, nghiên cứu các qui luật chung nhất chi phối cả tự nhiên, xã
hội và tư duy. 

+ Mỗi luận điểm triết học đồng thời là một nguyên tắc trong việc xác định
phương pháp, là lý luận về phương pháp. 

 Việc nghiên cứu triết học giúp ta có được phương pháp luận chung nhất,
trở nên năng động sáng tạo trong hoạt động phù hợp với xu thế phát
triển chung. 

2.3. Vai trò của triết học Mác – Lênin


- Triết học Mác - Lênnin kế thừa và phát triển những thành tựu quan trọng nhất
của tư duy triết học nhân loại. Nó được C.Mác và Ph. Ăngghen sáng tạo ra và
V.I.Lênin phát triển một cách xuất sắc. Đó là chủ nghĩa duy vật biên chứng
trong việc xem xét giới tự nhiên cũng như xem xét đời sống xã hội và tư duy
con người. 

- Với tư cách là một hệ thống nhận thức khoa học có sự thống nhất hữu cơ giữa
lý luận và phương pháp: triết học Mác-Lênin như Lê nin nhận xét: “Là một chủ
nghĩa duy vật triết học hoàn bị” và “là một công cụ nhận thức vĩ đại”, triết học
Mác-Lênin là cơ sở triết học của một thế giới quan khoa học, là nhân tố định
hướng cho hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn, là nguyên tắc xuất phát
của phương pháp luận. 

- Trong triết học Mác - Lênin, lý luận và phương pháp thống nhất hữu cơ với
nhau. Chủ nghĩa duy vật là chủ nghĩa duy vật biện chứng và phép biện chứng là
phép biện chứng duy vật. Sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật và phép biện
11
chứng làm cho chủ nghĩa duy vật trở nên triệt để, và phép biện chứng trở thành
lý luận khoa học; nhờ đó triết học mácxít có khả năng nhận thức đúng đắn cả
giới tự nhiên cũng như đời sống xã hội và tư duy con người. 

- Nắm vững triết học triết học Mác-Lênin không chỉ là tiếp nhận một thế giới
quan đúng đắn mà còn là xác định một phương pháp luận khoa học. Nguyên tắc
khách quan trong sự xem xét đòi hỏi phải biết phân tích cụ thể theo tinh thần
biện chứng, đồng thời nó ngăn ngừa thái độ chủ quan tuỳ tiện trong việc vận
dụng lý luận vào hoạt động thực tiễn. 

- Trong quan hệ với các khoa học cụ thể, mối quan hệ giữa triết học Mác- Lênin
và các khoa học cụ thể là mối quan hệ biện chứng, cụ thể là: các khoa học cụ
thể là điều kiện tiên quyết cho sự phát triển của triết học. Đến lượt mình, triết
học Mác- Lênin cung cấp những công cụ phương pháp luận phổ biến, định
hướng sự phát triển của các khoa học cụ thể. Mối quan hệ này càng đặc biệt
quan trọng trong kỷ nguyên cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ. 

 Chính vì vậy, để đẩy mạnh phát triển khoa học cụ thể cũng như bản thân
triết học, sự hợp tác chặt chẽ giữa những người nghiên cứu lý luận triết
học và các nhà khoa học khác là hết sức cần thiết. Điều đó đã được
chứng minh bởi lịch sử phát triển của khoa học và bản thân triết học. 
 Ngày nay trong kỷ nguyên cách mạng khoa học công nghệ, sự gắn bó
càng trở nên đặc biệt quan trọng. Trong kỷ nguyên này, cuộc đấu tranh
chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm không bị thủ tiêu mà vẫn tiếp tục
diễn ra với những nội dung và hình thức biểu hiện mới. Trong tình hình
đó, lý luận triết học sẽ trở nên khô cứng và lạc hậu, nếu không được phát
triển dựa trên sự khái quát khối tri thức hết sức lớn lao của khoa học
chuyên ngành. Ngược lại, nếu không đứng vững trên lập trường duy vật
khoa học và thiếu tư duy biện chứng thì đứng trước những phát hiện mới
mẻ người ta có thể mất phương hướng và đi đến kết luận sai lầm về triết
học. 

12
- Đã từng có hai thái cực trái ngược nhau khi đánh giá vai trò của triết học trong
cuộc sống.
+ Thái cực thứ nhất coi thường vai trò của triết học vì cho rằng:
Triết học nghiên cứu và giải quyết những vấn đề quá chung nên những kết quả
nghiên cửu của nó không có tác dụng thiết thực gì hết,
Triết học không có phương pháp và trang thiết bị nghiên cứu riêng của mình
như của khoa học tự nhiên nên tính chân lý của các kết quả nghiên cứu triết học
không được bảo đảm.
+ Thái cực thứ hai, ngược lại, lại tuyệt đối hoá vai trò của triết học, cho rằng chỉ
cần nắm được triết học thì sẽ giải quyết được tất cả các vấn đề cụ thể của cuộc
sống.
 Để có thể giải quyết một cách có hiệu quả những vấn đề cụ thể hết sức
phức tạp và vô cùng đa dạng của cuộc sống, chúng ta cần tránh cả hai
thái cực sai lầm: hoặc là xem thường triết học và do đó sẽ sa vào tình
trạng mò mẫm, tuỳ tiện, dễ bằng lòng với những biện pháp cụ thể, nhất
thời, đi đến chỗ mất phương hướng, thiếu nhìn xa trông rộng, thiếu chủ
động và sáng tạo trong công việc; hoặc là tuyệt đối hoá vai trò của triết
học và do đó sẽ sa vào tình trạng áp dụng một cách máy móc những
nguyên lý, những quy luật, những tri thức triết học chung mà không tính
đến tình hình cụ thể đó không nắm được tình hình cụ thể đó trong từng
trường hợp cụ thể, hậu quả là sẽ khó tránh khỏi bị thất bại.

C. Kết luận

Nghiên cứu khái niệm và nguồn gốc của triết học cho chúng ta hiểu được Triết
học là hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người về thế giới; về vị trí
vai trò của con người trong thế giới đó. Triết học đóng vai trò hạt nhân lý luận

13
của thế giới quan, giữ vai trò định hướng cho quá trình củng cố và phát triển thế
giới quan của mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng người trong lịch sử. 

Nghiên cứu vấn đề cơ bản của triết học cho chúng ta hiểu được sự hình thành
các trường phái triết học duy vật và duy tâm trong lịch sử, cũng như hai phương
pháp nghiên cứu đối lập nhau trong lịch sử là phương pháp siêu hình và phương
pháp biện chứng, giúp chúng ta xây dựng được phương pháp biện chứng trong
nhận thức và cải tạo thế giới. 

Với chức năng thế giới quan và phương pháp luận, triết học trở thành công cụ
đắc lực trong hoạt động chế ngự thiên nhiên và sự nghiệp giải phóng con người
của những lực lượng xã hội tiến bộ.

14
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Giáo trình triết học Mác – Lênin

2. Giáo trình những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin

3. https://voer.edu.vn/m/triet-hoc-va-vai-tro-cua-no-trong-doi-song-
xa-hoi/6545486d

4.
https://www.chungta.com/nd/tu-lieu-tra-cuu/triet_hoc_co_the_dong_
vai_tro_gi_trong_cuoc_song-e.html

5. http://philosophy.vass.gov.vn/nghien-cuu-theo-chuyen-de/Chinh-
tri-Xa-hoi/Ve-vai-tro-cua-triet-hoc-trong-giai-doan-toan-cau-hoa-
hien-nay-313.html

6. http://philosophy.vass.gov.vn/nghien-cuu-theo-chuyen-de/Triet-
hoc-Viet-Nam/Triet-hoc-co-the-dong-vai-tro-gi-trong-cuoc-song-
306.html

7. https://vi.wikipedia.org/wiki/Triết_học

15
16

You might also like