You are on page 1of 102

I.

CHƯƠNG TRÌNH MÔN TRIẾT HỌC


Dùng cho học viên cao học và nghiên cứu sinh không thuộc chuyên ngành
triết học
Ban hành theo Quyết định số 33/2004/QĐ-BGD&ĐT ngày 28/9/2004
của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo
 
Chươn Nội dung Tiết
g
I Triết học và vai trò của triết học 2
trong đời sống xã hội
II Khái lược lịch sử triết học 10
phương Đông
III Khái lược lịch sử triết học 10
phương Tây
IV Khái lược lịch sử triết học Mác - 12
Lênin
V Chủ nghĩa duy vật biện chứng- 8
cơ sở lý luận của thế giới quan
khoa học
VI Phép biện chứng duy vật- phương 10
pháp luận nhận thức khoa học và
thực tiễn
VII Nguyên tắc thống nhất giữa lý 6
luận với thực tiễn của triết học
Mác-Lênin
VIII Lý luận Hình thái kinh tế - xã hội 12
và con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam
IX Giai cấp, dân tộc, nhân loại trong 6
thời đại hiện nay và vận dụng
vào sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam
X Lý luận về nhà nước và nhà nước 7
pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam
XI Quan điểm của triết học Mác - 7
Lênin về con người và vấn đề
xây dựng con người Việt Nam
hiện nay

1
Chương trình gồm 11 chương, 6 đvht (90 tiết)

2
II. ĐỀ CƯƠNG CHI TIẾT MÔN TRIẾT HỌC
(Biên soạn theo Giáo trình Triết học dùng cho học viên cao học và nghiên cứu sinh
không thuộc chuyên ngành triết học của Bộ Giáo dục và Đào tạo
do Nxb, Lý luận Chính trị, Hà Nội, ấn hành năm 2006)
 
CHƯƠNG I. TRIẾT HỌC VÀ VAI TRÒ CỦA TRIẾT HỌC TRONG ĐỜI
SỐNG XÃ HỘI
PGS.TS. Đoàn Quang Thọ,
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội.
-----------------------
Người trình bày: Tiến sỹ Nguyễn Thái Sơn, Đại học Quốc gia Hà Nội.
Điện thoại 0913541171.
Đối tượng: Học viên cao học ngành Kinh tế.
Thời lượng: 0 tiết trên lớp, 2 tiết tự học.
            Thời gian: 17g30 ngày 11/12/06.
Địa điểm: Hội trường 8, Nhà B4, Trường Đại học Ngoại ngữ.
-----------------------
I. KHÁI NIỆM TRIẾT HỌC VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU CỦA TRIẾT
HỌC
            1. Khái niệm triết học
- Khái niệm triết học.
+ Người Hy Lạp cổ đại gọi triết học là philosophia, ghép từ hai từ philos-
tình yêu và sophia- sự thông thái. Như vậy, theo nghĩa đen, triết học là tình yêu sự
thông thái. Nhà triết học là nhà thông thái bởi nó có khả năng làm sáng tỏ bản chất
của sự vật, hiện tượng bằng hệ thống khái niệm, phạm trù và quy luật.
+ Triết học xuất hiện cả ở phương Đông và phương Tây vào khoảng từ thế
kỷ VIII - VI trước Công nguyên (tr.c.n) tại một số nền văn minh cổ đại như Trung
Quốc, Ấn Độ, Ai Cập, trung Đông v.v, nhưng triết học kinh điển chỉ phát triển ở
Hy Lạp cổ đại.
- Định nghĩa triết học. Triết học là hệ thống tri thức lý luận chung nhất của
con người về thế giới; về vị trí, vai trò của con người trong thế giới ấy.
            2. Đối tượng nghiên cứu của triết học
- Triết học thời cổ đại được gọi là khoa học của mọi khoa học. Triết học tự
nhiên là hình thức đầu tiên của triết học.
- Triết học thời Trung cổ được gọi là triết học Kinh viện với nhiệm vụ lý giải
và chứng minh cho sự đúng đắn của các giáo điều Kinh Thánh.

3
- Triết học thời Phục hưng và Cận đại được gọi là siêu hình học với nghĩa là
nền tảng thế giới quan của con người.
- Triết học Mác-Lênin là khoa học nghiên cứu những quy luật chung nhất về
sự vận động, phát triển của các sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy;
đồng thời tiếp tục làm rõ vấn đề về mối quan hệ giữa tư duy với tồn tại.
II. TÍNH QUY LUẬT VỀ SỰ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN CỦA TRIẾT HỌC
            Sự hình thành, phát triển của triết học gắn với tiền đề kinh tế - xã hội và
tiền đề nhận thức.
1. Tiền đề kinh tế - xã hội. Triết học ra đời khi xã hội đã có sự phân công
lao động thành lao động trí óc và lao động chân tay; gắn liền với cuộc đấu tranh
giai cấp.
2. Tiền đề nhận thức. Triết học ra đời khi tư duy con người đã đạt đến trình
độ khái quát nhất định để đáp ứng nhu cầu nhận thức tổng thể về thế giới và con
người; khi các thành tựu của khoa học chuyên ngành đã có vai trò nhất định đối
với nội dung các tư tưởng và học thuyết triết học. Có thể khẳng định rằng, triết học
ra đời từ thực tiễn, do nhu cầu của thực tiễn quy định.
III. VAI TRÒ CỦA TRIẾT HỌC TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI
            1. Vai trò thế giới quan và phương pháp luận của triết học
- Vai trò thế giới quan của triết học.
+ Định nghĩa. Thế giới quan là quan niệm của con người về thế giới và về vị
trí, vai trò của con người trong thế giới đó.
+ Triết học là hạt nhân lý luận của thế giới quan, bởi triết học mô tả những
vấn đề của thế giới quan bằng hệ thống các khái niệm và phạm trù, quy luật. Hơn
nữa, triết học không chỉ nêu ra các quan điểm của mình mà còn chứng minh cho
các quan điểm đó bằng lý tính. Thông qua thế giới quan triết học, thế giới quan sẽ
được thể hiện qua các quan điểm về kinh tế, chính trị, đạo đức, pháp luật, tôn giáo
v...v
+ Các cấp độ thế giới quan.
Thế giới quan có nhiều cấp độ khác nhau như thế giới quan huyền thoại; thế
giới quan tôn giáo; thế giới quan triết học (thế giới quan duy vật và thế giới quan
duy tâm); thế giới quan khoa học và thế giới quan không khoa học v.v. Việc xác
định cấp độ, nội dung thế giới quan phụ thuộc vào vấn đề, liệu lợi ích giai cấp có
phù hợp khách quan đối với xu hướng của sự phát triển lịch sử, với khoa học và
với thực tiễn xã hội hay không.
            + Vai trò của thế giới quan triết học đối với nhận thức và thực tiễn.
Bản chất của thế giới quan là sự thống nhất biện chứng giữa nhận thức -
đánh giá với thực tiễn - cải tạo; đưa lại cho con người khả năng tạo ra các mục
đích xác định, đưa ra kế hoạch, lý tưởng chung của cuộc sống, làm cho thế giới
quan có sức mạnh hiện thực.
- Vai trò phương pháp luận của triết học.
4
            + Định nghĩa. Phương pháp luận là hệ thống các quan điểm, nguyên tắc
xuất phát chỉ đạo chủ thể trong việc xác định phương pháp cũng như xác định
phạm vi, khả năng áp dụng phương pháp hợp lý, có hiệu quả tối đa.
            + Các cấp độ phương pháp luận.
            Phương pháp luận có nhiều cấp độ khác nhau như phương pháp luận ngành
là phương pháp luận của các ngành khoa học cụ thể; phương pháp luận chung là
các quan điểm, nguyên tắc chung hơn cấp độ ngành, dùng để xác định phương
pháp hay phương pháp luận của nhóm ngành có đối tượng nghiên cứu chung nào
đó; phương pháp luận chung nhất (phương pháp luận triết học) khái quát các quan
điểm, nguyên tắc chung nhất làm cơ sở cho việc xác định các phương pháp luận
ngành, chung và các phương pháp hoạt động cụ thể của nhận thức và thực tiễn.
            + Vai trò của phương pháp luận triết học đối với nhận thức và thực tiễn thể
hiện ở chỗ nó chỉ đạo sự tìm kiếm, xây dựng; lựa chọn và vận dụng các phương
pháp để thực hiện hoạt động nhận thức và thực tiễn; đóng vai trò định hướng trong
quá trình tìm tòi, lựa chọn và vận dụng phương pháp.
           
2. Vai trò của triết học đối với các khoa học chuyên ngành và tư duy lý
luận
            - Vai trò của triết học đối với các khoa học chuyên ngành.
            Sự hình thành, phát triển của triết học gắn với sự khái quát những thành tựu
phát triển của khoa học chuyên ngành. Ngược lại, triết học đóng vai trò là thế giới
quan và phương pháp luận cho khoa học chuyên ngành; là cơ sở lý luận cho việc
đánh giá các thành tựu mà khoa học chuyên ngành đạt được; vạch ra phương
hướng, chỉ ra phương pháp cho việc nghiên cứu của các khoa học đó.
- Triết học có vai trò to lớn đối với việc rèn luyện năng lực tư duy lý luận
của con người, bởi “một dân tộc muốn đứng vững trên đỉnh cao của khoa học thì
không thể không có tư duy lý luận”./.

5
CHƯƠNG II. KHÁI LƯỢC LỊCH SỬ TRIẾT HỌC PHƯƠNG ĐÔNG
PGS.TS. Trần Văn Thuỵ, Trường Đại học Y Hà Nội,
TS. Phạm Văn Sinh, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội.
-----------------------
Người trình bày: Tiến sỹ Trần Đăng Sinh, Chủ nhiệm Bộ môn Triết
học, Khoa Giáo dục Chính trị, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Điện thoại
0912206853.
Đối tượng: Học viên cao học ngành Kinh tế, Sư phạm v.v.
Thời lượng: 8 tiết trên lớp, 2 tiết tự học (Giảng viên nêu những vấn đề
tự học).
            Thời gian: 17g30 các tối thứ 5 (14/12), thứ 7 (16/12) và thứ 2
(18/12/2006).
Địa điểm: Hội trường 8, Nhà B4, Trường Đại học Ngoại ngữ.
-----------------------
I. TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ CỔ, TRUNG ĐẠI
1. Điều kiện ra đời, phát triển và đặc thù của triết học Ấn Độ cổ, trung đại
            a. Điều kiện ra đời của triết học Ấn Độ cổ, trung đại
            - Điều kiện tự nhiên.
            Ấn Độ là bán đảo lớn ở nam Á, có điều kiện tự nhiên và khí hậu rất phức
tạp, địa hình có nhiều núi (Hymalaya ở phía Bắc quanh năm tuyết phủ), nhiều sông
(sông Hằng chảy về phía Đông, sông Ấn chảy về phía Tây) với những đồng bằng
trù phú; có vùng khí hậu nóng ẩm, mưa nhiều, có vùng sa mạc khô cằn, nóng nực.
Tính khắc nghiệt của điều kiện tự nhiên và khí hậu là những thế lực đè nặng lên
cuộc sống và ghi dấu ấn đậm nét lên tâm trí người Ấn Độ cổ, trung đại.
- Điều kiện kinh tế - xã hội và văn hoá. Xã hội Ấn Độ cổ đại là xã hội mang
tính chất công xã nông nghiệp với sự phân chia đẳng cấp hết sức nghiệt ngã. Nền
văn hoá Ấn Độ cổ, trung đại thường được chia thành ba giai đoạn chính.
b. Quá trình hình thành, phát triển của triết học tôn giáo Ấn Độ cổ,
trung đại
- Giai đoạn từ thế kỷ XV - VIII tr.c.n gọi là nền văn minh sông Ấn hay còn
gọi là nền văn minh Vệđà (Véda).
+ Đây là nền văn minh đồ đồng mang tính chất đô thị của một xã hội đã vượt
qua trình độ nguyên thuỷ, đang tiến vào giai đoạn đầu của chế độ chiếm hữu nô lệ,
trong đó nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và thương nghiệp đã đạt tới một trình
độ nhất định. Kinh tế bao gồm nông nghiệp, thương nghiệp; nghề dệt bông len, đúc
đồng, điêu khắc, gốm sứ tráng men, làm đồ nữ trang phát triển. Thành phố được
xây bằng gạch nung. Xã hội đã phân chia giàu, nghèo; xuất hiện chữ viết; thờ Thần

6
Shiva. Đầu thiên niên kỷ II tr.c.n, nền văn minh này lụi tàn nhưng chưa rõ nguyên
nhân.
            + Đây là thời kỳ hình thành các quốc gia chiếm hữu nô lệ đầu tiên của
người Arya ở phía Bắc và cũng là thời kỳ rực rỡ nhất của nền văn minh Ấn Độ cổ
đại. Bộ lạc Arya tràn xuống châu thổ sông Hằng. Hình thành nhiều tôn giáo có ảnh
hưởng lớn đến cuộc sống của xã hội Ấn Độ cổ đại. Xuất hiện chế độ đẳng cấp dựa
trên sự phân biệt về chủng tộc, màu da, dòng dõi, nghề nghiệp, tôn giáo, quan hệ
giao tiếp, tập tục hôn nhân v.v. Tiêu biểu về mặt tư tưởng cho sự phân chia đẳng
cấp xã hội là đạo Bàlamôn, quy định cơ cấu xã hội và có ảnh hưởng lớn đến hình
thái tư tưởng Ấn Độ cổ đại. Việc phân chia xã hội thành những đẳng cấp với
những tính chất khắt khe, nghiệt ngã đã ảnh hưởng lớn đến đời sống của nông dân,
thương nhân, thợ thủ công thành thị, ngăn cản sự phát triển của sản xuất xã hội;
dẫn xã hội đến sự bất bình đẳng, tự do gây nên cuộc đấu tranh của các tôn giáo
chống lại sự thống trị của Đạo Bàlamôn và Kinh Vệđà.    
- Giai đoạn từ thế kỷ VI tr.c.n - VI, là thời kỳ cổ điển, hay còn gọi là thời kỳ
Bàlamôn - Phật giáo. Đây là thời kỳ hình thành các trào lưu triết học tôn giáo lớn
của Ấn Độ, gồm hai trường phái lớn đối lập nhau. Trường phái triết học chính
thống (thừa nhận uy quyền tuyệt đối của kinh Véda) gồm 6 phái là Sámkhuya,
Mimànsa, Vedànta, Yoga, Nyanya và Vaisésika. Trường phái triết học không chính
thống (không thừa nhận uy quyền của kinh Véda) gồm 3 trường phái là Jaina giáo,
đạo Phật và Lokayàta.
Sự phát triển của các tư tưởng triết học Ấn Độ cổ đại không chỉ gắn liền với
việc giải quyết những vấn đề do đời sống xã hội đặt ra mà còn luôn gắn liền với
những tiến bộ của khoa học. Ngay từ thời Vệđà khoa học tự nhiên bắt đầu xuất
hiện như Thiên văn học (tạo ra lịch pháp, phỏng đoán trái Đất hình cầu và tự quay
quanh trục của nó); cuối thế kỷ V tr.c.n đã giải thích được hiện tượng nhật, nguyệt
thực; phát minh ra chữ số thập phân; tính được số p; biết được những định luật cơ
bản về quan hệ giữa cạnh với đường huyền của tam giác vuông, giải được phương
trình bậc 2, 3; y học phát triển (trong kinh Vệđà người ta thấy tên và cách sử dụng
nhiều cây thuốc để chữa bệnh); nghệ thuật kiến trúc Ấn Độ để lại phong cách độc
đáo, đặc biệt là lối xây dựng Chùa, tháp Phật vừa có ý nghĩa triết học, tôn giáo vừa
biểu hiện ý chí, vương quyền. Những năm đầu công nguyên, văn hoá Ấn Độ đã
phát triển lên một bước mới do sự giao lưu với Hy Lạp - La Mã và với các nước
khác trên thế giới.
            - Giai đoạn từ thế kỷ VII - XVIII, là thời kỳ sau cổ điển hay còn gọi là thời
kỳ xâm nhập của Hồi giáo.
            + Từ thế kỷ VII, Đạo Hồi xâm nhập vào Ấn Độ, tạo nên cuộc cạnh tranh
ảnh hưởng quyết liệt giữa đạo Phật, đạo Bàlamôn và đạo Hồi.
+ Đạo Phật suy yếu dần, còn đạo Bàlamôn chuyển thành đạo Hinđu vào thế
kỷ XII.
7
2. Một số nội dung triết học Ấn Độ cổ, trung đại
            a. Tư tưởng bản thể luận
            - Bản thể luận thần thoại, tôn giáo.
+ Người Ấn Độ cổ đại tạo nên các vị thần có tính tự nhiên. Có những vị
tượng trưng cho sức mạnh của lực lượng tự nhiên; có những vị dùng các vị thần để
lý giải các hiện tượng xã hội, luân lý, đạo đức. Trong vũ trụ tồn tại thiên giới, trần
thế và địa ngục, giữa chúng có mối liên hệ với nhau. Các thần khác nhau là sự thể
hiện khác nhau của một Thượng Đế toàn năng duy nhất. Người Ấn Độ cổ đại cúng
thần không chỉ vì mê tín, mà còn vì lòng tin; qua biểu tượng các vị thần họ phân
tích, lý giải các hiện tượng tự nhiên, sự thay đổi của vũ trụ theo nguyên lý thích
hợp (rita) do các thần chi phối.
            + Về sau, quan niệm về các vị thần có tính chất tự nhiên được thay thế bằng
Thần sáng tạo tối cao (Brahman) và Tinh thần tối cao (Bahman). Brahman đối lập
với thần huỷ diệt Shiva. Shiva đối lập với thần bảo vệ Vishnu. Sáng tạo, huỷ diệt
và bảo tồn là ba mặt thống nhất trong quá trình biến hoá của vũ trụ. Như vậy, quá
trình hình thành, phát triển tư tưởng triết học tôn giáo đi từ sự giải thích các sự vật,
hiện tượng tự nhiên thông qua các vị thần cụ thể tới cái chung, cái bản chất là Thần
sáng tạo tối cao hay Tinh thần tối cao và đó là bước chuyển thế giới quan, từ thần
thoại tôn giáo sang triết học.
            - Tư duy triết học về bản thể luận.
+ Nội dung cơ bản của kinh Upanisad (có tài liệu viết Upanishad có nghĩa là
ngồi nghiêm trang để cùng giảng giải lý thuyết cao siêu, huyền bí với thầy) là cơ sở
triết lý cho đa số các hệ thống triết học tôn giáo Ấn Độ. Theo đó, Brahman là thực
tại đầu tiên, tối cao nhất; là bản nguyên, căn nguyên, là linh hồn, là nguồn sống, là
bản chất nội tại của mọi cái. Sự vật, hiện tượng dù đa dạng, phong phú đến mấy, kể
cả con người, đều là các dạng của Brahman. Linh hồn con người (Atman) cũng là
một bộ phận của Brahman, còn cơ thể (nhục thể) con người là vỏ bọc của linh hồn,
nhưng do con người lầm tưởng linh hồn là cái khác với Linh hồn tối cao nên ham
muốn dục vọng và hành động để thoả mãn dục vọng đó, gây ra hậu quả, gieo đâu
khổ cho kiếp này và kiếp sau (gọi là nghiệp báo). Do vậy, linh hồn cứ bị giam hãm
hết trong thể xác này rồi trong thể xác kia, luân hồi mãi mà không trở về với mình
là Brahman được. Muốn linh hồn được giải thoát khỏi nghiệp báo, luân hồi; thoát
khỏi đời sống nhục dục để quay về với mình là Brahman, con người phải toàn tâm,
toàn ý tu luyện hành động và tu luyện tri thức để siêu thoát.
+ Kinh Upanisad chia nhận thức Bản thể tuyệt đối tối cao của vũ trụ thành
trình độ nhận thức hạ trí gồm các tri thức khoa học thực nghiệm, ngữ pháp, luật
học, bốn tập kinh Vệđà dùng để phản ánh sự vật, hiện tượng hữu hình, hữu hạn;
trình độ nhận thức này là phương tiện để đạt tới trình độ nhận thức thượng trí.
Trình độ nhận thức thượng trí có thể nhận biết được Brahman và khi đã nhận biết

8
được Brahman, nhận thức được chân tướng của các sự vật, hiện tượng và chân tính
của mình thì con người đạt đến giác ngộ, giải thoát
            b. Tư tưởng giải thoát của triết học tôn giáo Ấn Độ
            Vấn đề cơ bản nhất trong triết học Ấn Độ cổ, trung đại là bản chất, ý nghĩa
cuộc sống; là nguồn gốc nỗi khổ của con người và con đường, cách thức giải thoát
con người khỏi bể khổ. Giải thoát là giải thoát trạng thái tinh thần, tâm lý, đạo đức
của con người thoát khỏi sự ràng buộc của thế giới trần tục và nỗi khổ của cuộc
đời; giải thoát khỏi luân hồi- nghiệp chướng của con người.
            - Cội nguồn của tư tưởng giải thoát là do điều kiện tự nhiên, hoàn cảnh kinh
tế - xã hội quy định; do tính hướng nội, đi sâu khái quát đời sống tâm linh của con
người của các nhà tư tưởng Ấn Độ cổ, trung đại.
- Trong các trường phái triết học khác nhau, phương tiện, con đường, cách
thức có thể khác nhau, nhưng đều có mục đích chung là giải thoát con người khỏi
luân hồi- nghiệp chướng.
+ Tư tưởng giải thoát manh nha từ thời Rig Vệđà (1500 - 1000 tr.c.n) đến
Brahman (1000 - 800 tr.c.n) và phát triển trong kinh Upanisad (800 - 500 tr.c.n) và
được các trường phái triết học thời kỳ Bàlamôn - Phật giáo (VI tr.c.n - VI) khai
thác. Nội dung triết lý, khuynh hướng giáo lý và quan điểm đạo đức nhân sinh
khác nhau, nhưng dường như tất cả các trường phái đều tìm kiếm, phát hiện và trở
về với bản chất và lương tâm của chính mình khi con người lãng quên chúng bởi
còn vô minh, tham dục.
+ Cách thức và con đường giải thoát của các trường phái triết học khác
nhau; Kinh Vệđà tôn thờ và cầu xin sự phù hộ của thần linh; kinh Upanisad đồng
nhất giữa linh hồn con người (Atman) với vũ trụ (Brahman); Mimànsa giải thoát
bằng nghi thức tế tự và chấp hành nghĩa vụ xã hội, tôn giáo; Yôga giải thoát bằng
tu luyện về thể xác; Jaina giải thoát bằng tu luyện đạo đức (không sát sinh, không
ăn cắp, không nói dối, không dâm dục, không tham lam); Lokayàta giải thoát bằng
cách phủ nhận quan điểm linh hồn bất tử, nghiệp chướng luân hồi, chấp nhận cuộc
sống có hạnh phúc và có đau khổ; đạo Phật giải thoát bằng tu luyện trí tuệ, thiền
định và tu luyện đạo đức theo giới luật để diệt trừ tham dục, tâm hồn thanh tịnh,
hoà nhập vào niết bàn.
Như vậy, tư tưởng giải thoát trong triết học Ấn Độ cổ, trung đại thể hiện tính
nhân văn sâu sắc. Tuy mới chỉ giải thoát về mặt tư tưỏng nhưng tư tưởng giải thoát
đó đã phản ánh những yêu cầu của đời sống xã hội Ấn Độ đương thời.
3. Đặc điểm cơ bản của triết học Ấn Độ cổ, trung đại
- Triết học Ấn Độ cổ, trung đại đã lý giải căn nguyên của vũ trụ; các học
thuyết kế thừa tư tưởng của nhau, tạo nên những khái niệm, phạm trù triết học - tôn
giáo cơ bản, mang tính truyền thống, chịu sự chi phối mạnh mẽ của kinh Vệđà và
các tôn giáo lớn của Ấn Độ cổ, trung đại.

9
- Triết học Ấn Độ cổ, trung đại có nội dung tư tưởng và hình thức đa dạng,
phản ánh đời sống xã hội Ấn Độ đương thời; hầu hết các trường phái triết học Ấn
Độ cổ, trung đại đều tập trung lý giải bản chất đời sống tâm linh; tìm căn nguyên
nỗi khổ của cuộc đời, chỉ ra cách thức, con đường để giải thoát khỏi những nỗi khổ
đó.
- Triết học Ấn Độ cổ, trung đại được nhân dân Ấn Độ vận dụng và được
truyền bá rộng rãi tới nhiều quốc gia trên thế giới.
II. TRIẾT HỌC TRUNG QUỐC CỔ, TRUNG ĐẠI
1. Điều kiện ra đời và phát triển của triết học Trung Quốc cổ, trung đại
              Trung Quốc là một trong những chiếc nôi văn minh của nhân loại, là trung
tâm văn hoá và triết học rực rỡ, phong phú của phương Đông. Sự hình thành và
phát triển của các tư tưởng triết học Trung Quốc cổ, trung đại gắn liền với quá
trình biến đổi của điều kiện kinh tế - xã hội, văn hoá và sự phát triển của những
mầm mống khoa học tự nhiên trong xã hội Trung Quốc qua từng thời kỳ.
            a. Điều kiện ra đời của triết học Trung Quốc cổ, trung đại
            - Điều kiện tự nhiên. Trung Quốc cổ, trung đại là một quốc gia rộng lớn,
phía Bắc xa biển, khí hậu khắc nghiệt, đất đai khô cằn; phía Nam có sông Hoàng
Hà, Dương Tử, khí hậu thuận lợi; phía Đông là biển với địa hình phức tạp; phía
Tây là các dãy núi cao.
            - Điều kiện kinh tế - xã hội và văn hoá.
            + Thời Xuân thu (770 - 475 tr.c.n), công cụ lao động và sự phân công lao
động đã phát triển khá mạnh; có lưỡi cày bằng sắt và đã dùng bò kéo, thuỷ nông
góp phần nâng cao năng suất lao động, chăn nuôi đã tách khỏi tách khỏi trồng trọt;
thủ công nghiệp và thương nghiệp phát triển, xuất hiện các nghề mới như luyện
kim, đúc, rèn sắt, nhôm, đồ gốm; nông dân vỡ hoang tạo ra nhiều số lượng ruộng
tư, quý tộc phong kiến chiếm đoạt đất công tạo ra chế độ sở hữu tư nhân về ruộng
đất. Trung Quốc cổ, trung đại bị chia ra thành các nước Tề, Tấn, Tần, Sở, Tống và
về sau thêm Ngô, Việt. Người dân càng đói khổ hơn vì các cuộc chiến tranh đó.
            + Thời Chiến quốc (475 - 221 tr.c.n), công cụ và sự phân công lao động
phát triển mạnh hơn. Nghề luyện sắt hưng thịnh; buôn bán phát triển tạo nên những
đô thị và các làng xóm bên các bờ sông; các nghề thủ công như đồ gốm, chạm bạc,
ươm tơ, dệt lụa và đúc tiền ra đời; các công trình thuỷ lợi được xây dựng nhiều tại
các lưu vực sông Hoàng Hà đến Dương Tử. Chế độ tự do mua, bán ruộng đất tạo ra
hình thức bóc lột phát canh, thu tô, quan hệ sản xuất nông nô xuất hiện và dần
chiếm ưu thế trong đời sống xã hội. Trong giai đoạn đầy biến động đó của lịch sử
Trung Quốc cổ, trung đại, xuất hiện một loạt những vấn đề đặt ra cho các nhà tư
tưởng lớn.
           
            b. Quá trình hình thành và phát triển của triết học Trung Quốc cổ,
trung đại
10
            - Mầm mống tư tưởng triết học Trung Quốc. Triết học Trung Quốc cổ đại
ra đời từ cuối thiên niên kỷ II đầu thiên niên kỷ I tr.c.n khi xã hội đánh dấu sự tan
rã của chế độ nô lệ và bắt đầu hình thành các quan hệ xã hội phong kiến phức tạp.
Tính chất phức tạp đó của xã hội được phản ánh trong tính phức tạp của triết học
Trung Quốc.
+ Vào thời Tam đại (Hạ, Thương, Chu, từ thiên niên kỷ II - I tr.c.n), những
biểu tượng tôn giáo - triết học xuất hiện với những biểu tượng về Đế, Thượng Đế,
Thiên mệnh, Quỷ thần v.v.
+ Đầu thiên niên kỷ I xuất hiện thêm những biểu tượng về Âm dương - Ngũ
hành. Cuộc đấu tranh giữa các quan điểm của các trường phái diễn ra xung quanh
các biểu tượng đó và diễn ra quanh vấn đề khởi nguyên của thế giới[1]; vấn đề con
người và số phận con người; vấn đề đạo đức, tri thức v.v.
- Vào thời Đông Chu (Xuân Thu - Chiến Quốc, 770 - 221 tr.c.n), tư tưởng
triết học có hệ thống được hình thành và là những mầm mống ban đầu của các loại
thế giới quan và phương pháp luận của văn hoá Trung Quốc cổ, trung đại. Đây là
thời kỳ xuất hiện nhiều học thuyết chính trị - xã hội, triết học, có đến 6 trường phái
triết học chủ yếu là Nho gia, Đạo gia, Mặc gia, Pháp gia, Danh gia và Âm Dương
gia (Kinh học của Khổng tử; Huyền học củaLão tử; Âm Dương gia của Trâu Diễn
và những người khác; Phật học rồi về sau là Lý học, Thực học v.v) và chúng không
ngừng đấu tranh với nhau.
2. Một số nội dung triết học Trung Quốc cổ, trung đại
            a. Tư tưởng bản thể luận
            Tuy không rõ ràng như các nền triết học khác trong thế giới nhưng tư tưởng
về bản thể luận trong triết học Trung Quốc cổ, trung đại cũng có những đặc điểm
của mình.
            - Trong Nho gia, Trời, Đạo Trời và Mệnh Trời được Khổng Tử làm chỗ
dựa khi luận bàn đến các vấn đề thuộc chính trị, đạo đức và xã hội. Những quan
niệm đó được các nhà triết học hậu thế bổ sung khác nhau. Mạnh Tử coi mệnh Trời
sinh ra con người và thế giới, Trời quy định số phận con người; Tuân Tử cho rằng
Trời Đất hợp lại thì sinh ra vạn vật, âm dương giao tiếp với nhau thì sinh ra biến
hoá; Vương Sung, Trương Tải đều coi nguyên khí là yếu tố đầu tiên, là nguồn gốc
của thế giới.
            - Trong Đạo gia, Đạo là bản nguyên của thế giới theo trình tự đạo sinh một,
một sinh hai, hai sinh ba, ba sinh ra vạn vật. Trong Âm Dương gia, âm dương là
hai khí, hai nguyên lý tác động qua lại với nhau làm sản sinh ra vạn vật. Kinh Dịch
bổ sung thêm Thái cực, theo đó tiến hoá trong vũ trụ theo lịch trình Thái cự sinh
Lưỡng nghi, Lưỡng nghi sinh Tư tượng; Tư tượng sinh Bát quái, Bát quái sinh vạn
vật (384 sự vật, hiện tượng).
            b. Tư tưởng về mối quan hệ giữa vật chất với ý thức

11
            Tư tưởng về mối quan hệ giữa vật chất với ý thức được thể hiện trong các
cặp Thần - Hình, Tâm - Vật, Lý - Khí.
            - Thần - Hình xuất hiện thời Hán với quan điểm Thần là bản nguyên của
Hình, Hình là phái sinh từ Thần của Đổng Trọng Thư. Ngược lại, Vương Sung phê
phán quan điểm trên của Đổng Trọng Thư và khẳng định rằng không thể tồn tại
tinh thần vô hình; Trọng Thường Thông coi thần học, mê tín là do những kẻ thống
trị đề xướng.
            - Tâm - Vật xuất hiện thời Tuỳ - Đường, khi Đạo Phật làm chủ nền triết học
Trung Quốc. Đạo Phật coi Tâm là bản nguyên của thế giới, nghĩa là mọi sự vật,
hiện tượng trong thế giới đều do thanh tịnh tâm tuỳ duyên mà sinh ra. Ngược lại,
một số nhà tư tưởng khác cho rằng có Vật thì mới có Tâm, Tâm có dựa vào Vật thì
mới tồn tại được; thậm chí Trương Tải lại coi Tâm của Đạo Phật chỉ là sự chủ
quan, bịa đặt.
            - Lý - Khí xuất hiện thời Tống. Lý học là hình thái ý thức giữ vai trò chủ
đạo trong xã hội phong kiến thời Tống. Theo Trình Hạo và Trình Di, Lý là cái có
trước, sinh ra tất cả. Ngược lại Vương Phu Chi phủ định Lý học và chỉ rõ mối quan
hệ giữa đạo và khí là quy luật chung của sự vật, hiện tượng vật chất.
            c. Tư tưởng biện chứng
            Triết lý duy vật biện chứng của triết học Trung Quốc cổ, trung đại đã có
những ảnh hưởng sâu sắc đến thế giới quan triết học không những của người Trung
Quốc, mà còn của những người chịu ảnh hưởng của triết học Trung Quốc.
Biến dịch là quan niệm chung của triết học Trung Quốc cổ, trung đại, theo
đó, Trời Đất, vạn vật luôn vận động và biến đổi với nguyên nhân là giữa Trời Đất
với vạn vật vừa đồng nhất, vừa mâu thuẫn với nhau. Lão Tử cho rằng vũ trụ vận
động, biến đổi theo luật bình quân và luật phản phục, trong đó luật bình quân giữ
cho vạn vật được thăng bằng theo lẽ tự nhiên; luật phản phục dùng để chỉ sự quay
trở lại phương hướng cũ sau khi sự vật, hiện tượng đã phát triển đến cực điểm.
Trong Kinh Dịch, sự biến hoá của vạn vật tuân theo quy trình từ không rõ ràng ->
rõ ràng -> sâu sắc -> kịch liệt -> cao điểm -> mặt trái. Vương An Thạch cho rằng
mâu thuẫn nội, ngoại của Ngũ hành là nguyên nhân cơ bản và vô cùng của sự biến
hoá của vạn vật. Vương Đình Tương cho rằng động lực của vận động, biến hoá của
vạn vật là do khí ân dương không đồng đều nhau v.v.
            d. Tư tưởng về nhận thức
            Trong quá trình tìm hiểu thế giới bên ngoài đẻ phục vụ cho lợi ích của con
người, các nhà triết học Trung Quốc cổ, trung đại đã có những tư tưởng khác nhau
về nhận thức.
            Khổng Tử tập trung vào thực tiễn giáo dục và phương pháp học hỏi; thuyết
chính danh của ông lấy Danh để định Thực, Danh có trước Thực. Ngược lại, Tuân
Tử cho rằng Thực khác nhau bằng Danh. Mặc Tử với thuyết Tam biểu (lập luận
phải có căn cứ, lập luận phải có chứng minh, lập luận phải có hiệu quả) lấy Thực
12
đặt Tên. Huệ Thi  coi Thực to đến mức không có cái bên ngoài gọi là đại nhất, nhỏ
đến mức không có cái bên trong gọi là tiểu nhất. Ngược lại, Công Tôn Long bắt
đầu từ Danh, nhấn mạnh sự khác nhau giữa từ và khái niệm.
            đ. Tư tưởng về con người và xây dựng con người
            - Tư tưởng về con người.
+ Vấn đề nguồn gốc con người, Khổng Tử và Mặc Tử đều coi con người do
Trời sinh ra và bị quy định bởi Mệnh Trời “Nhân giã kỹ thiên địa chi đức, âm
dương chi giao, quỷ thần chi hội, ngũ hành chi trí khí giã- Con người là cái đức của
Trời Đất, sự giao hợp của âm dương, sự tụ hội của quỷ thần, cái khí tinh tú của ngũ
hành”. Lão Tử Đạo sinh ra Trời, Đất, Người, Vạn vật. Trang Tử cho rằng ở mỗi vật
đều có cái đức tự sinh, tự hoá ở bên trong.
+ Vấn đề xác định vị trí và vai trò của con người trong mối liên hệ với Trời,
Đất, Người, Vạn vật trong vũ trụ, Lão Tử cho rằng trong vũ trụ có bốn cái lớn là
Đạo lớn, Trời lớn, Đất lớn, Người cũng lớn. Khổng Tử và Mặc Tử đều coi con ng-
ười do Trời sinh ra nhưng sau đó cùng với Trời và Đất tạo nên ba ngôi tiêu biểu
cho mọi sự vật, hiện tượng vật chất và tinh thần.
            + Vấn đề quan hệ giữa Trời với Người được thể hiện trong các quan điểm
1) quan điểm cho rằng Mệnh Trời chi phối cuộc sống của con người và xã hội loài
người, Trời an bài địa vị xã hội của con người. 2) Thuyết Thiên Nhân cảm ứng cho
rằng Trời là chủ tể của việc người. Ngược lại, quan điểm Thiên Nhân hợp nhất lại
cho rằng Trời với Người là một, trong đó con người phải theo Trời, lấy phép tắc
của Trời làm mẫu mực, coi Thiên Đạo là Nhân Đạo, người đời phải ăn ở phù hợp
với Đạo Trời. 3) Lão Tử cho rằng con người phải sống và hành động theo lẽ tự
nhiên, không can thiệp và không làm trái với bản tính tự nhiên. Kinh Dịch đưa ra
quan niệm Trời, Đất, Muôn Vật là nhất thể để có thể từ bản thân mà suy ra tìm hiểu
được Trời, Đất và Muôn Vật. 4) Đối lập với các quan điểm trên là quan điểm Thiên
Nhân bất tương quan của Tuân Tử, ông cho rằng Đạo Trời không quan hệ gì với
Đạo Người; trị, loạn không phải tại Trời, Đất, nếu biết chăm lo sản xuất, chi dùng
điều độ thì Trời không thể làm hại Người.
            + Vấn đề bản tính con người cũng được chú trọng. Khổng Tử coi tính
người là gần nhau, do tập tành và thói quen nên mới xa nhau. Mạnh Tử coi bản
tính người là thiện (thuyết tính thiện), sự khác nhau giữa con người với cầm thú là
ở chỗ trong mỗi con người đều có phần cao quý và phần thấp hèn, phần cao quý
làm nên sự khác biệt giữa người với cầm thú. Tuân Tử lại cho rằng ác (thuyết tính
ác), con người sinh ra vốn ham lợi, dẫn đến tranh giành lẫn nhau, sinh ra đố kỵ,
không có lòng trung tín thành dâm loạn, không có lễ nghĩa. Cáo Tử lại coi là không
thiện, không ác. Vương Sung còn cho rằng thiện có thể biến thành ác và ác có thể
biến thành thiện. Về sau, thuyết tính ác bị Hàn Phi cực đoan hoá, Lý Tư đã thực
hành triệt để chính sách pháp trị, chuyên chế cực độ để giúp Tần Thuỷ Hoàng
thống nhất Trung Quốc.
13
            - Tư tưởng về xây dựng con người coi trọng sự nỗ lực của cá nhân, sự quan
tâm của giai đình và xã hội trong việc xây dựng con người.
            + Mục tiêu xây dựng con người của Nho gia hết sức thiết thực, giúp con
người xây dựng mình thông qua năm mối quan hệ cơ bản (Vua - tôi, cha - con, anh
- em, chồng - vợ, bạn hữu) và làm tròn trách nhiệm của mình trong năm mối quan
hệ ấy (Vua nhân, tôi trung, cha từ, con hiếu, anh lành, em đễ, chồng có nghĩa, vợ
vâng lời, bạn hữu phải có tín). Muốn vậy, phải tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên
hạ, trong đó tu dưỡng bản thân là hàng đầu. Tu thân trước hết thể hiện trong mối
quan hệ của mình với gia đình, tiếp đó là trách nhiệm với nước, trung với Vua và
mục tiêu cuối cùng của tu thân là bình thiên hạ. Phải thường xuyên trau dồi năm
đức Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín. Sáu đức Hiếu, Đễ, Trung, Tín, Lễ, Nghĩa dành cho
các đệ tử của Nho gia. Ba đức Nhân, Trí, Dũng dành cho những người có trọng
trách, vị trí trong xã hội. Trong tất cả những đức đó, nổi bật và quan trọng nhất là
Nhân, Lễ. Tóm lại, theo Nho gia, con người phải xác định và làm tròn quan hệ của
mình là Ngũ Luân (Vua - tôi, cha - con, anh - em, chồng - vợ, bạn hữu), trong đó
Vua - tôi, cha - con, chồng - vợ (Tam cương) là các quan hệ chính. Trong Tam
cương lại có hai quan hệ cơ bản là Vua - tôi, biểu hiện bằng đức Trung, cha - con
biểu hiện bằng đức Hiếu. Con người phải thường xuyên trau dồi Ngũ thường
(Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín), đứng đầu Ngũ thường là Nhân, Nghĩa, trong đó Nhân
là chủ.
            + Đạo gia coi bản tính của con người có khuynh hướng trở về cuộc sống
với tự nhiên, do vậy phải trừ khử cái thái quá, nâng đỡ cái bất cập, sống thanh cao,
gần giũ tự nhiên và tránh chạy theo cuộc sống vật chất. Đạo Phật  khuyên con
người sống hiền lành, không sát sinh, không làm hại người khác.
            e. Tư tưởng về xã hội lý tưởng và con đường trị quốc
            - Điển hình của tư tưởng này là xã hội đại đồng của Khổng Tử với đặc
trưng cơ bản là xã hội thái bình, ổn định; có trật tự, kỷ cương; mọi người được
chăm sóc bình đẳng và mọi cái đều là của chung; được đảm bảo đầy đủ về vật chất;
quan hệ tốt đẹp giữa người với người; xã hội có giáo dục, mọi người đều được giáo
hoá. Muốn vậy, phải có Vua đứng đầu, hiểu Đạo và hành Đạo là trên dưới thuận
hoà; Hiếu, Đễ làm gốc là mọi nhà nhân hậu, thiên hạ được yên.
           
 
- Đường lối trị nước theo Thuyết Nhân trị và Thuyết Pháp trị.
            + Nội dung cơ bản của Thuyết Nhân trị. Thuyết Nhân trị chủ trương lấy
đạo đức làm căn bản trong việc cai trị. Những người cầm quyền quy định sự hưng
thịnh, suy vong của đất nước; do vậy những người cầm quyền phải có khả năng và
đức hạnh. Theo Thuyết Nhân trị, những người cầm quyền phải lấy đạo đức để giáo
hoá, dẫn dắt dân chúng mà không dùng cách cai trị cưỡng chế, trừng phạt. Biện

14
pháp cơ bản để thực hiện Nhân trị là Chính danh, Lễ, vai trò của những người cầm
quyền và vai trò của dân chúng với tư cách là gốc, là nền tảng của chính trị.
            + Nội dung cơ bản của Thuyết Pháp trị. Thuyết Pháp trị chủ trương lấy
pháp luật làm căn bản trong việc cai trị. Do bản tính con người là yếu hèn, thấp
kém, dễ mắc sai lầm nên phải dùng pháp luật áp dụng cho đồng đều, không thiên
vị, không phân biệt đẳng cấp xã hội. Những người cầm quyền phải có khả năng đặt
ra pháp luật rõ ràng và ban bố cho mọi người cùng biết để thực hiện, do vậy xã hội
cần có minh quân sáng suốt, am hiểu nguyên tắc pháp trị và chiụ khép mình theo
nguyên tắc đó.
3. Đặc điểm cơ bản của triết học Trung Quốc cổ, trung đại
- Nhấn mạnh sự hài hoà giữa tự nhiên với con người, với xã hội.
- Nhấn mạnh vấn đề chính trị đạo đức.
- Các quan điểm, tư tưởng triết học Trung Quốc cổ, trung đại thường dùng
châm ngôn, ngụ ngôn, ẩn ngữ để diễn đạt tư tưởng của mình. Cách diễn đạt đạt ý
quên lời, ý ở ngoài lời mở ra sự suy ngẫm. Châm ngôn, ngụ ngôn, ẩn ngữ không
thể khúc chiết, mạch lạc nhưng bù lại, sức mạnh và tính chất sâu xa của tư tưởng
triết học ẩn náu trong đó là sự gợi ý thâm trầm, sâu rộng dường như vô biên của
chúng.
III. LỊCH SỬ TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC VIỆT NAM
1. Điều kiện hình thành, phát triển và đặc điểm của tư tưởng triết học Việt
Nam
            a. Điều kiện hình thành và phát triển của lịch sử tư tưởng triết học Việt
Nam
- Điều kiện tự nhiên. Nằm ở đông nam châu Á, vị trí tạo cơ sở tự nhiên cho
sự giao lưu văn hoá, thông thương thương nghiệp giữa Việt Nam với Trung Quốc,
Ấn Độ, Nhật Bản v.v.
- Điều kiện kinh tế - xã hội và văn hoá. Việt Nam là nước nông nghiệp cơ
bản dựa vào kinh nghiệm truyền đời và trình độ lao động thủ công, hầu như không
có cuộc cách mạng nào của lực lượng sản xuất. Chỉ từ cuối thời Lý (1010 - 1225)
mới có sự phát triển nhất định của chế độ tư hữu ruộng đất. Trong suốt quá trình
dựng nước và giữ nước, lịch sử Việt Nam là lịch sử chống giặc ngoại xâm để xây
dựng, bảo vệ và củng cố nền độc lập của dân tộc. Từ thế kỷ X - XVIII, nhà nước
phong kiến Việt Nam tập trung vào hai nhiệm vụ cơ bản là tổ chức dân cư lãng, xã
chống giặc và xây dựng, bảo trì hệ thống thuỷ lợi. Vốn tri thức cơ bản của người
Việt Nam truyền thống là những kinh nghiệm liên quan tới nông nghiệp và đánh
bắt hải sản. Tri thức ngành nghề thủ công chỉ là những bí quyết ngành, nghề của
các làng nghề truyền thống và được bảo tồn chủ yếu thông qua truyền khẩu. Sự
giao lưu với các nước láng giềng chỉ mang lại một số tri thức về chính trị - xã hội
cho một bộ phận trí thức Việt Nam.
            b. Những đặc điểm chủ yếu của lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam
15
            - Đặc điểm của quá trình hình thành và phát triển tư tưởng triết học Việt
Nam.
Quá trình hình thành và phát triển tư tưởng triết học Việt Nam trải qua hơn
hai nghìn năm từ đầu công nguyên, đặc biệt là từ thế kỷ X đến nay, là quá trình
cùng phát triển và hợp nhất giữa xu hướng tự thân với xu hướng tiếp nhận các tư
tưởng triết học từ bên ngoài. Trong quá trình hình thành và phát triển tư tưởng triết
học Việt Nam, nhiều quan điểm của Nho gia từ Trung Quốc và Đạo Phật từ Ấn Độ
đã đóng góp vai trò đặc biệt quan trọng. Từ thế kỷ XX, triết học Mác - Lênin nói
riêng và chủ nghĩa Mác - Lênin là các yếu tố chủ đạo trong tư tưởng triết học Việt
Nam.
            - Đặc điểm về nội dung tư tưởng triết học Việt Nam. Toàn bộ ý thức hệ
Việt Nam trong lịch sử đều xoay quanh nhu cầu cố kết cộng đồng dân cư làng xã,
cộng đồng quốc gia dân tộc và nhu cầu học tập nước ngoài nhằm bảo vệ độc lập
dân tộc. Do vậy, chủ nghĩa yêu nước với nội dung cơ bản là tư tưởng về cố kết
cộng đồng và chủ quyền quốc gia luôn được xác định ở vị trí trung tâm của lịch sử
tư tưởng và văn hoá Việt Nam.
            - Đặc điểm về hình thức thể hiện tư tưởng triết học Việt Nam. Tư tưởng
triết học Việt Nam, ngoài sự thể hiện trong hình thức trước tác lý luận của các nhà
triết học như bất kỳ hệ thống triết học nào khác trên thế giới, còn thể hiện thông
qua nhiều hình thức khác, phong phú và đa dạng. Những điều đó đòi hỏi khi
nghiên cứu lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam, cần sử dụng phương pháp liên
ngành, trước hết là của khoa học xã hội và nhân văn.
2. Những nội dung cơ bản của lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam
            a. Những tư tưởng triết học chính trị, đạo đức và nhân văn trong lịch
sử tư tưởng triết học Việt Nam
            - Tư tưởng yêu nước trong lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam không chỉ là
tư tưởng chính trị, mà còn là tư tưởng đạo đức và nhân văn cao cả, trở thành chủ
nghĩa yêu nước và là một trong những nội dung của lịch sử tư tưởng Việt Nam.
- Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam là ý thức về dân tộc và độc lập dân tộc; về
một quốc gia ngang hàng với phương Bắc và về nguồn gốc, động lực của công
cuộc cứu nước, giữ nước (Ý thức về dân tộc và độc lập dân tộc; về một quốc gia
ngang hàng với phương Bắc được hình thành và dần được nâng cao trong các giai
đoạn lịch sử mới, mỗi khi dân tộc giành được quyền độc lập, tự chủ (Lý Thường
Kiệt, Nguyễn Trãi v.v).
- Nguồn gốc, động lực của công cuộc cứu nước, giữ nước với tư tưởng trọng
dân (Lý Công Uẩn, Lý Phật Mã, Trần Nhân Tông, Nguyễn Trãi, Hồ Chí Minh). Tư
tưởng này là cơ sở của đường lối đề cao Nhân, Nghĩa và cho biện pháp nhằm hạn
chế mâu thuẫn giai cấp trong xã hội).

16
            - Quan niệm về đạo làm người trong lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam là
vấn đề liên quan mật thiết với việc xác định cơ sở tư tưởng cho hành động chính
trị, đạo đức và nhân sinh. Tư tưởng về đạo làm người được hình thành nhờ tiếp thu
Đạo Nho, Đạo Phật và Đạo Lão. Trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể, vai trò nổi
trội của mỗi tư tưởng được thể hiện rõ nét. Thời Lý - Trần, Đạo Phật và Đạo Lão
có xu hướng phát triển và nổi trội hơn Đạo Nho; ngược lại, thời Lê - Nguyễn Đạo
Nho lại được tôn vinh hơn. Mỗi nhà tư tưởng, khi phò Vua, giúp nước thường chịu
ảnh hưởng của Đạo Nho; khi về cáo lão hoặc khi đất nước thanh bình lại thường
chịu ảnh hưởng của Đạo Phật và Đạo Lão.
b. Một số tư tưởng triết học Đạo Phật trong lịch sử tư tưởng triết học Việt
Nam
            Dựa vào các tài liệu còn lại, có thể nói rằng quan niệm về thế giới và nhân
sinh quan của Ấn Độ, do Trung Quốc truyền bá, là hai bộ phận tạo nên tư tưởng
triết học Đạo Phật Việt Nam, trong đó quan niệm về thế giới là nội dung cơ bản
trong tư tưởng triết học thời Lý - Trần
            - Quan niệm về thế giới. Các phạm trù triết học của phái Thiền tông là Bản
Thể Chân Như, Thực Tướng, các Pháp hoặc bản thể Như Lai, trong đó Bản Thể
Chân Như là nguyên lý thống nhất của thế giới. Thế giới các sự vật, hiện tượng
(Pháp Hữu Vi) luôn biến đổi không ngừng, nhưng tất cả chúng đều là sự thể hiện
của Bản Thể Chân Như; do vậy, muốn nhận thức được Bản Thể Chân Như cần
phải vượt qua Pháp Hữu Vi và khi đó con người sẽ đạt tới sự Giác ngộ. Muốn có
sự Giác ngộ thì phải trải qua con đường siêu việt qua Pháp Hữu Vi. Đây là tư
tưởng biện chứng về thế giới đa dạng của những khác biệt và mâu thuẫn, nhưng
theo bản chất thì chúng thống nhất với nhau.
- Nhân sinh quan. Triết học nhân sinh của Đạo Phật Việt Nam thể hiện qua
phạm trù Từ Bi trong triết học Đại Thừa. Nội dung cơ bản của Từ Bi là tinh thần
bao dung giữa con người với nhau cũng như với muôn loài vô tình hay hữu tình.
Từ giác ngộ Từ Bi sinh ra hệ quả là tinh thần cứu độ chúng sinh, một tinh thần
thực tiễn của tư tưởng nhân văn Đạo Phật. Với tư tưởng Từ Bi, triết học Đạo Phật
Việt Nam đã góp phần tạo dựng cơ sở lý luận cho tư tưởng Nhân ái Việt Nam, vốn
đã có cơ sở thực tiễn từ lịch sử cố kết cộng đồng làng xã, dân tộc.
c. Một số tư tưởng triết học Nho giáo trong lịch sử tư tưởng triết học
Việt Nam
            Triết học Nho gia bao gồm hai bộ phận cơ bản cấu thành là Hình nhi
thượng học và Hình nhi hạ học. Hình nhi thượng học với khuynh hướng nghiên
cứu triết lý sâu về thế giới và có ảnh hưởng quan trọng đến các nhà tư tưởng Việt
Nam như Nguyễn Bỉnh Khiêm, Ngô Thời Nhậm v.v. Hình nhi hạ học với khuynh
hướng nghiên cứu triết lý sâu về chính trị và đạo đức nhằm xác lập ý thức cai trị
phong kiến theo mô hình tập quyền cao độ. Nhiều tư tưởng trong các quan điểm về

17
chính trị, đạo đức của Nho gia như tư tưởng thương dân, trọng dân, coi dân là gốc;
tư tưởng nhân, nghĩa trong đời sống chính trị - xã hội; tư tưởng về mối quan hệ
chồng - vợ và các phạm trù đạo đức như Trung, Hiếu, Lễ, Nghĩa v.v được kế thừa
và cải biến, đôi khi thay đổi cả nội ham của chúng theo tinh thần thực tiễn của dân
tộc.
d. Sự đối lập giữa thế giới quan duy vật với thế giới quan duy tâm, giữa
thế giới quan triết học với thế giới quan tôn giáo trong lịch sử tư tưởng triết học
Việt Nam
            Sự hình thành, phát triển của tư tưởng triết học diễn ra trong sự thống nhất,
nhưng có sự đối lập và đấu tranh giữa thế giới quan duy vật với duy tâm; triết học
với tôn giáo.  Tư tưởng triết học duy tâm kết hợp với các tư tưởng tôn giáo là thế
giới quan bao trùm; còn thế giới quan duy vật và chủ nghĩa vô thần chỉ thể hiện
trong phạm vi cụ thể. Chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo có luận lý sâu sắc và có tính
hệ thống cao, còn chủ nghĩa duy vật và vô thần chỉ là những yếu tố nhận thức
mang nặng tính kinh nghiệm, ngẫu nhiên. Cuộc đấu tranh giữa các quan điểm duy
vật với các quan điểm duy tâm thể hiện trong việc giải quyết mối quan hệ giữa
Tâm với Vật; giữa Linh hồn với Thể xác; giữa Lý với Khí v.v. Trong lịch sử tư
tưởng triết học Việt Nam, các phạm trù Mệnh Trời, Nghiệp, Kiếp, Linh hồn, Thể
xác được sử dụng đan xen, giao thoa của các tư tưởng của Nho gia - Đạo Phật -
Đạo Lão - Tín ngường dân gian.
3. Vai trò của Hồ Chí Minh đối với sự phát triển của tư tưởng triết học Việt
Nam
            - Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin.
            Nhu cầu của dân tộc trong giai đoạn thực dân Pháp xâm lược và đô hộ Việt
Nam là lý giải sự thất bại của triều đại phong kiến nhà Nguyễn và tìm đường cứu
nước, giải phóng dân tộc. Trước sự thất bại của các tư tưởng và phương pháp Đạo
Nho, Đạo Phật và Tư sản, Hồ Chí Minh ra nước ngoài tìm những lý luận, biện
pháp có khả năng thực tế để đáp ứng nhu cầu của dân tộc trong giai đoạn thực dân
Pháp xâm lược và đô hộ Việt Nam. Hồ Chí Minh đánh giá về chủ nghĩa Mác -
Lênin và đến với chủ nghĩa Mác - Lênin là một tất yếu lịch sử.
            - Hồ Chí Minh vận dụng s��ng tạo triết học Mác - Lênin vào cách mạng
Việt Nam.
Sử dụng thế giới quan duy vật biện chững và phép biện chứng duy vật để lý
giải đúng đắn và khoa học những vấn đề mà lịch sử Việt Nam cận đại đặt ra, mà
đỉnh cao của nó là hệ thống các quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ
bản của cách mạng Việt Nam như giải phóng giai cấp, giải phóng con người; về
độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Với tư tưởng Hồ Chí Minh, lịch sử
tư tưởng triết học Việt Nam bước sang giai đoạn phát triển mới./.

18
CHƯƠNG III. KHÁI LƯỢC LỊCH SỬ TRIẾT HỌC PHƯƠNG TÂY
PGS.TS. Trần Văn Thuỵ, Trường Đại học Y Hà Nội,
TS. Phạm Văn Sinh, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội.
 
-----------------
Người trình bày: Tiến sỹ Trần Đăng Sinh, Chủ nhiệm Bộ môn Triết
học, Khoa Giáo dục Chính trị, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Điện thoại
0912206853.
Đối tượng: Học viên cao học ngành Kinh tế, Sư phạm v.v.
Thời lượng: 8 tiết trên lớp, 2 tiết tự học (Giảng viên nêu những vấn đề
tự học).
            Thời gian: 17g30 các tối thứ 6 (15/12/06) và Chủ nhật (17/12/06).
Địa điểm: Hội trường 8, Nhà B4, Trường Đại học Ngoại ngữ.
--------------------
I. TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI
1. Điều kiện ra đời và phát triển của triết học Hy Lạp cổ đại
- Điều kiện tự nhiên. Hy Lạp cổ đại là một vùng đất rộng, bao gồm miền
Nam bán đảo Bancăng, nhiều đảo trên biển Êgie và cả miền ven biển của bán đảo
Tiểu Á. Điều kiện tự nhiên và khí hậu thuận lợi giúp các ngành nông nghiệp, thủ
công nghiệp và thương nghiệp phát triển rất sớm. Xã hội Hy Lạp cổ đại tồn tại và
phát triển trong sáu thế kỷ (từ thế kỷ VIII đến thế kỷ III tr.c.n), còn từ thế kỷ XV
đến thế kỷ IX tr.c.n, chế độ cộng sản nguyên thuỷ tan rã và hình thành chế độ
chiếm hữu nô lệ. Đây là thời kỳ xẩy ra nhiều biến động lớn về kinh tế và thể chế xã
hội, những biến động này được ghi lại trong hai tập thơ Iliát và Ôđixê của Hôme.
- Điều kiện kinh tế - xã hội và văn hoá. Các thành thị của Hy Lạp cổ đại ra
đời và tồn tại với tư cách là những quốc gia độc lập (300 quốc gia). Đến thế kỷ VI
- IV tr.c.n xuất hiện hai trung tâm kinh tế - chính trị điển hình là thành bang Aten
(miền trung Hy Lạp) và thành bang Spác (vùng bình nguyên Iacôni). Cuộc chiến
tranh giành bá chủ Hy Lạp giữa hai thành bang này trong nhiều năm làm Hy Lạp
suy yếu. Đến thế kỷ II tr.c.n, Hy Lạp bị La mã chinh phục. Thời Hy Lạp cổ đại,
toán học, thiên văn học, thuỷ văn học v.v bắt đầu phát triển. Tri thức triết học và tri
thức khoa học hoà trộn vào nhau; các nhà triết học đồng thời là nhà toán học, vật
lý, thiên văn học v.v. Triết học Hy Lạp ra đời gắn với nhu cầu thực tiễn và gắn liền
với khoa học và được gọi là khoa học của mọi khoa học. Sự giao lưu giữa Hy Lạp
với các nước làm cho tư tưởng triết học Hy Lạp cổ đại chịu ảnh hưởng của nhiều
nền văn minh. Những quan niệm của các nhà triết học Ai Cập và Babilon đã có ảnh
hưởng tích cực đến sự phát triển của triết học Hy Lạp cổ đại; có thể nói đó là một
trong những tiền đề của triết học Hy Lạp cổ đại.
19
            - Quá trình hình thành và phát triển của triết học Hy Lạp cổ đại. Triết học
Hy Lạp cổ đại xuất hiện và phát triển cùng với cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy
vật với chủ nghĩa duy tâm quanh vấn đề bản nguyên thế giới; phản ánh cuộc đấu
tranh giữa phái dân chủ của thành bang Aten với phái chủ nô của thành bang Spác.
+ Triết học thời sơ khai thuộc giai đoạn cổ xưa của văn hoá Hy Lạp thế kỷ
VII - VI tr.c.n, gồm các trường phái và các đại biểu tiêu biểu như trường phái Milê
(Talét, Anaximandrơ, Anaximen); trường phái Pitago (Pitago); trường phái Êphezơ
(Hêraclít); trường phái Êlê (Xênôphan, Pácmênít, Dênôn).
            + Triết học thời cực thịnh thuộc giai đoạn cổ điển của văn hoá Hy Lạp thế
kỷ V - IV tr.c.n với các đại biểu tiêu biểu như Anaxago, Empeđôclơ, Đêmôcrít,
Xôcrát, Platôn, Arítxtốt.
            + Triết học thời kỳ Hy Lạp hoá thuộc giai đoạn Hela của văn hoá Hy Lạp
thế kỷ IV - I tr.c.n với trường phái đáng kể nhất là trường phái triết học Êpiquya.
2. Một số nội dung cơ bản của triết học Hy Lạp cổ đại
            a. Tư tưởng về bản nguyên thế giới
            - Bản nguyên đầu tiên với tư cách là cái đơn nhất xuất hiện trong trường
phái Milê; Talét cho rằng đó là nước, Anaximandrơ là Apeirôn, Anaximen là
không khí.
- Bản nguyên đầu tiên với tư cách là cái đặc thù xuất hiện trong trường phái
các nhà triết học tự nhiên thế kỷ V tr.c.n; Anaxago cho rằng đó là những phần nhỏ
bé, siêu cảm giác không nhìn thấy được của nước, đất, khí, lửa gọi là mầm sống, là
hạt giống của muôn vật. Empeđôclơ lại cho rằng đó là đất, nước, lửa và không khí
luôn vận động do nguyên nhân tình yêu và hận thù.
- Bản nguyên đầu tiên với tư cách là cái phổ biến xuất hiện trong trường
phái nguyên tử luận thế kỷ V - IV tr.c.n. Đêmôcrít cho rằng nguyên tử (tồn tại) và
chân không (không tồn tại) là những bản nguyên đầu tiên và chúng luôn đối lập
nhau, trong đó nguyên tử là yếu tố vật chất luôn vận động và sự vận động đó xẩy ra
trong chân không, tuân theo quy luật khách quan và theo các hướng tan hợp, hợp
tan tạo nên vũ trụ sinh động và biến hoá.
            b. Tư tưởng biện chứng
            Cùng với các quan điểm khác nhau về bản nguyên thế giới, các quan điểm
khác nhau về bản tính của thế giới cũng là tâm điểm của cuộc đấu tranh giữa chủ
nghĩa duy vật với chủ nghĩa duy tâm trong triết học Hy Lạp cổ đại.
- Tư tưởng biện chứng khẳng định của Hêraclít (520 - 460 tr.c.n) thể hiện
trong 1) quan niệm về sự vận động vĩnh viễn của vật chất và tính thống nhất của
thế giới. Theo đó, trong thế giới, không có sự vật, hiện tượng đứng im tuyệt đối; tất
cả đều trong trạng thái biến đổi và chuyển hoá thành cái khác và ngược lại, trong
đó lửa là nguyên nhân chính của sự vận động đó. Vũ trụ thống nhất ở bản nguyên
Lửa. 2) quan niệm về sự tồn tại phổ biến của các mâu thuẫn trong mọi sự vật, hiện
tượng thể hiện trong những phỏng đoán của ông về vai trò của những mặt đối lập
20
trong sự vận động của tự nhiên, về sự trao đổi của những mặt đối lập, về sự tồn tại
và thống nhất của các mặt đối lập. 3) quan niệm về nguyên nhân của sự vận động,
theo đó nguyên nhân của sự vận động là do logos (bản chất, quy luật khách quan)
quy định. Logos khách quan là trật tự khách quan của mọi sự vật đang diễn ra
trong vũ trụ. Logos chủ quan là từ ngữ, học thuyết, lời nói, suy nghĩ của con người.
Logos chủ quan phải phù hợp với logos khách quan; người nào càng tiếp cận được
nhiều logos khách quan bao nhiêu thì càng thông thái bấy nhiêu.
- Tư tưởng biện chứng phủ định của Pácmênít (540 - 470 tr.c.n) và Dênôn
(490 - 430 tr.c.n) đối lập với tư tưởng biện chứng khẳng định của Hêraclít. Tư
tưởng biện chứng của Pácmênít thể hiện ở ba quan niệm 1) vận động, biến đổi là
hư ảo, không có không gian rỗng thuần tuý. 2) tồn tại và tư duy đồng nhất với nhau
vừa như là quá trình, vừa như là kết quả. 3) trong thế giới không có sự sinh thành,
xuất hiện và diệt vong. Tư tưởng biện chứng của Dênôn thể hiện ở quan niệm về
vạn vật đồng nhất thể và vạn vật bất biến. Bằng phương pháp chứng lý và nghịch
lý, ông giải thích mối quan hệ giữa vận động với đứng im; giữa liên tục với gián
đoạn; giữa hữu hạn với vô hạn. Các nghịch lý (aporia) của Dênôn đã khuyến khích
các cuộc tranh luận để đi tới chân lý.
- Tư tưởng biện chứng của Xôcrát (469 - 399 tr.c.n) được thể hiện trong
phương pháp bốn bước của ông. 1) Mỉa mai là thủ pháp nêu các câu hỏi dồn người
đối thoại vào mâu thuẫn để thừa nhận chân lý. 2) Đỡ đẻ với nghĩa là người dẫn dắt
cuộc đối thoại chủ động nêu ra những vấn đề mới giúp người đối thoại, từ chỗ lúng
túng, đạt được chân lý. 3) Quy nạp là quá trình đi từ phân tích những hành vi riêng
lẻ đến khái quát để nhận thức bản chất. 4) Xác định hay định nghĩa là gọi đúng tên,
nêu đúng bản chất của sự vật, hiện tượng; xác định chuẩn mực, hành vi đạo đức để
xây dựng khoa học về cái thiện, giúp con người có cuộc sống hạnh phúc, hợp lý trí.
- Tư tưởng biện chứng của Platôn (472 - 347 tr.c.n) là tiếp tục phát triển tư
tưởng biện chứng của Xôcrát từ góc độ duy tâm khách quan. Muốn có tri thức thì
phải hồi tưởng để đánh thức những tri thức đã bị lãng quên trong linh hồn, là tìm
kiếm tri thức nơi mình. Để hồi tưởng phải dùng phương pháp biện chứng; theo đó
phải đàm thoại triết học, xây dựng các khái niệm, tìm hiểu khái niệm v.v. Về thực
chất, đây chính là lôgíc học. Tư tưởng biện chứng của Arítxtốt (384 - 322 tr.c.n).
- Là nhà triết học lớn nhất, bộ óc bách khoa của triết học Hy Lạp cổ đại,
Arítxtốt có những nghiên cứu sâu về những vấn đề của phép biện chứng; tạo ra
môn lôgíc học để nghiên cứu tư duy dựa trên cơ sở phân biệt dứt khoát giữa chân
lý với sai lầm. Chân lý là sự phù hợp giữa tư tưởng với thực tế, còn sai lầm phát
sinh khi trong tư tưởng nối liền cái mà trong thực tế là phân chia hoặc phân chia
cái mà trong thực tế là nối liền. Lôgíc học là lý luận về chứng minh, trong đó phân
biệt hai loại luận đoán từ cái riêng đến cái chung (quy nạp) và từ cái chung đến cái
riêng (diễn dịch). Ông cũng là người đầu tiên đưa ra ba quy luật cơ bản của lôgíc
hình thức với tư cách là các quy luật của tư duy. Phép biện chứng của Arítxtốt,
21
ngoài sự thể hiện trong các quan niệm về các vật thể tự nhiên và sự vân động của
chúng, còn thể hiện trong việc giải thích cái riêng và cái chung; cái chung thống
nhất với cái riêng; nhận thức cái chung trong cái đơn lẻ là thực chất của nhận thức
cảm tính.
            c. Tư tưởng về nhận thức
- Tư tưởng về nhận thức của Hêraclít mang tính duy vật biện chứng sơ khai.
Nhận thức được bắt đầu từ cảm giác, không có cảm giác thì không có bất kỳ nhận
thức nào. Ông không tuyệt đối giai đoạn nhận thức này vì cho rằng thị giác thường
bị lừa dối vì tự nhiên thích giấu mình nên khó nhận thức. Nhận thức có tính tương
đối, tuỳ theo hoàn cảnh và điều kiện mà thiện - ác, xấu - tốt, lợi - hại chuyển hoá
cho nhau và nhiệm vụ của nhận thức là phải đạt tới nhận thức logos của sự vật.
- Tư tưởng về nhận thức của trường phái Êlê thể hiện trong việc đối lập tư
duy duy lý với trực quan cảm tính và ý kiến dựa vào trực quan về sự vật. Pácmênít
đề cao vai trò của nhận thức lý tính; Dênôn cũng phủ nhận vai trò nhận thức cảm
tính, đề cao nhận thức lý tính. Đêmôcrít là người có công đưa lý luận nhận thức
duy vật lên một bước mới. Ông chia nhận thức thành hai dạng 1) dạng mờ tối là
nhận thức cảm tính, do các giác quan đưa lại, theo dư luận chung (những cảm giác
như mùi vị, màu sắc, âm thanh v.v là những cảm giác phổ biến mà mọi người đều
cảm nhận được dễ dàng); nhận thức này là chân thực nhưng còn mờ tối vì chưa
nhận thức được cái bên trong, cái sâu kín của sự vật. 2) dạng chân lý thông qua
những phán đoán lôgíc nên đã nhận thức được bản chất của sự vật, vì chỉ đã ra
được nguyên tử là khởi nguyên của thế giới, chỉ ra được tính đa dạng của thế giới
là do sự sắp xếp khác nhau của các nguyên tử. Hình tượng cảm tính (còn gọi là
Iđôlơ) bắt nguồn từ vật thể rồi thâm nhập vào các giác quan và được ước lệ thành
hình tượng của khách thể; Iđôlơ là tiền đề để lý tính nhận thức chân lý.
- Tư tưởng về nhận thức của Platôn có tính duy tâm, theo đó nhận thức cảm
tính có sau nhận thức lý tính vì linh hồn đã có sẵn các tri thức; do vậy, nhận thức là
quá trình hồi tưởng lại những cái đã lãng quyên trong quá khứ. Dựa trên cơ sở trên
đây, Platôn chia tri thức thành hai loại 1) tri thức hoàn toàn đúng đắn, tin cậy là tri
thức ý niệm, tri thức của linh hồn trước khi nhập vào thể xác và có được nhờ sự hồi
tưởng lại. 2) tri thức mờ nhạt là tri thức lẫn lộn đúng sai; có được nhờ nhận thức
cảm tính nên không phải là chân lý.
- Tư tưởng về nhận thức của Arítxtốt đóng vai trò quan trọng trong lịch sử
triết học Hy Lạp cổ đại; trong lý luận nhận thức của mình, ông cho rằng tự nhiên là
tính thứ nhất, tri thức là tính thứ hai; thế giới khách quan là đối tượng của nhận
thức, là nguồn gốc của kinh nghiệm và cảm giác. Cảm giác là điểm khởi đầu trên
con đường hình thành tư duy khoa học theo quá trình cảm giác - biểu tượng - kinh
nghiệm - nghệ thuật - khoa học. Các giai đoạn của quá trình nhận thức được
Arítxtốt chia thành các giai đoạn 1) giai đoạn cảm tính là giai đoạn nhận thức mang
tính trực quan (sự quan sát nhật thực, nguyệt thực bằng mắt thường v.v). 2) nhận
22
thức lý tính là giai đoạn đòi hỏi khái quát hoá, trừu tượng hoá để rút ra tính tất yếu
của hiện tượng. Như vậy, quá trình nhận thức diễn ra theo trình tự cơ thể - tác động
bên ngoài - cảm giác - tưởng tượng - tư duy. Mỗi khâu trong quá trình này đều
quan hệ mật thiết với nhau, khâu sau không thể thiếu khâu trước.
            d. Tư tưởng về đạo đức và chính trị
            - Với ý đồ chính trị muốn những nhà cầm quyền phải có tri thức, hiểu biết,
Xôcrát coi đạo đức và sự hi��u biết quy định lẫn nhau, có đạo đức là nhờ có
hiểu biết, do vậy đạo đức có sau hiểu biết.
- Đêmôcrít lại xuất phát từ bản chất con người để định nghĩa đạo đức, theo
đó sự hài lòng và không hài lòng là động lực của mọi hành vi; do vậy, đạo đức phải
giải quyết vấn đề hành vi con người và thái độ của nó đối với chính bản thân mình.
Hạt nhân trung tâm của đạo đức là lương tâm, là sự lành mạnh về tinh thần của
từng cá nhân, mỗi người phải sống đúng mực, ôn hoà, không vô độ mà gây hại cho
người khác, không quá giàu có, không thèm lợi nhuận bất lương gây hại cho người
lương thiện. Trong quan niệm về chính trị - xã hội, Đêmôcrít chống lại chủ nô quý
tộc để bảo vệ chế độ chủ nô dân chủ mà quyền lợi gắn liền với sự phát triển của
thương mại và nghề thủ công, ca ngợi tình thân ái, tính ôn hoà, ca ngợi quyền lợi
chung của công dân tự do. Nhà nước cộng hoà dân cử là nền tảng của chế độ dân
chủ chủ nô, đóng vai trò duy trì trật tự, điều hành mọi hoạt động trong xã hội,
trừng phạt những vi phạm pháp luật hay các chuẩn mực đạo đức.
- Đối lập với tư tưởng của Đêmôcrít là tư tưởng của Platôn. Ông phê phán cả
ba hình thức nhà nước là nhà nước của Vua Chúa xây dựng trên khát vọng giàu có
và danh vọng dẫn tới sự cướp đoạt; nhà nước quân phiệt của số ít kẻ giàu có áp bức
số đông, đối lập giữa giàu và nghèo đưa tới cái ác; nhà nước dân chủ, quyền lực
thuộc về số đông, sự đối lập giàu nghèo trong nhà nước này hết sức gay gắt cho
nên đó là nhà nước tồi tệ. Platôn đưa ra mẫu hình nhà nước lý tưởng, trong đó có
ba lớp người làm các công việc khác nhau. Sự tồn tại và phát triển của nhà nước lý
tưởng dựa vào sự phát triển sản xuất vật chất; phân công hài hoà các ngành nghề
và giải quyết mâu thuẫn các nhu cầu xã hội.
- Arítxtốt lại cho rằng đạo đức là khoa học đứng sau triết học và đặc biệt
quan tâm đến phẩm hạnh bởi đó là cái tốt đẹp nhất, là lợi ích tối cao mà mọi công
dân phải có. Nội dung của phẩm hạnh là biết định hướng, biết làm việc, biết tìm tòi
và phẩm hạnh con người thể hiện trong quan niệm về hạnh phúc. Hạnh phúc phải
là cái gắn kết với hoạt động nhận thức, với ước vọng làm điều thiện. Là người đầu
tiên phân tích hình thái giá trị, cho rằng cơ sở bình đẳng và công bằng trong xã hội
là sự công bằng trong trao đổi sản phẩm. Sự công bằng không có được nếu không
có sự bằng nhau, sự bằng nhau không có được nếu không thể đo chung được, tức là
ông đã tìm ra được nguồn gốc của quan hệ bình đẳng. Arítxtốt coi bản chất của nhà
nước là hình thức giao tiếp cao nhất giữa con người với nhau và nhà nước chỉ xuất
hiện khi có sự giao tiếp về lợi ích giữa nhiều gia đình và họ hàng về cuộc sống đầy
23
đủ và hoàn thiện. Nhà nước được xem xét trong ba phương diện là lập pháp, hành
chính và phân xử và có nhiệm vụ bảo đảm cho mọi công dân (trừ nô lệ) đầy đủ về
vật chất, bảo đảm công bằng về công lý. Mức độ phúc lợi do nhà nước đem lại cho
công dân là tiêu chuẩn để đánh giá nhà nước. Gia đình và cá nhân là thiên chất tự
nhiên của nhà nước, vì vậy con người phải thuộc về nhà nước và nếu vượt qua nhà
nước sẽ là con người không phát triển về đạo đức, hoặc là động vật hoặc là Thượng
Đế.
- Êpiquya cho rằng những yêu cầu, khát vọng của con người phản ánh bản
chất con người. Do vậy, đạo đức học phải dạy cho con người biết lựa chọn những
yêu cầu, khát vọng thiết yếu, tránh những mong ước vô nghĩa và phản tự nhiên.
3. Đặc điểm cơ bản của triết học Hy Lạp cổ đại
            - Các nhà triết học duy vật Hy Lạp cổ đại đã đã đặt ra và giải quyết hầu hết
các vấn đề về bản thể luận và nhận thức luận; các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác -
Lênin đánh giá từ các hình thức muôn hình muôn vẻ của triết học Hy Lạp đã có
mầm mống và đang nảy nở hầu hết tất cả các loại thế giới quan sau này từng bước
giải quyết theo thời đại mình.
- Nội dung cơ bản của triết học Hy Lạp cổ đại là cuộc đấu tranh giữa các
trường phái triết học duy vật với duy tâm, biện chứng với siêu hình, vô thần với
tôn giáo mà điển hình là cuộc đấu tranh giữa hai đường lối triết học duy vật của
Đêmôcrít, Êpiquya với triết học duy tâm của Xôcrát, Platôn.
- Triết học Hy Lạp cổ đại, nói chung còn ở trình độ trực quan, chất phác- đặc
biệt đối với các hệ thống triết học duy vật và biện chứng, nhưng đã gắn bó với
khoa học. Tuy có những ý kiến khác nhau, nhưng đã đề cập tới vấn đề con người,
coi con người là tinh hoa của tạo hoá và con người cần chinh phục thiên nhiên để
phục vụ mình.
II. TRIẾT HỌC TÂY ÂU THỜI TRUNG CỔ
1. Điều kiện ra đời và phát triển của triết học tây Âu thời Trung cổ
            a. Điều kiện kinh tế - xã hội và văn hoá
-  Xã hội tây Âu thế kỷ II đến thế kỷ V là xã hội đánh dấu sự tan rã của chế
độ chiếm hữu nô lệ và sự ra đời của chế độ phong kiến. Vào thế kỷ thứ V, những
cuộc nổi dậy của nô lệ bên trong cùng với sự tiến công của những bộ tộc bên ngoài
đã dẫn đến sự sụp đổ của đế quốc La Mã (đã tồn tại từ thế kỷ II tr.c.n đến thế kỷ
V). Sự kiện đó dẫn đến kết quả chấm dứt hình thái xã hội chiếm hữu nô lệ và chế
độ phong kiến tây Âu ra đời. Trong xã hội đó, nền kinh tế tự nhiên, tự túc tự cấp
thống trị. Điều hành sản xuất xã hội là những tiểu nông lệ thuộc vào địa chủ phong
kiến. Vì vậy, trong thời kỳ đầu của thời đại phong kiến tây Âu đã diễn ra sự suy
đồi không chỉ về kinh tế, mà còn về toàn bộ các mặt của đời sống xã hội.
-  Xuất hiện tổ chức giáo hội nhà thờ Thiên Chúa giáo và ảnh hưởng của nó
tới toàn bộ đời sống vật chất và tinh thần của xã hội thời kỳ này. Về mặt tinh thần,
thời Trung cổ ở tây Âu lúc đầu Cơ đốc giáo, về sau là Thiên Chúa giáo là hệ tư
24
tưởng thống trị. Những giáo lý tôn giáo trở thành những nguyên lý về chính trị;
Kinh thánh là luật lệ trong xét xử; Giáo hội độc quyền trong lĩnh vực văn hoá, nhà
trường hoàn toàn nằm trong tay thầy tu, triết học chỉ phục vụ cho tôn giáo và Giáo
hội. Có thể nói tín điều nhà thờ là điểm xuất phát của mọi tư duy; thế giới quan tôn
giáo bao trùm lên triết học, luật học và chính trị.
            b. Quá trình hình thành và phát triển của triết học tây Âu thời Trung
cổ
- Từ thế kỷ II - IV là thời kỳ quá độ giữa triết học Hy Lạp với triết học tây
Âu Trung cổ. Hệ tư tưởng xã hội là Cơ Đốc giáo với các đại biểu Téctuliêng (160 -
230), Ôguýtxtanh (354 - 430).
            - Từ thế kỷ V - VIII là thời kỳ hình thành chủ nghĩa Kinh viện.
            - Từ thế kỷ IX - XV là thời kỳ phát triển của chủ nghĩa Kinh viện.
            + Chủ nghĩa Kinh viện sơ kỳ từ thế kỷ IX - XII với các đại biểu Ơrigenơ
(810 - 877), Abơla (1079 - 1142).
            + Chủ nghĩa Kinh viện cực thịnh thế kỷ XIII với các đại biểu Lơgrăng
(1207 - 1280), Đacanh (1225 - 1274), Đun Xcốt (1265 - 1308).
            + Chủ nghĩa Kinh viện suy thoái thế kỷ XIV - XV với các đại biểu Bêcơn
(1214 - 1294), Ốccam (1300 - 1349).
2. Một số nội dung cơ bản của triết học tây Âu thời Trung cổ
            a. Mối quan hệ giữa tri thức với niềm tin tôn giáo
Các nhà triết học thời Trung cổ coi niềm tin tôn giáo giữ vị trí hàng đầu
trong mối quan hệ với lý trí.
- Ôguýtxtanh (354 - 430, Bắc Phi, Angiêri hiện nay) là đại biểu lớn nhất của
triết học Cơ đốc giáo thời kỳ tiền Trung cổ; triết học của ông trở thành cơ sở lý
luận cho Cơ đốc giáo và cả Thiên Chúa giáo sau này. Tư tưởng cơ bản trong học
thuyết của Ôguýt- xtanh là toàn bộ thế giới do Thượng Đế sinh ra và được nhận
thức bởi Thượng Đế. Tuy nhiên, Thượng Đế chỉ sáng tạo ra thế giới tự nhiên, sau
đó giới tự nhiên vận động theo các quy luật của mình mà không có sự can thiệp
của Thượng Đế. Thượng Đế không tồn tại trong sự vật cảm biết nhưng có sức
mạnh vạn năng, có quyền lực tuyệt đối. Ý chí của con người là tự do, nhưng chỉ
trong giới hạn tiền định của Thượng Đế, quá trình nhận thức của con người là quá
trình nhận thức Thượng Đế- chân lý tối cao. Nhận thức đó chỉ đạt được nhờ lòng
tin, bởi lòng tin tôn giáo. Nhận thức Thượng Đế có ba mức độ 1) Thông qua cảm
giác bên ngoài, những cảm giác nói chung là chân thật. 2) Nhận thức thông qua
cảm giác bên trong bàn bạc lại những cảm giác bên ngoài. 3) Nhận thức lý trí, đánh
giá những phán đoán của cảm giác bên trong. Tiêu chuẩn của chân lý là sự tự ý
thức, trong tâm hồn mỗi người đã chứa đựng chân lý tối cao. Thượng Đế là chân lý
tối cao, từ chân lý tối cao này nảy sinh mọi chân lý.
- Chủ nghĩa Kinh viện, phái Duy thực và phái Duy danh tiếp nối giữa thời
kỳ Cơ đốc giáo với thời kỳ Trung cổ tây Âu.
25
+ Kinh viện (theo tiếng Latinh- Schola- trường học), chủ nghĩa Kinh
viện chủ yếu bàn đến những vấn đề tách rời cuộc sống hiện thực. Về thực chất, chủ
nghĩa Kinh viện là nghệ thuật tranh luận, lập luận mà không quan tâm đến nội
dung của cuộc tranh luận đó. Đầu tiên, triết học Kinh viện được giảng trong các
trường trung học và từ giữa thế kỷ XII, được giảng trong các trường đại học. Trong
thời kỳ này đã diễn ra cuộc đấu tranh quyết liệt và kéo dài nhiều thế kỷ giữa hai
khuynh hướng triết học đặc trưng là phái Duy thực và phái duy Danh với nhiều đại
biểu nổi tiếng.
+ Phái Duy thực lấy triết học Platôn làm cơ sở lý luận, khẳng định cái chung
(khi ấy gọi là cái phổ biến) hay khái niệm chung là tồn tại thực, là một thực thể
tinh thần có trước sự vật đơn nhất. Phái Duy danh lại khẳng định, chỉ có sự vật đơn
nhất, cá biệt là có thực, còn những cái chung chỉ là những tên gọi mà con người
gắn cho các hiện tượng riêng lẻ. Cuộc tranh cãi giữa phái Duy danh với phái Duy
thực, về căn bản là một vấn đề nghiêm túc. Đằng sau cái vỏ thần học là vấn đề triết
học thể hiện ở chỗ, phái này coi sự vật tồn tại khách quan, có thể tri giác được
bằng cảm giác, tư tưởng là cái có sau (Duy danh), phái kia ngược lại, coi tư tưởng
có trước sự vật (phái Duy thực). Như vậy, sự nhận thức của con người vận động từ
cảm giác đến khái niệm (duy danh) hay từ khái niệm đến sự vật (duy thực) là bản
chất triết học của cuộc tranh cãi đó. Thiên Chúa giáo chính thống có xu hướng
nghiêng về phái Duy thực.
- Một số đại biểu nổi bật của các phái Duy danh, Duy thực.
+ Tômát Đacanh (1225-1274, duy thực, Italia, nhà thần học Thiên Chúa
giáo, nhà triết học kinh viện nổi tiếng, nhà nghiên cứu những vấn đề pháp quyền,
đạo đức, chế độ nhà nước và kinh tế. Các tác phẩm của ông là bộ bách khoa toàn
thư về hệ thống tư tưởng thống trị thời Trung cổ; học thuyết của ông được công
nhận là triết học chân chính duy nhất của Giáo hội Thiên Chúa. Trong lĩnh vực
triết học, Tômát Đacanh muốn làm cho triết học Arítxtốt thích hợp với Giáo lý Đạo
Thiên Chúa. Bởi vậy, ông cho rằng đối tượng của triết học là nghiên cứu chân lý
của lý trí, còn đối tượng của thần học là nghiên cứu chân lý của lòng tin tôn giáo.
Thượng Đế là khách thể để triết học, thần học cùng nghiên cứu và là nguồn gốc
của của mọi chân lý. Do vậy, triết học không đối lập với thần học về căn bản, mà
triết học phải thấp hơn thần học, là tôi tớ của thần học, phụ thuộc vào thần học
tương tự như lý trí của con người phải thấp hơn lý trí của thần. Ông cho rằng, Trời
tạo ra giới tự nhiên là do từ hư vô và mọi trật tự, sự phong phú và hoàn thiện của
giới tự nhiên đều do Trời quyết định theo các bậc thang tôn tri, trật tự bắt đầu từ
các sự vật không có linh hồn, tới con người, đến các Thần thánh và cao hơn cả là
Chúa Trời. Do vậy, Chúa Trời, Thượng Đế là mục đích tối cao, là quy luật vĩnh
cửu đứng trên mọi cái, thống trị mọi cái, là nguyên nhân cuối cùng tác động lên thế
giới. Để chứng minh Chúa Trời, Thượng Đế là động lực, nguyên nhân, cái tất
nhiên ban đầu, sự hoàn thiện tuyệt đối và là nguyên nhân tạo ra sự hợp lý của giới
26
tự nhiên, Tômát Đacanh nêu ra những lý lẽ 1) Thế giới không vận động vĩnh cửu,
cần phải có động lực ban đầu. 2) Nguyên nhân tác động không phải là vô tận, cần
có nguyên nhân đầu tiên. 3) Mọi sự vật của thế giới là ngẫu nhiên, cần có cái tất
nhiên tuyệt đối. 4) Sự hoàn thiện của các sự vật có các giai đoạn khác nhau, cần
phải có một thực thể hoàn thiện tuyệt đối. 5) Tính hợp lý của giới tự nhiên không
thể giải thích bằng nguyên nhân tự nhiên, cần phải tồn tại một thực thể lý trí siêu tự
nhiên để điều chỉnh thế giới. Về cái chung, Tômát Đacanh cho rằng, cái chung tồn
tại trên ba phương diện 1) Cái chung tồn tại trước sự vật trong trí tuệ của Chúa
Trời như là mẫu mực lý tưởng của các sự vật riêng lẻ. 2) Cái chung được tìm thấy
trong các sự vật và nó chỉ tồn tại khách quan khi nó chứa đựng các sự vật riêng lẻ.
3) Cái chung được tạo ra bằng con đường trừu tượng hoá của trí tuệ con người từ
các sự vật riêng lẻ.
+ Đun Xcốt (1265 - 1308, Anh, nhà duy danh lớn nhất của thế kỷ XIII). Mối
quan hệ giữa triết học với thần là vấn đề chủ yếu, ông coi Thượng đế là đối tượng
nghiên cứu của thần học, còn đối tượng nghiên cứu của triết học là tồn tại. Ông vẫn
đề cao vai trò của lòng tin nhưng không hạ thấp vai trò của lý tính bởi Thượng Đế
là một tồn tại bất tận, có thể chứng minh được, nhưng dựa vào lý trí để nhận thức
Thượng Đế thì bị hạn chế, do vậy phải chủ yếu dựa vào lòng tin. Lý trí thấp hơn
niềm tin tôn giáo, nó không nhận thức được bản chất của Thượng Đế, bởi đó là
hình thức thuần tuý phi vật chất, trong khi lý trí chỉ nhận thức được những gì thuộc
cảm tính. Chính vì vậy, con người không thể có được khái niệm về cái phi vật chất
như Chúa Trời, Thượng Đế. Về quan hệ giữa cái chung với cái riêng, Đun Xcốt
giải thích cái chung vừa tồn tại trong các sự vật (như là bản chất của các sự vật),
vừa tồn tại sau các sự vật (như là sự khái quát hoá, trừu tượng hoá khỏi các sự vật
riêng lẻ), nghĩa là cái chung không chỉ là sản phẩm của lý trí mà nó còn có cơ sở
trong bản thân các sự vật; nó vừa tồn tại trong sự vật với tính cách là bản chất của
chúng, vừa tồn tại sau sự vật với tính cách là những khái niệm được lý trí con
người trừu tượng hoá khỏi bản chất của sự vật.
            b. Tư tưởng về xã hội và đạo đức
- Các quan điểm xã hội của Ôguýtxtanh được ông trình bày trong tác phẩm
Thành Đô của Thượng Đế. Theo đó, xã hội loài người được chia thành hai vương
quốc là vương quốc của điều ác là nhà nước trần thế và vương quốc của Thượng
Đế trên trái Đất là nhà thờ. Sự bất bình đẳng trong xã hội là điều tự nhiên; hiện
tượng giàu, nghèo tồn tại vĩnh viễn. Cuộc sống trên trần thế chỉ là cuộc sống tạm
thời, hạnh phúc vĩnh cửu là ở thế giới bên kia.
- Đacanh cũng ra sức tuyên truyền tư tưởng về vai trò thống trị của Nhà thờ
đối với xã hội công dân; chống lại sự bình đẳng xã hội. Ông cho rằng con người là
do Thượng Đế tạo nên theo hình dáng của mình, sống trên trái Đất- trung tâm của
vũ trụ. Mọi cái trong tự nhiên thích ứng như thế nào với con người đều do Chúa
trời quy định, Mặt Trời chiếu sáng để sưởi ấm, mưa rơi để đất đai có nước; động
27
đất và bão lụt là do Chúa trừng phạt tội lỗi của con người. Đẳng cấp của con người
trong xã hội là do Chúa sắp đặt. Chính quyền nhà Vua là do ý trời, thân xác con
người phải phục tùng nhà vua, còn quyền lực tối cao thuộc về Giáo hội.
3. Đặc điểm cơ bản của triết học tây Âu thời Trung cổ
- Sự phát triển của chủ nghĩa Kinh viện là thể hiện sự tìm kiếm cơ sở lý luận
cho thế giới quan tôn giáo.
- Quan hệ giữa niềm tin tôn giáo với lý trí cũng là vấn đề trung tâm của triết
học. Cuộc đấu tranh giữa phái Duy thực với phái duy Danh quanh việc giải quyết
những vấn đề trung tâm của triết học là biểu hiện đặc thù cuộc đấu tranh giữa chủ
nghĩa duy tâm với chủ nghĩa duy vật.
- Sau thời suy thoái, xã hội tây Âu đã có sự phát triển về cả vật chất và tinh
thần. Những cuộc Thập tự chinh về phía Đông đã giúp cho phương Tây tiếp thu
được nhiều điều của nền văn hoá phương Đông. Thiên văn học, toán học, cơ học,
hoá học, vật lý học hình thành và phát triển khá mạnh vào thế kỷ XIII.
 
III. TRIẾT HỌC TÂY ÂU THỜI PHỤC HƯNG VÀ CẬN ĐẠI
            Giai đoạn lịch sử từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII được gọi là thời kỳ Phục
hưng và Cận đại của tây Âu.
1. Triết học tây Âu thời Phục hưng
            a. Điều kiện ra đời của triết học tây Âu thời Phục hưng
            - Thời Phục hưng ở tây Âu gồm hai thế kỷ XV - XVI; phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa bắt đầu hình thành; phân hoá giai cấp ngày càng rõ; vai trò
kinh tế, xã hội của các giai cấp khác nhau đã tạo nên mâu thuẫn giai cấp.
            - Những phát kiến địa lý (Côlông, Magienlăng) tạo điều kiện cho kinh tế
thương mại phát triển; các phát minh khoa học của Côpécníc, Brunô, Galilê đem
lại vị trí, vai trò mới của con người.
            b. Một số nội dung triết học tây Âu thời Phục hưng
            - Tư tưởng triết học về tự nhiên.
+ Sự khôi phục di sản triết học Hy Lạp cổ đại, sự ra đời của chủ nghĩa nhân
đạo và những thành tựu của khoa học tự nhiên làm nên nội dung triết học tây Âu
thời Phục hưng.
            + Tư tưởng triết học về tự nhiên của một số nhà triết học tiêu biểu.
Nicôlai Cuđan (1401-1464, người Đức, Hồng y Giáo chủ của Giáo hội La
Mã, người đầu tiên phê phán mạnh mẽ các giáo lý Trung cổ, mở đầu thời kỳ triết
học thời Phục hưng). Ông coi trái Đất cũng chỉ là vì sao chuyển động như mọi ngôi
sao khác mà không phải là trung tâm của vũ trụ.
Côpécníc (1473-1543, nhà khoa học tự nhiên, nhà triết học người Ba Lan,
đại diện tiêu biểu, có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của triết học và khoa học tự
nhiên thời Phục hưng). Toàn bộ khoa học của Côpécníc chủ yếunhằm chứng minh
trung tâm của Hệ mặt trời không phải là Trái Đất mà là Mặt Trời, Trái Đất hàng
28
ngày quay quanh trục của nó và hàng năm xoay quanh Mặt Trời. Thuyết Nhật tâm
của Côpécníc có ý nghĩa rất lớn đối với triết học và khoa học thời kỳ này. 1) Bác
bỏ giả thuyết của Ptôlêmê (Hy Lạp thế kỷ II) cho rằng Trái Đất là trung tâm; Mặt
Trời và các hành tinh xoay quanh Trái Đất. 2) Bác bỏ điều quan trọng nhất của
thần học về thế giới. 3) Cách mạng hoá toàn bộ khoa học tự nhiên bằng cách giải
phóng chúng ra khỏi thần học và tôn giáo. Lịch sử triết học và khoa học đã đánh
giá cao những cống hiến lớn lao của ông và coi ông là một nhà bác học vĩ đại, một
nhà duy vật dũng cảm.
Tômát Morơ (1478 - 1535, nhà nhân đạo nổi tiếng người Anh; một trong
những nhà sáng lập ra chủ nghĩa cộng sản không tưởng; là người phê phán mạnh
mẽ chế độ bất công và tệ nạn xã hội ở Anh thời đó và ví đó là chế độ xã hội cừu ăn
thịt người). Theo ông, nguyên nhân của mọi bất công và tệ nạn xã hội là do sự
thống trị của chế độ xã hội dựa trên nền tảng sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất; ở
đâu có tư bản thì ở đó tiền là thước đo tất cả. Morơ khẳng định tư hữu làm cho
người ta ích kỷ và viết tác phảm Utôpia, trong đó đưa ra mô hình xã hội lý tưởng.
Xã hội đó được xây dựng trên nền tảng công hữu về tư liệu sản xuất; mọi sản phẩm
làm ra được phân phối đều trong xã hội; thời gian lao động chỉ là sáu giờ trong
ngày, thời gian còn lại dùng để mọi thành viên của xã hội phát triển nhân cách toàn
diện; mọi người đều bình đẳng, không còn tiền tệ, không có sở hữu tư nhân; người
lãnh đạo xã hội đó định ra chuẩn mực về đạo đức, chính trị xã hội, mọi sự tốt xấu
của xã hội đều xuất phát từ người lãnh đạo. Trong xã hội vẫn cần nô lệ để họ làm
các việc nặng nhọc; tôn giáo là cần thiết đối với xã hội, những người theo quan
điểm vô thần bị coi là người vô đạo đức.
Brunô (1548-1600, nhà triết học người Italia, người kế tục và phát triển học
thuyết của Côpécníc). Triết học phiếm thần duy vật của ông là đỉnh cao của sự phát
triển tư tưởng duy vật thời Phục hưng. Tiếp thu thuyết Nhật tâm và kế thừa những
tư tưởng duy vât, vô thần khi xây dựng quan niệm về vũ trụ của các nhà duy vật cổ
đại, Brunô nêu ra phạm trù cái duy nhất. Theo đó, cái duy nhất chính là Thượng Đế
tồn tại dưới dạng giới tự nhiên- một thế giới độc lập, không do một ai sáng tạo ra.
Tuy nhiên, Thượng Đế chỉ còn là danh nghĩa khi ông coi mọi sự vật chỉ là biểu
hiện của cái duy nhất đó và sự vật biến đổi không ngừng, nhưng cái duy nhất thì
bất biến. Từ đây, Brunô đưa ra quan niệm về tính thống nhất vật chất của vũ trụ.
Vũ trụ là vô tận, ngoài hệ Mặt Trời còn có vô số thế giới tồn tại, không có hành
tinh nào thật sự là trung tâm của vũ trụ. Sự sống không chỉ có ở trên Trái Đất mà
có thể có ở các hành tinh khác của vũ trụ mà không có Chúa Trời nào thống trị cả.
Như vậy, Brunô đã bổ sung vào quan điểm của Côpécníc một loạt những luận điểm
đúng đắn và những phỏng đoán thiên tài mà khoa học ngày nay đã chứng thực và
đang tìm kiếm. Brunô đã bị Giáo hội thiêu sống vì những tư tưởng duy vật của
mình đã chống lại triết học Kinh viện và Giáo hội.

29
Cămpanenla (1568 - 1639, là nhà khoa học tự nhiên, nhà cộng sản không
tưởng người Italia). Phát triển các tư tưởng nhân đạo của Môrơ, ông đưa ra mô
hình xã hội lý tưởng trong tác phẩm Thành phố mặt Trời, cho rằng nguyên nhân cơ
bản của mọi bất công trong xã hội là do tồn tại chế độ tư hữu, cái sinh ra kẻ giàu
người nghèo và những bất công khác trong xã hội. Ông còn cho rằng chính tính ích
kỷ của con người là nguyên nhân của mọi điều ác. Sự bình đẳng cộng đồng là cần
thiết và nó phù hợp với sự có mặt của Thượng Đế ở khắp nơi. Cămpanenla cho
rằng việc xoá bỏ nhà nước phải đi đôi với xoá bỏ gia đình vì việc xuất hiện gia
đình đã dẫn đến sở hữu tư nhân, xã hội tương lai phải dựa trên chế độ quần hôn.
Trong Thành phố Mặt Trời tất cả mọi người đều lao động với số giờ lao động trong
mỗi ngày chỉ còn bốn giờ để tạo điều kiện cho công dân có thời gian nghỉ ngơi và
phát triển toàn diện nhân cách. Thủ lĩnh của Thành phố Mặt Trời là người đứng
đầu xã hội, uyên bác về nhiều mặt và là một vị linh mục, đặc biệt thông thái về
kinh tế và chính trị. Trong Thành phố Mặt Trời, khoa học và tôn giáo đều được coi
trọng; chính quyền gắn chặt với tôn giáo và khoa học.
            - Tư tưởng triết học về con người.
            Các nhà sử học gọi thời Phục hưng là thời phát hiện ra con người trong thế
giới và cả một thế giới trong con người. Trong thời kỳ này xuất hiện các học thuyết
triết học về con người và lịch sử của nó, về chủ nghĩa nhân đạo, về giải phóng con
người khỏi các tín điều, khỏi đẳng cấp và tuyên bố quyền bình đẳng của con người.
            + Chủ nghĩa nhân đạo là cuộc vận động tư tưởng; đặc trưng cho tư tưởng tư
sản, có quan hệ chặt chẽ với những quan điểm duy vật, chống chế độ phong kiến
thông qua cuộc đấu tranh chống lại các quan điểm thần học. Những nội dung chính
của chủ nghĩa nhân đạo là tự do cá nhân, con người có quyền hưởng lạc và thoả
mãn những nhu cầu trần thế; phản đối chủ nghĩa khổ hạnh. Đại diện chính của chủ
nghĩa này là Đơ Vanhxi, Brunô, Côpécníc, Sếchxpia v.v.
            + Chủ nghĩa cá nhân trong thời hình thành quan hệ sản xuất tư bản chủ
nghĩa đã đóng vai trò tích cực trong cuộc giải phóng cá nhân khỏi chủ nghĩa phong
kiến và Giáo hội. Trong thời Phục hưng, chủ nghĩa cá nhân đã tham gia đấu tranh
tư tưởng với chế độ đẳng cấp của xã hội, tổ chức cấp bậc của Nhà thờ Thiên Chúa
giáo; cùng với đó, chủ nghĩa cá nhân có tính đạo đức để từ đó sinh ra lòng nhiệt
tình, dũng cảm- một tư cách đạo đức của cá nhân.
            - Tư tưởng triết học về chính trị và xã hội.
            + Từ chủ nghĩa cá nhân, thời Phục hưng coi xã hội là tổng số cá nhân riêng
rẽ.
            + Thí nghiệm xây dựng nhà nước không phụ thuộc vào Nhà thờ.
            + Xuất hiện những học thuyết tổ chức xã hội cộng sản không tưởng, dựa
vào Kinh thánh để yêu cầu xã hội hoá tài sản (Morơ, Campanenla v.v)
            c. Đặc điểm cơ bản của triết học tây Âu thời Phục hưng

30
- Trên cơ sở thực tiễn của sản xuất vật chất và những biến động xã hội,
những tư tưởng triết học và các ngành khoa học tự nhiên lại bắt đầu phát triển. Chủ
nghĩa duy vật được khôi phục và biến đổi theo những biến đổi của khoa học tự
nhiên, các nhà triết học thường đồng thời là nhà khoa học tự nhiên (Brunô, Galilê,
Đềcáctơ, Lépnít v.v); do ảnh hưởng của sản xuất cơ khí máy móc và công trường
thủ công, phương pháp thực nghiệm trong khoa học và trong triết học, phương
pháp tư duy siêu hình xuất hiện và tăng lên khi được áp dụng vào triết học ở cuối
thời Phục hưng; xuất hiện phương pháp nhận thức thực nghiệm.
- Tôn giáo không còn độc quyền chi phối xã hội. Luận điểm con người là
thước đo tất thảy mọi vật được coi là phương châm tư tưởng của thời kỳ này
và trung tâm của các vấn đề triết học. Các giá trị văn hoá, nhất là các giá trị nghệ
thuật đặc biệt được đề cao.
- Nhiều học thuyết triết học đã phục hồi phép biện chứng cổ đại và khái quát
những thành tựu của khoa học tự nhiên. Nhưng theo Ph.Ăngghen, chỉ có khoa học
tự nhiên là cái duy nhất có thể coi là khoa học, bắt đầu phát triển từ thời kỳ này là
có tính chất cách mạng triệt để, chung vai sát cánh với triết học mới đang ra đời.
2. Triết học tây Âu thời Cận đại
            a. Điều kiện ra đời của triết học tây Âu thời Cận đại
- Thời Cận đại ở tây Âu gồm hai thế kỷ XVII - XVIII; giai cấp tư sản đã
giành được thắng lợi chính trị (Hà Lan 1560 - 1570, Anh 1642 - 1648, Pháp 1789 -
1794 v.v) tạo nên các dân tộc, quốc gia tư sản. Phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa đã trở thành phương thức sản xuất thống trị.
            - Khoa học tự nhiên đã trở thành các môn khoa học độc lập với đặc trưng là
khoa học thực nghiệm; phương pháp tư duy siêu hình được áp dụng vào triết học.
            b. Một số nội dung triết học tây Âu thời Cận đại
            - Tư tưởng về bản thể.
            + Nghiên cứu giới tự nhiên từ góc độ tác động qua lại của lực hấp dẫn và
lực đẩy giữa các phần tử vật thể. Các phần tử này luôn bất biến, chỉ thay đổi trạng
thái không gian và tập hợp; lượng là cái dùng để phân biệt các vật thể; mọi vận
động đều được quy vào sự di chuyển vị trí trong không gian. Từ cơ sở đó, xuất
hiện quan điểm đồng nhất vật chất với khối lượng; chỉ có hình thức vận động cơ
học với nguyên nhân từ bên ngoài. Nguyên tử là cái nhỏ nhất, không phân chia
được và không vận động.
            + Tư tưởng về bản thể của một số nhà triết học tiêu biểu.
            Phranxi Bêcơn (1561 - 1621[2], người sáng lập triết học duy vật
Anh), ông coi thế giới vật chất tồn tại khách quan và cho rằng, con người cần phải
thống trị, làm chủ tự nhiên với sức mạnh tri thức; coi nhiệm vụ của triết học là
nhận thức tự nhiên với các mối liên hệ phức tạp của nó và phê phán chủ nghĩa
Kinh viện xa rời cuộc sống, chỉ dựa vào những lập luận tuỳ tiện.

31
Hốpxơ (1588 - 1679, đại biểu nổi tiếng của chủ nghĩa duy vật Anh) là người
chia triết học thành triết học tự nhiên, nghiên cứu các vật thể thiên nhiên và triết
học thông thường, nghiên cứu những vật thể nhân tạo (xã hội loài người). Giới tự
nhiên là tổng số các vật có quảng tính với những khác biệt về kích thước, hình
dáng, vị trí và vận động; trong đó, vận động là sự thay đổi vị trí của vật thể với
nguồn gốc là sự tác động của vật thể này lên vật thể khác qua va chạm đầu tiên.
Đềcáctơ (1596 - 1650, nhà toán học và khoa học tự nhiên Pháp, một trong
những người sáng lập triết học Cận đại) lại cho rằng có hai loại sự vật được sinh ra
từ hai thực thể khác nhau là thực thể tinh thần gồm các ý niệm, tư tưởng, các ý thức
cá nhân con người và thực thể vật chất gồm các sự vật trong không gian, thời gian.
Con người là một sự vật đặc biệt được tạo ra từ hai thực thể là vật chất (cơ thể) và ý
thức (linh hồn). Cả thực thể vật chất và thực thể tinh thần đều do thực thể thứ ba là
Thượng Đế sinh ra.
Xpinôda (1632 - 1677, nhà triết học duy vật xuất sắc Hà Lan) cho rằng, giới
tự nhiên là Thượng Đế, tự sinh ra có đặc tính tồn tại, có nguồn gốc từ thực thể duy
nhất dù thực thể đó là sự vật vật chất hay hiện tượng tinh thần; giữa thực thể với
các sự vật có mối quan hệ hữu cơ là tính thống nhất với tính nhiều vẻ của của giới
tự nhiên. Thực thể là vô cùng tận về không gian và vĩnh hằng về thời gian; sự vật
luôn vận động, biến đổi có sinh ra và mất đi; trong sự tồn tại đã chứa đựng tất yếu
suy vong.
Béccly (1685 - 1753, nhà triết học người Anh, đại biểu điển hình của chủ
nghĩa duy tâm chủ quan) cho rằng, chúng ta có thể nhận thức được sự vật, vì chúng
tương đồng với con người. Sự vật có nguồn gốc chủ quan, là hiện thân của cảm
tính con người; giới tự nhiên được Béccơly coi là tổ hợp cảm giác của con người.
Với luận điểm tồn tại nghĩa là được cảm giác, ông phê phán mọi quan niệm duy
vật và cho rằng, tất cả mọi sự vật tạo nên vũ trụ không tồn tại ngoài tinh thần của
con người.
            - Lý luận nhận thức.
+ Bêcơn chỉ ra những hạn chế trong nhận thức con người, gọi những sai lầm
trong nhận thức là các ngẫu tượng; có bốn loại ngẫu tượng là ngẫu tượng loài- là
sự nhầm lẫn giữa bản chất trí tuệ của mình với bản chất khách quan của sự vật, do
vậy phản ánh xuyên tạc bóp méo sự vật; ngẫu tượng hang động- là mỗi cá nhân có
đặc thù nhân cách, tâm lý chủ quan làm cho nhận thức của họ xuyên tạc bản chất
khách quan của sự vật; ngẫu tượng thị trường- là do sùng bái người nào đó, thiếu
sự chuẩn xác về khoa học ngôn ngữ dẫn tới ủng hộ quan điểm giáo điều; ngẫu
tượng nhà hát- đề cập tới ảnh hưởng có hại của nhiều học thuyết, quan niệm làm
cản trở nhận thức chân lý. Do vậy, Bêcơn coi phương pháp thực nghiệm là công cụ
chủ yếu nhận thức khoa học và khoa học cần nhận thức giới tự nhiên, chứ không
cần những giáo lý của thần học.

32
+ Nghi ngờ là xuất phát điểm của triết học Đềcáctơ, ông phê phán tư tưởng
của Giáo hội và chủ nghĩa Kinh viện coi toàn bộ các tri thức của con người đã đạt
được từ trước tới giờ là hoàn toàn đúng, mà cho rằng phải coi trí tuệ con người là
toà án thẩm định lại các tri thức. Nghi ngờ là xuất phát của mọi nhận thức, nghi
ngờ để kiểm tra lại, nhận thức lại tri thức để có cơ sở tin tưởng, bởi vậy nghi ngờ
cũng là tư duy, suy nghĩ. Luận điểm tôi tư duy vậy là tôi tồn tại của ông chống lại
tư tưởng giáo điều, chống giáo lý của Nhà thờ; đề cao vai trò trí tuệ của con người.
+ Xpinôda lại đề cao vai trò của kinh nghiệm bởi cho rằng, kinh nghiệm đem
lại sự cảm thụ tính sinh động và đa dạng của các sự vật, đem lại hiểu biết về sự vật
đơn lẻ. Ông đánh giá cao vai trò của trực giác bởi nó giúp con người nhận thức
được bản chất đích thực của thực thể và coi trực giác là cái khả năng khám phá
chân lý và là tiêu chuẩn của nhận thức. Quá trình nhận thức giúp con người khám
phá và tuân theo các quy luật của tự nhiên và con người nhờ đó, ngày càng tự do.
+ Béccly coi thế giới là tổ hợp các cảm giác của con người. Sự tồn tại của
linh hồn là sự cảm nhận và linh hồn chỉ tồn tại khi nó cảm nhận các sự vật khác.
Quá đề cao cảm giác, ông đã đồng nhất toàn bộ các ý niệm của con người với cảm
giác; còn chân lý là sự phù hợp của suy diễn về sự vật.
+ Hium cho rằng quá trình nhận thức không phải là nhận thức thế giới, mà là
nhận thức những quá trình tâm lý xảy ra trong con người mà ông gọi là những cảm
xúc. Nghi ngờ sự tồn tại của thế giới bên ngoài, ông phê phán quan niệm coi vật
chất là thực thể của mọi vật mà cho rằng bản thân vật chất, thực thể v.v là tổng thể
các ý niệm đơn giản liên kết lại với nhau nhờ sự tưởng tượng. Thực thể, sự vật
không tồn tại khách quan, chúng tồn tại trong hư cấu của con người và khoa học là
sự mô tả cảm xúc và trạng thái tâm lý của con người.
            - Tư tưởng về con người và bản tính con người.
Tiếp tục phát triển tư tưởng nhân đạo thời Phục hưng, các nhà triết học Khai
sáng lấy việc truyền bá tri thức tốt đẹp rộng rãi cho mọi người làm nhiệm vụ chính
của mình.
+ Đềcáctơ đề cao vai trò của triết học đối với đời sống con người. Theo ông,
trình độ phát triển tư duy triết học là tiêu chuẩn quan trọng nhất để đánh giá mức
độ văn minh của con người và sự ưu việt của dân tộc này đối với dân tộc khác.
Ông cho rằng triết học theo nghĩa rộng là tổng thể tri thức của con người về nhiều
lĩnh vực; theo nghĩa hẹp là siêu hình học được coi như nền tảng của hệ thống thế
giới quan. Triết học có hai nhiệm vụ 1) Xây dựng những nguyên lý, phương pháp
luận cơ bản làm cơ sở cho các khoa học khám phá ra chân lý và 2) Giúp con người
làm chủ và thống trị giới tự nhiên trên cơ sở nhận thức các quy luật của nó.  
+ Xpinôda cho rằng con người là một dạng thức bao gồm hai thuộc tính thể
xác (quảng tính) linh hồn (ý thức). Con người là một dạng thức của thực thể, là sản
phẩm của tự nhiên, mọi hoạt động của con người phải tuân theo quy luật của giới
tự nhiên. Linh hồn và thể xác là hai hình thức thể hiện của một thực thể, là hai cách
33
thể hiện nội dung của một thể thống nhất; mọi quan niệm tách rời linh hồn khỏi thể
xác và coi linh hồn có nguồn gốc siêu nhiên là sai lầm, là duy tâm.
+ Beccơly cho rằng con người là kết quả kết hợp giữa linh hồn với thể xác.
Thể xác thuộc về tự nhiên và tồn tại là nhờ linh hồn cảm nhận; coi sự hoàn thiện
tối cao của bản chất con người ở chỗ nhận thức và thực hiện các giáo lý. Béccơly
là đại biểu điển hình của chủ nghĩa duy tâm chủ quan thời Cận đại có đóng góp lớn
trong phê phán sự hạn chế và bất lực của triết học và khoa học cuối thế kỷ XVII
đầu XVIII ở tây Âu.
+ Hium phê phán các quan niệm coi linh hồn con người là một thực thể mà
coi con người là sự liên kết hay một chùm các giá trị khác nhau, cái này kế tiếp cái
kia nằm trong quá trình biến đổi. Hium nghi ngờ mọi cái mà nhân loại đã đạt được,
không tin vào các chuẩn mực đạo đức, truyền thống và nhấn mạnh phải giữ gìn
tính hoài nghi luận của mình trong mọi trường hợp của cuộc sống.
            - Tư tưởng về đạo đức.
            + Đặc điểm chung của tư tưởng về đạo đức thời Cận đại là dường như quay
lại với tư tưởng về đạo đức trong triết học Hy Lạp cổ đại. Các nhà triết học thời
Cận đại mong muốn xây dựng mô hình tư tưởng, trong đó liên hiệp và hệ thống
hoá những tư tưởng về đạo đức đã có từ thời Cổ đại và Trung cổ.
            + Tư tưởng về đạo đức của một số nhà triết học tiêu biểu
            Hốpxơ gắn đạo đức học với đạo đức về nhà nước và pháp quyền, theo đó
con người phải chuyển từ trạng thái tự nhiên sang trạng thái xã hội hay trạng thái
nhà nước với lý do là sự ích kỷ và đấu tranh lẫn nhau là là những đặc điểm phổ
biến của bản chất con người. Xpinôda coi nhiệm vụ của đạo đức là giúp con người
thắng được những lỗi lầm do ham muốn và sùng bái tôn giáo gây ra, theo đó nhiệm
vụ của đạo đức là khắc phục được sự nô lệ (những ham muốn), làm chủ được tình
cảm, điều khiển được ham muốn để phát triển lành mạnh và có hạnh phúc chân
chính.
            Các nhà duy vật Pháp thế kỷ XVIII (còn được gọi là phái Bách khoa toàn
thư) chống lại đạo đức tôn giáo và cho rằng, đạo đức không sinh ra cùng với con
người mà sinh ra do sự tác động của môi trường xã hội, mà trước hết là môi trường
chính trị và pháp luật; do vậy nếu con người muốn đạt đến đạo đức cao cả thì cần
thay đổi điều kiện xã hội. Điđrô (1713 - 1784) coi sự thiết tha muốn sống đạo đức
là nguyên tắc đạo đức của con người; gắn đạo đức với khoa học tự nhiên, đối lập
đạo đức với tôn giáo; lợi ích cá nhân phải được kết hợp hợp lý với lợi ích xã hội.
Henvêtiúyt (1715 - 1771) đề xướng thuyết đạo đức trần thế, theo đó hạnh phúc
chung là nguồn gốc của đức hạnh, là mục tiêu của luật lệ, phong tục, tập quán;
hạnh phúc cá nhân phải kết hợp với hạnh phúc chung. Hônbách (1723 - 1789)
khẳng định con người sinh ra vốn không thiện, không ác; mọi lỗi lầm của con
người đều do điều kiện xung quanh, chủ yếu là điều kiện chính trị gây nên; sự hiểu
biết đúng đắn về lợi ích cá nhân dẫn tới đức hạnh; nhiệm vụ của đạo đức là chỉ ra
34
những điều kiện, trong đó lợi ích cá nhân là cơ sở tất yếu để dung hoà với lợi ích
xã hội.
c. Đặc điểm cơ bản của triết học tây Âu thời Cận đại
            - Triết học tây Âu thời Cận đại được coi là thế giới quan của giai cấp tư sản
đang còn cách mạng, tiến bộ. Nhiều luận điểm triết học duy vật được chứng minh
bằng các thành tựu của khoa học thực nghiệm (chuyên ngành) tạo nên vị thế của
phương pháp siêu hình- là phương pháp chủ yếu trong nhận thức luận triết học thời
bấy giờ.
            - Triết học tây Âu thời Cận đại đi sâu nghiên cứu vấn đề con người và đã
nghiên cứu trong cả mối quan hệ với tự nhiên và cả với chính mình.
IV. TRIẾT HỌC CỔ ĐIỂN ĐỨC
1. Điều kiện ra đời và phát triển của triết học cổ điển Đức
Triết học cổ điển Đức ra đời cuối thế kỷ XVIII đến giữa thế kỷ XIX trong
một liên bang phong kiến cát cứ có 360 quốc gia, lạc hậu về kinh tế và chính trị với
sự phản kháng của giai cấp tư sản Đức và muốn làm cách mạng tư sản như Hà Lan,
Anh, Pháp. Nhưng do nhỏ bé về số lượng, yếu kém về kinh tế và chính trị nên giai
cấp tư sản Đức vừa muốn làm cách mạng vừa muốn thoả hiệp với tầng lớp phong
kiến nên có lập trường cải lương.
2. Một số nội dung triết học cổ điển Đức
a. Tư tưởng về nguồn gốc thế giới
            Tư tưởng về nguồn gốc thế giới trong triết học cổ điển Đức đầy mâu thuẫn
thể hiện ở tính duy tâm, duy vật và nhị nguyên của các nhà triết học tiêu biểu.
- Trong triết học nhị nguyên của Cantơ (1724 - 1804), thế giới được tạo nên
từ vật tự nó tồn tại khách quan và tác động lên các giác quan con người, nhưng các
sự vật mà con người nhận thấy được chỉ là các hiện tượng phù hợp với các cảm
giác và tri giác do lý tính con người tạo ra, không liên quan tới vật tự nó.
- Trong triết học duy tâm khách quan của Hêghen (1770 - 1831), ý niệm
tuyệt đối là nguồn gốc của mọi sự vật, hiện tượng tự nhiên và xã hội.
- Trong triết học duy vật nhân bản của Phoiơbắc (1804 - 1872), thế giới là
thế giới vật chất, tồn tại độc lập và không phụ thuộc vào bất kỳ học thuyết triết học
nào, do vậy cơ sở tồn tại của giới tự nhiên nằm trong giới tự nhiên.
b. Tư tưởng biện chứng
Ra đời vào cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX, khởi đầu từ Cantơ qua
Phíctơ, Sêlinh và phát triển đến đỉnh cao ở Hêghen, đây là hình thức thứ hai của
phép biện chứng, hình thức quen thuộc nhất với các nhà khoa học tự nhiên Đức, là
triết học cổ điển Đức.
- Là người sáng lập phép biện chứng cổ điển Đức, những quan điểm biện
chứng của Cantơ thể hiện rõ nét ngay từ thời kỳ tiền phê phán (1746 - 1770), theo
đó phát triển không những chỉ là trạng thái tự nhiên, mà còn là nguyên lý quan

35
trọng để nhận thức tự nhiên và nguyên lý này phải được vận dụng trong mọi khoa
học chuyên ngành.
- Trái lại, phép biện chứng duy tâm của Hêghen thể hiện trong quan điểm
của ông về mâu thuẫn; về quy luật lượng - chất; về các phạm trù riêng - chung, bản
chất - hiện tượng, nguyên nhân - kết quả v.v. Đặc biệt là quan niệm về sự phát
triển, theo đó phát triển được coi là sự tự phát triển của ý niệm tuyệt đối, từ tồn tại
đến bản chất, từ bản chất đến khái niệm, trong đó khái niệm vừa là chủ thể, vừa là
khách thể, đồng thời là ý niệm tuyệt đối. Hêghen coi phát triển là nguyên lý cơ bản
nhất của phép biện chứng với phạm tr�� trung tâm là tha hoá và khẳng định tha
hoá diễn ra ở mọi nơi, mọi lúc trong cả tự nhiên, xã hội và tinh thần.
            c. Tư tưởng về con người
Trong triết học cổ điển Đức, con người vừa là chủ thể, vừa là kết quả của
quá trình hoạt động của mình và có bản chất xã hội.
- Tư tưởng về con người trong triết học Cantơ bắt đầu tư tưởng về sự thống
nhất của loài người. Sự phát triển của loài người dược ông phân chia thành bốn
bước 1) chuyển từ trạng thái động vật sang trạng thái có tính người; từ lệ thuộc vào
bản năng sang sự chỉ đạo của lý trí. 2) khi lý trí đã đóng vai trò chủ yếu- mối quan
hệ giữa các cá nhân trong xã hội đã do lý trí chỉ đạo; ở con người đã xuất hiện nhu
cầu giáo dục. 3) hãy sống cho thế hệ mai sau, tức là sự phát triển hướng tới tương
lai. 4) bước phát triển được thực hiện bằng lý trí và từ đây, con người vượt lên con
vật. Bản chất hoạt động của con người được thể hiện trong triết học thực tiễn, theo
đó con người trong triết học th��c tiễn chính là con người đã được bàn tới trong
triết học lý luận, bây giờ được nghiên cứu trong trong hoạt động thực tiễn (nghĩa
hẹp là hoạt động đạo đức, nghĩa rộng là hoạt động chính trị, lịch sử, pháp luật, văn
hoá v.v).
- Hêghen lại coi thế giới vật chất là con người vô cơ, ở giai đoạn chưa hình
thành; còn con người bằng xương, bằng thịt là con người đã phát triển đầy đủ, là
con người đã trở về với bản thân mình với tất cả những đặc tính vốn có. Con người
vừa là chủ thể, vừa là kết quả của quá trình hoạt động của chính mình; tư duy, trí
tuệ con người được hình thành và phát triển khi con người nhận thức và cải biến
thế giới đối lập với mình thành thế giới của mình; hoạt động càng phát triển thì ý
thức càng mang bản chất xã hội.
- Tư tưởng về con người trong triết học nhân bản của Phoiơbắc được bắt đầu
từ quan điểm coi con người là sản phẩm cao nhất của giới tự nhiên và nhận thức
con người là nền tảng để nhận thức thế giới và giải quyết vấn đề cơ bản của triết
học. Con người là sự thống nhất giữa vật chất và tinh thần; con người sáng tạo ra
Thượng Đế; thần thánh là bản chất con người được tinh chế, khách quan hoá, tách
rời con người hiện thực, tôn giáo là bản chất con người đã bị tha hoá. Phoiơbắc cho
rằng bản chất tự nhiên của con người là hướng tới cái chân, cái thiện, hướng tới cái
gì đẹp nhất trong một hình tượng đẹp nhất về con người; những điều kiện , môi
36
trường và hoàn cảnh sốngcó tác động to lớn đối với tư duy và ý thức con người. ở
trong cung điện người ta suy nghĩ khác trong túp lều tranh; các thời đại khác nhau
là do sự khác nhau của các tôn giáo, muốn thay đổi xã hội cũ bằng một xã hội mới
chỉ cần thay đổi tôn giáo cũ bằng tôn giáo mới.
            d. Tư tưởng về đạo đức
            Bước phát triển mới của đạo đức học được thể hiện trong học thuyết đạo
đức của các nhà triết học cổ điển Đức.
- Cantơ coi lý tính là nguồn gốc duy nhất sinh ra các nguyên lý, chuẩn mực
đạo đức; còn các khát vọng cảm tính đưa con người đến hưởng thụ cá nhân, ích kỷ,
phi đạo đức. Nguyên tắc cơ bản của đạo đức là tuân theo mệnh lệnh tuyệt đối và
chỉ khi hành động phù hợp với mệnh lệnh tuyệt đối thì mới được coi là có đạo đức;
theo đó mệnh lệnh tuyệt đối là quy định đạo đức chung mà mọi người đều phải
thực hiện để tôn trọng mình, tôn trọng người, tôn trọng lẽ phải, tôn trọng sự thật và
tiêu chuẩn đánh giá giá trị đạo đức là có lợi cho công dân và xã hội. Phạm trù trung
tâm của đạo đức Cantơ là tự do với quan niệm ý chí tự do và ý chí tuân theo các
quy luật đạo đức là như nhau.
- Tư tưởng về đạo đức của Hêghen gắn liền với tư tưởng về pháp quyền, đạo
đức, gia đình, xã hội công dân và nhà nước trong sự tha hoá của tinh thần đạo đức
khách quan. Trong đạo đức học của Hêghen, phạm trù cái thiện và cái ác tồn tại
trong những mâu thuẫn nội tại và sự chuyển hoá lẫn nhau giữa chúng trong những
điều kiện cụ thể của quá trình lịch sử. Hai phạm trù ấy thể hiện trọn vẹn ý chí của
con người đối với cái toàn năng, thể hiện sự thống nhất giữa đạo đức cá nhân với
các quyền lợi chung; nghĩa vụ của đạo đức cao cả là yêu nước, phục tùng nhà
nước.
- Tư tưởng về đạo đức của Phơibắc thể hiện trong việc xác định được sự hài
hoà giữa nghĩa vụ với hạnh phúc, với các lợi ích của con người. Nguyên tắc cơ bản
của đạo đức là sự yêu thương lẫn nhau giữa con người và nguyện vọng tự nhiên
muốn có hạnh phúc của nó, trong đó tình yêu có thể khắc phục được bất công xã
hội, đau khổ của con người.
3. Đặc điểm cơ bản của triết học cổ điển Đức
            - Triết học cổ điển Đức có nội dung cách mạng trong hình thức duy tâm,
bảo thủ; đề cao vai trò tích cực của tư duy con người; coi con người là th���c
thể hoạt động và là nền tảng, điểm xuất phát của mọi vấn đề triết học.
            - Phép biện chứng trong triết học cổ điển Đức trở thành phương pháp đối
lập với phương pháp siêu hình trong việc nghiên cứu các sự vật, hiện tượng tự
nhiên và xã hội.
V. MỘT SỐ TRÀO LƯU TRIẾT HỌC PHƯƠNG TÂY HIỆN ĐẠI
1. Điều kiện ra đời và phát triển của triết học phương Tây hiện đại
- Triết học phương Tây hiện đại là các học trường phái triết học xuất hiện từ
giữa thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX. Ba khuynh hướng chủ yếu là chủ nghĩa duy
37
khoa học, chủ nghĩa nhân bản phi lý tính và triết học tôn giáo mà chủ nghĩa Tômát
mới là tiêu biểu.
- Triết học phương Tây hiện đại có xu hướng điều hoà mâu thuẫn giữa khoa
học với tôn giáo; điều hoà sự tách biệt đối lập giữa chủ nghĩa duy lý với chủ nghĩa
nhân bản.
2. Một số nội dung triết học phương Tây hiện đại
a. Triết học duy khoa học
Người sáng lập là Côngtơ, triết học duy khoa học ra đời từ thế kỷ XIX, vào
đầu thế kỷ XX. Triết học duy khoa học tồn tại trong hai hình thức là chủ nghĩa
thực chứng, hậu thực chứng và chủ nghĩa thực chứng mới.
            b. Triết học nhân bản phi lý tính
            Người sáng lập là Sôpenhauơ. Triết học nhân bản tồn tại trong ba hình thức
là triết học cuộc sống, triết học hiện sinh và triết học Phơrớt.
            c. Triết học tôn giáo
            Điển hình của triết học tôn giáo là chủ nghĩa Tômát mới.
3. Đặc điểm của triết học phương Tây hiện đại
            -  Hoà nhập với triết học tôn giáo.
            - Thâm nhập hoặc hoà nhập lẫn nhau giữa các trường phái.
            - Thâm nhập vào triết học Mác nói riêng và chủ nghĩa Mác nói chung./.
 

38
CHƯƠNG IV. KHÁI LƯỢC LỊCH SỬ TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN
PGS.TS. Đoàn Đức Hiếu, Đại học Huế.
-----------------
Người trình bày: Tiến sỹ Nguyễn Thái Sơn, Đại học Quốc gia Hà Nội.
Điện thoại 0913541171.
Đối tượng: Học viên cao học ngành Kinh tế, Sư phạm v.v.
Thời lượng: 8 tiết trên lớp, 4 tiết tự học (Giảng viên nêu những vấn đề
tự học).
            Thời gian: 17g30 các tối 18/12/06, 21/12/06 & 19/12/06, 22/12/06.
Địa điểm: Hội trường 8, Nhà B4, Trường Đại học Ngoại ngữ.
-------------------
I. ĐIỀU KIỆN RA ĐỜI CỦA TRIẾT HỌC MÁC
1. Điều kiện kinh tế - xã hội
- Sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất do tác động của cuộc cách
mạng khoa học kỹ thuật làm cho phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa thể hiện
tính hơn hẳn so với phương thức sản xuất phong kiến. Đồng thời với sự phát triển
đó, mâu thuẫn vốn có, nội tại nằm trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa
ngày càng trở nên sâu sắc và gay gắt hơn. Đó là mâu thuẫn giữa tính xã hội
của quá trình sản xuất và trình độ phát triển ngày càng cao của lực lượng sản
xuất với hình thức sở hữu tư liệu sản xuất tư nhân; tổ chức, quản lý, phân công lao
động và hưởng thụ sản phẩm lao động xã hội bất bình đẳng. Sản phẩm xã hội tăng
lên nhưng lý tưởng về tự do, bình đẳng, bác ái không được thực hiện. Bất công xã
hội tăng, đối kháng xã hội thêm sâu sắc. Giai cấp tư sản không còn đóng vai trò là
giai cấp cách mạng trong xã hội.
- Mâu thuẫn giữa vô sản với tư sản, vốn mang tính đối kháng, đã biểu hiện
thành đấu tranh giai cấp. Khởi nguồn là cuộc khởi nghĩa của thợ dệt Lyông (1831
và 1834) "đã vạch ra một điều bí mật quan trọng- đó là cuộc đấu tranh bên trong,
diễn ra trong xã hội, giữa giai cấp những người có của và giai cấp những kẻ không
có gì hết; phong trào Hiến chương ở Anh (1830-1840) là phong trào cách mạng vô
sản to lớn đầu tiên, thật sự có tính chất quần chúng và có hình thức chính trị. Giai
cấp vô sản  xuất hiện với tư cách là một lực lượng chính trị - xã hội với sứ mệnh
tiên phong, đã ý thức được những lợi ích cơ bản của mình và tiến hành đấu tranh tự
giác chống giai cấp tư sản.
- Thực tiễn cách mạng vô sản nảy sinh nhu cầu khách quan là những vấn đề
mà thời đại đặt ra cần phải được soi sáng bằng lý luận khoa học trên lập trường của
giai cấp vô sản để giải đáp những vấn đề thực tiễn của thời đại đặt ra. Chủ nghĩa
Mác xuất hiện với tính cách là hệ tư tưởng khoa học của giai cấp công nhân, đưa

39
phong trào công nhân từ tự phát lên tự giác vì có lý luận khoa học của mình dẫn
đường.
2. Tiền đề lý luận
Toàn bộ thiên tài của Mác chính là ở chỗ ông đã giải đáp được những vấn đề
mà mà tư tưởng tiên tiến của nhân loại đã nêu ra. Học thuyết của ông ra đời là sự
thừa kế thẳng và trực tiếp những học thuyết của các đại biểu xuất sắc nhất trong
triết học, trong kinh tế chính trị học và trong chủ nghĩa xã hội.
- Phép biện chứng duy tâm của Hêghen là sự phát triển cao với hình thức và
nội dung phong phú. Về hình thức, phép biện chứng đó bao quát cả ba lĩnh vực, bắt
đầu từ các phạm trù lôgíc thuần tuý đến lĩnh vực tự nhiên, tinh thần và kết thúc
bằng biện chứng của toàn bộ quá trình lịch sử. Về nội dung, phép biện chứng đó
được chia thành tồn tại, bản chất và khái niệm. Trong đó, Hêghen coi phát triển là
nguyên lý cơ bản nhất của phép biện chứng với phạm trù trung tâm là tha hoá và
khẳng định tha hoá được diễn ra ở mọi nơi, mọi lúc trong cả tự nhiên, xã hội và
tinh thần.
- Phoiơbắc là một trong những nhà duy vật lớn, ông đã chứng minh thế giới
là thế giới vật chất; cơ sở tồn tại của giới tự nhiên chính là giới tự nhiên không do
ai sáng tạo ra và tồn tại độc lập với ý thức. Tư duy, ý thức con người là sự phản
ánh của dạng vật chất tổ chức cao về thế giới. Khi phát triển lý luận nhận thức duy
vật, Phoiơbắc đã dựa vào thực tiễn để xem xét mọi hiện tượng thuộc về con người
và xã hội. Con người trong quan niệm của Phoiơbắc là con người trừu tượng, phi
lịch sử, mang những thuộc tính sinh học bẩm sinh nên chứa đựng nhiều yếu tố của
chủ nghĩa duy tâm.
- C.Mác và Ph.Ăngghen đã kế thừa bằng cách cải tạo, lột bỏ cái vỏ thần bí
để xây dựng nên phép biện chứng duy vật. Giải thoát chủ nghĩa duy vật khỏi tính
siêu hình, các ông đã làm cho nó trở nên hoàn bị và mở rộng học thuyết ấy từ chỗ
nhận thức giới tự nhiên đến chỗ nhận thức xã hội loài người, chủ nghĩa duy vật lịch
sử của Mác là thành tựu vĩ đại nhất của tư tưởng nhân loại.
3. Tiền đề khoa học tự nhiên
Trong những thập kỷ đầu thế kỷ XIX, khoa học tự nhiên phát triển mạnh với
nhiều phát minh quan trọng và với những phát minh đó, khoa học đã cung cấp cơ
sở tri thức khoa học để tư duy biện chứng vượt lên tính tự phát của phép biện
chứng cổ đại, thoát khỏi tính thần bí của phép biện chứng duy tâm và trở
thành khoa học.
- Định luật bảo toàn và chuyển hoá năng lượng của các nhà khoa học tự
nhiên chứng tỏ lực cơ học, nhiệt, ánh sáng, điện tử, các quá trình hoá học không
tách rời nhau, mà liên hệ với nhau và hơn thế nữa, trong những điều kiện nhất
định, chúng chuyển hoá cho nhau mà không mất đi, chỉ có sự chuyển hoá không
ngừng của năng lượng từ dạng này sang dạng khác. Định luật đã dẫn đến kết luận

40
triết học là sự phát triển của vật chất là một quá trình vô tận của sự chuyển hoá
những hình thức vận động của chúng.
- Thuyết tế bào chứng minh rằng, tế bào là cơ sở của kết cấu và sự phát triển
chung của thực vật và động vật. Bản chất sự phát triển của chúng đều nằm trong sự
hình thành và phát triển của tế bào. Thuyết tế bào xác định sự thống nhất về mặt
nguồn gốc và hình thức giữa động vật và thực vật; giải thích quá trình phát triển
của chúng; đặt cơ sở cho sự phát triển của toàn bộ nền sinh học; phá bỏ quan niệm
siêu hình về mặt nguồn gốc và hình thức giữa giới thực vật với động vật.
- Thuyết tiến hoá giải thích duy vật về nguồn gốc và sự phát triển của các
loài thực vật và động vật. Các loài thực vật và động vật biến đổi, các loài đang tồn
tại được sinh ra từ các loài khác bằng con đường chọn lọc tự nhiên và chọn lọc
nhân tạo. Phát minh này đã khắc phục được quan điểm cho rằng giữa thực vật và
động vật không có sự liên hệ; là bất biến; chúng do Thượng Đế tạo ra và đã đem lại
cho sinh học cơ sở thật sự khoa học, xác định tính biến dị và di truyền giữa các
loài. Những phát minh trên đây của khoa học tự nhiên cho thấy sự tiến bộ của khoa
học là tiền đề cho sự tiến bộ của triết học.
II. NHỮNG GIAI ĐOẠN CHỦ YẾU TRONG SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT
TRIỂN CỦA TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN
1. Giai đoạn C.Mác và Ph.Ăngghen
a. Quá trình chuyển biến tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen từ chủ
nghĩa duy tâm và lập trường dân chủ cách mạng sang chủ nghĩa duy vật và
lập trường cộng sản chủ nghĩa (1842 - 1844)
- Giới thiệu C.Mác và Ph.Ăngghen. C.Mác là con một nhà quý phái,
Ph.Ăngghen là con một nhà tư bản, nhưng hai ông đã hoàn toàn dâng mình cho
cách mạng và trở thành những người sáng lập chủ nghĩa cộng sản.
+ Tên đầy đủ của C.Mác là Karl Henrix Marx, sinh ngày 5 tháng 5 năm
1818 tại Tơria, tỉnh Ranh, nước Đức trong một gia đình luật sư người Do thái có tư
tưởng khai sáng và tự do; từ trần ngày 14 tháng 3 năm 1883, an táng tại nghĩa trang
Khaighết, Luân Đôn, Anh.
+ Ph.Ăngghen sinh ngày 28 tháng 11 năm 1820 tại Bácmen, tỉnh Ranh,
nước Đức trong một gia đình tư bản công nghiệp dệt bảo thủ về tư tưởng; từ trần
ngày mùng 5 tháng 8 năm 1895 tại Luân Đôn, Anh. Theo nguyện vọng của
Ph.Ăngghen, sau khi hoả táng, tro thi hài được thả xuống eo biển gần Ixtôbôrn,
phía Nam bờ nước Anh.
- Giới thiệu bước đầu hoạt động chính trị - xã hội và khoa học của C.Mác và
Ph. Ăngghen.
Khuynh hướng tư tưởng, chính trị của C.Mác thời niên thiếu chịu ảnh hưởng
của môi trường sống, tư tưởng duy lý và chủ nghĩa tự do về tôn giáo; hoạt động
chính trị của người cha và ảnh hưởng của một số giáo viên có tư tưởng dân chủ.
41
Năm 1837, C.Mác làm quen với triết học Hêghen, tham gia phái Hêghen trẻ. Năm
1841, C.Mác nhận học vị tiến sỹ triết học với luận án Sự khác nhau giữa triết học
tự nhiên của Êpiquya với triết học tự nhiên của Đêmôcrít tại trường Đại học Tổng
hợp Iêna.
Sự chuyển biến tư tưởng có nội dung hơn và sự chuyển biến thế giới quan
triết học ở C.Mác bước đầu chỉ thực sự diễn ra trong thực tiễn đấu tranh thông qua
báo chí, trong thời kỳ ông làm việc ở báo Sông Ranh (5/1842-4/1843). Chính trong
thực tiễn này mà C.Mác nhận thức được những mối quan hệ vật chất của đời sống
xã hội, tạo ra sự chú ý đến vai trò của lợi ích kinh tế và sở hữu; nhận thức đầy đủ
hơn về những hạn chế của triết học Hêghen, tính phản động, bảo thủ của nhà nước
Phổ. Đụng chạm đến những mâu thuẫn thực tế của xã hội, với những vấn đề về
kinh tế, C.Mác viết những bài báo như Nhận xét bản chỉ thị mới nhất về chế độ
kiểm duyệt của Phổ, Tuyên ngôn triết học của trường phái lịch sử pháp quyền,
Những cuộc tranh luận về luật cấm trộm củi rừng[3] v.v để thể hiện quan điểm của
mình về tình cảnh quẫn bách của quần chúng lao động, bảo vệ lợi ích của những
con người nghèo khổ, những người lao động, đấu tranh vì tự do và dân chủ.
C.Mác đặt cho mình nhiệm vụ tìm những động lực thật sự để biến đổi thế
giới bằng cách mạng. Từ tháng 5 đến tháng 10 năm 1843, C.Mác nghiên cứu lại
mang tính phê phán Triết học pháp quyền của Hêghen, ông viết Góp phần phê
phán triết học pháp quyền của Hêghen để phê phán học thuyết Hêghen về nhà nước
và pháp luật (về thực chất tóm tắt những quan niệm duy tâm của Hêghen về xã hội)
và qua đó phê phán chủ nghĩa duy tâm của Hêghen. Trong sự đối lập với Hêghen,
C.Mác đi tới kết luận, không phải nhà nước quy định xã hội công dân[4], mà
ngược lại, xã hội công dân quy định nhà nước. Việc làm nổi bật vai trò quyết định
của mối quan hệ vật chất đối với sự phát triển của lịch sử đã mở ra con đường khắc
phục quan niệm duy tâm của Hêghen về xã hội, làm tăng xu hướng duy vật trong
tư tưởng và là điểm xuất phát nhận thức duy vật về lịch sử của C.Mác trong tương
lai.
Tháng 9 năm 1841, trong thời gian làm nghĩa vụ quân sự tại Béclinh,
Ph.Ăngghen tự học ở các trường đại học và tham gia phái Hêghen trẻ, chịu ảnh
hưởng sâu sắc Bản chất đạo Cơ đốc của Phoiơbắc. Những tác phẩm của
Ph.Ăngghen thời kỳ 1841 - 1842 như Sêlinh nói về Hêghen (1841), Sêlinh- nhà
triết học trong Kitô, hoặc việc cải biến đạo lý thế tục thành đạo lý thần thánh
(1842) v.v, cho thấy tuy vẫn đứng trên lập trường duy tâm của triết học Hêghen,
nhưng ông đã nhận ra mâu thuẫn giữa tính cách mạng với tính bảo thủ trong triết
học ấy, đồng thời thấy tính triệt để hơn trong triết học Phoiơbắc. Từ mùa Thu
1842, trong thời gian sống gần hai năm ở Mansextơ (Anh), việc nghiên cứu đời
sống kinh tế và sự phát triển chính trị của nước Anh, nhất là việc trực tiếp tham gia
phong trào công nhân mới dẫn ông đến bước chuyển biến căn bản trong thế giới
quan và lập trường chính trị.
42
- Giới thiệu sự chuyển biến từ chủ nghĩa duy tâm sang chủ nghĩa duy vật
biện chứng và từ lập trường dân chủ cách mạng sang lập trường cộng sản chủ
nghĩa của C.Mác và Ph.Ăngghen.
Các tác phẩm Góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hêghen; Góp
phần phê phán triết học pháp quyền của Hêghen. Lời nói đầu; Lập trường của các
chính đảng; Tình cảnh của giai cấp lao động ở Anh; Lược thảo phê phán khoa kinh
tế chính trị đánh dấu sự chuyển biến hoàn toàn từ chủ nghĩa duy tâm và lập trường
dân chủ cách mạng sang chủ nghĩa duy vật và lập trường cộng sản chủ nghĩa của
C.Mác và Ph.Ăngghen.
b. Giai đoạn C.Mác và Ph.Ăngghen đề xuất những nguyên lý triết học duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử (1844-1848)
Các tác phẩm Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844; Gia đình thần thánh;
Luận cương về Phoiơbắc; Hệ tư tưởng Đức; Sự khốn cùng của triết học và Tuyên
ngôn của Đảng Cộng sản đánh dấu chủ nghĩa Mác đã được trình bày chỉnh thể với
các quan điểm lý luận nền tảng của ba bộ phận hợp thành, thể hiện từng bước sự đề
xuất, khẳng định vai trò của triết học trong đời sống xã hội.
c. Giai đoạn C.Mác và Ph.Ăngghen bổ sung, phát triển lý luận triết học (1848-
1895)
- Các tác phẩm Đấu tranh giai cấp ở Pháp; Ngày 18 tháng Sương mù của Lui
Bônapáctơ; Cách mạng và phản cách mạng ở Đức; Tư bản; Nội chiến ở Pháp; Phê
phán Cương lĩnh Gôta; Chống Đuyrinh; Biện chứng của tự nhiên; Nguồn gốc và
gia đình, của sở hữu tư nhân và của nhà nước; Lútvích Phoiơbắc và sự cáo chung
của triết học cổ điển Đức thể hiện sự bổ sung và phát triển toàn diện những vấn đề
triết học, kinh tế chính trị và chủ nghĩa xã hội khoa học của C.Mác và Ph.Ăngghen,
tạo nên chủ nghĩa Mác hoàn chỉnh.
            - Giới thiệu khái quát tác phẩm Chống Đuyrinh.
+ Hoàn cảnh ra đời của tác phẩm
Chống Đuyrinh là tên gọi đã đi vào lịch sử các tác phẩm kinh điển chủ nghĩa
Mác của Cuộc đảo lộn trong khoa học do Ngài Ơghênhi Đuyrinh thực hiện của
Ph.Ăngghen và C.Mác. Tác phẩm được viết không chỉ vì sự cấp bách về lý luận,
mà còn vì sự cấp bách về chính trị. Năm 1875, Đuyrinh đã viết một loạt bài công
kích gay gắt chủ nghĩa Mác. Sự công kích đó đã làm ảnh hưởng tới niềm tin của
một bộ phận thành viên của đảng xã hội - dân chủ Đức. Tác phẩm chống lại những
tư tưởng tầm thường, hỗn độn và chiết trung trong triết học duy vật siêu hình, thực
chứng và duy tâm, thể hiện trong các hình thức khác nhau của chủ nghĩa xã hội
tiểu tư sản của Đuyrinh. Đó là hoàn cảnh ra đời của một tác phẩm bút chiến mãnh
liệt về hình thức, có tính từ điển bách khoa về nội dung.
Năm 1880, theo đề nghị của Lapharg, Ph.Ăngghen chỉnh lý lại 3 chương của
Chống Đuyrinh và phổ biến dưới dạng bản thảo Sự phát triển của chủ nghĩa xã hội
từ không tưởng đến khoa học. Đây là một trong những tác phẩm được phổ biến
43
rộng rãi nhất trong những tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác. Năm 1892,
Ph.Ăngghen viết Lời mở đầu cho lần xuất bản bằng tiếng Anh và bằng tiếng Đức,
xuất bản dưới tên gọi Về chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Cấu trúc của tác phẩm. Tương xứng với ba thành phần cấu thành chủ nghĩa
Mác, Chống Đuyrinh được cấu thành, ngoài Lời nói đầu, từ ba bộ phận chính gồm
Triết học; Kinh tế chính trị học và Chủ nghĩa xã hội khoa học.
+ Nội dung cơ bản của tác phẩm
Tư tưởng chính của tác phẩm là cuộc đấu tranh vì sự triệt để của chủ nghĩa
duy vật biện chứng. Theo V.L.Lênin, hoặc là chủ nghĩa duy vật đến cùng, hoặc là
sự dối trá và sự lộn xộn của triết học chủ nghĩa duy tâm,- đó là vấn đề được đưa ra
trong từng mục của Chống Đuyrinh.
* Vấn đề về thế giới quan duy vật trong tác phẩm. Giải quyết biện chứng và
duy vật triệt để vấn đề cơ bản của triết học.
            # Phê phán quan điểm duy tâm của Đuyrinh cho rằng những nguyên lý
được rút ra từ tư duy chứ không phải được từ thế giới khách quan; những nguyên
lý hình thức phải được ứng dụng vào giới tự nhiên và loài người và do vậy, giới tự
nhiên và loài người phải phù hợp với chúng. Ph.Ăngghen khẳng định ý thức là sản
phẩm của não người, còn con người lại là sản phẩm của tự nhiên. Tư duy là sự
phản ánh của tồn tại. Bởi vậy, những quy luật của tư duy và những quy luật của tự
nhiên phối hợp, điều hoà với nhau. Ngay cả những định lý và các khái niệm của
toán học cũng được trừu tượng hoá từ thế giới hiện thực (chương 3). Khả năng của
nhận thức thì không có giới hạn, chính quá trình nhận thức cũng vô hạn; chân lý
tuyệt đối có được nhờ thực hiện một loạt chân lý tương đối không giới hạn
(chương 3 và 9).
            # Phê phán tư tưởng của Đuyrinh quy tính tồn tại của thế giới vào tính
thống nhất của thế giới, Ph.Ăngghen cho rằng sự thống nhất của thế giới nằm ở
tính vật chất của nó, còn tính tồn tại là tiền đề của tính vật chất (chương 4). Tính
thống nhất thực sự của thế giới là ở tính vật chất của nó và tính chất này được
chứng minh không phải chỉ bằng vài ba lời lẽ khéo léo của kẻ làm trò ảo thuật, mà
bằng một sự phát triển lâu dài và khó khăn của triết học và khoa học tự nhiên.
            # Phê phán quan điểm siêu hình quy vận động vào lực cơ học và coi đó là
hình thức cơ bản của vận động của Đuyrinh, Ph.Ăngghen cho rằng, vật chất không
có vận động thì cũng không có ý nghĩa như vận động không có vật chất. Bởi vậy,
vận động không thể mất đi và cũng không thể bị triệt tiêu- giống như vật chất
(chương 6). Các hình thức khác nhau của vận động (cơ học, vật lý, hoá học, sinh
học) là đối tượng nghiên cứu của các môn khoa học khác nhau (chương 6-7).
# Ph.Ăngghen khẳng định vận động là thuộc tính cố hữu của vật chất; không
gian và thời gian gắn liền với vật chất vận động và cũng vô cùng, vô tận như vật
chất vận động. Thế giới là vô cùng vô tận trong không gian và thời gian và không
gian và thời gian là những hình thức chính của tồn tại (chương 5). Cái vĩnh viễn
44
trong thời gian, cái vô tận trong không gian ... là ở chỗ, ... không có điểm tận cùng
về một phía nào cả, cả ở đằng trước lẫn đằng sau, cả ở trên lẫn ở dưới, cả ở bên
phải lẫn bên trái.
            * Tư tưởng về phép biện chứng duy vật trong tác phẩm.
            # Phép biện chứng duy vật hình thành và phát triển từ giới tự nhiên và lịch
sử và trở thành công cụ để nhận thức giới tự nhiên và lịch sử.
            # Bản chất của phép biện chứng.
            Định nghĩa phép biện chứng. Phép biện chứng là khoa học về mối liên hệ
phổ biến ... là môn khoa học về những quy luật phổ biến của sự vận động và sự
phát triển của tự nhiên, của xã hội loài người và của tư duy
            Bản chất của phép biện chứng thể hiện ở chỗ, nó nghiên cứu sự vật, hiện
tượng trong mối liên hệ và sự phát triển trong tính hệ thống, trong quá trình vận
động theo khuynh hướng tiến lên.
            Phép biện chứng đối lập với phép siêu hình (xem chương VI).
# Hệ thống các quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật.
            Sự phát triển của tư duy trong việc phản ánh hiện thực khách quan được thể
hiện thông qua hệ thống các quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật.
Quy luật quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập chỉ ra nguyên
nhân của sự vận động là mâu thuẫn giữa các mặt đối lập; giải quyết mâu thuẫn đó
là động lực của sự vận động, phát triển.
Quy luật chuyển hoá từ những sự thay đổi về lượng dẫn đến những sự thay
đổi về chất và ngược lại chỉ ra cách thức vận động và phát triển của sự vật, hiện
tượng. Bản chất của quy luật thể hiện trong mối quan hệ giữa chất với lượng trong
thế giới khách quan.
Quy luật phủ định của phủ định chỉ ra khuynh hướng, hình thức và kết quả
phát triển của sự vật, hiện tượng. Trải qua một số lần phủ định, sự vật, hiện tượng
dường như lặp lại những giai đoạn đã qua trên cơ sở mới, cao hơn và như vậy, phát
triển không theo đường thẳng, mà theo đường xoáy ốc, mỗi vòng tròn kế tiếp
dường như lặp lại vòng tròn trước đó, nhưng trên cơ sở cao hơn.
* Vấn đề về nhận thức luận trong tác phẩm.
            # Định nghĩa tư duy. Tư duy con người là sự phản ánh của thế giới khách
quan vào bộ não con người, là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
            # Quá trình tương đối và tuyệt đối của tư duy; nhận thức vừa vô hạn, vừa
có hạn. Tuyệt đối (tối cao) và vô hạn của tư duy khi xét theo bản tính, khả năng và
mục đích cuối cùng; tương đối (không tuyệt đối) và có hạn của tư duy khi xét theo
sự thực hiện riêng biệt và thực tế trong mỗi thời điểm nhất định.
            # Nhận thức chân lý là một quá trình lịch sử từ thấp đến cao, từ đơn giải
đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn, phụ thuộc vào mối quan hệ
giữa chủ thể với khách thể nhận thức và vào điều kiện, hoàn cảnh mà chủ thể nhận
thức chụi ảnh hưởng; vì vậy không thể có chân lý bất biến, tuyệt đỉnh cuối cùng
45
như Đuyrinh quan niệm và quan niệm đó của Đuyrinh chỉ dẫn đến chủ nghĩa duy
tâm và siêu hình về nhận thức.
            * Quan điểm duy vật về lịch sử và tư tưởng về chủ nghĩa xã hội trong tác
phẩm.
            # Bác bỏ quan điểm của Đuyrinh coi bạo lực và chiến tranh là cơ sở hình
thành các giai cấp trong xã hội, Ph.Ăngghen cho rằng điều kiện kinh tế - xã hội, sự
phát triển của lực lượng sản xuất và chế độ sở hữu mới là cơ sở trong việc hình
thành các giai cấp.
            # Thông qua việc phê phán chủ nghĩa xã hội không tưởng của Ximông và
Phuriê đã không dựa vào điều kiện kinh tế - xã hội, mà chỉ dựa vào ý thức xã hội,
lịch sử và pháp quyền để xây dựng lý luận về chủ nghĩa xã hội, Ph.Ăngghen bác bỏ
quan điểm của Đuyrinh về chân lý đạo đức và pháp quyền vĩnh cửu vượt qua mọi
giai đoạn lịch sử của mỗi dân tộc và thời đại khác nhau.
            #  Đánh giá sự phát triển của triết học trong mối liên hệ thống nhất giữa
triết học với khoa học. Ph.Ăngghen cho rằng, khi đó, triết học trở thành thế giới
quan và thế giới quan đó không cần phải được chứng thực và thể hiện trong một
khoa học đặc biệt nào đó, đứng trên các khoa học, mà được chứng thực và thể hiện
trong các khoa học hiện thực.
- Ý nghĩa của tác phẩm
            + Chống Đuyrinh là tác phẩm tổng kết toàn diện sự phát triển của chủ nghĩa
Mác; trình bày hoàn chỉnh thế giới quan duy vật biện chứng về triết học, kinh tế
chính trị học và chủ nghĩa xã hội khoa học; đấu tranh chống lại các quan điểm đối
lập.
            + Với Chống Đuyrinh, Ph.Ăngghen đã tham gia trực tiếp vào các cuộc
tranh luận về thế giới quan và chính trị trong phong trào công nhân Đức lúc bấy
giờ và góp phần quyết định vào thắng lợi của chủ nghĩa Mác trong phong trào công
nhân.
            - Giới thiệu khái quát tác phẩm Biện chứng của tự nhiên
+ Hoàn cảnh ra đời của tác phẩm
* Là tác phẩm của Ph.Ăngghen, viết gián đoạn trong 13 năm, từ 1873 đến
1886, trong đó ông nêu quan niệm nhận thức duy vật biện chứng về giới tự nhiên
và những vấn đề quan trọng nhất của lý luận khoa học tự nhiên. Biện chứng của tự
nhiên là tác phẩm chưa hoàn thành, chúng ta có được tác phẩm này chỉ trong dạng
2 bản thảo với trên dưới 10 chương riêng rẽ; các bài viết và 185 ghi chép, đoạn
trích. Biện chứng của tự nhiên lần đầu tiên được xuất bản bằng tiếng Đức và tiếng
Nga tại Liênxô năm 1925.
 * Cấu trúc của tác phẩm dựa vào 2 bản thảo do Ph.Ăngghen viết tháng 8
năm 1878 và được chia thành 11 vấn đề; tập hợp thành 3 nhóm. 1) Triết học trong
khoa học tự nhiên (vấn đề 1-3). 2) Phân chia khoa học và nội dung biện chứng của

46
các khoa học chuyên ngành (vấn đề 4-5). 3) Phê phán thuyết bất khả tri, chủ nghĩa
duy tâm và siêu hình trong khoa học tự nhiên (vấn đề 6-11).
Nội dung thực tế của tác phẩm không hoàn toàn trùng khớp với các nhóm,
tuy vậy, về tổng thể, phù hợp với thiết kế nội dung, đặc biệt là các trích dẫn ở phần
cuối. Lần xuất bản mới nhất, miêu tả chính xác theo trật tự thời gian tất cả các phần
của bản thảo được in bằng tiếng Nga trong tập 26, Phần 1 của C.Mác và
Ph.Ăngghen, Toàn tập vào năm 1985, ngôn ngữ  MEGA.
- Nội dung cơ bản của tác phẩm
            + Tư tưởng tập trung của tác phẩm là vật chất và vận động của vật chất.
            * Tác phẩm chỉ ra tính thống nhất vật chất của thế giới trong sự đa dạng và
khác biệt về chất và lượng thông qua mối liên hệ, chuyển hoá trong quá trình vận
động đi lên đa dạng và phong phú trong tính hệ thống và chỉnh thể.
* Định nghĩa vận động của vật chất. Vận động, hiểu theo nghĩa chung nhất,
tức được hiểu là một phương thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của
vật chất, thì bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ,
kwr từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy.
* Phân loại các hình thức vận động cơ bản của vật chất, trong đó đứng im là
vận động trong cân bằng, là tương đối và tạm thời của một tổ chức cụ thể nào đó.
            # Các hình thức vận động cơ bản của vật chất đều do bản chất của những
vật thể đang vận động mà ra; gồm vận động cơ giới của các khối lượng, vận động
vật lý của các phân tử, vận động hoá học của các nguyên tử và dự đoán về sự vận
động của trường điện tử (về sau trong các hình thức vận động còn bổ sung thêm
hình thức vận động sinh học và vận động xã hội).
            # Mối quan hệ giữa các hình thức vận động cơ bản của vật chất là mối quan
hệ biện chứng, theo đó trong những điều kiện nhất định, các hình thức vận động cơ
bản có thể chuyển hoá cho nhau, từ hình thức này sang hình thức khác và trong quá
trình đó, lượng của một hình thái vận động bao giờ cũng tương ứng với một lượng
chính xác nhất định của hình thái vận động khác. Như vậy, muốn nhận thức được
vật chất thì phải thông qua sự vận động của nó bởi thuộc tính của vật chất chỉ thể
hiện qua vận động.
            + Tư tưởng về phép biện chứng trong tác phẩm.
* Về vai trò đối với tư duy lý luận của lịch sử phép biện chứng, Ph.Ăngghen
cho rằng chỉ có phép biện chứng mới có thể đem lại sự tương đồng và do đó đem
lại phương pháp giải thích những quá trình phát triển diễn ra trong tự nhiên, giải
thích những mối liên hệ phổ biến, những bước quá độ từ một lĩnh vực nghiên cứu
này sang một lĩnh vực nghiên cứu khác. Tuy vậy, trong lịch sử triết học chỉ có
Arítxtốt và Hêghen là đã nghiên cứu chính xác về phép biện chứng.
            * Hạt nhân hợp lý trong phép biện chứng duy tâm của Hêghen thể hiện ở
chỗ, ông là người đầu tiên trình bày bao quát và có ý thức những hình thái vận
động chung của phép biện chứng; chỉ có điều, phép biện chứng của Hêghen bị lộn
47
ngược đầu xuống đất, chỉ cần dựng nó lại là sẽ phát hiện được cái nhân hợp lý của
nó.
            * Biện chứng khách quan của giới tự nhiên đóng vai trò quy định đối với
biện chứng chủ quan của tư duy con người.
            * Vai trò của tư duy biện chứng đối với khoa học; và vai trò đó làm nên
mối liên hệ thống nhất giữa triết học với khoa học tự nhiên.
            # Khoa học tự nhiên đặt cơ sở cho những khái quát phổ biến của triết học,
còn những khái quát triết học lại trở thành phương pháp luận cho khoa học tự
nhiên đi sâu nghiên cứu thế giới khách quan.
            # Mối liên hệ giữa các hình thức vận động của vật chất với khoa học tự
nhiên.
+ Tư tưởng về sự sống và nguồn gốc con người trong tác phẩm.
            * Quá trình phát triển của thế giới tự nhiên là nguồn gốc của sự sống,
nguồn gốc của sự hình thành con người và lịch sử xã hội loài người.
            * Quá trình phát triển đạt đến mức cao nhất của thế giới tự nhiên là sự hình
thành con người và xã hội loài người.
            # Nguồn gốc của sự sống bắt nguồn từ các quá trình hoá học và sinh học.
            # Vai trò quyết định của lao động trong quá trình chuyển hoá từ vượn thành
người.
- ý nghĩa của tác phẩm
+ Biện chứng của tự nhiên là thí dụ điển hình về sự vận dụng phương pháp
biện chứng duy vật vào việc giải quyết những vấn đề của tự nhiên và lịch sử; là thí
dụ điển hình về sự khái quát triết học những thành tựu của khoa học tự nhiên.
+ Biện chứng của tự nhiên thể hiện phép biện chứng duy vật và những quy
luật cơ bản của nó có giá trị phổ biến; là cơ sở lý luận và phương pháp nhận thức
của các ngành khoa học.
2. Thực chất cuộc cách mạng trong triết học do C.Mác và Ph.Ăngghen thực hiện
Sự ra đời của triết học Mác là cuộc cách mạng trong triết học, thể hiện ở
a. Sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật với phép biện chứng
            - Trong lịch sử triết học duy vật, chủ nghĩa duy vật với phép biện chứng
tách rời nhau; chủ nghĩa duy vật trước Mác bị hạn chế bởi tính trực quan và siêu
hình; phép biện chứng trước Mác bị hạn chế bởi tính siêu hình và duy tâm.
            - Trong triết học Mác, chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng thống nhất với
nhau tạo nên học thuyết hoàn chỉnh. Học thuyết đó cung cấp cho loài người công
cụ nhận thức vĩ đại, làm cho chủ nghĩa duy vật biện chứng không chỉ dừng lại ở
phương pháp giải thích, nhận thức thế giới, mà còn trở thành phương pháp cải tạo
thế giới.
b. Sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật lịch sử
-  Chủ nghĩa duy vật biện chứng mở rộng nhận thức từ giới tự nhiên sang
nhận thức xã hội loài người, làm cho chủ nghĩa duy vật trở nên triệt để.
48
- Chủ nghĩa duy vật biện chứng coi xã hội là một bộ phận đặc thù của tự
nhiên, là một tổ chức vật chất trong trạng thái biến đổi và phát triển không ngừng
từ hình thái thấp lên hình thái cao hơn; sự phát triển đó tuân theo quy luật khách
quan như một quá trình lịch sử - tự nhiên và trong sự phát triển đó, quần chúng
nhân dân đóng vai trò quyết định.
 
c. Sự thống nhất giữa lý luận với thực tiễn
            Thống nhất giữa lý luận với thực tiễn là một trong những nguyên tắc cơ bản
của triết học Mác - Lênin (xem chương VII); nguyên tắc đó đã khắc phục sự đối
lập giữa triết học với hoạt động thực tiễn của con người.
d. Sự thống nhất giữa tính khoa học với tính cách mạng
Bản chất khoa học đã bao hàm tính cách mạng của triết học Mác, phản ánh
bản chất của giai cấp công nhân.
- Tính khoa học của triết học Mác thể hiện ở chỗ, triết học đó đã xây dựng
nên thế giới quan duy vật biện chứng khoa học và triệt để. Với tư cách là thế giới
quan khoa học và phương pháp luận chung nhất của hoạt động nhận thức và hoạt
động thực tiễn, tính khoa học của triết học Mác còn thể hiện ở khả năng khái quát
sáng tạo những hiện tượng mới nẩy sinh trong quá trình cải tạo tự nhiên, cải tạo xã
hội và do vậy, triết học Mác có khả năng phát triển vô tận.
- Tính cách mạng của triết học Mác thể hiện ở chỗ, khi đưa ra quan niệm về
tính hợp lý của hiện thực đang tồn tại đã bao hàm cả quan niệm về sự diệt vong tất
yếu của nó do nguyên nhân giải quyết mâu thuẫn bên trong sự vật, hiện tượng; quá
trình tích luỹ dần về lượng khi đến độ, gặp điều kiện chín muồi, tất yếu sẽ dẫn đến
sự tự phủ định, làm cho sự vật, hiện tượng phát triển theo đường xoáy ốc lên giai
đoạn mới, tiến bộ hơn về chất.
đ. Xác định đúng mối quan hệ giữa triết học với các khoa học chuyên
ngành
- Ph.Ăngghen cho rằng, cứ mỗi lần có một phát minh vạch thời đại, ngay cả
trong lĩnh vực khoa họctự nhiên, thì chủ nghĩa duy vật phải thay đổi hình thức của
nó. Những phát minh của khoa học tự nhiên cuối thế kỷ XVII đầu thế kỷ XIX là
một trong những tiền đề cho sự ra đời của triết học Mác và triết học Mác đã làm
biến đổi căn bản tính chất, đối tượng của triết học và mối quan hệ của nó đối với
các khoa học chuyên ngành.
- C.Mác và Ph.Ăngghen đã xác định đúng giới hạn và mối quan hệ mới giữa
triết học với các khoa học chuyên ngành. Triết học Mác không nghiên cứu những
vấn đề cụ thể và cũng không đóng vai trò khoa học của mọi khoa học, mà là thế
giới quan khoa học và phương pháp luận chung nhất cho sự phát triển của cáckhoa
học đó.
 
3. Ý nghĩa cuộc cách mạng trong triết học do C.Mác và Ph.Ăngghen thực hiện
49
            - Làm cho chủ nghĩa xã hội từ không tưởng trở thành khoa học.
            - Vai trò xã hội của triết học cũng như vị trí, chức năng của triết học trong
hệ thống tri thức khoa họccũng thay đổi. Triết học Mác trở thành công cụ giải
thích, nhận thức và cải tạo thế giới.
4. V.I.Lênin phát triển triết học Mác
a. Hoàn cảnh lịch sử
            - Chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa làm tăng thêm
khả năng kinh tế của các nước tư bản chủ nghĩa; mặt khác sự áp bức, bóc lột biểu
hiện gay gắt hơn. Xu hướng thống nhất giữa phong trào giải phóng dân tộc với
cách mạng vô sản; giữa nhân dân các nước thuộc địa với giai cấp công nhân ở
chính quốc thể hiện trong các hình thức và mức độ khác nhau.
            - Khoa học tự nhiên phát triển mạnh với những thành tựu mới, nhưng
những khái quát triết học về chúng chưa dựa trên thế giới quan duy vật biện chứng
và phương pháp luận biện chứng duy vật, tạo nên sự đối lập giữa các dữ liệu của
khoa học tự nhiên với các khái quát triết học, điển hình là cuộc khủng hoảng vật lý
đầu thế kỷ XX.
            - Nhiều khuynh hướng triết học như chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán, chủ
nghĩa thực dụng, chủ nghĩa xét lại trong Quốc tế Cộng sản II v.v tấn công nhằm
phủ định chủ nghĩa Mác để quay lại với chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo.
            - Chủ nghĩa xã hội trở thành hiện thực ở nước Nga. Trải qua các cuộc cách
mạng dân chủ - tư sản 1905 - 1907 và cách mạng Tháng Hai năm 1917, vào tháng
10 (Nga) năm 1917, Cách mạng xã hội chủ nghĩa thắng lợi, tạo nên nhà nước công
nông đầu tiên trên thế giới; mở ra thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa
xã hội.
b. Nội dung cơ bản của quá trình V.I.Lênin phát triển triết học Mác
- Giai đoạn từ 1893 đến 1907, V.I.Lênin nghiên cứu thể chế xã hội Nga và
vai trò của các giai cấp khác nhau trong cuộc cách mạng đang tới gần; phê phán
mọi hệ thống quan điểm duy tâm và phương pháp siêu hình của những người dân
tuý.
            + Plêkhanốp và nhóm Giải phóng lao động, tuy truyền bá chủ nghĩa Mác
vào nước Nga nhưng mắc sai lầm trong đấu tranh chống phái dân tuý; coi giai cấp
tư sản tự do là giai cấp cách mạng.
            + Để đấu tranh chống lại quan điểm đó, bảo vệ và phát triển chủ nghĩa
Mác, V.I. Lênin viết một số tác phẩm như Những người bạn dân là thế nào và họ
đấu tranh chống những người dân chủ - xã hội ra sao? Nội dung kinh tế của chủ
nghĩa dân tuý và sự phê phán trong cuốn sách của ông Xtơruvê về nội dung đó;
Làm gì? Hai sách lược của đảng dân chủ - xã hội trong cách mạng dân chủ v.v.
            - Giai đoạn từ 1907 đến Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917.

50
            + Tiếp tục đấu tranh chống các tư tưởng đối lập, bảo vệ và phát triển triết
học Mác; xác lập thế giới quan duy vật biện chứng và phương pháp luận biện
chứng duy vật cho giai cấp công nhân trong cuộc đấu tranh chống giai cấp tư sản.
+ Các tác phẩm Một bước tiến hai bước lùi; Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa
kinh nghiệm phê phán với định nghĩa về vật chất; Bút ký triết học với sự phát triển
nội dung của triết học duy vật biện chứng, đặc biệt là phép biện chứng duy vật;
Nhà nước và cách mạng với vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng là nhà nước và
nêu ra con đường để giai cấp vô sản xác lập nhà nước chuyên chính vô sản. Trong
những năm 1914 - 1916, V.I.Lênin tóm tắt tác phẩm Khoa học Lôgíc và phần một
của Từ điển bách khoa toàn thư về khoa học triết học, Những bài giảng về lịch sử
triết học và Những bài giảng về triết học lịch sử của Hêghen, một số tác phẩm của
Phoiơbắc và Lắcxan, Siêu hình học của Arítxtốt và các tác phẩm khác theo chuyên
ngành triết học và khoa học tự nhiên vào 8 quyển và đặt tên là Bút ký triết học.
            - Giai đoạn sau Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga từ 1917 đến
1924.
            + V.I.Lênin tiếp tục phát triển chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa
duy vật lịch sử thông qua các tác phẩm cơ bản như Sáng kiến vĩ đại; Bệnh ấu trĩ “tả
khuynh” trong phong trào cộng sản; Về Chính sách kinh tế mới; Về tác dụng của
chủ nghĩa duy vật chiến đấu v.v. Sáng kiến vĩ đại với định nghĩa về giai cấp; Về
tác dụng của chủ nghĩa duy vật chiến đấu v.v.
+ Để bảo vệ chủ nghĩa Mác, V.I.Lênin không chỉ phê phán đối với kẻ thù,
mà còn kịch liệt phê phán nhữngngười nhân danh lý luận Mác trên lời nói, nhưng
trên thực tế là chủ nghĩa xét lại, hoặc đã xa rời chủ nghĩa Mác. Để bổ sung, phát
triển chủ nghĩa Mác, V.I.Lênin đã tổng kết kinh nghiệm thực tiễn cách mạng và
dựa vào những thành quả mới của khoa học, tạo nên giai đoạn Lênin trong lịch sử
triết học mácxít. Di sản triết học của V.I.Lênin trở thành cơ sở cho việc nghiên cứu
những vấn đề lý luận và thực tiễn; thiên tài về lý luận và thực tiễn của V.I.Lênin
được những người cộng sản đánh giá cao. Họ đặt tên cho chủ nghĩa của mình là
chủ nghĩa Mác - Lênin.
5. Triết học Mác - Lênin trong thời đại ngày nay
            a. Những biến đổi của thời đại
            - Thời đại ngày nay được xác định từ Cách mạng Tháng Mười Nga 1917
đến nay, trong thời đại này lịch sử thế giới đã xẩy ra những thay đổi lớn lao trên tất
cả các mặt kinh tế - chính trị, văn hoá - xã hội.
            - Sự tác động giữa hai quá trình cách mạng xã hội và cách mạng khoa học,
công nghệ tạo nên sự biến đổi nhanh chóng và phức tạp.
            b. Vai trò thế giới quan và phương pháp luận của triết học Mác - Lênin
trong thời đại ngày nay

51
- Thể hiện trong vai trò thế giới quan khoa học và phương pháp luận cách
mạng của triết học Mác - Lênin trong việc vận dụng và phát triển chúng của các
đảng cộng sản với các bổ sung từ điều kiện lịch sử của thời đại.
- Thể hiện trong vai trò định hướng nhận thức và thực tiễn mục tiêu của xã
hội loài người; giải quyết theo quy luật những vấn đề do thời đại đặt ra.
            - Đảng Cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh làm nền tảng, kim chỉ nam cho hành động là bước phát triển quan trọng trong
nhận thức và tư duy lý luận./.

52
CHƯƠNG V. CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG-
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA THẾ GIỚI QUAN KHOA HỌC
PGS. TS. Vũ Tình,
Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.
I. THẾ GIỚI QUAN VÀ THẾ GIỚI QUAN KHOA HỌC
1. Thế giới quan và các hình thức cơ bản của thế giới quan
a. Khái niệm thế giới quan
            - Định nghĩa. Thế giới quan là toàn bộ những quan điểm, quan niệm của
con người về thế giới, về bản thân con người, về cuộc sống và vị trí của con người
trong thế giới ấy.
            - Nguồn gốc của thế giới quan. Thế giới quan ra đời từ thực tiễn cuộc sống;
là kết quả trực tiếp của quá trình nhận thức, nhưng suy đến cùng, thế giới quan là
kết quả của cả hoạt động thực tiễn với hoạt động nhận thức, của mối quan hệ giữa
khách thể nhận thức với chủ thể nhận thức.
            - Nội dung phản ánh của thế giới quan. Thế giới quan phản ánh thế giới từ
ba góc độ 1) Các khách thể nhận thức. 2) Bản thân chủ thể nhận thức. 3) Mối quan
hệ giữa khách thể với chủ thể nhận thức. Ba góc độ này của thế giới quan vừa thể
hiện ý thức của con người về thế giới, vừa thể hiện ý thức của con người về chính
bản thân mình.
            - Hình thức biểu hiện của thế giới quan có thể là các quan điểm, quan niệm
rời rạc, cũng có thể là hệ thống lý luận chặt chẽ.
            - Cấu trúc của thế giới quan gồm hai yếu tố cơ bản là tri thức và niềm tin,
trong đó tri thức là cơ sở trực tiếp cho sự hình thành thế giới quan; song tri thức chỉ
gia nhập vào thế giới quan khi đã trở thành niềm tin để hình thành lý tưởng, động
cơ hoạt động của con người.
- Một thế giới quan thống nhất giữa tri thức với niềm tin có vai trò là cơ sở
để con người xác định những vấn đề then chốt của cuộc sống như tiếp tục tìm hiểu
thế giới; xác định thái độ, cách thức hoạt động, lối sống nói riêng và nhân sinh
quan nói chung.
- Các chức năng cơ bản của thế giới quan là chức năng nhận thức; chức năng
nhận định, đánh giá; chức năng xác lập giá trị và chức năng điều chỉnh hành vi v.v
thể hiện chức năng cơ bản nhất của thế giới quan là chức năng định hướng cho
mọi hoạt động sống của con người.
b. Những hình thức cơ bản của thế giới quan
- Thế giới quan huyền thoại có nội dung pha trộn giữa thực với ảo, giữa
người với thần đặc trưng cho tư duy nguyên thuỷ giải thích các lực lượng tự nhiên
trong tưởng tượng và nhờ trí tưởng tượng.
- Thế giới quan tôn giáo có niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh của lực lượng
siêu nhiên đối với thế giới, đối với con người, được thể hiện qua các hoạt động có

53
tổ chức để suy tôn, sùng bái lực lượng siêu nhiên ấy. Tất cả mọi tôn giáo chẳng
qua chỉ là sự phản ánh hư ảo vào trong đầu óc của con người của những lực lượng
ở bên ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày của họ; chỉ là sự phản ánh trong đó
những lực lượng ở trần thế đã mang hình thức những lực lượng siêu trần thế. Đặc
trưng chủ yếu của thế giới quan tôn giáo là niềm tin vào một thế giới khác hoàn mỹ
làm giảm nỗi khổ trần gian.
- Thế giới quan triết học thể hiện bằng hệ thống lý luận thông qua các khái
niệm, phạm trù, quy luật. Thế giới quan triết học không chỉ nêu ra các quan điểm,
quan niệm của con người về thế giới, mà còn chứng minh chúng bằng lý luận. Triết
học là hạt nhân lý luận của thế giới quan, là bộ phận quan trọng nhất của triết học
bởi vì nó chi phối các quan điểm, quan niệm còn lại của thế giới quan như quan
điểm, quan niệm về đạo đức, thẩm mỹ, kinh tế, chính trị, văn hoá v.v.
            - Thế giới quan duy vật triết học và thế giới quan duy tâm triết học là hai
hình thức của thế giới quan triết học (xem cách giải quyết mặt thứ nhất vấn đề cơ
bản của triết học).
            - Thế giới quan khoa học và thế giới quan phản khoa học. Thế giới quan
khoa học phản ánh thế giới và định hướng cho hoạt động nhận thức và hoạt động
thực tiễn của con người trên cơ sở tổng kết những thành tựu của nghiên cứu, thực
nghiệm và dự báo khoa học. Thế giới quan khoa học không ngừng được bổ sung
và hoàn thiện và phát triển; thông qua hoạt động thực tiễn của con người, thế giới
quan khoa học được hiện thực hoá, trở thành sức mạnh vật chất. Thế giới quan
phản khoa học, ngược lại do không phản ánh đúng bản chất của thế giới nên dễ làm
cho con người  rơi và thế giới quan duy tâm.
 
 
 
2. Thế giới quan duy vật và lịch sử phát triển của thế giới quan duy vật
a. Thế giới quan duy tâm và thế giới quan duy vật
            - Thế giới quan duy tâm.
+ Định nghĩa. Thế giới quan duy tâm thừa nhận bản chất thế giới là tinh thần
và thừa nhận vai trò quy định của các yếu tố tinh thần đối với thế giới vật chất nói
chung, đối với con người và xã hội loài người nói riêng.
            + Các hình thức của thế giới quan duy tâm được hình thành bởi các quan
niệm khác nhau về tinh thần, ý thức của những người có thế giới quan này; nếu
tinh thần, ý thức của con người tạo nên thế giới quan duy tâm chủ quan, còn tinh
thần, ý thức ở bên ngoài con người tạo nên thế giới quan duy tâm chủ quan. Cấp độ
của thế giới quan duy tâm phụ thuộc vào trình độ nhận thức của con người; có cấp
độ thế giới quan thô sơ, tôn giáo hay triết học.
            + Giá trị và hạn chế của thế giới quan duy tâm.
            - Thế giới quan duy vật.
54
+ Định nghĩa. Thế giới quan duy vật thừa nhận bản chất thế giới là vật chất
và thừa nhận vai trò quy định của các vật chất đối với tinh thần, ý thức nói chung,
đối với con người và xã hội loài người nói riêng.
            - Giá trị của thế giới quan duy vật.
            - Cơ sở để phân biệt giữa thế giới quan duy tâm với thế giới quan duy vật là
xem thế giới quan đó quan niệm về vật chất, ý thức và mối quan hệ giữa chúng như
thế nào.
b. Lịch sử phát triển của thế giới quan duy vật
- Thế giới quan duy vật chất phác.
            + Thừa nhận bản chất của thế giới là vật chất, nhưng quy vật chất nói chung
vào một hay một số dạng cụ thể đầu tiên sản sinh ra vũ trụ. Trong triết học phương
Đông và phương Tây, chất đầu tiên ấy là những vật thể cụ thể như ngũ hành Trung
Quốc), Anu (Nyaya), đất, nước, lửa, không khí v.v (Lokayata), nước (Talét),
apeyrôn (Anaximan), lửa (Hêraclít), nguyên tử (Đêmôcrít, Lơxíp) v.v. Con người
được tạo nên từ âm dương, ngũ hành, là sản phẩm của khí, là sự kết hợp của các
nguyên tử v.v.
           
+ Hạn chế và giá trị của thế giới quan duy vật chất phác.
            Nhận thức mang nặng tính trực quan, phỏng đoán. Đồng nhất chất hay một
số chất với vật chất. Duy vật không triệt để. Chỉ giải thích thế giới mà chưa cải tạo
thế giới.
            Thế giới quan duy vật cổ đại đánh dấu bước chuyển từ dựa vào thần linh
sang dựa vào tự nhiên để giải thích thế giới. Là cơ sở và đã đặt ra nhiều vấn đề để
thế giới quan duy vật ở các giai đoạn sau tiếp tục hoàn thiện, phát triển.
- Thế giới quan duy vật siêu hình.
            + Thế giới quan duy vật siêu hình xuất hiện từ thời cổ đại với đặc điểm
tuyệt đối hoá mặt vận động, phát triển hay tuyệt đối hoá mặt tĩnh tại, đứng im của
sự vật, hiện tượng trong thế giới.
            + Thế giới quan duy vật siêu hình thể hiện rõ nét vào thế kỷ XVII – XVIII.
Do sự phát triển của khoa học chuyên ngành còn hạn chế; chỉ coi các định luật cơ
học là duy nhất đúng với hoạt động nhận thức; tuyệt đối hoá phương pháp phân
tích để tách cái toàn thể thành cái bộ phận để nghiên cứu và chính phương pháp đó
đã mang lại những thành tựu to lớn trong những lĩnh vực cụ thể nên hầu hết các
nhà triết học tây Âu thời kỳ này chịu ảnh hưởng của phương phán tư duy này. Thế
giới quan duy vật siêu hình coi thế giới do vô số những sự vật cụ thể tồn tại cạnh
nhau trong không gian trống rỗng, vô tận.
+ Hạn chế và giá trị của thế giới quan duy vật siêu hình.
            Tư duy máy móc, không nhận thức được thế giới là kết quả của quá trình
phát triển của vật chất trong các mối liên hệ phức tạp, đa dạng và trong trạng thái

55
vận động không ngừng. Chống thế giới quan duy tâm, tôn giáo. Trong những lĩnh
vực hẹp, cụ thể thế giới quan duy vật siêu hình góp phần giúp đạt hiệu quả cao. 
- Thế giới quan duy vật biện chứng
            + Nguồn gốc của thế giới quan duy vật biện chứng
            Kế thừa tinh hoa các quan điểm duy vật về thế giới trong các học thuyết
triết học trước đó. Sử dụng các thành tựu khoa học tự nhiên để chứng minh những
mối liên hệ tồn tại trong bản thân giới tự nhiên; chuyển khoa học từ kinh nghiệm
sang khoa học lý luận. Tổng kết các sự kiện diễn ra ở các nước tây Âu, khi phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã phát triển và bộc lộ những mặt mạnh, mặt hạn
chế của nó.
            + Nội dung, bản chất của thế giới quan duy vật biện chứng đem lại bức
tranh trung thực về thế giới; giúp định hướng, tạo phương pháp tư duy khoa học để
nhận thức và cải tạo thế giới
II. NỘI DUNG, BẢN CHẤT CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG VỚI
TƯ CÁCH LÀ HẠT NHÂN CỦA THẾ GIỚI QUAN KHOA HỌC
1. Nội dung của chủ nghĩa duy vật biện chứng
Nội dung, bản chất của chủ nghĩa duy vật biện chứng có thể tóm tắt vào tư
tưởng cơ bản là chỉ có một thế giới duy nhất và thống nhất là thế giới vật chất;
trong thế giới ấy, vật chất là nguồn gốc của ý thức, quy định ý thức, nhưng ý thức
có thể tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người.
a. Quan điểm duy vật về thế giới
            - Bản chất của thế giới là vật chất; thế giới thống nhất ở tính vật chất và vật
chất là thực tại khách quan, tồn tại độc lập, quy định ý thức và được ý thức phản
ánh.
            - Thế giới thống nhất ở tính vật chất.
            + Vật chất là thực tại khách quan; tồn tại độc lập với ý thức, quy định ý
thức và được ý thức phản ánh. Chỉ có một thế giới duy nhất là thế giới vật chất.
Thế giới đó tồn tại khách quan, vĩnh viễn và vô tận.
            + Mọi sự vật, hiện tượng trên thế giới đều là những dạng cụ thể, hoặc là các
tính chất của vật chất. Thế giới không có gì khác ngoài vật chất đang vận động.
            + Các sự vật, hiện tượng của thế giới vật chất thống nhất với nhau; vận
động và phát triển theo các quy luật khách quan, chuyển hoá lẫn nhau; là nguồn
gốc và là nguyên nhân và kết quả của nhau.
            + Ý thức là đặc tính, là sự phản ánh hiện thực khách quan vào não người.
b. Quan điểm duy vật về xã hội
            Xã hội là tổng hợp những con người hiện thực cùng tất cả các hoạt động,
các quan hệ của họ. Sự phát triển của xã hội loài người do sự phát triển của vật
chất quy định.

56
- Xã hội là một bộ phận đặc thù của tự nhiên. Sự phát triển lâu dài của giới
tự nhiên dẫn đến sự ra đời của con người và xã hội loài người. Tính đặc thù của xã
hội thể hiện ở chỗ, xã hội vận động, phát triển tuân theo những quy luật tự nhiên
nhưng phải thông qua hoạt động có ý thức của con người đang theo đuổi những
mục đích nhất định.
            - Sản xuất vật chất là cơ sở của đời sống xã hội. Xã hội loài người không
chỉ sử dụng những thứ đã có sẵn trong tự nhiên, mà còn tác động vào tự nhiên để
tạo ra của cải vật chất nhằm tồn tại và phát triển. Lịch sử tồn tại và phát triển của
xã hội gắn liền với lịch sử phát triển của sản xuất vật chất.
- Sản xuất vật chất trong từng giai đoạn lịch sử được tiến hành theo phương
thức nhất định. Phương thức sản xuất (lĩnh vực sản xuất vật chất của đời sống xã
hội) quy định và sự thay đổi phương thức sản xuất dẫn đến sự thay đổi các lĩnh vực
khác (lĩnh vực xã hội; lĩnh vực chính trị; lĩnh vực tinh thần) của đời sống xã hội.
- Tồn tại xã hội quy định ý thức xã hội. Trong quá trình tồn tại và phát triển,
mọi hoạt động của con người gắn với phương thức sản xuất; điều kiện tự nhiên;
môi trường địa lý; dân số và mật độ dân số v.v tạo nên điều kiện sinh hoạt vật chất
(tồn tại xã hội). Với tính cách là cái thứ nhất, tồn tại xã hội quy định cái thứ
hai, mặt tinh thần của quá trình lịch sử. Ý thức xã hội là hiện tượng tinh thần có
cấu trúc gồm các cấp độ khác nhau (ý thức bình thường và ý thức lý luận, hệ tư
tưởng và tâm lý xã hội) và các hình thái của ý thức xã hội (chính trị, pháp luật, đạo
đức, tôn giáo, nghệ thuật, triết học và khoa học v.v).
            - Sự phát triển của xã hội là quá trình lịch sử - tự nhiên.
            + Mỗi xã hội cụ thể trong mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể là mỗi hình thái kinh
tế - xã hội; mỗi hình thái kinh tế - xã hội gồm ba mặt cơ bản là lực lượng sản xuất,
quan hệ sản xuất (tạo nên cơ sở hạ tầng) và kiến trúc thượng tầng.
            + Trong quá trình sản xuất, lực lượng sản xuất thường phát triển; đến mức
độ nhất định, quan hệ sản xuất phải thay đổi cho phù hợp với sự phát triển mới của
lực lượng sản xuất; lúc này cơ sở hạ tầng (mặt vật chất, kinh tế) của xã hội sẽ thay
đổi theo dẫn đến sự thay đổi của kiến trúc thượng tầng (mặt tư tưởng, chính trị).
Đến đây, tất cả các mặt cơ bản của hình thái kinh tế - xã hội đã thay đổi, hình thái
kinh tế - xã hội này đã chuyển sang hình thái kinh tế - xã hội khác cao hơn, tiến bộ
hơn.
            + Như vậy, là một bộ phận đặc thù của giới tự nhiên (thế giới vật chất), sự
vận động, phát triển của xã hội vừa chịu sự chi phối của của các quy luật chung
nhất, vừa chịu sự chi phối của các quy luật của riêng mình mà trước hết và quan
trọng nhất là quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất và quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng
với kiến trúc thượng tầng. Những quy luật đó làm sự thay thế nhau giữa các hình
thái kinh tế-xã hội là quá trình lịch sử-tự nhiên.

57
            - Quần chúng nhân dân là chủ thể chân chính sáng tạo ra lịch sử. Cách
mạng là sự nghiệp của quần chúng.
            + Khẳng định sản xuất vật chất là yếu tố quy định sự tồn tại và phát triển
của xã hội; phương thức sản xuất quy định dời sống tinh thần và sự phát triển của
xã hội loài người là quá trình lịch sử - tự nhiên, chủ nghĩa duy vật biện chứng đồng
thời đã khẳng định quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử.
            + Vai trò đó của quần chúng nhân dân thể hiện ở 1) quần chúng nhân dân là
lực lượng trực tiếp của sản xuất vật chất. 2) quần chúng nhân dân là động lực cơ
bản của mọi cuộc cách mạng xã hội. 3) quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra
các giá trị văn hoá tinh thần.
            + Trong mối quan hệ với quần chúng nhân dân, chủ nghĩa duy vật biện
chứng cũng đánh giá cao vai trò của lãnh tụ trong 1) nắm bắt xu thế của thời đại. 2)
định hướng chiến lược, sách lược cho hành động cách mạng. 3) tổ chức, thuyết
phục, giáo dục, thống nhất ý chí và hành động của quần chúng để giải quyết những
vấn đề mà thời đại đặt ra.
2. Bản chất của thế giới quan duy vật biện chứng
            a. Giải quyết đúng đắn vấn đề cơ bản của triết học trên quan điểm
thực tiễn
            - Trong việc giải quyết mối quan hệ giữa vật chất với ý thức, chủ nghĩa duy
tâm tuyệt đối hoá ý thức, khẳng định ý thức sinh ra và quy định vật chất, còn chủ
nghĩa duy vật trước Mác tuy khẳng định bản chất thế giới là vật chất, nhưng mắc
hai hạn chế cơ bản là duy vật không triệt để (duy vật về tự nhiên, duy tâm về xã
hội) và cũng không thấy được sự tác động ngược trở lại của ý thức đối với vật chất.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến những hạn chế trên, nhưng nguyên nhân cơ bản và
chủ yếu là thiếu quan điểm thực tiễn.
            - Chủ nghĩa duy vật biện chứng với việc giải quyết mối quan hệ giữa vật
chất với ý thức.
+ Vật chất là cái thứ nhất, ý thức là cái thứ hai; vật chất quy định ý thức. Ý
thức không chỉ phản ánh thế giới vật chất, mà còn sáng tạo ra thế giới vật chất; ý
thức có tác động ngược lại, trở thành lực lượng vật chất khi thâm nhập vào quần
chúng.
+ Thực tiễn, là mắt khâu trung gian trong mối quan hệ giữa ý thức với vật
chất. Thông qua hoạt động thực tiễn, ý thức được vật chất hoá; tư tưởng trở thành
hiện thực.
b. Sự thống nhất hữu cơ giữa thế giới quan duy vật với phép biện chứng
            - Việc tách rời thế giới quan duy vật với phép biện chứng làm cho các nhà
triết học trước Mác không nhận thức được mối liên hệ phổ biến; không nhận thức
sự thống nhất và nối tiếp nhau giữa các sự vật, hiện tượng trong thế giới vật chất.
            - Kế thừa những hạt nhân hợp lý của các học thuyết triết học trước đó; tổng
kết những thành tựu của khoa học đương thời, C.Mác và Ph.Ăngghen đã giải thoát
58
thế giới quan duy vật khỏi tính siêu hình; giải thoát phép biện chứng khỏi tính duy
tâm, tư biện để sáng lập nên chủ nghĩa duy vật biện chứng- kết quả của sự thống
nhất giữa chủ nghĩa duy vật với phép biện chứng.
            - Sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật với phép biện chứng đã đem lại
quan niệm mới về thế giới- thế giới luôn vận động, biến đổi, chuyển hoá và phát
triển không ngừng.
c. Quan niệm duy vật triệt để
            - Hạn chế của các nhà duy vật trước Mác về lịch sử tạo nên tính không triệt
để của các học thuyết triết học duy vật trước Mác.
            - Chủ nghĩa duy vật biện chứng khắc phục hạn chế về tính không triệt để
của các học thuyết triết học duy vật trước Mác bằng cách khẳng định nguồn gốc
vật chất của xã hội (xã hội là một bộ phận đặc thù của tự nhiên); sản xuất vật chất
là cơ sở của đời sống xã hội; phương thức sản xuất quy định quá trình sinh hoạt xã
hội, chính trị và tinh thần nói chung; tồn tại xã hội quy định ý thức xã hội; sự phát
triển của xã hội là quá trình lịch sử - tự nhiên; quần chúng nhân dân là chủ thể chân
chính sáng tạo ra lịch sử. Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng v.v.
            - Do vậy, chủ nghĩa duy vật biện chứng là thành tựu vĩ đại của tư tưởng
khoa học; là cuộc cách mạng trong quan niệm về xã hội; là công cụ vĩ đại trong
nhận thức và cải tạo thế giới.
d. Tính thực tiễn - cách mạng
            - Chủ nghĩa duy vật biện chứng là vũ khí lý luận của giai cấp vô sản, là
công cụ định hướng cho hành động, là vũ khí lý luận tạo bước chuyển biến mới về
chất của phong trào công nhân từ trình độ tự phát lên trình độ tự giác.
            - Chủ nghĩa duy vật biện chứng không chỉ giải thích thế giới, mà còn đóng
vai trò cải tạo thế giới.
            + Bất kỳ học thuyết triết học nào cũng không trực tiếp làm thay đổi được
thế giới, mà phải thông qua tri thức của mình về thế giới, con người hình thành
mục đích, phương hướng, biện pháp v.v chỉ đạo hoạt động tác động vào thế giới.
            + Bất kỳ học thuyết triết học nào cũng giải thích thế giới, nhưng để thực
hiện vai trò cải tạo thế giới, triết học phải phản ánh đúng thế giới, phải định hướng
cho hoạt động của con người hợp quy luật khách quan và phải được quần chúng tin
và hành động theo.
            + Sức mạnh cải tạo thế giới của chủ nghĩa duy vật biện chứng thể hiện
trong sự định hướng cho hoạt động của quần chúng được quần chúng hành động
theo.
            - Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định sự tất thắng của cái mới.
            + Trong tính hợp lý của cái đang tồn tại đã bao hàm cả quan niệm về sự
diệt vong tất yếu của nó. Tính cách mạng của chủ nghĩa duy vật biện chứng thể
hiện qua sự phản ánh đúng đắn các quy luật chi phối sự vận động và phát triển; qua

59
đó khẳng định tính tất yếu của quá trình xoá bỏ cái lỗi thời, xác lập cái mới cao
hơn, tiến bộ hơn.
            + Chủ nghĩa duy vật biện chứng không phải là giáo điều mà là sự định
hư��ng cho mọi hoạt động. Là hệ thống mở, nên chủ nghĩa duy vật biện chứng
cần được bổ sung, phát triển trên nền tảng của hoạt động thực tiễn và hoạt động
nhận thức để tạo ra những nguyên tắc phương pháp luận mà sự vận dụng sáng tạo
trong những hoàn cảnh cụ thể là yêu cầu số một của những nguyên tắc ấy.
III. NHỮNG NGUYÊN TẮC PHƯƠNG PHÁP LUẬN CỦA CHỦ NGHĨA DUY
VẬT BIỆN CHỨNG VÀ VIỆC VẬN DỤNG NÓ VÀO SỰ NGHIỆP CÁCH
MẠNG Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Tôn trọng quy luật khách quan; phát huy tính năng động chủ quan
- Mục đích, đường lối, chủ trương đặt ra không được xuất phát từ ý muốn
chủ quan mà phải xuất phát từ hiện thực, phản ánh nhu cầu chín muồi và tính tất
yếu của đời sống vật chất trong từng giai đoạn cụ thể. Khi đã có mục đích, đường
lối, chủ trương đúng; phải tổ chức lực lượng vật chất để thực hiện nó.
- Nguyên tắc khách quan đòi hỏi phát huy tính năng động chủ quan, tính
sáng tạo của ý thức, của con người. Tôn trọng tri thức khoa học, lý luận phản ánh
đúng thế giới khách quan, từ đó tạo khả năng xác định và hình thành được mục
đích, phương hướng, biện pháp và ý chí cần thiết cho hoạt động thực tiễn của con
người. Chống thái độ thụ động, ỷ lại và bảo thủ, trì trệ; và chú ý vai trò của lợi ích
bởi nếu phù hợp sẽ thúc đẩy, ngược lại, sẽ cản trở thậm chí cố tình bóp méo, xuyên
tạc chân lý. Chống bệnh chủ quan, duy ý chí, lối nghĩ đơn giản, nóng vội chạy theo
nguyện vọng chủ quan. Căn bệnh này xuất hiện chủ yếu là do thiếu kiến thức, lý
luận hoặc kém, hoặc lạc hậu; ít kinh nghiệm.
Tôn trọng khách quan, phát huy tính năng động chủ quan vừa có ý nghĩa
phương pháp luận cơ bản, vừa là yêu cầu có tính nguyên tắc trong hoạt động thực
tiễn./.
 

60
CHƯƠNG VI. PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
- PHƯƠNG PHÁP LUẬN NHẬN THỨC KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN
TS. Nguyễn Thái Sơn,
 Đại học Quốc gia Hà Nội
I. KHÁI QUÁT LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG VÀ NỘI
DUNG CƠ BẢN CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
1. Siêu hình và biện chứng; khái quát lịch sử phát triển của biện chứng
a. Siêu hình và biện chứng
- Thuật ngữ siêu hình
+ Nguồn gốc của phép siêu hình. Thuật ngữ Siêu hình có gốc từ tiếng Hy
Lạp metaphysique (với nghĩa là những gì theo sau vật lý học). Trong triết học Mác
- Lênin, phép siêu hình được dùng theo nghĩa là phương pháp xem xét sự vật, hiện
tượng và sự phản ánh chúng tồn tại trong trạng thái biệt lập, nằm ngoài mối liên hệ
với các sự vật, hiện tượng khác và không biến đổi. Phép siêu hình xuất phát từ chỗ,
muốn nhận thức được một sự vật, hiện tượng, trước hết phải tách sự vật, hiện
tượng ấy ra khỏi những mối liên hệ của nó khỏi các sự vật, hiện tượng khác và
nhận thức nó ở trạng thái không biến đổi trong một không gian và thời gian xác
định.
+ Đặc điểm của phép siêu hình là tính một chiều, tuyệt đối hoá mặt này hay
mặt kia, coi thế giới thống nhất là bức tranh không vận động, không phát triển. Các
nhà siêu hình chỉ dựa trên những phản đề tuyệt đối không thể dung hoà được; có là
có, không là không; hoặc tồn tại hoặc không tồn tại; sự vật, hiện tượng không thể
vừa là chính nó lại vừa là cái khác nó; cái khẳng định và cái phủ định tuyệt đối bài
trừ lẫn nhau.
+ Giá trị, hạn chế của phép siêu hình. Do quan niệm như vậy nên phép siêu
hình chỉ có khả năng nghiên cứu cái riêng, nghiên cứu từng lĩnh vực biệt lập; phủ
nhận các khâu trung gian, chuyển hoá; do đó kết quả nghiên cứu chỉ đi tới kết luận
hoặc là thế này, hoặc là thế kia, phiến diện, không phản ánh đúng bản chất của sự
vật, hiện tượng; không có khả năng phát hiện cái chung, cái có tính quy luật tác
động trong các lĩnh vực mà các môn khoa học độc lập đã nghiên cứu. Từ giữa thế
kỷ XVIII, cùng với sự phát triển của khoa học tự nhiên và nhận thức của con
người, việc nghiên cứu thế giới từ giai đoạn sưu tầm, phân tích, thu thập tri thức về
các sự vật, hiện tượng riêng lẻ, tách rời, không vận động chuyển sang giai đoạn
tổng quát, nghiên cứu quá trình phát sinh, phát triển của sự vật, hiện tượng thì phép
siêu hình không còn đáp ứng được yêu cầu của nhận thức khoa học và bị phép biện
chứng phủ định.
- Thuật ngữ biện chứng
+ Thuật ngữ Biện chứng có gốc từ tiếng Hy Lạp dialektikê (với nghĩa là
nghệ thuật đàm thoại, tranh luận); theo nghĩa này, biện chứng là nghệ thuật tranh
61
luận nhằm tìm ra chân lý bằng cách phát hiện các mâu thuẫn trong lập luận của đối
phương, bảo vệ lập luận của mình. Trong lịch sử triết học đã tồn tại ba hình thức
của phép biện chứng là phép biện chứng trong triết học Hy Lạp cổ đại, phép biện
chứng duy tâm trong triết học cổ điển Đức và phép biện chứng duy vật.
+ Đặc điểm của phép biện chứng duy vật là khẳng định các sự vật, hiện
tượng tồn tại trong mối liên hệ qua lại, quy định, chuyển hoá lẫn nhau, do đó tư
duy biện chứng không chỉ thấy các sự vật, hiện tượng cá biệt, mà còn thấy những
các mối quan hệ lẫn nhau giữa chúng; không chỉ thấy sự tồn tại, mà còn thấy cả sự
sinh thành và sự tiêu vong, không chỉ thấy trạng thái tĩnh, mà còn thấy cả trạng thái
động của chúng; không chỉ thấy cây, mà còn thấy cả rừng. Phép biện chứng duy
vật mềm dẻo, linh hoạt, thừa nhận trong những trường hợp cần thiết, bên cạnh cái
hoặc là ... hoặc là, còn có cả cái vừa là ... vừa là. Do vậy, phép biện chứng duy vật
là bước nhảy mới về chất trong lĩnh vực nhận thức; khắc phục được những hạn chế
của phép biện chứng cổ đại, đẩy lùi phép siêu hình, cải tạo phép biện chứng duy
tâm và trở thành phương pháp luận chung nhất của hoạt động nhận thức và hoạt
động thực tiễn.
b. Khái quát lịch sử phát triển của phép biện chứng
- Phép biện chứng mộc mạc, chất phác thời cổ đại.
+ Phép biện chứng trong triết học Ấn Độ, Trung Quốc và Hy Lạp cổ đại.
Trong Đạo Phật những quan niệm duy vật và biện chứng thể hiện trong quan
niệm về tính tự thân sinh thành, biến đổi của vạn vật tuân theo tính tất định và phổ
biến của luật nhân - quả. Trong triết học Trung Quốc cổ, trung đại, những quan
niệm biện chứng được thể hiện trong thuyết Âm - Dương, Ngũ hành,  Đạo gia v.v.
Các nhà biện chứng Hêraclít, Xôcrát, Platôn, Arixtốt với những tư tưởng vận động,
biến đổi của thế giới vật chất đều là những nhà biện chứng bẩm sinh, tự phát tiêu
biểu của triết học Hy Lạp cổ đại.
+ Đặc trưng cơ bản của phép biện chứng cổ đại là tính tự phát, ngây thơ;
mới chỉ là những quan điểm biện chứng mang tính suy luận, phỏng đoán trên cơ sở
những kinh nghiệm trực giác nên  chưa trở thành hệ thống lý luận nhận thức, mà
mới chỉ dừng lại ở sự mô tả tính biện chứng của thế giới. Cho dù còn hạn chế,
nhưng phép biện chứng cổ đại coi thế giới là một chỉnh thể thống nhất; giữa các bộ
phận của thế giới có mối liên hệ qua lại, thâm nhập, tác động và quy định lẫn nhau
và đó là cơ sở để phép biện chứng phát triển.
- Phép biện chứng duy tâm trong triết học cổ điển Đức.
            + Tư tưởng biện chứng cơ bản trong triết học Cantơ, Phíchtơ, Sêlinh.
            Ra đời vào cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX, phép biện chứng duy tâm
trong triết học cổ điển Đức là hình thức thứ hai của phép biện chứng.
Trong triết học nhị nguyên của Cantơ, tư tưởng biện chứng cơ bản là tư
tưởng về sự thống nhất giữa các mặt đối lập, theo đó, sự thống nhất và thâm nhập
lẫn nhau của các mặt đối lập (lực hút và lực đẩy) là động lực của sự vận động, phát
62
triển và động lực đó có trước vật chất; vận động tách rời vật chất. Trong triết học
duy tâm chủ quan của Phíchtơ, tư tưởng biện chứng cơ bản là tư tưởng cho rằng,
mâu thuẫn là nguồn gốc của sự phát triển. Mâu thuẫn và phát triển chỉ tồn tại trong
ý thức, mâu thuẫn thể hiện sự vận động tiến bộ của tư duy trong quá trình nhận
thức. Trong triết học duy tâm khách quan của Sêlinh, tư tưởng biện chứng cơ bản
là tư tưởng về mối liên hệ phổ biến, về sự thống nhất và về sự phát triển; tư tưởng
về sự thống nhất biện chứng của tự nhiên, về sự đấu tranh giữa các mặt đối lập
trong tự nhiên.
+ Phép biện chứng duy tâm của Hêghen. Trong triết học Hêghen, phép biện
chứng duy tâm được phát triển đến đỉnh cao với hình thức và nội dung phong phú.
Về hình thức, phép biện chứng của Hêghen đã bao quát cả ba lĩnh vực, bắt
đầu từ các phạm trù lôgíc đến lĩnh vực tự nhiên, tinh thần và kết thúc bằng biện
chứng của toàn bộ quá trình lịch sử.
Về nội dung, Hêghen chia phép biện chứng thành tồn tại, bản chất và khái
niệm. 1) Tồn tại là cái vỏ bên ngoài, trực tiếp, nông nhất mà con người có thể cảm
giác và được cụ thể hoá trong các phạm trù chất, lượng và độ. 2) Bản chất là tầng
gián tiếp của thế giới, không thể nhận biết được bằng cảm giác, tồn tại trong mâu
thuẫn đối lập với chính mình và được thể hiện trong các phạm trù hiện tượng - bản
chất, hình thức - nội dung, ngẫu nhiên - tất yếu, khả năng - hiện thức v.v. 3) Còn
khái niệm (mà hiện thân của nó là giới hữu cơ, sự sống) là sự thống nhất giữa tồn
tại với bản chất, là cái vừa trực tiếp (có thể cảm giác được), vừa gián tiếp (không
thể cảm giác được) và được thể hiện trong các phạm trù cái phổ quát, cái đặc thù,
cái đơn nhất. Phép biện chứng trong giai đoạn này là sự phát triển; là sự chuyển
hoá từ cái trừu tượng đến cái cụ thể, từ chất này sang chất khác được thực hiện nhờ
giải quyết mâu thuẫn. Phát triển được coi là sự tự phát triển của ý niệm tuyệt đối,
từ tồn tại đến bản chất, từ bản chất đến khái niệm, trong đó khái niệm vừa là chủ
thể, vừa là khách thể, đồng thời là ý niệm tuyệt đối. Hêghen coi phát triển là
nguyên lý cơ bản nhất của phép biện chứng với phạm trù trung tâm là tha hoá và
khẳng định tha hoá được diễn ra ở mọi nơi, mọi lúc trong cả tự nhiên, xã hội và
tinh thần.
            + Hạn chế của phép biện chứng duy tâm trong triết học cổ điển Đức là nó
còn mắc phải hạn chế vì đó là biện chứng của cái phi vật chất, là biện chứng của
khái niệm, của tư duy thuần tuý, phản ánh một lực lượng thần bí nào đó ở bên
ngoài thế giới vật chất.
            + Cống hiến của phép biện chứng duy tâm trong triết học cổ điển Đức là họ
đã áp dụng phép biện chứng vào nghiên cứu các lĩnh vực khác nhau của đời sống
xã hội và qua đó đã xây dựng được hệ thống phạm trù, quy luật có lôgíc chặt chẽ
của nhận thức tinh thần, và trong một ý nghĩa nào đó, là của cả hiện thực vật chất.
Phép biện chứng duy tâm trong triết học cổ điển Đức đã tạo ra bước quá độ chuyển

63
biến về thế giới quan và lập trường từ chủ nghĩa duy vật siêu hình sang thế giới
quan khoa học duy vật biện chứng.
Tuy nhiên, với những hạn chế của phép biện chứng duy tâm trong triết học
cổ điển Đức, khi khoa học tự nhiên phát triển sang giai đoạn tổng quát, nghiên cứu
quá trình phát sinh, phát triển của sự vật, hiện tượng trên quan điểm duy vật, thì tất
yếu nó sẽ bị phủ định và thay thế bằng phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa duy
vật biện chứng.
- Phép biện chứng duy vật.
+ Định nghĩa phép biện chứng duy vật. phép biện chứng (...) là môn khoa
học về những quy luật phổ biến của sự vận động và sự phát triển của tự nhiên, của
xã hội loài người và của tư duy. Có thể hiểu phép biện chứng duy vật là học thuyết
về các quy luật chung nhất của mối liên hệ hình thành, phát triển của tồn tại (tính
thứ nhất) với tư duy của con người (tính thứ hai). Lý luận về phương pháp tư duy
được xây dựng trên học thuyết đó
+ Đặc điểm và khái quát vai trò của phép biện chứng duy vật. Phép biện
chứng duy vật là sự thống nhất hữu cơ giữa thế giới quan duy vật với phương pháp
biện chứng; giữa lý luận nhận thức với lôgíc biện chứng. Mỗi nguyên lý của phép
biện chứng duy vật đều được xây dựng trên lập trường duy vật; mỗi luận điểm của
phép biện chứng duy vật là kết quả của sự nghiên cứu, được rút ra từ giới tự nhiên
và trong lịch sử xã hội loài người; mỗi nguyên lý, quy luật, phạm trù của phép biện
chứng đều được luận giải trên cơ sở khoa học và được chuẩn bị bằng toàn bộ sự
phát triển của tự nhiên học trước đó. Chính vì vậy, phép biện chứng duy vật đã đưa
phép biện chứng từ tự phát đến tự giác, tạo ra chức năng phương pháp luận chung
nhất, định hướng hoạt động lý luận và thực tiễn, giúp con người đề ra những
nguyên tắc tương ứng và là một hình thức tư duy quan trọng nhất đối với khoa học
tự nhiên hiện đại, bởi vì chỉ có nó mới có thể đem lại sự loại suy (analogie) và do
đó đem lại phương pháp giải thích những quá trình phát triển diễn ra trong thế giới
tự nhiên, giải thích những mối quan hệ chung, những bước quá độ từ một lĩnh vực
nghiên cứu này sang một lĩnh vực nghiên cứu khác.
2. Nội dung cơ bản của phép biện chứng duy vật
a. Hai nguyên lý của phép biện chứng duy vật
- Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của phép biện chứng duy vật
+ Trong phép biện chứng duy vật, mối liên hệ phổ biến là phạm trù triết học
dùng để khái quát sự quy định, tác động qua lại, chuyển hoá và tách biệt nhau giữa
các sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt của một sự vật, hiện tượng trong thế giới.
+ Cơ sở của mối liên hệ phổ biến là tính thống nhất vật chất của thế giới,
theo đó, các sự vật, hiện tượng trong thế giới dù đa dạng, khác nhau đến thế nào đi
chăng nữa, thì chúng cũng chỉ là những dạng cụ thể khác nhau của một thế giới vật
chất duy nhất. Ngay cả ý thức của con người cũng chỉ là thuộc tính của dạng vật

64
chất có tổ chức cao và nội dung của ý thức cũng chỉ là kết quả của sự phản ánh
hiện thực khách quan vào não người.
+ Nội dung nguyên lý về mối liên hệ phổ biến nói lên rằng, các sự vật, hiện
tượng hay các mặt, bộ phận trong một sự vật, hiện tượng tồn tại trong mối quan hệ
quy định, tác động qua lại, chuyển hoá lẫn nhau và bản chất của sự vật, hiện tượng
thể hiện qua mối liên hệ đó. Do vậy, nguyên lý về mối liên hệ phổ biến khái quát
được toàn cảnh thế giới trong những mối liên hệ chằng chịt giữa các sự vật, hiện
tượng của nó. Tính vô hạn của thế giới khách quan, tính có hạn của sự vật, hiện
tượng trong thế giới đó chỉ có thể giải thích được trong mối liên hệ phổ biến và
được quy định bằng nhiều mối liên hệ có hình thức, vai trò khác nhau.
+ Các mối liên hệ có tính khách quan, phổ biến và đa dạng, phong phú. Các
tính chất đó của mối liên hệ phổ biến phản ánh tính chất của các sự vật, hiện tượng
trong thế giới đa dạng.     
+ Từ nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của phép biện chứng duy vật, rút ra
nguyên tắc toàn diện trong nhận thức và thực tiễn (xem nguyên tắc toàn diện ở
cuối chương).
- Nguyên lý về sự phát triển của phép biện chứng duy vật.
+ Khái niệm sự phát triển. Phát triển là quá trình vận động đi lên từ thấp đến
cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn; nguồn gốc
của sự phát triển là mâu thuẫn giữa các mặt đối lập bên trong sự vật, hiện tượng và
giải quyết mâu thuẫn đó là động lực của sự phát triển; phát triển vừa diễn ra dần
dần, vừa nhảy vọt đi theo đường xoáy ốc, dường như lặp lại sự vật, hiện tượng cũ
nhưng trên cơ sở cao hơn; thể hiện tính quanh co, phức tạp, có thể có những bước
thụt lùi tương đối trong sự phát triển.
+ Tính chất của sự phát triển. Phát triển có tính khách quan; tính phổ biến;
tính kế thừa và tính đa dạng, phong phú. Các tính chất đó của sự phát triển phản
ánh tính chất của các sự vật, hiện tượng trong thế giới đa dạng.
+ Từ nguyên lý về sự phát triển của phép biện chứng duy vật, rút ra nguyên
tắc phát triển trong nhận thức và thực tiễn (xem nguyên tắc phát triển ở cuối
chương).
            b. Các cặp phạm trù cơ bản của phép biện chứng duy vật
            - Cái riêng, cái chung và cái đơn nhất.
            + Các phạm trù cái riêng, cái chung và cái đơn nhất.
            + Mối liên hệ giữa các phạm trù cái riêng, cái chung và cái đơn nhất.
            + Một số quan điểm và nguyên tắc phương pháp luận được rút ra từ mối
liên hệ giữa các phạm trù cái riêng, cái chung và cái đơn nhất.
            - Nguyên nhân và kết quả.
            + Các phạm trù nguyên nhân và kết quả.
            + Mối liên hệ giữa các phạm trù nguyên nhân và kết quả.

65
            + Một số quan điểm và nguyên tắc phương pháp luận được rút ra từ mối
liên hệ giữa các phạm trù nguyên nhân và kết quả.
            - Tất nhiên và ngẫu nhiên
+ Các phạm trù tất nhiên và ngẫu nhiên.
            + Mối liên hệ giữa các phạm trù tất nhiên và ngẫu nhiên.
            + Một số quan điểm và nguyên tắc phương pháp luận được rút ra từ mối
liên hệ giữa các phạm trù tất nhiên và ngẫu nhiên.
            - Nội dung và hình thức
            + Các phạm trù nội dung và hình thức.
            + Mối liên hệ giữa các phạm trù nội dung và hình thức.
            + Một số quan điểm và nguyên tắc phương pháp luận được rút ra từ mối
liên hệ giữa các phạm trù nội dung và hình thức.
            - Bản chất và hiện tượng
            + Các phạm trù bản chất và hiện tượng.
            + Mối liên hệ giữa các phạm trù bản chất và hiện tượng.
            + Một số quan điểm và nguyên tắc phương pháp luận được rút ra từ mối
liên hệ giữa các phạm trù bản chất và hiện tượng.
            - Khả năng và hiện thực
            + Các phạm trù khả năng và hiện thực.
            + Mối liên hệ giữa các phạm trù khả năng và hiện thực.
            + Một số quan điểm và nguyên tắc phương pháp luận được rút ra từ mối
liên hệ giữa các phạm trù khả năng và hiện thực.
           
 
c. Một số quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật
             Trong phép biện chứng duy vật, quy luật mâu thuẫn chỉ ra nguyên nhân,
động lực của sự phát triển; quy luật lượng đổi chất đổi chỉ ra tính chất và cách thức
của sự phát triển; quy luật phủ định của phủ định chỉ ra xu hướng, hình thức và kết
quả của sự phát triển đó.
- Quy luật chuyển hoá từ những sự thay đổi về lượng dẫn đến những sự thay
đổi về chất và ngược lại (quy luật lượng đổi - chất đổi)
            + Các khái niệm chất; lượng; độ; điểm nút; bước nhảy.
            + Nội dung quy luật (Mối liên hệ giữa các khái niệm của quy luật).
            + Vị trí, vai trò của quy luật trong phép biện chứng duy vật.
+ Một số quan điểm và nguyên tắc phương pháp luận được rút ra từ mối liên
hệ biện chứng giữa các khái niệm của quy luật.
            - Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập (quy luật mâu
thuẫn)
+ Các khái niệm mặt đối lập; thống nhất; đồng nhất; mâu thuẫn biện chứng;
đấu tranh giữa các mặt đối lập.
66
            + Nội dung quy luật (Mối liên hệ giữa các khái niệm của quy luật).
            + Vị trí, vai trò của quy luật trong phép biện chứng duy vật.
+ Một số quan điểm và nguyên tắc phương pháp luận được rút ra từ mối liên
hệ biện chứng giữa các khái niệm của quy luật.
- Quy luật phủ định của phủ định
+ Các khái niệm phủ định siêu hình, phủ định biện chứng; kế thừa biện
chứng; vòng xoáy ốc.
            + Nội dung quy luật (Mối liên hệ giữa các khái niệm của quy luật).
            + Vị trí, vai trò của quy luật trong phép biện chứng duy vật.
+ Một số quan điểm và nguyên tắc phương pháp luận được rút ra từ mối liên
hệ biện chứng giữa các khái niệm của quy luật.
 
 
III. PHƯƠNG PHÁP VÀ PHƯƠNG PHÁP LUẬN. MỘT SỐ NGUYÊN TẮC
PHƯƠNG PHÁP LUẬN CƠ BẢN CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
1. Phương pháp và phương pháp luận
a. Khái niệm phương pháp và các cấp độ phương pháp
            - Thuật ngữ Phương pháp có gốc từ tiếng Hy Lạp cổ methodos với nghĩa là
con đường nghiên cứu hay con đường nhận thức, lý luận, học thuyết v.v. Nhưng
chỉ từ thời Cận đại, khi khoa học thực nghiệm xuất hiện thì khả năng hệ thống
phương pháp nhận thức và phương pháp nghiên cứu mới bắt đầu và từ đó, sự phát
triển, hoàn thiện phương pháp mới trở thành một bộ phận quan trọng trong sự tiến
bộ của khoa học.
- Định nghĩa phương pháp. Phương pháp là hệ thống những nguyên tắc được
rút ra từ tri thức về các quy luật khách quan để điều chỉnh hoạt động nhận thức và
hoạt động thực tiễn nhằm thực hiện mục tiêu nhất định; là cách thức xây dựng và
tạo lập cơ sở cho các hệ thống triết học và tri thức khoa học; là tổng số cách tiếp
nhận và các hành động chinh phục thế giới hiện thực bằng lý luận hay thực tiễn. 
- Nguồn gốc của phương pháp. Cơ sở lý luận trực tiếp của phương pháp là
các quy luật khách quan đã được con người nhận thức và diễn đạt bằng lý luận và
lý luận đó là hạt nhân, là cốt lõi để từ đó các nguyên tắc tạo nên nội dung của
phương pháp được xây dựng.
Trước khi hành động, con người thường phân tích hoàn cảnh; đề ra mục tiêu
tương ứng; xác định cách thức và phương tiện để đạt được mục tiêu đó rồi mới tác
động lên sự vật, hiện tượng theo hệ thống những nguyên tắc nhất định. Hệ thống
những nguyên tắc được hình thành trong quá trình tác động qua lại giữa con người
với tự nhiên; chỉ rõ phải hoạt động thế nào để đạt được mục tiêu đó tạo nên
phương pháp. Những phương pháp đạt hiệu quả cao nhất được lựa chọn và bảo tồn
trong hoạt động thực tiễn và được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác nhờ

67
ngôn ngữ. Như vậy, phương pháp bắt nguồn từ thực tiễn, phản ánh những quy luật
khách quan đã được nhận thức để định hướng các hoạt động có mục đích của con
người.
- Vai trò của phương pháp. Kinh nghiệm cho thấy rằng, sau khi đã xác định
được mục tiêu thì phương pháp trở thành yếu tố góp phần quyết định thành công
hay thất bại của việc thực hiện mục tiêu đó. Phương pháp càng đúng đắn thì hiệu
quả của hoạt động càng cao và ngược lại. Bêcơn ví phương pháp như ngọn đuốc
soi đường cho người đi trong đêm tối. Hêghen ví phương pháp là linh hồn của đối
tượng. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đặc biệt coi trọng vai trò của
phương pháp, nhất là trong hoạt động cách mạng.
            - Các cấp độ của phương pháp. Sự đa dạng của đối tượng dẫn đến sự đa
dạng của phương pháp. Các khoa học nghiên cứu những đối tượng khác nhau thì
có những phương pháp khác nhau phù hợp với mục tiêu mà khoa học đó nghiên
cứu. Các phương pháp, do sự quy định đó và tuỳ thuộc vào các tiêu chí khác nhau,
được chia thành các nhóm có quan hệ tác động qua lại với nhau là phương pháp
riêng, phương pháp chung, phương pháp phổ biến và phương pháp nhận thức,
phương pháp thực tiễn.
- Phương pháp biện chứng duy vật là hệ thống các nguyên tắc được hình
thành trên cơ sở các nguyên lý, quy luật và phạm trù của phép biện chứng duy vật.
Những nguyên tắc này tác động, liên hệ qua lại, bổ sung cho nhau tạo thành công
cụ trong hoạt động nhận thức và thực tiễn. Phương pháp biện chứng duy vật được
sử dụng trong mọi ngành khoa học khác nhau, trong mọi lĩnh vực của thực tiễn và
có vai trò quyết định trong việc xác định kết quả nghiên cứu và cải tạo sự vật, hiện
tượng vì vậy, nó được gọi là phương pháp phổ biến bởi, phép biện chứng duy vật
không chỉ đưa ra hướng nghiên cứu chung, đưa ra các nguyên tắc tiếp cận sự vật,
hiện tượng nghiên cứu, mà còn là điểm xuất phát dưới góc độ đánh giá thế giới
quan đối với những kết quả đạt được. Tuân thủ và thực hiện nhất quán, đồng bộ
những nguyên tắc này là đòi hỏi bắt buộc đối với việc nghiên cứu lý luận cũng như
đối với thực tiễn.
b. Khái niệm phương pháp luận và các cấp độ của phương pháp luận
- Định nghĩa. Phương pháp luận là hệ thống những quan điểm, những
nguyên tắc xuất phát chỉ đạo chủ thể trong việc xác định phương pháp cũng như
trong việc xác định phạm vi, khả năng áp dụng chúng một cách hợp lý, có hiệu quả
tối đa.
- Nguồn gốc, vai trò của phương pháp luận. Trong thực tiễn, để đạt được
mục đích đề ra con người có thể sử dụng nhiều phương pháp khác nhau để giải
quyết một công việc nào đó, gọi là sự lựa chọn phương pháp. Sự lựa chọn này phải
trải qua một hoặc nhiều quá trình và phương pháp được lựa chọn có thể đúng, có
thể sai. Xuất hiện vấn đề xác định được phương pháp đúng, khoa học và phương
pháp sai, chưa khoa học, từ đây xuất hiện nhu cầu tri thức đúng về phương pháp và
68
đó cũng là lý do để khoa học về phương pháp, tức là lý luận về phương pháp hay
còn gọi là phương pháp luận ra đời. Như vậy, phương pháp luận là lý luận về
phương pháp, là khoa học về phương pháp. Nhiệm vụ của phương pháp luận là giải
quyết những vấn đề như phương pháp là gì? Bản chất, nội dung, hình thức của
phương pháp ra sao? Phân loại phương pháp cần dựa vào những tiêu chí gì? Vai
trò của phương pháp trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn? v.v. Điều
này chứng tỏ vai trò tiền đề của phương pháp luận, cho phép đánh giá các phương
pháp từ góc độ tính chân thực, tính hiệu quả của chúng.
- Các cấp độ của phương pháp luận. Phương pháp luận được phân chia thành
các cấp độ khác nhau gồm phương pháp luận bộ môn, phương pháp luận chung và
phương pháp luận chung nhất (phương pháp luận triết học). Các hình thức phương
pháp luận trên hợp thành một hệ thống khoa học về phương pháp chỉ đạo nhằm xác
định các phương pháp cụ thể một cách đúng đắn. Bởi các hình thức phương pháp
luận vừa độc lập tương đối với nhau, vừa bổ sung, xâm nhập vào nhau, do đó, phải
biết vận dụng tổng hợp các hình thức phương pháp luận trong các hoạt động.
- Phương pháp luận biện chứng duy vật là hệ thống các nguyên tắc, các
phương pháp tổ chức và xây dựng hoạt động lý luận và hoạt động thực tiễn, đồng
thời cũng chính là học thuyết về hệ thống đó; là phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và của các khoa học chuyên ngành. Phương pháp luận biện
chứng duy vật là phương pháp luận chung nhất, là sự thống nhất biện chứng giữa
các phương pháp luận bộ môn, phương pháp luận chung đã được cụ thể hoá trong
các lĩnh vực của hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn.
            - Với tư cách là hệ thống tri thức chung nhất của con người về thế giới và
về vai trò, vị trí của con người trong thế giới đó; với việc nghiên cứu những quy
luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy, triết học thực hiện chức năng
phương pháp luận chung nhất.     Mỗi luận điểm của triết học đồng thời là một
nguyên tắc trong việc xác định phương pháp, là lý luận về phương pháp. Những
chức năng nói trên của triết học tạo ra khả năng cải tạo thế giới của triết học, trở
thành công cụ hữu hiệu trong hoạt động chinh phục tự nhiên và trong sự nghiệp
giải phóng con người của các lực lượng tiến bộ.
Phương pháp và phương pháp luận vừa độc lập vừa thống nhất với nhau.
Phương pháp là cách thức hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn cụ thể của
con người còn phương pháp luận là những quan điểm, nguyên tắc xuất phát chỉ đạo
chủ thể xác định phương pháp một cách đúng đắn; phương pháp luận, tuy nghiên
cứu về phương pháp, nhưng không nhằm mục đích xác định phương pháp cụ thể
mà chỉ nhằm rút ra những quan điểm, những nguyên tắc chung cho việc xác định
và áp dụng phương pháp. Như vậy, phương pháp luận- thuần tuý lý luận còn
phương pháp gồm cả lý luận và thực tiễn. Bởi vậy, không nên nhầm phương pháp
với phương pháp luận và cũng phải coi phương pháp thống nhất với phương pháp
luận ở chỗ phương pháp luận là cơ sở để nghiên cứu các phương pháp cụ thể, còn
69
phương pháp cụ thể phải xuất phát từ quan điểm, nguyên tắc của phương pháp
luận.
2. Một số nguyên tắc phương pháp luận cơ bản của phép biện chứng duy vật
a. Nguyên tắc toàn diện trong nhận thức và thực tiễn
- Cơ sở lý luận của nguyên tắc toàn diện là nguyên lý về mối liên hệ phổ
biến của phép biện chứng duy vật, theo đó, các sự vật, hiện tượng tồn tại trong sự
tác động qua lại, chuyển hoá lẫn nhau và tách biệt nhau.
            - Nội dung của nguyên tắc toàn diện trong nhận thức và thực tiễn.
+ Nguyên tắc toàn diện phản ánh mối liên hệ chỉnh thể, tức nhìn bao quát và
nghiên cứu tất cả các mặt, tất cả các mối liên hệ và quan hệ gián tiếp của sự vật đó,
nghiên cứu mối tổng hoà những quan hệ muôn vẻ của sự vật ấy với các sự vật
khác.
+ Nguyên tắc toàn diện trong sự đối lập với chủ nghĩa chiết trung và thuật
nguỵ biện, phản ánh mối liên hệ chủ yếu để rút ra những mặt, những mối liên hệ tất
yếu của sự vật, hiện tượng đó; nhận thức chúng trong sự thống nhất hữu cơ nội tại
bởi chỉ có như vậy, nhận thức mới có thể phản ánh được đầy đủ nhất sự tồn tại
khách quan với nhiều thuộc tính, nhiều mối liên hệ, quan hệ và tác động qua lại
của các khách thể nhận thức.
+ Nguyên tắc toàn diện xem xét mối liên hệ gắn với nhu cầu thực tiễn;
không viển vông, ảo tưởng bởi mối liên hệ giữa sự vật, hiện tượng với nhu cầu của
con người rất đa dạng, trong mỗi hoàn cảnh, chỉ phản ánh được mối liên hệ nào đó
phù hợp với nhu cầu của con người nên nhận thức về sự vật, hiện tượng cũng mang
tính tương đối, không đầy đủ, không trọn vẹn. Nắm được điều đó, sẽ tránh được
việc tuyệt đối hoá những tri thức đã có, xem đó là những chân lý bất biến, tuyệt đối
mà không bổ sung, không phát triển. Chỉ có như vậy mới thấy được vai trò của các
mặt trong từng giai đoạn cũng như của toàn bộ quá trình vận động, phát triển của
từng mối quan hệ cụ thể của sự vật, hiện tượng.
+ Nguyên tắc toàn diện xem xét mối liên hệ đồng bộ; không cục bộ, phiến
diện; nghĩa là trong thực tiễn, phải áp dụng đồng bộ một hệ thống các biện pháp,
các phương tiện khác nhau để tác động làm thay đổi các mặt, các mối liên hệ tương
ứng của sự vật, hiện tượng. Song trong từng bước, từng giai đoạn phải nắm đúng
khâu trọng tâm, then chốt để tập trung lực lượng giải quyết, tránh dàn trải.
+ Nguyên tắc toàn diện dự báo được khả năng vận động, phát triển; tránh trì
trệ, bảo thủ.
b. Nguyên tắc phát triển trong nhận thức và thực tiễn
- Cơ sở lý luận của nguyên tắc phát triển là nguyên lý về sự phát triển của
phép biện chứng duy vật. Theo đó, phát triển là một phạm trù dùng để khái quát
quá trình vận động đi lên; là một hình thức của vận động và trong sự phát triển, sẽ
nảy sinh những tính quy định mới, cao hơn về chất, nhờ đó làm cho cơ cấu tổ chức,

70
phương thức tồn tại và vận động của sự vật, hiện tượng cùng chức năng vốn có của
nó ngày càng hoàn thiện hơn.
            - Nội dung của nguyên tắc phát triển trong nhận thức và thực tiễn.
+ Nguyên tắc phát triển yêu cầu, khi xem xét sự vật, hiện tượng, phải đặt nó
trong trạng thái vận động, biến đổi, chuyển hoá để không chỉ nhận thức sự vật,
hiện tượng trong trạng thái hiện tại, mà còn phải thấy được khuynh hướng phát
triển của nó trong tương lai. Cần chỉ ra nguồn gốc của sự phát triển là mâu thuẫn,
còn động lực của sự phát triển là đấu tranh giữa các mặt đối lập trong sự vật, hiện
tượng đó.
+ Nguyên tắc phát triển yêu cầu, phải nhận thức sự phát triển là quá trình trải
qua nhiều giai đoạn, từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện
đến hoàn thiện hơn. Mỗi giai đoạn phát triển lại có những đặc điểm, tính chất, hình
thức khác nhau; bởi vậy, phải phân tích cụ thể để tìm ra những hình thức hoạt
động, phương pháp tác động phù hợp để hoặc, thúc đẩy, hoặc kìm hãm sự phát
triển đó.
+ Nguyên tắc phát triển đòi hỏi trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực
tiễn phải nhạy cảm với cái mới, sớm phát hiện ra cái mới, ủng hộ cái mới hợp quy
luật, tạo điều kiện cho cái mới phát triển; phải chống lại quan điểm bảo thủ, trì trệ,
định kiến v.v. Sự thay thế cái cũ bằng cái mới diễn ra rất phức tạp, nhiều khi cái
mới hợp quy luật chịu thất bại tạm thời, tạo nên con đường phát triển không thẳng
mà quanh co, phức tạp; tránh lạc quan và bi quan thái quá trong quá trình phát triển
của sự vật, hiện tượng. Trong quá trình thay thế cái cũ bằng cái mới phải biết kế
thừa những yếu tố tích cực đã đạt được từ cái cũ mà phát triển sáng tạo chúng
trong điều kiện mới.
c. Nguyên tắc lịch sử - cụ thể trong nhận thức và thực tiễn
- Cơ sở lý luận của nguyên tắc lịch sử - cụ thể là toàn bộ nội dung phép biện
chứng duy vật và nguyên tắc chân lý là cụ thể của lý luận nhận thức duy vật biện
chứng.
- Bản chất của nguyên tắc này nằm ở chỗ, trong quá trình nhận thức sự vật,
hiện tượng, trong sự vận động, trong sự chuyển hoá qua lại của nó, phải tái tạo lại
được sự phát triển của sự vật, hiện tượng ấy, sự vận động của chính nó, đời sống
của chính nó. Đặc trưng cơ bản của nguyên tắc này là xem xét sự hình thành, tồn
tại và phát triển của sự vật, hiện tượng trong lịch sử, trong điều kiện, môi trường,
hoàn cảnh v.v cụ thể.
- Nội dung của nguyên tắc lịch sử - cụ thể trong nhận thức và thực tiễn được
V.I.Lênin nêu rõ là phải xem xét mỗi vấn đề theo quan điểm sau đây: một hiện
tượng nhất định đã xuất hiện trong lịch sử như thế nào, hiện tượng đó đã trải qua
những giai đoạn phát triển chủ yếu nào, và đứng trên quan điểm của sự phát triển
đó để xét xem hiện nay nó đã trở thành như thế nào. Như vậy, nguyên tắc lịch sử -
cụ thể tái tạo lại sự vật, hiện tượng thông qua lăng kính của những ngẫu nhiên,
71
những bước quanh co, những gián đoạn theo tình tự không gian và thời gian, theo
trình tự của sự hình thành sự vật, hiện tượng; nhờ đó mà có thể phản ánh được sự
vận động đa dạng và nhiều vẻ của các hình thức biểu hiện cụ thể của sự vật, hiện
tượng để qua đó, nhận thức được bản chất của nó.
+ Nguyên tắc lịch sử - cụ thể yêu cầu phải nhận thức được vận động có tính
phổ biến, là phương thức tồn tại của vật chất; nghĩa là phải nhận thức được rằng,
vận động làm cho sự vật, hiện tượng xuất hiện, phát triển theo những quy luật nhất
định và hình thức của vận động quyết định bản chất của nó.
+ Nguyên tắc lịch sử - cụ thể yêu cầu phải chỉ rõ được những giai đoạn mà
nó đã trải qua trong quá trình phát triển của mình; phải biết phân tích mỗi tình hình
cụ thể trong nhận thức và thực tiễn, để nhận thức và giải thích được những thuộc
tính, những mối liên hệ tất yếu đặc trưng, những chất và lượng vốn có của sự vật,
hiện tượng.
+ Nguyên tắc lịch sử - cụ thể còn yêu cầu chỉ ra được mối liên hệ khách
quan; chỉ ra được các quy luật khách quan quy định sự vận động, phát triển của sự
vật, hiện tượng, quy định sự tồn tại hiện thời và khả năng chuyển hoá thành sự vật,
hiện tượng mới thông qua sự phủ định; chỉ ra được rằng, thông qua phủ định của
phủ định, sự vật, hiện tượng phủ định là sự kế tục sự vật, hiện tượng bị phủ định, là
sự bảo tồn sự vật, hiện tượng bị phủ định trong dạng đã được cải tạo cho phù hợp
với sự vật, hiện tượng phủ định.
+ Trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn luôn quán triệt nguyên
tắc lịch sử - cụ thể để nhận thức sự vật, hiện tượng với đầy đủ các mối liên hệ trong
sự tồn tại khách quan vốn có của nó, để nhận thức được vị trí, vai trò của từng mối
liên hệ quy định sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng.
            d. Mối liên hệ giữa các nguyên tắc phương pháp luận trên
            - Sự thống nhất giữa các nguyên tắc phương pháp luận trên.
            - Sự khác nhau giữa các nguyên tắc phương pháp luận trên.
            - Vận dụng đồng bộ các nguyên tắc phương pháp luận vào nhận thức và
thực tiễn./.

72
CHƯƠNG VII. NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT
GIỮA LÝ LUẬN VỚI THỰC TIỄN CỦA TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN
TS. Lê Văn Lực,
Đại học Quốc gia Hà Nội
I. PHẠM TRÙ THỰC TIỄN VÀ PHẠM TRÙ LÝ LUẬN
1. Phạm trù thực tiễn
- Vấn đề thực tiễn trong triết học trước Mác.
+ Đa số các nhà triết học duy vật trước Mác chưa có quan điểm đúng đắn về
thực tiễn, chưa đặt ra vai trò của thực tiễn đối với nhận thức, mà chỉ nêu vai trò của
thực nghiệm khoa học, do vậy chưa thấy vai trò của thực tiễn đối với nhận thức nói
chung, với lý luận nói riêng. Đó là những nguyên nhân chủ yếu lý giải chủ nghĩa
duy vật trước Mác đã không làm sáng tỏ được vai trò năng động, sáng tạo và tính
tích cực của tư duy con người. Bêcơn là nhà triết học đầu tiên nhận thấy vai trò của
thực nghiệm trong quá trình nhận thức, hình thành tri thức khoa học; theo đó nhận
thức phải xuất phát từ giới tự nhiên và thực nghiệm để tìm ra mối quan hệ nhân -
quả, phát hiện và kiểm tra chân lý. Phoiơbắc coi thực tiễn là hoạt động của con
người, nhưng chỉ coi hoạt động lý luận là hoạt động đích thực của con người.
Khuyết điểm chủ yếu của các nhà triết học duy vật trước Mác trong vấn đề thực
tiễn là sự vật, hiện thực, cái cảm giác được, chỉ được nhận thức trong hình thức
khách thể hay hình thức trực quan chứ không được coi là hoạt động cảm giác của
con người, của thực tiễn. Tuy vậy, quan điểm về vai trò của thực nghiệm khoa học
trong quá trình nhận thức, trong sự hình thành tri thức khoa học vẫn là một trong
những tiền đề cho quan niệm về thực tiễn trong triết học Mác.
+ Các nhà triết học duy tâm, tuy thấy được mặt năng động của tư duy, nhưng
lại tuyệt đối hoá vai trò của nó, làm cho tư duy trở nên thần bí. Hêghen cho rằng,
bằng thực tiễn, chủ thể tự nhân đôi mình, đối tượng hoá bản thân mình trong quan
hệ với thế giới bên ngoài và tuy đó không phải là hoạt động vật chất của con người
mà của ý niệm tuyệt đối nhưng vẫn là ý tưởng sâu sắc về thực tiễn.
            - Phạm trù thực tiễn trong triết học Mác - Lênin.
            + Định nghĩa. Thực tiễn là toàn bộ hoạt động vật chất có mục đích mang
tính lịch sử - xã hội của con người nhằm cải tạo tự nhiên, xã hội và chính bản thân
mình.
            + Tính chất của thực tiễn. Thực tiễn là hoạt động vật chất, có tính lịch sử -
cụ thể; có tính xã hội; có tính tất yếu; phong phú và đa dạng.
+ Các hình thức thực tiễn cơ bản. Để hiểu được vai trò của thực tiễn đối với
nhận thức nói chung, lý luận nói riêng, cần phải thấy thực tiễn là phương thức đầu
tiên và chủ yếu của mối quan hệ giữa con người và thế giới xung quanh, là phương
thức tồn tại của con người và xã hội loài người. Các hình thức thực tiễn cơ bản là
hoạt động sản xuất vật chất; hoạt động chính trị xã hội; hoạt động thực nghiệm

73
khoa học và một số lĩnh vực của thực tiễn như hoạt động giáo dục, nghệ thuật, y tế
v.v, trong đó hoạt động sản xuất vật chất là hình thức cơ bản, quy định các hình
thức và lĩnh vực còn lại.
2. Phạm trù lý luận
            Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng, con người tự làm ra lịch sử của
mình bằng hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới hiện thực chứ không phải bắt đầu từ
những lý luận nào đó. Đó cũng là cách hiểu về vai trò của hoạt động thực tiễn như
là điểm xuất phát của quan niệm duy vật về lịch sử, của lý luận duy vật biện chứng
về nhận thức.
- Định nghĩa. Lý luận là hệ thống tri thức được khái quát từ thực tiễn, phản
ánh những mối liên hệ bản chất, những quy luật vận động và phát triển của sự vật,
hiện tượng; là sự tổng kết những kinh nghiệm của loài người, là tổng hợp những tri
thức về tự nhiên và xã hội tích trữ lại trong quá trình lịch sử.
            - Nguồn gốc của lý luận. Lý luận hình thành nhờ quá trình nhận thức kinh
nghiệm và nhận thức lý luận do các thế hệ trước để lại.
+ Nhận thức kinh nghiệm được hình thành nhờ quá trình quan sát những
diễn biến xẩy ra của các sự vật, hiện tượng. Nhận thức kinh nghiệm gồm tri thức
kinh nghiệm thông thường, là tri thức có được nhờ hoạt động hàng ngày giúp con
người giải quyết những vấn đề đơn giản, cụ thể; còn tri thức kinh nghiệm khoa học
là tri thức thu được nhờ tri thức kinh nghiệm thông thường và tri thức thu được
trong quá trình thực nghiệm khoa học, loại tri thức này là tiên đề trực tiếp để hình
thành lý luận khoa học.
+ Nhận thức lý luận được hình thành nhờ tri thức kinh nghiệm khoa học và
lý luận do các thế hệ trước để lại.
            - Các cấp độ lý luận. Lý luận ngành và lý luận triết học.
            + Lý luận ngành là lý luận khái quát những quy luật hình thành và phát
triển của một ngành; có vai trò là cơ sở lý luận để sáng tạo, đông thời là phương
pháp luận của ngành đó (lý luận văn học, nghệ thuật v.v).
+ Lý luận triết học là hệ thống những quan niệm chung nhất về thế giới, về
vị trí và vai trò của con người trong thế giới ấy, đồng thời là thế giới quan và
phương pháp luận của hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn.
            - Các chức năng cơ bản của lý luận. Chức năng phản ánh hiện thực khách
quan và chức năng phương pháp luận cho hoạt động thực tiễn.
            + Chức năng phản ánh hiện thực khách quan của lý luận thể hiện qua
những quy luật chung nhất.
            + Chức năng phương pháp luận cho hoạt động thực tiễn (xem phương pháp
luận).
II. NHỮNG YÊU CẦU CƠ BẢN CỦA NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT GIỮA
LÝ LUẬN VỚI THỰC TIỄN

74
1. Thực tiễn là cơ sở, là động lực, là mục đích và tiêu chuẩn của lý luận; lý
luận hình thành, phát triển phải xuất phát từ thực tiễn, đáp ứng yêu cầu của
thực tiễn
- Thực tiễn là cơ sở của lý luận.
+ Thực tiễn là cơ sở của nhận thức là do nhu cầu của hoạt động thực tiễn
buộc con người phải nhận thức thế giới.     
+ Thực tiễn là cơ sở của nhận thức là vì nhờ hoạt động thực tiễn, các giác
quan và bộ não của con người không ngừng được hoàn thiện và phát triển, tạo ra
năng lực tư duy trừu tượng ngày càng cao.
+ Thực tiễn là cơ sở của nhận thức là vì nhờ thông qua lao động, thực tiễn
trang bị cho con người công cụ, phương tiện nhận thức ngày càng tinh vi hơn, giúp
con người đẩy nhanh quá trình tìm hiểu bản chất sự vật, hiện tượng, mở rộng tầm
bao quát những quá trình đang diễn ra trong thế giới.
- Thực tiễn là động lực của lý luận.
            + Hoạt động thực tiễn là nguồn gốc để con người hoàn thiện mình và hoàn
thiện các mối quan hệ với tự nhiên, với xã hội.
            + Hoạt động thực tiễn tạo cơ sở để con người khái quát tri thức thành lý
luận, làm lý luận phản ánh hiện thực ngày càng đầy đủ, phong phú và sâu sắc hơn.
            + Nhờ vậy, thực tiễn thúc đẩy sự hình thành khoa học lý luận.
            - Thực tiễn là mục đích của lý luận.
            Mục đích chủ yếu của lý luận là nâng cao năng lực hoạt động của con
người và mục đích đó chỉ được thực hiện thông qua hoạt động thực tiễn tạo vai trò
đáp ứng nhu cầu hoạt động thực tiễn của lý luận.
            - Thực tiễn là tiêu chuẩn chân lý của lý luận.
            + Tính chân lý của lý luận là sự phản ánh phù hợp của lý luận với hiện thực
khách quan mà nó phản ánh và đã được thực tiễn kiểm nghiệm. Giá trị của lý luận
phải được thực tiễn chứng minh.
            + Không phải mọi thực tiễn đều là tiêu chuẩn của lý luận, bởi thực tiễn
cũng vận động, phát triển và chuyển hoá. Nếu lý luận chỉ phản ánh một trong
những giai đoạn nào đó của thực tiễn, thì lý luận chỉ mới chỉ là tương đối; chỉ có
những lý luận nào phản ánh được thực tiễn trong tính toàn vẹn của nó mới đạt đến
chân lý.
2. Thực tiễn phải được chỉ đạo bởi lý luận; ngược lại, lý luận phải được vận
dụng vào thực tiễn, tiếp tục bổ sung và phát triển trong thực tiễn
            - Lý luận có khả năng soi đường cho thực tiễn bằng các chức năng định
hướng mục đích; xác định lực lượng, phương pháp và biện pháp thực hiện mục
đích.

75
            + Lý luận định hướng mục đích. Ban đầu, hoạt động chỉ để đáp ứng nhu
cầu tồn tại và thông qua đó, khái quát thành lý luận; về sau hoạt động muốn có
hiệu quả cần có lý luận soi đường, hoạt động từ bản năng chuyển sang tự giác.
            + Lý luận có khả năng xác định lực lượng, phương pháp và biện pháp thực
hiện mục đích.
- Lý luận dự báo khả năng phát triển, những khả năng có thể xẩy ra trong
quá trình hoạt động, bởi vậy lý luận không những giúp hoạt động hiệu quả, mà còn
là cơ sở để khắc phục những hạn chế và tăng cường năng lực hoạt động của con
người.
            - Lý luận có vai trò giác ngộ mục tiêu, lý tưởng; liên kết các cá nhân thành
cộng đồng, tạo ra sức mạnh trong cải tạo tự nhiên, xã hội.
- Lý luận phải trở lại chỉ đạo hoạt động thực tiễn, kiểm nghiệm trong thực
tiễn và tiếp tục bổ sung, phát triển trong thực tiễn; chống lý luận suông và sự lạc
hậu của lý luận so với thực tiễn.
III. Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN CỦA NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT
GIỮA LÝ LUẬN VỚI THỰC TIỄN TRONG GIAI ĐOẠN CÁCH MẠNG HIỆN
NAY Ở NƯỚC TA
1. Lý luận phải luôn bám sát thực tiễn; phản ánh được yêu cầu của thực tiễn;
khái quát được những kinh nghiệm của thực tiễn
            - Thực tiễn luôn vận động, phát triển và biến đổi nên nhận thức phải bám
sát để phản ánh quá trình đó; so sánh, đối chiếu, phân tích để chọn lọc những thực
tiễn có tính quy luật làm cơ sở cho quá trình hình thành lý luận.
            - Lý luận phải khái quát được kinh nghiệm của nhân loại; tổng kết được
thực tiễn mới có tính khoa học và đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn.
2. Hoạt động thực tiễn phải lấy lý luận chỉ đạo; khi vận dụng lý luận phải phù
hợp với điều kiện lịch sử - cụ thể
            - Lý luận là sự tổng kết thực tiễn và là mục đích cho hoạt động thực tiễn
tiếp theo.
            - Lý luận phản ánh thực tiễn trong dạng quy luật nên lý luận có khả năng
trở thành phương pháp luận cho thực tiễn.
3. Khắc phục bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều
Bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều là những biểu hiện khác nhau của sự vi
phạm nguyên tắc thống nhất giữa lý luận với thực tiễn.
- Bệnh kinh nghiệm, nguyên nhân và con đường khắc phục. Bệnh kinh
nghiệm xuất hiện do tuyệt đối hoá những kinh nghiệm đã có và áp dụng chúng vào
hiện tại mặc đù điều kiện đã thay đổi. Muốn khắc phục bệnh này, cần quán triệt
nguyên tắc thống nhất giữa lý luận với thực tiễn, luôn bám sát thực tiễn, nâng cao
trình độ lý luận; bổ sung, vận dụng lý luận phù hợp với thực tiễn.

76
- Bệnh giáo điều, nguyên nhân và con đường khắc phục. Bệnh giáo điều xuất
hiện do nắm lý luận còn nông cạn, tuyệt đối hoá lý luận, vận dụng máy móc những
kiến thức đã có trong sách vở mà coi nhẹ kinh nghiệm. Muốn khắc phục bệnh này,
cần quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận với thực tiễn, luôn gắn lý luận với
thực tiễn, kiểm tra lý luận trong thực tiễn và phát triển lý luận cùng với sự phát
triển của thực tiễn./.

77
CHƯƠNG VIII. LÝ LUẬN HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI
VÀ CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
PGS.TS. Đoàn Quang Thọ,
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội.
----------------------
Người trình bày: Tiến sỹ Đoàn Thị Minh Oanh, Đại học Quốc gia Hà
Nội. Điện thoại 0915340975.
Thời lượng: 8 tiết trên lớp, 4 tiết tự học
----------------------
I. LÝ LUẬN HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ VAI TRÒ PHƯƠNG PHÁP
LUẬN CỦA LÝ LUẬN ĐÓ
1. Những tiền đề xuất phát để xây dựng lý luận hình thái kinh tế - xã hội
- Quan điểm duy tâm về lĩnh vực xã hội.
            + Xuất phát từ ý thức, tư tưởng, tôn giáo, chính trị để giải thích đời sống xã
hội.
            + Quan hệ thống trị là quan hệ tôn giáo, pháp luật, chính trị.
- Tiền đề xuất phát để xây dựng quan điểm duy vật về xã hội.
            + Phê phán quan điểm duy tâm về lĩnh vực xã hội.
            + Xuất phát từ đời sống hiện thực của con người, bắt đầu từ sự khẳng định
sản xuất vật chất với hai mặt là quan hệ giữa người với người và quan hệ giữa
người với tự nhiên trong quá trình sản xuất, C.Mác đã phát hiện ra cơ sở vật chất,
kinh tế quy định tư tưởng, chính trị và điều kiện sinh hoạt vật chất quy định ý thức
của con người; khẳng định sự vận động và phát triển của xã hội tuân theo quy luật
khách quan, nhưng cũng nêu cao vai trò của nhân tố chủ quan. Từ đó, C.Mác đưa
ra khái quát khoa học về lý luận hình thái kinh tế - xã hội.
2. Cấu trúc xã hội, phạm trù hình thái kinh tế - xã hội
- Cấu trúc xã hội gồm các lĩnh vực kinh tế; lĩnh vực chính trị; lĩnh vực ý
thức, tư tưởng; lĩnh vực các quan hệ xã hội về gia đình, giai cấp, dân tộc; các lĩnh
vực đó thống nhất biện chứng với nhau, trong đó lĩnh vực kinh tế quy định các lĩnh
vực còn lại.
- Phạm trù hình thái kinh tế - xã hội.
            + Định nghĩa phạm trù hình thái kinh tế - xã hội. Hình thái kinh tế - xã hội
là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật biện chứng dùng để chỉ xã hội ở từng giai
đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó, phù
hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất, với một kiến trúc thượng
tầng tương ứng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất ấy.
            + Các thành phần của hình thái kinh tế - xã hội. Là hệ thống hoàn chỉnh,
phức tạp, hình thái kinh tế - xã hội gồm các mặt cơ bản nhất là lực lượng sản xuất,

78
quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng. Mỗi mặt của hình thái kinh tế - xã hội
vừa tồn tại độc lập, vừa tác động qua lại, vừa thống nhất với nhau.
- Lực lượng sản xuất là nền tảng vật chất - kỹ thuật của mỗi hình thái kinh tế
- xã hội. Sự phát triển của lực lượng sản xuất quy định sự hình thành, tồn tại và
chuyển hoá lẫn nhau giữa các hình thái kinh tế - xã hội, từ hình thái thấp, ít tiến bộ
lên hình thái cao hơn, tiến bộ hơn.
- Quan hệ sản xuất là quan hệ cơ bản, quy định mọi quan hệ xã hội khác, phù
hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và tạo thành cơ sở hạ tầng của xã
hội. Quan hệ sản xuất còn là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt các chế độ xã hội.
- Kiến trúc thượng tầng được hình thành và phát triển trên cơ sở hạ tầng và
là công cụ bảo vệ, duy trì và phát triển cơ sở hạ tầng đã sinh ra nó.
- Ngoài lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng, hình
thái kinh tế - xã hội còn bao gồm các yếu tố như quan hệ gia đình, giai cấp, dân tộc
v.v. Chúng gắn bó với quan hệ sản xuất và cùng biến đổi với sự biến đổi của quan
hệ sản xuất.
3. Phép biện chứng về sự vận động, phát triển của các hình thái kinh tế - xã
hội
- Biện chứng giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất.
Sự liên hệ, tác động lẫn nhau giữa quan hệ sản xuất (cái thứ hai) với lực
lượng sản xuất (cái thứ nhất) tạo nên quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất
với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
+ Các khái niệm.
1) Phương thức sản xuất. Sản xuất vật chất được tiến hành trong điều kiện tự
nhiên, môi trường địa lý; dân số, mật độ dân số và phương thức sản xuất vật chất.
Trong các yếu tố đó, phương thức sản xuất là yếu tố quyết định sự tồn tại và phát
triển của xã hội. Phương thức sản xuất là cách thức con người thực hiện để sản
xuất vật chất, là sự thống nhất biện chứng giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản
xuất ở những giai đoạn phát triển nhất định của xã hội loài người. Mỗi phương
thức sản xuất thể hiện sự thống nhất cụ thể giữa lực lượng sản xuất ở một trình độ
nhất định với quan hệ sản xuất tương ứng. Trong lịch sử xã hội loài người đã tồn
tại hình thái kinh tế-xã hội nguyên thuỷ, nô lệ, phong kiến, tư bản và cộng sản.
Chúng là những nấc thang chính trong sự phát triển của xã hội loài người.
2) Lực lượng sản xuất là nền tảng vật chất - kỹ thuật của mỗi hình thái kinh
tế - xã hội; là mối quan hệ giữa con người với giới tự nhiên trong quá trình sản
xuất vật chất, thể hiện năng lực thực tế chinh phục giới tự nhiên bằng sức mạnh
tổng hợp của con người trong quá trình đó. Sự phát triển của lực lượng sản xuất
quy định sự hình thành, tồn tại và chuyển hoá giữa các hình thái kinh tế-xã hội, từ
hình thái thấp, ít tiến bộ lên hình thái tiến bộ hơn. Các yếu tố của lực lượng sản
xuất là tư liệu sản xuất, người lao động và khoa học.

79
3) Quan hệ sản xuất là quan hệ vật chất, kinh tế cơ bản nhất của hình thái
kinh tế - xã hội, quy định mọi quan hệ xã hội khác và mỗi kiểu quan hệ sản xuất
tiêu biểu cho bản chất kinh tế của mỗi hình thái kinh tế -xã hội nhất định, thể hiện
mối quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất; phù hợp với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất, tạo thành cơ sở hạ tầng của xã hội và là tiêu
chuẩn khách quan để phân biệt các chế độ xã hội. Tính vật chất của quan hệ sản
xuất thể hiện ở chỗ, nó tồn tại khách quan, độc lập với ý thức con người. Tuy vậy,
trong quy luật này, quan hệ sản xuất mang tính thứ hai, do lực lượng sản xuất quy
định.
            + Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất.
1) Lực lượng sản xuất quy định quan hệ sản xuất. Trong quá trình sản xuất,
để lao động bớt nặng nhọc và đạt hiệu quả cao hơn, con người luôn tìm cách cải
tiến, hoàn thiện công cụ lao động và chế tạo ra những công cụ lao động mới nhằm
đạt năng suất, hiệu quả cao hơn; kinh nghiệm sản xuất, thói quen lao động, tri thức
khoa học cũng tiến bộ và phát triển hơn. Nhưng trong quá trình đó, quan hệ sản
xuất thường chậm phát triển hơn nên sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất không là vĩnh viễn trong sự vận động, phát triển
của xã hội. Khi phát triển tới trình độ mới, tình trạng phù hợp trên sẽ bị phá vỡ,
xuất hiện mâu thuẫn giữa quan hệ sản xuất cũ với trình độ mới của lực lượng sản
xuất và khi đến trình độ nào đó, quan hệ sản xuất trở thành xiềng xích của lực
lượng sản xuất, níu kéo sự phát triển tiếp theo của lực lượng sản xuất. Khi đó bắt
đầu thời đại một cuộc cách mạng.
Mâu thuẫn biện chứng giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất có tính quy luật và thể hiện thông qua hoạt động có ý thức của con
người. Vì vậy, việc giải quyết mâu thuẫn đó còn phụ thuộc vào nhân tố chủ quan.
Con người phát hiện những yếu tố không phù hợp của quan hệ sản xuất; phủ định
chúng và thay thế bằng những yếu tố phù hợp; đem lại sự phù hợp giữa quan hệ
sản xuất với trình độ phát triển c���a lực lượng sản xuất. Nhưng rồi sự phù hợp
đó không chống lại được sự phát triển khách quan của lực lượng sản xuất lên trình
độ mới tiếp theo dẫn đến sự phát triển biện chứng của sản xuất vật chất tuân theo
chuỗi xích phù hợp, không phù hợp.
2) Quan hệ sản xuất tồn tại độc lập tương đối và tác động ngược trở lại sự
phát triển của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất phù hợp với sự phát triển của
lực lượng sản xuất sẽ tạo địa bàn, mở đường và trở thành động lực cơ bản thúc đẩy
và ngược lại, sẽ trở thành xiềng xích trói buộc, kìm hãm sự phát triển lực lượng sản
xuất. Quan hệ sản xuất quy định mục đích sản xuất; tác động lên thái độ người lao
động; lên tổ chức phân công lao động xã hội; lên khuynh hướng phát triển và ứng
dụng khoa học và công nghệ để từ đó hình thành một hệ thống những yếu tố hoặc
thúc đẩy, hoặc kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Sự tác động trở lại
của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất bao giờ cũng thông qua các quy
80
luật kinh tế xã hội, đặc biệt là các quy luật kinh tế c�� bản. Thực tiễn cho thấy,
lực lượng sản xuất chỉ có thể phát triển khi có quan hệ sản xuất hợp lý, đồng bộ,
phù hợp với nó.
            - Biện chứng giữa cơ sở hạ tầng với kiến trúc thượng tầng.
            Mỗi xã hội cụ thể đều có một kiểu quan hệ vật chất, kinh tế nhất định và
phù hợp với nó là quan hệ tư tưởng, chính trị v.v. Những quan hệ này được thể
hiện qua những tổ chức xã hội tương ứng (nhà nước, đảng phái chính trị, toà án,
giáo hội và các tổ chức xã hội khác). Mối liên hệ, tác động lẫn nhau giữa quan hệ
vật chất, kinh tế (cái thứ nhất) với quan hệ tư tưởng, tinh thần (cái thứ hai) được
chủ nghĩa duy vật biện chứng phản ánh trong mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở
hạ tầng với kiến trúc thượng tầng.
+ Các khái niệm.
* Cơ sở hạ tầng (hạ tầng các mối quan hệ vật chất, kinh tế) dùng để chỉ toàn
bộ những quan hệ sản xuất tạo nên cơ cấu kinh tế của một xã hội nhất định. Các
thành phần cơ bản của một cơ sở hạ tầng cụ thể gồm quan hệ sản xuất thống trị
trong phương thức sản xuất; quan hệ sản xuất tàn dư của phương thức sản xuất
trước đó; quan hệ sản xuất mầm mống của phương thức sản xuất tương lai và
những kiểu quan hệ kinh tế khác, trong đó quan hệ sản xuất thống trị giữ vai trò
chủ đạo, chi phối các thành phần kinh tế và các kiểu quan hệ sản xuất khác và quy
định tính chất của cơ sở hạ tầng. Sự đối kháng giai cấp và tính chất của sự đối
kháng đó bắt nguồn từ cơ sở hạ tầng.
* Kiến trúc thượng tầng (thượng tầng các mối quan hệ tư tưởng, chính trị) là
toàn bộ những quan điểm xã hội (chính trị, pháp luật, triết học, đạo đức, tôn giáo,
nghệ thuật, khoa học v.v) với những thiết chế tương ứng (nhà nước, đảng phái,
giáo hội, các đoàn thể xã hội v.v) và những mối quan hệ nội tại giữa các yếu tố đó
của kiến trúc thượng tầng. Các thành phần cơ bản của một kiến trúc thượng tầng cụ
thể gồm những quan điểm xã hội và thiết chế tương ứng của giai cấp thống trị; tàn
dư những quan điểm xã hội của xã hội trước; quan điểm và tổ chức xã hội của các
giai cấp mới ra đời; quan điểm và tổ chức xã hội của các tầng lớp trung gian. Trong
đó, những quan điểm xã hội và thiết chế tương ứng của giai cấp thống trị quy định
tính chất kiến trúc thượng tầng. Bộ phận có quyền lực mạnh nhất của kiến trúc
thượng tầng là nhà nước- công cụ vật chất của giai cấp thống trị về mặt kinh tế,
chính trị và pháp luật. Nhờ có nhà nước mà tư tưởng của giai cấp thống trị mới
thống trị được xã hội. Giai cấp nào thống trị về mặt kinh tế và nắm chính quyền
nhà nước thì tư tưởng và các thể chế giai cấp đó cũng giữ địa vị thống trị trong xã
hội.
            + Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất.
* Cơ sở hạ tầng quy định kiến trúc thượng tầng thông qua 1) Tính chất của
kiến trúc thượng tầng do tính chất của cơ sở hạ tầng quy định. 2) Những biến đổi
trong cơ sở hạ tầng sẽ dẫn đến những biến đổi trong kiến trúc thượng tầng. 3) Sự
81
phụ thuộc của kiến trúc thượng tầng vào cơ sở hạ tầng thể hiện phong phú và phức
tạp.
* Kiến trúc thượng tầng tác động trở lại cơ sở hạ tầng thông qua 1) Trong
mỗi kiến trúc thượng tầng còn kế thừa một số yếu tố của kiến trúc thượng tầng
trước. 2) Trong xã hội có giai cấp, nhà nước là yếu tố vật chất có tác động mạnh
nhất đối với cơ sở hạ tầng. 3) Các yếu tố tinh thần của kiến trúc thượng tầng như
chính trị, pháp luật tác động trực tiếp, còn triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật,
khoa học v.v tác động gián tiếp đối với cơ sở hạ tầng, bị các yếu tố chính trị, pháp
luật chi phối. 4) Sự tác động tích cực của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ
tầng được thể hiện ở chức năng xã hội của kiến trúc thượng tầng là bảo vệ, duy trì,
củng cố và  phát triển cơ sở hạ tầng sinh ra nó; đấu tranh xoá bỏ cơ sở hạ tầng và
kiến trúc thượng tầng cũ. Trong đó, nhà nước, dựa trên hệ tư tưởng để kiểm soát xã
hội và dùng bạo lực để tăng cường sức mạnh kinh tế của giai cấp thống trị. 5) Tác
dụng những tác động của kiến trúc thượng tầng lên cơ sở hạ tầng sẽ là tích cực khi
tác động đó cùng chiều với sự vận động của các quy luật kinh tế khách quan, nếu
trái lại, sẽ gây trở ngại cho sự phát triển sản xuất, cản đường phát triển của xã hội.
Tuy kiến trúc thượng tầng có tác động mạnh, nhưng không thể thay thế được yếu
tố vật chất, kinh tế. Nếu kiến trúc thượng tầng kìm hãm sự phát triển của kinh tế -
xã hội, sớm hay muộn, bằng cách này hay cách khác, kiến trúc thượng tầng đó sẽ
được thay thế bằng kiến trúc thượng tầng mới, thúc đẩy kinh tế - xã hội tiếp tục
phát triển.
- Sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự
nhiên.
            + Sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội vừa tuân theo quy luật
khách quan phổ biến, vừa chịu sự chi phối của các quy luật riêng, đặc thù.
            + Nguồn gốc sâu xa của sự thay thế nhau theo khuynh hướng phát triển của
các hình thái kinh tế - xã hội là do sự phát triển của lực lượng sản xuất.
            + Quá trình thay thế nhau của các hình thái kinh tế - xã hội vừa diễn ra tuần
tự, vừa bao hàm cả sự bỏ qua một vài hình thái kinh tế - xã hội nào đó.
4. Tính khoa học và vai trò phương pháp luận của lý luận hình thái kinh tế-xã
hội
- Tính khoa học của lý luận hình thái kinh tế - xã hội.
- Vai trò phương pháp luận của lý luận hình thái kinh tế - xã hội.
            + Đời sống xã hội phải được giải thích từ sản xuất, từ phương thức sản
xuất.
            + Xã hội là một tổ chức sống; các yếu tố của nó thống nhất, tác động lẫn
nhau.
            + Sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử -
tự nhiên.

82
            + Quy luật phát triển chung của xã hội loài người và quy luật riêng, đặc thù
của mỗi dân tộc.
 
 
II. NHẬN THỨC VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ
NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
1. Dự báo của C.Mác và V.I.Lênin về chủ nghĩa xã hội
- C.Mác và Ph.Ăngghen dự báo về sự ra đời của hình thái cộng sản chủ
nghĩa.
            + Chủ nghĩa tư bản đã tạo ra nền đại công nghiệp cơ khí và giai cấp vô sản
cách mạng- những yếu tố xoá bỏ chủ nghĩa tư bản để xây dựng xã hội mới.
            + Để đi đến xã hội cộng sản, phải trải qua cách mạng vô sản; cuộc cách
mạng đó sẽ đồng thời xẩy ra ở trong các nước tư bản phát triển (Anh, Mỹ, Pháp,
Đức).
- V.I.Lênin kế thừa và phát triển tư tưởng của C.Mác trong việc phân tích xã
hội tư bản và dự báo về chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản.
            + Quy luật phát triển không đều của chủ nghĩa tư bản, nên chủ nghĩa xã hội
có thể thắng lợi, trước hết trong một số ít nước, thậm chí trong một nước tư bản.
+ Hai con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
* Quá độ trực tiếp lên chủ nghĩa xã hội đối với các nước tư bản phát triển.
            * Quá độ gián tiếp thông qua nhiều khâu trung gian, nhiều bước quá độ đối
với các nước lạc hậu, kinh tế kém phát triển.
2. Chủ nghĩa xã hội theo mô hình kế hoạch hoá tập trung và vai trò lịch sử của

- Đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội theo mô hình hoá kế hoạch hoá tập
trung.
            + Chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, chủ yếu trong hình thức toàn dân và
tập thể.
            + Nhà nước quyết định và quyết định có tính pháp lệnh về sản xuất gì, như
thế nào, phân phối cho ai những sản phẩm đó.
            + Phân phối bình quân, trực tiếp bằng hiện vật; coi nhẹ quan hệ hàng hoá -
tiền tệ.
            + Nhà nước quản lý bằng mệnh lệnh hành chính; coi nhẹ các biện pháp
kinh tế.
- Vai trò lịch sử của mô hình kế hoạch hoá tập trung.
+ Vai trò tích cực. Trong điều kiện bị bao vây, cô lập, mô hình kế hoạch hoá
tập trung có vai trò tích cực trong việc huy động sức người, sức của vào sự nghiệp
xây dựng đất nước và chống lại sự tấn công của kẻ thù.

83
+ Hạn chế. Không khai thác được năng lực sản xuất; không phát huy được
sự nhiệt tình và tính chủ động sáng tạo của sản xuất; không đẩy nhanh được sự tiến
bộ của khoa học, công nghệ v.v. Đẻ ra bộ máy hành chính quan liêu, chủ quan duy
ý chí.
3. Những biến đổi của thời đại và vấn đề quá độ lên chủ nghĩa xã hội
            -  Chủ nghĩa xã hội theo mô hình kế hoạch hoá tập trung sụp đổ; chủ nghĩa
tư bản đạt được nhiều thành tựu về kinh tế, khoa học và công nghệ.
            - Nhận thức lại về chủ nghĩa xã hội không tách rời với nhận thức về sự phát
triển và diệt vong tất yếu của chủ nghĩa tư bản cùng với những thành tựu của cách
mạng khoa học và công nghệ.
4. Về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
a. Quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt
Nam
- Vận dụng sáng tạo lý luận hình thái kinh tế - xã hội vào điều kiện cụ thể ở
Việt Nam.
            + Lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là phù hợp với xu hướng của
thời đại. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, mặc dù có những vấp váp,
nhưng đã đem lại nhiều thành tựu về mọi mặt.
            + Bỏ qua tư bản chủ nghĩa, đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam phải trải
qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức
kinh tế, xã hội có tính chất quá độ.
b. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá
độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
- Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhằm xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho
chủ nghĩa xã hội.
            - Con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam cần và có thể rút
ngắn thời gian, vừa có những bước tuần tự, vừa có những bước nhảy vọt.
            - Công nghiệp hoá, hiện đại hoá còn có ý nghĩa chống lại nguy cơ tụt hậu
về kinh tế so với các nước trong khu vực và thế giới.
 
c. Kết hợp giữa phát triển lực lượng sản xuất với xây dựng quan hệ sản
xuất phù hợp trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
            - Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với xây dựng quan hệ sản
xuất mới phù hợp trên cả ba mặt sở hữu, quản lý và phân phối.
            - Xây dựng và hoàn thiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa.
d. Kết hợp giữa kinh tế với chính trị và các mặt khác của đời sống xã
hội trong thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội

84
            - Mối liên hệ giữa đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị ở Việt Nam hiện
nay.
            - Mối liên hệ giữa đổi mới kinh tế, chính trị với đổi mới các mặt khác của
đời sống xã hội./.
 

85
CHƯƠNG IX. GIAI CẤP, DÂN TỘC, NHÂN LOẠI TRONG THỜI
ĐẠI  HIỆN NAY VÀ VẬN DỤNG VÀO SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG CHỦ
NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
TS. Dương Văn Thịnh,
Đại học Quốc gia Hà Nội
I. GIAI CẤP VÀ ĐẤU TRANH GIAI CẤP
1. Khái quát các quan điểm ngoài mácxít về giai cấp và đấu tranh giai cấp
            a. Quan điểm của các nhà tư tưởng trước Mác về giai cấp, đấu tranh
giai cấp
            - Quan điểm về giai cấp và đấu tranh giai cấp trong triết học phương Đông:
Trung Quốc và Ấn Độ cổ, trung đại.
            - Quan điểm về giai cấp và đấu tranh giai cấp trong triết học phương Tây:
Hy Lạp cổ đại.
- Quan điểm về giai cấp và đấu tranh giai cấp của các nhà tư tưởng tư sản
Trung cổ và Cận đại: Morơ (1478 - 1535, Anh), Campanenla (1568 - 1639, Italia),
Rútxô (1712 - 1778, Pháp), Ximông (1760 - 1825, Pháp), trong đó các nhà lịch sử
Pháp như Ghidô (1778 - 1874), Chiery (1795 - 1856), Minhe (1796 - 1884) là
những người phát hiện ra vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp.
            b. Quan điểm về giai cấp và đấu tranh giai cấp của các nhà tư tưởng tư
sản hiện đại
            - Giai cấp không phải là hiện tượng phổ biến; đấu tranh giai cấp không phải
là quy luật chung cho mọi xã hội.
            - Giai cấp xuất hiện từ cơ sở sinh học; trạng thái tâm lý, khả năng trí tuệ,
nghề nghiệp; thu nhập.
            - Trong phong trào cộng sản quốc tế cũng có những quan niệm sai trái như
thừa nhận cơ sở kinh tế của giai cấp nhưng giải quyết mâu thuẫn giai cấp bằng đấu
tranh kinh tế (Cauxki và Bécxtanh ở Đức trước đây); quan niệm về đấu tranh giai
cấp cực đoan, phiêu lưu, mạo hiểm, dễ bị tổn thất lớn v.v.
2. Quan điểm mácxít về giai cấp và đấu tranh giai cấp
            a. Quan điểm khoa học về giai cấp
- Giai cấp là một phạm trù kinh tế - xã hội có tính lịch sử; biến đổi cùng với
sự biến đổi của lịch sử. C.Mác là người đầu tiên đưa ra phương pháp luận nghiên
cứu giai cấp, theo đó, 1) sự tồn tại của các giai cấp chỉ gắn liền với những giai
đoạn phát triển lịch sử nhất định của sản xuất. 2) đấu tranh giai cấp tất yếu sẽ dẫn
đến chuyên chính vô sản. 3) bản thân nền chuyên chính này chỉ là bước quá độ tiến
tới thủ tiêu tất cả mọi giai cấp và tiến tới xã hội không có giai cấp. Như vậy, sự tồn
tại của các giai cấp chỉ gắn với những giai đoạn phát triển cụ thể của lịch sử, với
mỗi phương thức sản xuất cụ thể.

86
            - Năm 1883, trong Lời tựa viết cho bản tiếng Đức tác phẩm Tuyên ngôn
của Đảng Cộng sản, Ph.Ăngghen viết “do đó (từ khi chế độ công hữu ruông đất
nguyên thuỷ tan rã) toàn bộ lịch sử là lịch sử của cuộc đấu tranh giai cấp” (...)
“nhưng cuộc đấu tranh ấy hiện nay đã đến một giai đoạn mà giai cấp bị bóc lột và
bị áp bức (tức là giai cấp vô sản) không còn có thể tự giải phóng khỏi tay giai cấp
bóc lột và áp bức mình (tức là giai cấp tư sản) được nữa, nếu không đồng thời và
vĩnh viễn giải phóng toàn thể xã hội khỏi ách bóc lột, ách áp bức và khỏi cuộc đấu
tranh giai cấp”.
            - Năm 1919, trong tác phẩm Sáng kiến vĩ đại viết về Ngày thứ bảy cộng sản
của công nhân ga xe lửa Cadan (Mátxcơva), V.I.Lênin đưa ra định nghĩa "Người ta
gọi là giai cấp những tập đoàn người to lớn gồm những người khác nhau về địa
vị của họ trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử, khác nhau
về quan hệcủa họ (thường thì những quan hệ này được pháp luật quy định và thừa
nhận) đối với tư liệu sản xuất, về vai trò của họ trong tổ chức lao động xã hội và
như vậy là khác nhau về cách thức hưởng thụ và về phần của cải xã hội ít hay
nhiều mà họ được hưởng. Giai cấp là những tập đoàn người mà tập đoàn này  có
thể chiếm đoạt lao động của tập đoàn khác do chỗ các tập đoàn đó có địa vị khác
nhau trong một chế độ kinh tế - xã hội nhất định".
            b. Quan điểm về đấu tranh giai cấp và vai trò của nó đối với sự phát
triển xã hội có giai cấp đối kháng
- Lịch sử loài người từ khi có giai cấp đối kháng tới nay là lịch sử đấu tranh
giai cấp. Nguyên nhân khách quan của đấu tranh giai cấp là do mâu thuẫn bản chất
của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. "Đấu tranh giai cấp là đấu tranh của
một bộ phận nhân dân này chống lại bộ phận khác, cuộc đấu tranh của quần chúng
bị tước hết quyền, bị áp bức và lao động chống lại bọn có đặc quyền, đặc lợi và
bọn ăn bám, cuộc đấu tranh của những người công nhân làm thuê hay những người
vô sản chống những người hữu sản hay giai cấp tư sản". Như vậy, thực chất đấu
tranh giai cấp là cuộc đấu tranh giữa các giai cấp  có địa vị kinh tế và lợi ích cơ bản
đối lập nhau (lợi ích cơ bản là những giá trị vật chất và tinh thần cơ bản để thoả
mãn nhu cầu nhất định của một giai cấp). Do sự đối lập mang tính đối kháng như
vậy giữa các giai cấp nên đấu tranh giai cấp là tất yếu.
- Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản tất yếu dẫn đến cuộc cách mạng xã hội
để thay thế chủ nghĩa tư bản bằng xã hội xã hội chủ nghĩa.
            - Chuyên chính vô sản (Hệ thống chính trị) không phải là mục tiêu cuối
cùng của cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản, mà chỉ là công cụ, phương tiện để
thực hiện giải phóng con người khỏi áp bức, bóc lột bằng cách xây dựng liên hiệp,
trong đó tự do của mỗi người là điều kiện phát triển tự do của mọi người.

87
            Như vậy, sự xuất hiện của giai cấp, sự đấu tranh giữa các giai cấp và sự xoá
bỏ giai cấp đều là tất yếu khách quan. Điều kiện khách quan đó bắt nguồn từ trong
quá trình phát triển của sản xuất xã hội.
            c. Cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản trong điều kiện hiện nay
            - Điều kiện hiện nay của đấu tranh giai cấp.
+ Sau khi chủ nghĩa xã hội ở Liênxô và Đông Âu sụp đổ, so sánh lực lượng
tạm thời có lợi cho các lực lượng phản cách mạng và bất lợi cho lực lượng cách
mạng.
+ Chủ nghĩa tư bản vẫn còn khả năng phát triển, có những điều chỉnh, thay
đổi khá sâu sắc để thích nghi với điều kiện mới, tạm thời xoa dịu mâu thuẫn giữa
tư bản với vô sản.
+ Cách mạng khoa học, công nghệ làm cho lực lượng sản xuất phát triển
nhanh. Mâu thuẫn giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất có nhiều biểu hiện mới, gay gắt nhưng phức tạp, không dễ nhận thức như
trước.
            - Nhận định về tình hình hiện nay của Đảng Cộng sản Việt Nam (Đại hội
IX).
            + Các mâu thuẫn cơ bản trên thế giới, biểu hiện dưới những hình thái và
mức độ khác nhau vẫn tồn tại và phát triển, có mặt sâu sắc hơn.
            + Đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp tiếp tục diễn ra dưới nhiều hình
thức, lúc hoà hoãn, lúc gay gắt.
            + Chủ nghĩa tư bản còn tiếp tục tự điều chỉnh, nắm và sử dụng các thành
tựu khoa học và công nghệ để phát triển, song vẫn là một chế độ áp bức, bóc lột và
bất công, vì vậy không thể khắc phục nổi những mâu thuẫn vốn có của nó.
            + Các quốc gia độc lập ngày càng tăng cường đấu tranh để tự lựa chọn và
quyết định con đường phát triển của mình, chống lại sự áp đặt, can thiệp của nước
ngoài.
            + Chủ nghĩa xã hội thế giới tạm thời lâm vào thoái trào nhưng vẫn có điều
kiện và khả năng phục hồi và phát triển.
            + Tính chất của thời đại vẫn không thay đổi- là thời đại quá độ từ chủ nghĩa
tư bản lên chủ nghĩa xã hội.
3. Vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam
            a. Đặc điểm giai cấp và quan hệ giai cấp trong thời kỳ quá độ đi lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
            - Hiện nay và cả trong thời kỳ quá độ ở nước ta vẫn tồn tại giai cấp và đấu
tranh giai cấp trong điều kiện mới với những nội dung và bằng những hình thức
mới.

88
            - Điều kiện mới của cuộc đấu tranh giai cấp ở nước ta hiện nay có nhiều
thay đổi do cơ cấu, vị trí, mối quan hệ giữa các giai cấp, tầng lớp trong xã hội
không còn giống với thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ cũng như không còn
giống với thời kỳ đầu mới bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội bởi lợi ích
cơ bản, lâu dài của các giai cấp thống nhất với lợi ích dân tộc; cuộc đấu tranh giai
cấp, giữa hai con đường gắn liền với cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc, chống
nghèo nàn, lạc hậu chậm phát triển.
            b. Nội dung và hình thức đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ đi lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
            - Đấu tranh nhằm xây dựng Việt Nam thành dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng dân chủ và văn minh mà cơ bản là phát triển  nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa; chống lại khuynh hướng tự phát tư bản chủ nghĩa; xây
dựng chủ nghĩa xã hội đi đôi với bảo vệ Tổ quốc; chống các nguy cơ đang làm ảnh
hưởng tới sự tồn vong của chế độ.
            - Để thực hiện được mục tiêu đó, phải sử dụng nhiều hình thức đấu tranh
khác nhau; tập hợp đông đảo quần chúng nhân dân lao động chống lại các thế lực
thù địch.
            Trong giai đoạn hiện nay cần nhận thức rõ tính chất gay go, phức tạp của
đấu tranh giai cấp. Tránh cả hai thái cực hoặc cường điệu giai cấp, hoặc phủ định
đấu tranh giai cấp.
II. QUAN HỆ GIAI CẤP VỚI DÂN TỘC VÀ NHÂN LOẠI TRONG THỜI ĐẠI
NGÀY NAY
1. Dân tộc và quan hệ giai cấp với dân tộc
            a. Khái niệm dân tộc và sự hình thành dân tộc
            - Khái niệm dân tộc.
+ Theo nghĩa rộng.
+ Theo nghĩa hẹp.
            - Định nghĩa dân tộc.
            - Đặc trưng dân tộc.
            + Cộng đồng về ngôn ngữ.
            + Cộng đồng về lãnh thổ.
            + Cộng đồng về kinh tế.
            + Cộng đồng về văn hoá, tâm lý, tính cách.
            b. Quan hệ giữa giai cấp với dân tộc trong lịch sử
            - Quan hệ mật thiết, không tách rời nhau và cũng không thay thế được cho
nhau
            - Giai cấp cơ bản là sản phẩm trực tiếp của phương thức sản xuất đang tồn
tại; giai cấp không cơ bản và các tầng lớp trung gian.

89
            - Giai cấp cơ bản giữ vai trò quy định tính chất, xu hướng mối quan hệ giữa
các dân tộc và xu hướng phát triển của dân tộc.
            - Lợi ích giai cấp và lợi ích dân tộc không hoàn toàn đồng nhất với nhau.
            - Vấn đề dân tộc còn tồn tại lâu dài và vấn đề giai cấp được giải quyết theo
quan điểm của một giai cấp nhất định.
            - Vai trò to lớn của vấn đề dân tộc trong sự phát triển của lịch sử và vai trò
của cách mạng giải phóng dân tộc đối với cách mạng giải phóng giai cấp vô sản.
            c. Vấn đề dân tộc và quan hệ giữa giai cấp với dân tộc trong thời đại
ngày nay
            - Những biến đổi nổi bật trong thời đại ngày nay
            + Cách mạng khoa học và công nghệ phát triển tạo ra những bước nhảy vọt
về chất của lực lượng sản xuất đã thúc đẩy nhanh chóng quá trình xã hội hoá, quốc
tế hoá các kết cấu giai cấp; các quan hệ giai cấp - dân tộc - nhân loại.
            + Sự sụp đổ của Liên Xô và hệ thống xã hội chủ nghĩa. Chủ nghĩa tư bản
đang ở thế có lợi, có ưu thế hơn chủ nghĩa xã hội
            + Chế độ xã hội chủ nghĩa tiếp tục tồn tại; tuy bị suy yếu nhưng tiếp tục
thích nghi, đổi mới để phát triển.
            + Ưu thế của cơ chế thị trường trên toàn thế giới và sự phát triển nhanh của
quá trình toàn cầu hoá.
            - Những biến đổi trên đây không làm mất tính chất của thời đại ngày nay là
thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội.
            - Nội dung vấn đề giai cấp hiện nay quan hệ chặt chẽ với vấn đề độc lập
dân tộc; ngược lại, vấn đề xây dựng mối quan hệ bình đẳng giữa các dân tộc, vấn
đề giải phóng dân tộc tác động mạnh mẽ đến cuộc đấu tranh của giai cấp công
nhân trên thế giới.
            - Trong thời đại ngày nay, yếu tố dân tộc trong sự phát triển xã hội và trong
quan hệ dân tộc - giai cấp vận động theo hai xu hướng
            + Xu hướng giảm tương đối vai trò yếu tố dân tộc và sự khác biệt giữa các
dân tộc; tăng sự phụ thuộc, giao lưu lẫn nhau giữa các dân tộc.
            + Xu hướng khẳng định và tăng cường yếu tố dân tộc, bản sắc dân tộc.
2. Nhân loại và quan hệ giai cấp với nhân loại
            - Khái niệm nhân loại và lợi ích nhân loại
            - Mối quan hệ giữa giai cấp với nhân loại trong lịch sử
            - Những vấn đề có tính nhân loại liên quan đến sự tồn tại của cả loài người
trong thời đại hiện nay
3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về quan hệ giai cấp, nhân loại trong cách mạng Việt
Nam
            - Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới.
            - Giải phóng giai cấp phải gắn liền với giải phóng dân tộc, độc lập dân tộc
phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
90
            - Phát huy khối đoàn kết toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
4. Quan hệ giai cấp, dân tộc, nhân loại trong cách mạng Việt Nam hiện nay
- Phát huy khối đoàn kết toàn dân tộc trên cơ sở liên minh công - nông - trí
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
            - Giải quyết tốt mối quan hệ giữa xây dựng nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa với đại đoàn kết dân tộc.
            - Giải quyết tốt mối quan hệ giữa giữ vững độc lập tự chủ với mở rộng
quan hệ quốc tế, phát huy sức mạnh nội lực của dân tộc với tranh thủ sức mạnh của
thời đại./.
           

91
CHƯƠNG X. LÝ LUẬN VỀ NHÀ NƯỚC
VÀ NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
TS. Phạm Văn Sinh,
 Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội.
I. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA LÝ LUẬN VỀ NHÀ NƯỚC
1. Nguồn gốc, bản chất và đặc trưng của nhà nước
            a. Nguồn gốc nhà nước
            - Hệ thống quản lý xã hội trong các bộ lạc nguyên thuỷ là chế độ tự quản
của nhân dâ thường bao gồm
            + Hội đồng bộ lạc, là cơ quan quyền lực thường trực.
            + Đại hội nhân dân, do Hội đồng bộ lạc triệu tập để quyết định những công
việc quan trọng.
            + Thủ lĩnh quân sự chuyên đảm nhận công việc bảo vệ bộ lạc.
- Nhà nước ra đời do các nguyên nhân
            + Sự dư thừa tương đối của cải xã hội là cơ sở khách quan làm nảy sinh
khát vọng chiếm đoạt ở những thủ lĩnh thị tộc, bộ lạc.
            + Các thủ lĩnh thị tộc, bộ lạc sử dụng quyền lực để chiếm đoạt của cải đã
thúc đẩy sự phân hoá giai cấp trong xã hội.
            + Chiến tranh làm tăng quyền lực của các thủ lĩnh quân sự và do đó làm
tăng thêm mâu thuẫn xã hội.
            + Các tổ chức lãnh đạo thị tộc, bộ lạc dần thoát khỏi gốc rễ trong nhân dân;
từ chỗ là công cụ của nhân dân trở thành đối lập với nhân dân.
            - Luận điểm của V.I.Lênin về nguyên nhân xuất hiện của nhà nước.
            b. Bản chất của nhà nước
            - Nhà nước là yếu tố đặc biệt quan trọng trong kiến trúc thượng tầng của xã
hội có giai cấp đối kháng.
            - Nhà nước là hệ thống tổ chức quyền lực công cộng đặc biệt; thường có
cấu trúc gồm bộ phận quyền lực, thực thi quyền lực và giám sát quyền lực.
            - Nhà nước là một bộ máy quyền lực của một giai cấp này dùng để trấn áp
một giai cấp khác; dùng để duy trì sự thống trị của giai cấp này đối với giai cấp
khác; là cơ quan quyền lực của một giai cấp đối với toàn thể xã hội; là công cụ
chuyên chính của giai cấp thống trị xã hội
Như vậy, nhà nước là công cụ chuyên chính giai cấp của giai cấp thống trị;
là công cụ thực hiện quyền lực giai cấp và quyền lực xã hội của giai cấp đó.
c. Đặc trưng của nhà nước
            - Nhà nước là một bộ máy tổ chức quyền lực thực hiện việc quản lý dân cư
theo lãnh thổ quốc gia; đồng thời trong phạm vi lãnh thổ đó, nhà nước quản lý dân
cư theo các khu vực địa lý hành chính để thực hiện sự thống nhất quyền lực cai trị.

92
            - Nhà nước là một bộ máy tổ chức quyền lực đặc biệt; quyền lực đó được
đảm bảo bằng sức mạnh của hệ thống tổ chức- thiết chế quyền lực chuyên nghiệp.
            - Nhà nước xác lập chế độ thuế khoá để duy trì và tăng cường bộ máy cai
trị.
2. Chức năng cơ bản và vai trò kinh tế của nhà nước
            a. Chức năng cơ bản của nhà nước
- Chức năng chính trị và chức năng xã hội của nhà nước. Mối quan hệ giữa
chúng.
            + Chức năng chính trị của nhà nước là chức năng bảo vệ và thực hiện lợi
ích của giai cấp thống trị.
            + Chức năng xã hội của nhà nước là chức năng bảo vệ và thực hiện lợi ích
chung của cộng đồng quốc gia, trong đó có lợi ích của giai cấp thống trị.
            + Mối quan hệ giữa hai chức năng chính trị và xã hội của nhà nước là mối
quan hệ biện chứng. Chức năng chính trị quy định tính chất, phạm vi, hiệu quả việc
thực hiện chức năng xã hội. Chức năng xã hội giữ vai trò là cơ sở cho việc thực
hiện chức năng chính trị; đảm bảo cho việc thực hiện chức năng chính trị có hiệu
quả.
            - Chức năng đối nội và chức năng đối ngoại của nhà nước. Mối quan hệ
giữa chúng.
            + Chức năng đối nội của nhà nước là chức năng xây dựng, củng cố, phát
triển và bảo vệ chế độ kinh tế - xã hội phù hợp với lợi ích của giai cấp thống trị.
+ Chức năng đối ngoại của nhà nước là chức năng bảo vệ biên giới lãnh thổ
quốc gia và thực hiện các mối quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội với các nhà nước
khác. Thực chất của chức năng này là thực hiện lợi ích giữa các giai cấp thống trị
trong các quốc gia khác nhau
+ Mối quan hệ giữa hai chức năng đối nội và đối ngoại của nhà nước thể
hiện ở chỗ chúng thống nhất với nhau, trong đó chức năng đối nội quy định chức
năng đối ngoại; ngược lại chức năng đối ngoại có tác động mạnh lên chức năng đối
nội.
            b. Vai trò kinh tế của nhà nước
            - Với tư cách là một trong những yếu tố của kiến trúc thượng tầng, nhà
nước có tác động mạnh, toàn diện lên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
            + Xét trong tổng thể của cấu trúc hình thái kinh tế - xã hội, vai trò của nhà
nước đối với kinh tế thuộc phạm vi mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng với
thiết chế chính trị, pháp luật của kiến trúc thượng tầng.
            + Sự tác động của nhà nước đối với kinh tế có thể theo hai chiều hướng,
hoặc thúc đẩy sự phát triển của kinh tế, hoặc kìm hãm sự phát triển ấy.
            - Trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, sự tác động của nhà nước
đối với kinh tế thể hiện ở

93
            + Nhà nước tư bản điều tiết các quan hệ kinh tế sao cho ít khả năng xẩy ra
khủng hoảng nhất.
            + Nhà nước tư bản tập trung vào các khu vực kinh tế công, là những lĩnh
vực kinh tế cần thiết cho sự tồn tại và phát triển của xã hội nhưng ít có lợi nhuận.
            + Nhà nước tập trung ổn định môi trường chính trị (đối nội, đối ngoại) để
tăng trưởng kinh tế.
3. Các kiểu và hình thức nhà nước trong lịch sử
            a. Các kiểu và hình thức nhà nước dựa trên sự đối kháng giai cấp
Lịch sử nhân loại đã trải qua ba hình thái kinh tế - xã hội dựa trên sự đối
kháng giai cấp. Tương ứng với ba hình thái kinh tế - xã hội đó là ba kiểu nhà nước
của các giai cấp bóc lột.
- Nhà nước chủ nô thực hiện sự chuyên chính của giai cấp chủ nô đối với
giai cấp nô lệ và tầng lớp tự do. Hình thức cơ bản của nhà nước chủ nô là nhà nước
quân chủ và nhà nước cộng hoà.
- Nhà nước phong kiến thực hiện sự chuyên chính của giai cấp phong kiến
đối với giai cấp nông dân và những người lao động khác. Hình thức cơ bản của nhà
nước phong kiến phương Tây là nhà nước phong kiến phân quyền. Hình thức cơ
bản của nhà nước phong kiến phương Đông là nhà nước phong kiến quân chủ tập
quyền dựa trên chế độ sở hữu nhà nước về ruộng đất.
            Nhà nước phong kiến Việt Nam tồn tại phổ biến trong hình thức nhà nước
quân chủ phong kiến tập quyền suốt trong gần 10 thế kỷ (từ thế kỷ X đến thế kỷ
XX).
            - Nhà nước tư bản thực hiện sự chuyên chính của giai cấp tư s���n đối
với giai cấp công nhân và nhân dân lao động nói chung. Hình thức cơ bản của nhà
nước tư bản là hình thức nhà nước cộng hoà và hình thức nhà nước quân chủ lập
hiến.
            Tuy khác nhau về hình thức cụ thể, nhưng chung quy lại thì tất cả các nhà
nước tư bản đều là nền chuyên chính tư sản.
            b. Kiểu nhà nước chuyên chính vô sản trong thời kỳ quá độ đi lên chủ
nghĩa xã hội
            - Kiểu nhà nước chuyên chính vô sản
            + Là kiểu nhà nước thích ứng với thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản đi lên
chủ nghĩa xã hội. Nhà nước chuyên chính vô sản được xác lập khi cách mạng của
giai cấp vô sản và nhân dân lao động xoá bỏ nhà nước của các giai cấp bóc lột và
tự tiêu vong khi xây dựng thành công chủ nghĩa cộng sản.
            + Là kiểu nhà nước mang bản chất giai cấp vô sản; được xây dựng và hoàn
thiện theo mục tiêu xây dựng và quản lý kinh tế - xã hội; tổ chức nhân dân xây
dựng chủ nghĩa xã hội trên cơ sở liên minh giai cấp công nông và tầng lớp trí thức,
đặt dưới sự lãnh đạo của đảng giai cấp vô sản.

94
            + Là kiểu nhà nước có chức năng trấn áp và chức năng tổ chức xây dựng
nền kinh tế mới, xã hội mới.
            - Hình thức của nhà nước chuyên chính vô sản
            + Công xã Pari (1871).
            + Liên bang Xô viết (1917 - 1991).
            - Hình thức nhà nước Việt Nam sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là
Dân chủ cộng hoà và nay là Cộng hoà xã hội chủ nghĩa.
II. NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN VÀ NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA VIỆT NAM
1. Khái niệm nhà nươc pháp quyền và lịch sử tư tưởng triết học về nhà nước pháp
quyền
            a. Khái niệm nhà nước pháp quyền
- Định nghĩa.
            - Đặc điểm.
            + Nhà nước pháp quyền là hình thức tổ chức nhà nước, trong đó pháp luật
có vai trò tuyệt đối.
            + Nhà nước pháp quyền là hình thức tổ chức nhà nước, trong đó quyền lực
nhà nước thể hiện được lợi ích và ý chí của đại đa số nhân dân.
+ Nhà nước pháp quyền là hình thức tổ chức nhà nước, trong đó có sự đảm
bảo thực tế mối quan hệ hữu cơ về trách nhiệm và quyền hạn giữa nhà nước với
công dân.
            + Cũng có quan niệm cho rằng, ngoài ba đặc trưng chung của mọi nhà nước
pháp quyền đã nêu ở trên, nguyên tắc tam quyền phân lập phân quyền lực nhà
nước thành ba nhánh quyền lực (quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư
pháp) đối lập, chi phối nhau trong quá trình thực thi quyền lực nhà nước.
b. Tư tưởng triết học về nhà nước pháp quyền trong lịch sử
            - Tư tưởng coi trọng pháp luật trong cai trị và quản lý xã hội thời cổ đại.
            - Tư tưởng về nhà nước và pháp quyền thời trung cổ.
            - Lý luận về nhà nước pháp quyền thời cận đại ở tây Âu
Khái quát một số tư tưởng triết học về nhà nước pháp quyền thời cận đại tây
Âu và cổ điển Đức (Lý thuyết pháp quyền tự nhiên của Xpinôda; lý thuyết về tự do
của Lốccơ; lý thuyết về tam quyền phân lập của Môngtexkiơ; lý thuyết về chủ
quyền nhân dân và khế ước xã hội của Rútxô; lý thuyết về triết học pháp quyền của
Cantơ và Hêghen).
            - Khái quát chung về nhà nước pháp quyền và nhà nước pháp quyền tư sản.
Nhà nước pháp quyền tư sản với kinh tế thị trường.
 
 
2. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

95
            a. Bản chất nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
            - Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt nam là nhà nước của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam
trên cơ sở liên minh công - nông - trí; là công cụ quyền lực chủ yếu để nhân dân
xây dựng một quốc gia dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ và văn
minh; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì hoà bình, độc lập, dân tộc, dân chủ
và tiến bộ trên thế giới.
            - Trong tổ chức và hoạt động của mình, nhà nước được tổ chức trên nguyên
tắc thống nhất; có sự phân công và phối hợp chặt chẽ trong việc thực hiện quyền
lập pháp, hành pháp và tư pháp. 
            b. Xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa
            - Tính tất yếu phải xây dựng nhà nước pháp quyền mà biểu hiện rõ nét của
nó là tính tối thượng của pháp luật trong điều hành và quản lý kinh tế - xã hội.
            - Xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá hiện nay cần phải thự hiện những điểm cơ bản sau
            + Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam.
            + Tiến hành cải cách thể chế và phương thức hoạt động của nhà nước.
            + Tiếp tục phát huy dân chủ, giữ vững kỷ luật, kỷ cương tăng cường pháp
chế.
            + Tiếp tục xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, có năng lực.
            + Tiếp tục kiên quyết chống tham nhũng, lãng phí trong bộ máy nhà nước
và trong hệ thống chính trị./.
 

96
CHƯƠNG XI. QUAN ĐIỂM  CỦA TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN VỀ CON
NGƯỜI
 VÀ VẤN ĐỀ XÂY DỰNG CON NGƯỜI VIỆT NAM HIỆN NAY
PGS. TS. Vũ Tình,
Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.
I. MỘT SỐ QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC NGOÀI MÁCXÍT VỀ CON NGƯỜI
1. Quan điểm về con người trong triết học phương Đông
            - Quan điểm về con người trong triết học Phật giáo.
            + Phật giáo phủ nhận vai trò của Đấng sáng tạo, phủ nhận cái Tôi của con
người.
            + Trong quá trình tồn tại, con người có trần tục tính và phật tính. Bản tính
con người vốn tự có cái ác và cái thiện. Cuộc đời con người do chính con người
quyết định qua quá trình tạo nghiệp.
            + Con đường tu nghiệp để trở thành La Hán, Bồ tát hay Phật được coi là
đạo làm người.
            - Quan điểm về con người trong triết học Nho gia.
            + Con người và vạn vật được tạo nên từ sự hỗn hợp giữa Trời với Đất trong
khoảng giữa âm - dương và do bẩm thụ tính Trời nên bản tính con người vốn thiện.
+ Bản chất con người bị quy định bởi Mệnh Trời “Nhân giã kỹ thiên địa chi
đức, âm dương chi giao, quỷ thần chi hội, ngũ hành chi trí khí giã- Con người là
cái đức của Trời Đất, sự giao hợp của âm dương, sự tụ hội của quỷ thần, cái khí
tinh tú của ngũ hành”.
2. Quan điểm về con người trong triết học phương Tây
a. Thời cổ đại
- Quan điểm về con người trong triết học duy vật Hy Lạp cổ đại
(Empêđôclơ, Lơxíp, Đêmôcrít v.v).
- Quan điểm về con người trong triết học duy tâm Hy Lạp cổ đại (Xôcrát và
Platôn v.v).
- Quan điểm về con người trong triết học Arítxtốt.
b. Thời Trung cổ
- Quan điểm về con người của Cơ đốc giáo.
- Quan điểm về con người trong triết học Tômát Đacanh.
c. Thời Phục hưng và Cận đại
Triết học phương Tây thời nào cũng có tư tưởng duy vật gắn với thực tiễn xã
hội; tuy nhiên, ở bất kỳ thời nào quan điểm duy tâm về con người vẫn là tư tưởng
thống trị.
Cho đến khi "Thuyết tiến hoá của các loài" của Đácuyn ra đời, các nhà triết
học duy vật mới có căn cứ khoa học để chỉ ra nguồn gốc phi thần thánh của con
người "Không phải Chúa đã tạo ra con người theo hình ảnh của Chúa mà chính con
97
người đã tạo ra Chúa theo hình ảnh của con người" (Phoiơbắc). Tuy vậy, do chịu
ảnh hưởng bởi phương pháp tư duy siêu hình nên đã giải thích sai lệch về nguồn
gốc và bản chất con người. Còn các nhà duy vật thế kỷ XVII-XVIII (Hốpxơ) coi
con người khi sinh ra đã mang sẵn bản chất tự nhiên (tính đồng loại).
Phái nhân bản học sinh vật (Phoiơbắc, Phờrớt v.v) cho con người là một
thực thể tự nhiên, sinh vật; con người sinh vật thuần tuý; con người nhân bản, tuyệt
đối hoá yếu tố sinh vật của con người, quy bản chất của con người vào tính tự
nhiên của nó. Ở Phoiơbắc, bản chất của con người nằm ở tính tộc loại được thể
hiện ra trong tình cảm, đạo đức, tôn giáo và tình yêu.
Đây là quan điểm triết học đã tuyệt đối hoá mặt tự nhiên của con người, tách
con người ra khỏi các hoạt động (thực tiễn) của họ, làm hoà tan bản chất con người
vào bản chất tôn giáo.
- Quan điểm về con người trong triết học Italia.
- Quan điểm về con người trong triết học Anh (Ph.Bêcơn).
- Quan điểm về con người trong triết học Hà Lan (Xpinôda)
c. Thời hiện đại
- Quan điểm về con người trong triết học phương Tây hiện đại thể hiện rõ
nét qua các quan điểm của phân tâm học, chủ nghĩa nhân vị, chủ nghĩa thực dụng,
chủ nghĩa phê phán, chủ nghĩa hiện sinh, chủ nghĩa cấu trúc v.v, trong đó các quan
điểm về con người của chủ nghĩa hiện sinh giữ vai trò chủ yếu.
 
 
 
II. QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN VỀ CON NGƯỜI
1. Quan điểm triết học Mác - Lênin về bản chất con người
            a. Con người là thực thể sinh vật - xã hội
            b. Con người là chủ thể của lịch sử
            c. Bản chất con người là tổng hoà các mối quan hệ xã hội
2. Quan điểm triết học Mác - Lênin về giải phóng con người
            - Vị trí vấn đề giải phóng con người trong triết học Mác - Lênin
            - Thực chất quan điểm giải phóng con người trong triết học Mác - Lênin
            - Quan điểm triết học Mác về phương thức và lực lượng thực hiện việc giải
phóng con người
            Bất kỳ sự giải phóng nào cũng bao hàm ở chỗ là nó trả thế giới con người,
những quan hệ của con người về với bản thân con người; là giải phóng người lao
động thoát khỏi lao động bị tha hoá.
            + Lao động bị tha hoá là lao động làm người lao động đánh mất mình trong
hoạt động người, nhưng lại tìm thấy mình trong hoạt động vật.
            + Lao động bị tha hoá là lao động làm đảo lộn các quan hệ của người lao
động.
98
            + Lao động bị tha hoá là lao động làm người lao động bị phát triển què
quặt.
III. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CON NGƯỜI TRONG SỰ NGHIỆP CÁCH
MẠNG DO ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM LÃNH ĐẠO
1. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về con người
            - Nhu cầu khách quan của lịch sử - xã hội.
            - Văn hoá và truyền thống của người Việt Nam.
            - Tinh hoa văn hoá của nhân loại.
2. Nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về con người
            Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người là tư tưởng về cả cá nhân, cộng đồng,
giai cấp, dân tộc và về cả nhân loại.
            a. Tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp,
giải phóng nhân dân lao động là tư tưởng về sự kết hợp giữa dân tộc với giai
cấp, dân tộc với quốc tế, độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội
            - Độc lập, tự do là quyền bất khả xâm phạm của tất cả các dân tộc.
            - Giải phóng dân tộc trước hết phải do chính các dân tộc thực hiện.
            - Giải phóng dân tộc phải gắn liền với giải phóng giai cấp, giải phóng nhân
dân lao động.
            b. Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người vừa là mục tiêu, vừa là động
lực của cách mạng là tư tưởng sự nghiệp cách mạng, thành quả cách mạng
của dân, do dân và vì dân
            - Độc lập, tự do gắn với xã hội của dân, vì dân.
            - Quyền dân chủ của nhân dân.
            - Giải phóng con người bằng cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa.
            - Trách nhiệm, công việc, chính quyền, đoàn thể, quyền hành của dân.
c. Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người còn là tư tưởng về phát triển con
người toàn diện
            Xây dựng con người phát triển toàn diện, tức là quá trình làm phát triển
hoàn toàn những năng lực sẵn có của con người
            - Tiêu chuẩn cơ bản hàng đầu của con người toàn diện là đức và tài, trong
đó đức là gốc.
            - Nguyên tắc cơ bản để xây dựng con người toàn diện là tu dưỡng, rèn
luyện trong hoạt động thực tiễn, thực hiện đồng bộ quá trình giáo dục và tự giáo
dục
IV. VẤN ĐỀ XÂY DỰNG CON NGƯỜI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
1. Con người Việt Nam trong lịch sử
            a. Điều kiện lịch sử hình thành con người Việt Nam
            - Sự tác động của môi trường - địa lý.

99
            - Đời sống kinh tế.
            - Lịch sử giữ nước.
            - Môi trường văn hoá.
            b. Mặt tích cực và mặt hạn chế của con người Việt Nam
            - Mặt tích cực.
            + Lòng yêu nước, ý chí tự cường dân tộc.
            + Tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã
- tổ quốc.
            + Lòng nhân ái, khoa dung, trọng nghĩa tình, đạo lý.
            + Đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động.
            + Tinh tế trong ứng xử, giản dị trong lối sống.
            - Mặt hạn chế.
            + Hạn chế của truyền thống dân chủ làng xã.
            + Tập quán sản xuất tiểu nông; Quá đề cao vai trò của kinh nghiệm.
            + Tính hai mặt của một số truyền thống.
2. Con người Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
            a. Cách mạng Việt Nam giai đoạn hiện nay và những vấn đề đặt ra đối
với con người Việt Nam
            - Tình hình thế giới với cuộc cách mạng khoa học, công nghệ và quá trình
toàn cầu hoá. Hoà bình, hợp tác, phát triển đang trở thành xu thế lớn của giai đoạn
hiện nay.
            - Tình hình trong nước với quá trình đổi mới; cơ sở vật chất, kỹ thuật của
nền kinh tế được tăng cường; chính trị, xã hội ổn định cùng với các nguy cơ vẫn
tồn tại và diễn biến phức tạp, đan xen, tác động lẫn nhau.
            b. Xây dựng con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu của giai đoạn cách
mạng hiện nay
- Hình thành và phát triển ở con người Việt Nam những đức tính cơ bản sau
+ Có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội, có ý chí vươn lên đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu,
đoàn kết với nhân dân thế giới trong sự nghiệp đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân
tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
+ Có ý thức tập thể, đoàn kết, phấn đấu vì lợi ích chung. Có lối sống lành
mạnh, nếp sống văn minh, cần kiệm, trung thực, tôn trọng kỷ cương phép nước,
quy ước của cộng đồng; có ý thức bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái. Lao
động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kỹ thuật, sáng tạo, năng suất cao vì
lợi ích của bản thân, gia đình, tập thể và xã hội. Thường xuyên học tập, nâng cao
hiểu biết, trình độ chuyên môn, trình độ thẩm mỹ và thể lực.
            - Để đạt được những đức tính cơ bản trên, người Việt Nam tập trung đầu tư
phát triển vào những lĩnh vực chủ yếu sau

100
                        + Lĩnh vực kinh tế.
                        + Lĩnh vực chính trị.
                        + Lĩnh vực xã hội.
                        + Lĩnh vực giáo dục và đào tạo; khoa học và công nghệ.
                        + Lĩnh vực văn hoá./.

101
III. TÀI LIỆU
I. Giáo trình
            Bộ Giáo dục và Đào tạo: Giáo trình Triết học (Dùng cho học viên cao học
và nghiên cứu sinh không thuộc chuyên ngành triết học). Nxb, Lý luận Chính trị,
Hà Nội, 2006.
II. Tài liệu tham khảo
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo: Triết học (Dùng cho nghiên cứu sinh và học viên
cao học không thuộc chuyên ngành triết học) 3 tập. Nxb. Chính trị quốc gia Hà
Nội, 1997.
2. Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn Giáo trình Quốc gia các bộ môn
khoa học Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh: Giáo trình triết học Mác -
Lênin, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999.
 

[1] Có nhà tư tưởng cho rằng thế giới do Trời hoặc do Thượng đế sinh ra; con
người do Trời sinh ra và sốphận của nó do Trời quy định. Những người theo thuyết
Âm-Dương quan niệm rằng Trời, Đất và vạn vật do âm, dương giao cảm với nhau
tạo nên. Những nhà duy vật theo thuyết Ngũ hành cho rằng vạn vật trong thếgiới
do Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ quan hệ với nhau theo quy luật tương sinh, tương
khắc tạo nên v.v.
[2]  1561 - 1626, xem Từ điển Triết học. Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1986, tr.33.
[3] V.I.Lênin coi những bài đăng trên báo Sông Ranh đánh dấu bước chuyển
từ chủ nghĩa duy tâm sang chủnghĩa duy vật, từ chủ nghĩa dân chủ cách mạng sang
chủ nghĩa cộng sản của C.Mác
[4] Khái niệm xã hội công dân thời đó được hiểu là những lĩnh vực lợi ích tư nhân,
trước hết là những lợi ích vật chất và những quan hệ xã hội gắn liền với chúng.

102

You might also like