You are on page 1of 55

Chương 1

TRIẾT HỌC VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI

A- LÝ THUYẾT

I- TRIẾT HỌC VÀ VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC

1. Khái lược về triết học

1.1. Nguồn gốc của triết học

Triết học là một loại hình nhận thức đặc thù của con người. Sự ra đời của triết họcxuất phát
từ thực tiễn, do nhu cầu thực tiễn, có nguồn gốc nhận thức và nguồn gốc xã hội.
- Nguồn gốc nhận thức:
Triết học ra đời khi tư duy con người đã đạt tới trình độ trừu tượng hóa, khái quát hóa, hệ
thống hóa để xây dựng thành học thuyết, lý luận.
- Nguồn gốc xã hội:
Triết học ra đời khi nền sản xuất xã hội đạt đến một trình độ nhất định, có sự phân chia giữa
lao động trí óc và lao động chân tay; tầng lớp trí thức ít nhiều đã được trọng vọng, xã hội loài
người đã phân chia giai cấp.

1.2. Khái niệm triết học

Triết học ra đời khoảng từ thế kỷ VIII đến thế kỷ VI trước Công nguyên ở cả phương Đông
và phương Tây.
+ Ở phương Tây: Triết học có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp, Phylosophia có nghĩa là yêu mến
sự thông thái.
+ Ở phương Đông cổ đại:
 Trong tiếng Trung Quốc, người ta dùng từ “Triết” để chỉ quá trình truy tìm bản chất của
đối tượng nhận thức, triết học là sự hểu biết sâu sắc của con người về thế giới.
 Ở Ấn Độ, người ta dùng thuật ngữ “Dar’sana” cũng với nghĩa là chiêm ngưỡng, cách
thức, con đường tìm kiếm chân lý.
Như vậy, ở cả phương Đông và phương Tây, triết học đều được hiểu hoạt động nhận thức
có trình độ trừu tượng hóa, khái quát hóa, là hoạt động tìm hiểu khách thể để đạt được tri thức
đúng đắn.
- Theo triết học Mác - Lênin: Triết học là hệ thống các quan điểm lý luận chung nhất về thế
giới và vị trí của con người trong thế giới đó, là khoa học về những quy luật vận động, phát
triển chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy.

1
1.3. Vấn đề đối tượng của triết học trong lịch sử

Triết học với tính cách là hình thái ý thức xã hội, chịu sự chi phối của tồn tại xã hội và trình độ
nhận thức của con người. Do vậy nội dung của đối tượng triết học cũng thay đổi ở các thời kỳ khác
nhau:
- Thời cổ đại: Triết học nghiên cứu mọi lĩnh vực của thế giới, nó bao hàm trong nó tất cả tri
thức về các lĩnh vực mà con người có được. Mặc dù có sự khác nhau, triết học phương Đông thiên
về con người và xã hội; triết học phương Tây thiên về giới tự nhiên nhưng ở thời kỳ này triết học
vẫn được coi là khoa học của mọi khoa học.
- Thời trung cổ: Triết học Tây Âu là nền triết học kinh viện chịu sự quy định và chi phối
của hệ tư tưởng Kitô giáo. Triết học thời kỳ này có nhiệm vụ lý giải và chứng minh cho sự đúng
đắn của Kinh Thánh.
- Thời Phục hưng đến thế kỷ XVIII: Triết học Tây Âu từng bước thoát khỏi ách thống trị
của thần học, cùng với sự hình thành, củng cố quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, sự ra đời của
các khoa học chuyên ngành đã làm phá sản quan niệm coi triết học là khoa học của các khoa
học.Triết học giai đoạn này đi vào giải thích thế giới dựa trên tinh thần đề cao chủ nghĩa nhân
đạo và gắn với những thành tựu của khoa học tự nhiên.
- Triết học Mác – Lênin xác định đối tượng nghiên cứu của mình là: tiếp tục giải quyết mối
quan hệ giữa tồn tại và tư duy, giữa vật chất và ý thức trên lập trường duy vật triệt để; nghiên
cứu những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy.

1.4. Triết học - hạt nhân lý luận của thế giới quan

- Thế giới quan và các hình thức của thế giới quan:
Thế giới quan là khái niệm triết học chỉ hệ thống các tri thức, quan điểm, tình cảm, niềm tin,
lý tưởng xác định về thế giới và về vị trí của con người (bao gồm cá nhân, xã hội và cả nhân loại)
trong thế giới đó. Thế giới quan quy định các nguyên tắc, thái độ, giá trị trong định hướng nhận
thức và hoạt động thực tiễn của con người.
Thế giới quan có cấu trúc phức tạp trong đó những yếu tố cơ bản cấu thành thế giới quan là
tri thức và niềm tin, lý trí và tình cảm.
Thế giới quan có 3 hình thức cơ bản:
+ Thế giới quan huyền thoại.
+ Thế giới quan tôn giáo.
+ Thế giới quan triết học.
- Triết học - hạt nhân lý luận của thế giới quan:
+ Bản thân triết học chính là thế giới quan.
+ Trong số các loại thế giới quan, triết học bao giờ cũng là thành phần quan trọng, đóng
vai trò là nhân tố cốt lõi.

2
+ Triết học bao giờ cũng có ảnh hưởng và chi phối các thế giới quan khác như: thế giới
quan tôn giáo, thế giới quan kinh nghiệm, thế giới quan thông thường...
+ Thế giới quan triết học quy định mọi quan niệm khác của con người.
- Vai trò của thế giới quan:
Thế giới quan có vai trò đặc biệt quan trọng trong cuộc sống của con người và xã hội:
+ Tất cả những vấn đề được triết học đặt ra và tìm lời giải đáp trước hết là những vấn đề
thuộc thế giới quan.
+ Thế giới quan là tiền đề quan trọng để xác lập phương thức tư duy hợp lý và nhân sinh
quan tích cực; là tiêu chí quan trọng đánh giá sự trưởng thành của mỗi cá nhân cũng như của
từng cộng đồng xã hội nhất định.

2. Vấn đề cơ bản của triết học

2.1. Nội dung vấn đề cơ bản của triết học 

Triết học là hệ thống lý luận chung nhất của con người về thế giới. Thế giới này vô cùng
phong phú và đa dạng nhưng khái quát lại chỉ có 2 loại: hiện tượng vật chất tồn tại độc lập với ý
thức con người và những hiện tượng tinh thần, ý thức của chính con người. Các trường phái triết
học có thể giải thích thế giới theo các cách khác nhau nhưng đều phải giải quyết một vấn đề
mang ý nghĩa nền tảng và là điểm xuất phát để giải quyết các vấn đề khác đó là mối quan hệ
giữa vật chất với ý thức. Đây chính là vấn đề cơ bản của triết học
- Theo Ăng ghen: “Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học, đặc biệt là của triết học hiện đại,
là vấn đề quan hệ giữa tư duy và tồn tại”1.
- Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt, trả lời cho hai câu hỏi:
+ Mặt thứ nhất, mặt bản thể luận trả lời cho câu hỏi: giữa vật chất và ý thức: cái nào có
trước, cái nào có sau, cái nào quyết định cái nào?
+ Mặt thứ hai, mặt nhận thức luận, trả lời cho câu hỏi: con người có khả năng nhận thức
được thế giới hay không?
Trả lời hai câu hỏi trên là cơ sở xác định lập trường của các nhà triết học và phân chia thành
các trường phái, các học thuyết triết học: Duy vật, Duy tâm, Nhị nguyên luận; Khả tri luận, Bất
khả tri luận, Hoài nghi luận.

2.2. Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm

Khi giải quyết mặt thứ nhất vấn đề cơ bản của triết học, tức trả lời cho câu hỏi: giữa vật
chất và ý thức, cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào quyết định cái nào? Nó chia các nhà triết
học thành hai trường phái là trường phái duy vật và trường phái duy tâm.
- Những người cho rằng vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất quyết định ý thức thì
thuộc trường phái duy vật. Học thuyết của họ hợp lại gọi là chủ nghĩa duy vật.
1
. C. Mác và Ph. Ănghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.21, tr.403.

3
Như vậy, giải quyết vấn đề cơ bản của triết học không chỉ xác định được nền tảng ban đầu,
xuất phát để giải quyết các vấn đề khác của triết học mà nó còn là tiêu chuẩn để xác định lập
trường, thế giới quan của các triết gia và các học thuyết của họ.
- Những người cho rằng ý thức có trước, vật chất có sau, ý thức quyết định vật chất thì
thuộc trường phái duy tâm. Học thuyết của họ hợp lại gọi là chủ nghĩa duy tâm.
- Chủ nghĩa duy tâm có 2 loại:
+ Duy tâm khách quan: cho rằng có một thực thể tinh thần không những tồn tại trước, tồn
tại bên ngoài, độc lập với con người và với thế giới vật chất mà còn sản sinh ra và quyết định tất
cả các quá trình của thế giới vật chất.
+ Duy tâm chủ quan: cho rằng cảm giác ý thức là cái có trước và tồn tại sẵn trong con
người, trong chủ thể nhận thức, còn các sự vật bên ngoài chỉ là phức hợp của các cảm giác ấy
mà thôi.

2.3. Thuyết có thể biết (thuyết khả tri) và thuyết không thể biết (thuyết bất khả tri)

Giải quyết mặt thứ hai vấn đề cơ bản của triết học, tức trả lời cho câu hỏi: con người có
nhận thức được thế giới hay không? Đã chia các học thuyết triết học thành khả tri và bất khả tri.
- Thuyết khả tri (Thuyết có thể biết): Khẳng định con người về nguyên tắc có thể hiểu được
bản chất của sự vật; những cái mà con người biết về nguyên tắc là phù hợp với chính sự vật.
Note: Khẳng định khả năng nhận thức của con người về, về nguyên tắc chỉ có những cái con
người chưa nhận thức được chứ không phải cái không thể nhận thức được. Cảm giác, biểu
tượng, quan niệm, mà ý thức con người về nguyên tắc là phù hợp

- Thuyết bất khả tri: Con người không thể hiểu được bản chất thật sự của đối tượng; các
hiểu biết của con người về tính chất, đặc điểm... của đối tượng dù có tính xác thực, cũng không
cho phép con người đồng nhất chúng với đối tượng vì nó không đáng tin cậy.
Note: Phủ nhận khả năng nhận thức thế giới. cho rằng con người về nguyên tắc không thể
thiếu được bản chất sự vật. Con người chỉ biết bề ngoài, cắt xén, hạn hẹp. Đại diện: Cantơ,
Hium

3. Biện chứng và siêu hình

3.1. Khái niệm biện chứng và siêu hình trong lịch sử

- Phương pháp siêu hình:


+ Nhận thức đối tượng trong trạng thái tĩnh tại, cô lập, tách rời đối tượng khỏi các quan hệ
với các đối tượng khác.
+ Là phương pháp được đưa từ toán học và vật lý học cổ điển vào các khoa học thực
nghiệm và triết học.
+ Có vai trò to lớn trong việc giải quyết các vấn đề của cơ học nhưng hạn chế khi giải quyết
các vấn đề về vận động, liên hệ.

4
- Phương pháp biện chứng:
+ Nhận thức đối tượng trong các mối liên hệ phổ biến; vận động, phát triển.
+ Là phương pháp giúp con người không chỉ thấy sự tồn tại của các sự vật mà còn thấy cả
sự sinh thành, phát triển và tiêu vong của chúng.
+ Phương pháp tư duy biện chứng trở thành công cụ hữu hiệu giúp con người nhận thức và
cải tạo thế giới.

3.2. Các hình thức của phép biện chứng trong lịch sử

- Phép biện chứng tự phát thời cổ đại: dựa trên trực quan, các nhà biện chứng đã thấy được
các sự vật, hiện tượng trong vũ trụ vận động trong sự sinh thành, biến hóa vô cùng vô tận. Tuy
nhiên, đó chỉ là những tư tưởng trực kiến, chưa khái quát thành thành nguyên tắc, quy luật về sự
vận động phát triển của thế giới.
- Phép biện chứng duy tâm: đỉnh cao của hình thức này thể hiện trong triết học cổ điển Đức.
Các nhà triết học cổ điển Đức đã trình bày một cách có hệ thống những nội dung quan trọng
nhất của phương pháp biện chứng. Họ cho rằng thế giới hiện thực chỉ là sự phản ánh biện
chứng của ý niệm nên biện chứng của họ là biện chứng duy tâm.
- Phép biện chứng duy vật: do C. Mác và Ph. Ăngghen xây dựng, sau đó được V.I. Lênin
phát triển, đã kế thừa những hạt nhân hợp lý trong phép biện chứng duy tâm để xây dựng nên
phép biện chứng duy vật với tính cách là học thuyết về mối lien hệ phổ biến và về sự phát triển
dưới hình thức hoàn bị nhất, có sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật với phép biện chứng trong
lịch sử phát triển triết học nhân loại.

II- TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ


TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI

1. Sự ra đời và phát triển triết học Mác - Lênin

1.1. Những điều kiện lịch sử của sự ra đời triết học Mác - Lênin

a. Điều kiện kinh tế - xã hội

Chủ nghĩa Mác ra đời ở Tây Âu những năm 40 của thế kỷ XIX. Đây là thời kỳ mà phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã phát triển mạnh mẽ trên nền tảng của các cuộc cách mạng
công nghiệp. Sự phát triển ấy, một mặt làm thay đổi bộ mặt kinh tế - xã hội, đưa đến sự xuất
hiện giai cấp vô sản trên vũ đài lịch sử với tính cách một lực lượng chính trị - xã hội độc lập.
C. Mác viết: “Giai cấp tư sản, trong quá trình thống trị giai cấp chưa đầy một thế kỷ, đã tạo ra
những lực lượng sản xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn lực lượng sản xuất của tất cả các thế hệ trước
kia gộp lại”1. Mặt khác, nó đào sâu hơn nữa mâu thuẫn vốn có trong lòng xã hội, đó là hai mâu

1
. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.603.

5
thuẫn sau:
Một là, mâu thuẫn kinh tế giữa tính xã hội hóa ngày càng cao của lực lượng sản xuất với
tính chất tư nhân của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Hai là, mâu thuẫn xã hội giữa giai cấp vô sản với giai cấp tư sản.
Hai mâu thuẫn trên biểu hiện ra thành hàng loạt phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản
nhưng đều lần lượt bị thất bại. Nguyên nhân chính dẫn đến sự thất bại của phong trào công nhân
giữa thế kỷ XIX là do thiếu lý luận mang tính khoa học và cách mạng để định hướng, soi
đường. Do đó, chủ nghĩa Mác ra đời là nhằm đáp ứng nhu cầu của thực tiễn cách mạng của giai
cấp vô sản.
b. Nguồn gốc lý luận
- Triết học cổ điển Đức: C. Mác và Ph. Ăngghen đã kế thừa phép biện chứng, lột bỏ vỏ bọc
duy tâm thần bí trong triết học của Hêghen để xây dựng lên phép biện chúng của mình; đồng
thời khi phê phán chủ nghĩa duy tâm của Heeghen, Mác đã cải tạo và hạn chế lịch sử của chủ
nghĩa duy vật trong triết học của Phoiơbắc để hình thành nên hệ thống triết học mới: triết học
duy vật biện chứng.
- Kinh tế chính trị học cổ điển Anh: C. Mác và Ph. Ăngghen đã kế thừa những yếu tố khoa
học trong lý luận về kinh tế chính trị học của A. Smít và Đ. Ricácđô, đồng thời xây dựng học
thuyết giá trị thặng dư, chỉ ra bản chất bóc lột của giai cấp tư sản.
- Chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp: C. Mác và Ph. Ăngghen đã kế thừa tư tưởng nhân
đạo trong lý thuyết cộng sản chủ nghĩa của H. Xanhximông, S. Phuriê và R. Ôwen, đồng thời
sáng tạo nên chủ nghĩa xã hội khoa học.

c. Tiền đề khoa học tự nhiên

*Note: Sự phát triển cuat KHXH thời kì cuối TK18 đầu TK19….

Chủ nghĩa Mác - Lênin ra đời gắn liền với những phát minh khoa học, tiêu biểu như:

- Định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng: chứng minh sự chuyển hóa và bảo toàn
năng lượng. Phát minh khoa học này là cơ sở để C. Mác và Ph. Ăngghen xây dựng quan niệm
duy vật mới, khẳng định tính thống nhất vật chất của thế giới.
- Thuyết tiến hóa của Đácuyn: chứng minh sự phát sinh, phát triển của giới tự nhiên từ thấp
đến cao.
- Thuyết tế bào: chứng minh tính thống nhất của toàn bộ sự sống.
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản đã chuyển sang giai đoạn mới - chủ
nghĩa đế quốc, đồng thời, khoa học tự nhiên cũng có những phát minh quan trọng, đặc biệt là
trong lĩnh vực vật lý học, điều đó đòi hỏi chủ nghĩa Mác phải có sự bổ sung, phát triển cho phù
hợp với tình hình thực tiễn. V.I. Lênin đã thực hiện xuất sắc nhiệm vụ này, đánh dấu bước phát
triển tiếp theo của chủ nghĩa Mác và trở thành chủ nghĩa Mác - Lênin.

6
d. Nhân tố chủ quan trong sự ra đời triết học Mác

- Xuất thân từ tầng lớp trên nhưng C. Mác và Ph. Ăngghen đều tích cực tham gia hoạt động
thực tiễn.
- C. Mác và Ph. Ăngghen hiểu sâu sắc cuộc sống khốn khổ của giai cấp công nhân trong
nền sản xuất tư bản chủ nghĩa nên đã đứng về phía giai cấp công nhân, thực hiện lý tưởng giải
phóng giai cấp, con người và nhân loại nói chung.
- Xây dựng hệ thống lý luận để cung cấp cho giai cấp công nhân một công cụ sắc bén để
nhận thức và cải tạo thế giới.

1.2. Những thời kỳ chủ yếu trong sự hình thành và phát triển của triết học Mác

- Thời kỳ 1841 - 1844: Hình thành tư tưởng triết học với bước chuyển từ chủ nghĩa duy tâm
và dân chủ cách mạng sang chủ nghĩa duy vật và lập trường giai cấp vô sản. Thời kỳ này, các
ông đã viết các tác phẩm:
+ Các bài viết của C. Mác đăng trên báo Sông Ranh (1842 - 1843).
+ Góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hêghen: phê phán những quan niệm duy
tâm của Hêghen (từ tháng 5 đến tháng 10/1843).
+ Lời nói đầu của Góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hêghen (tháng 12/1843).
- Thời kỳ 1844 - 1848: Đề xuất những nguyên lý triết học duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử. Đây là thời kỳ C. Mác và Ph. Ăngghen, sau khi tự giải phóng mình khỏi hệ thống triết
học cũ, bắt đầu xây dựng những nguyên lý nền tảng cho một triết học mới. Thời kỳ này, các ông
đã viết các tác phẩm:
+ Bản thảo kinh tế - triết học (1844).
+ Gia đình thần thánh (1845).
+ Luận cương về Phoiơbắc (1845).
+ Hệ tư tưởng Đức (1845 - 1846).
+ Sự khốn cùng của triết học (1847).
+ Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản (1848).
- Thời kỳ 1848 - 1895: C. Mác và Ph. Ăngghen bổ sung và phát triển toàn diện lý luận triết
học. Đây là thời kỳ học thuyết Mác tiếp tục được bổ sung và phát triển toàn diện trong sự gắn
bó mật thiết hơn nữa với thực tiễn cách mạng của giai cấp công nhân. Bằng hoạt động lý luận
của mình, C. Mác và Ph. Ăngghen đã đưa phong trào công nhân từ tự phát thành tự giác và ngày
càng phát triển mạnh mẽ. Thời kỳ này, các ông đã viết các tác phẩm:
+ Đấu tranh giai cấp ở Pháp (1850).
+ Cách mạng và phản cách mạng ở Đức (1851).
+ Ngày 18 tháng Sương Mù của Lui Bônapactơ (1852).
+ Nội chiến ở Pháp (1871).

7
+ Phê phán Cương lĩnh Gôta (1875).
+ Chống Đuyrinh (1878).
+ Biện chứng của tự nhiên (1773 - 1986).
+ Sự phát triển của chủ nghĩa xã hội từ không tưởng đến khoa học (1880).

1.3. Thực chất và ý nghĩa cuộc cách mạng trong triết học do C. Mác và Ph. Ăngghen thực
hiện

- C. Mác và Ph. Ăngghen đã khắc phục tính chất trực quan, siêu hình của chủ nghĩa duy vật
cũ và khắc phục tính chất duy tâm, thần bí của phép biện chứng duy tâm Đức, sáng tạo ra một
chủ nghĩa duy vật triết học hoàn bị là chủ nghĩa duy vật biện chứng.
- C. Mác và Ph. Ăngghen đã vận dụng và mở rộng quan điểm duy vật biện chứng vào
nghiên cứu lịch sử xã hội, sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật lịch sử - nội dung chủ yếu của bước
ngoặt cách mạng trong triết học.
- C. Mác và Ph. Ăngghen đã sáng tạo ra một triết học chân chính khoa học, với những đặc
tính mới của triết học duy vật biện chứng.

1.4. Giai đoạn V.I. Lênin trong sự phát triển triết học Mác

a. Bối cảnh lịch sử và nhu cầu bảo vệ, phát triển chủ nghĩa Mác

- Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn chủ nghĩa đế
quốc:
+ Mâu thuẫn giữa tư sản với vô sản ngày càng gay gắt.
+ Cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc tại các nước thuộc địa diễn ra sôi nổi, trung tâm
là nước Nga dưới sự lãnh đạo của Đảng Bônsêvích đã trở thành ngọn cờ đầu của cách mạng thế
giới.
- Khoa học tự nhiên phát triển mạnh, một số nhà khoa học tự nhiên rơi vào tình trạng khủng
hoảng về thế giới quan và bị chủ nghĩa duy tâm lợi dụng gây ảnh hưởng đến nhận thức và hành
động của phong trào cách mạng.
- Xuất hiện những trào lưu tư tưởng mới như chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán, chủ nghĩa
thực dụng, chủ nghĩa xét lại đã xuyên tạc và phủ nhận chủ nghĩa Mác.

b. Vai trò của V.I. Lênin đối với việc phát triển và bảo vệ chủ nghĩa Mác

- Thời kỳ 1893 - 1907: V.I. Lênin bảo vệ, phát triển triết học Mác và chuẩn bị thành lập
đảng mácxít ở Nga, hướng tới cuộc cách mạng dân chủ tư sản lần thứ nhất.
- Thời kỳ 1907 - 1917: V.I. Lênin phát triển toàn diện triết học Mác và lãnh đạo phong trào
công nhân Nga, chuẩn bị và thực hiện cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới.
- Thời kỳ 1917 - 1924: V.I. Lênin tổng kết kinh nghiệm thực tiễn cách mạng, bổ sung, hoàn
thiện triết học Mác, gắn liền với việc nghiên cứu các vấn đề xây dựng chủ nghĩa xã hội.

8
- Thời kỳ từ năm 1924 đến nay: Triết học Mác - Lênin tiếp tục được các đảng cộng sản và
công nhân bổ sung, phát triển.

2. Đối tượng và chức năng của triết học Mác - Lênin

2.1. Khái niệm triết học Mác - Lênin

Triết học Mác - Lênin là hệ thống quan điểm duy vật biện chứng về tự nhiên, xã hội và tư
duy - thế giới quan và phương pháp luận khoa học, cách mạng giúp giai cấp công nhân, nhân
dân lao động trong nhận thức và cải tạo thế giới.

2.2. Đối tượng của triết học Mác - Lênin

- Triết học Mác - Lênin giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trên lập trường duy
vật biện chứng và nghiên cứu những quy luật vận động, phát triển chung nhất của tự nhiên, xã
hội và tư duy.
- Triết học Mác - Lênin phân biệt rõ ràng đối tượng của triết học và đối tượng của các khoa
học cụ thể.
- Triết học Mác - Lênin có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với các khoa học cụ thể.

2.3. Chức năng của triết học Mác - Lênin

- Chức năng thế giới quan:


+ Triết học Mác – Lênin định hướng nhận thức đúng đắn về thế giới và bản thân để từ đó
nhận thức đúng bản chất của tự nhiên và xã hội, giúp con người hình thành quan điểm khoa học,
xác định thái độ và cách thức hoạt động của bản thân.
+ Thế giới quan duy vật biện chứng nâng cao vai trò tích cực, sáng tạo của con người.
+ Thế giới quan duy vật biện chứng có vai trò là cơ sở khoa học để đấu tranh với các loại
thế giới quan duy tâm, tôn giáo, phản khoa học.
- Chức năng phương pháp luận:
+ Phương pháp luận là hệ thống những quan điểm, những nguyên tắc xuất phát có vai trò
chỉ đạo việc sử dụng các phương pháp trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn nhằm
đạt kết quả tối ưu. Phương pháp luận cũng có nghĩa là lý luận về hệ thống phương pháp.
+ Triết học Mác - Lênin thực hiện chức năng phương pháp luận chung nhất, phổ biến nhất
cho nhận thức và hoạt động thực tiễn.
+ Vai trò, phương pháp luận duy vật biện chứng được thể hiện trước hết là phương pháp
chung của toàn bộ nhận thức khoa học. Phương pháp luận duy vật biện chứng trang bị cho con
người hệ thống những nguyên tắc, phương pháp luận chung nhất, phổ biến nhất cho nhận thức
và hoạt động thực tiễn.

3. Vai trò của triết học Mác - Lênin trong đời sống xã hội và trong sự nghiệp đổi mới ở
Việt Nam hiện nay

9
- Triết học Mác - Lênin là thế giới quan, phương pháp luận khoa học và cách mạng cho con
người trong nhận thức và thực tiễn.
- Triết học Mác - Lênin là cơ sở thế giới quan và phương pháp luận khoa học và cách mạng
để phân tích xu hướng phát triển của xã hội trong điều kiện cuộc cách mạng khoa học và công
nghệ hiện đại phát triển mạnh mẽ.
- Triết học Mác - Lênin là cơ sở lý luận khoa học của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội
trên thế giới và sự nghiệp đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.

10
Chương 2

CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG


A- LÝ THUYẾT

I- VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC

1. Vật chất và các hình thức tồn tại của vật chất

1.1. Quan niệm của chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật trước
C. Mác về phạm trù vật chất

- Chủ nghĩa duy tâm: tuy có thừa nhận sự tồn tại của vật chất nhưng lại phủ định đi đặc
trưng “tồn tại tự thân” của vật chất. Chủ nghĩa duy tâm khách quan coi sự tồn tại của vật chất là
sự “tha hóa” của “ý niệm tuyệt đối” của “tinh thần thế giới”; chủ nghĩa duy tâm chủ quan thừa
nhận vật chất tồn tại phụ thuộc vào ý thức, coi vật chất là sự “phức hợp” của ý thức con người.
- Chủ nghĩa duy vật thời cổ đại: Hầu hết các nhà duy vật thời kỳ này quy vật chất về một
hay một vài dạng cụ thể xem chúng là khởi nguyên của thế giới, tức đồng nhất vật chất nói
chung với những sự vật cụ thể, hữu hình.
Quan niệm về vật chất của các nhà triết học duy vật thời cổ đại mang tính trực quan, thô
sơ, mộc mạc, tự phát và phỏng đoán.
+ Ưu điểm: Các nhà triết học duy vật thời cổ đại đã coi vật chất là cơ sở, bản nguyên của
mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới; xuất phát từ chính thế giới vật chất để giải thích thế giới.
+ Hạn chế: Đồng nhất vật chất nói chung với vật thể vì vậy quan niệm về vật chất của họ
mang tính trực quan, phỏng đoán.
- Chủ nghĩa duy vật thế kỷ XV - XVIII: Bắt đầu từ thời kỳ Phục hưng, với sự phát triển mạnh
của khoa học tự nhiên - thực nghiệm, đặc biệt là cơ học cổ điển, do vậy, nhận thức của con người
ở thời kỳ này, bị chi phối bởi quan niệm siêu hình. Quan niệm triết học về thế giới cũng bị chi
phối bởi quan niệm siêu hình: các nhà triết học vẫn coi nguyên tử là phần tử vật chất nhỏ nhất,
không thể phân chia... Vận động của vật chất chỉ được coi là vận động cơ học, nguồn gốc của vận
động nằm ngoài sự vật.
+ Ưu điểm: Các nhà triết học lý giảivật chất dựa trên cơ sở khoa học phân tích thế giới
vật chất. Đó chính là bước tiến lớn của chủ nghĩa duy vật so với thời cổ đại (mặc dù vẫn
dựa trên sự quan sát bề ngoài thế giới vật chất). Đồng thời, cũng như chủ nghĩa duy vật thời
cổ đại, quan niệm này đã xuất phát từ chính bản thân thế giới để giải thích thế giới.
+ Hạn chế: Lý giải về vật chất và sự vận động của thế giới vật chất mang tính siêu hình,
máy móc.

1.2. Cuộc cách mạng trong khoa học tự nhiên cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX và sự phá

11
sản của các quan niệm duy vật siêu hình về vật chất

Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, vật lý học, nhất là vật lý vi mô đã có những phát hiện mới
về cấu trúc của vật chất, làm thay đổi quan niệm về nguyên tử.
- Năm 1895: Rơnghen tìm ra tia X - một loại sóng điện từ có bước sóng cực ngắn.
- Năm 1896: Béccơren phát hiện ra hiện tượng phóng xạ chứng tỏ quan niệm về sự bất biến
của nguyên tử là không chính xác.
- Năm 1897: Tômxơn phát hiện ra điện tử và chứng minh được điện tử là một trong những
thành phần cấu tạo nên nguyên tử.
- Năm 1901: Kaufman đã phát hiện ra khối lượng của điện tử tăng khi vận tốc chuyển động
của nó tăng.
Những phát hiện trong vật lý nói trên làm cho quan niệm về vật chất trước đó bộc lộ ra
những hạn chế, không giải thích được. Những nhà triết học đứng trên lập trường duy vật tự
phát, siêu hình dao động, hoài nghi về tính đúng đắn của chủ nghĩa duy vật. Chủ nghĩa duy tâm
đã lợi dụng tình hình đó để tuyên truyền quan điểm duy tâm: tuyên bố vật chất “tiêu tan”, vật
chất “biến mất”. Triết học duy vật đứng trước yêu cầu của sự phát triển khoa học là phải xây
dựng một quan niệm mới, cao hơn về vật chất để khắc phục cuộc khủng hoảng trong khoa học
tự nhiên và sự bất lực của chủ nghĩa duy vật siêu hình về vật chất.

1.3. Quan niệm của triết học Mác - Lênin về vật chất

Trên cơ sở tổng kết những thành tựu của khoa học tự nhiên, V.I. Lênin chỉ ra tính vô tận
của vật chất, rằng không phải vật chất tiêu tan, vật chất biến mất mà ở đây giới hạn nhận thức
của con người đã thay đổi, ông đưa ra định nghĩa: “Vật chất là một phạm trù triết học dùng để
chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng
ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”1.
- Phân tích nội dung định nghĩa:
+ Để có được quan niệm đúng đắn về vật chất cần có sự phân biệt rõ ràng giữa vật chất với
tính cách là một phạm trù triết học với quan niệm về vật chất trong các ngành khoa học tự
nhiên. Vật chất với tư cách là phạm trù triết học chỉ vật chất nói chung, vô cùng, vô tận, không
sinh ra, không mất đi; còn các dạng vật chất cụ thể là hữu hạn, có sinh ra, tồn tại và biến đổi
sang hình thức tồn tại khác.
+ Đặc tính cơ bản của vật chất là thực tại khách quan, tức là cái tồn tại hiện thực bên ngoài,
không phụ thuộc vào ý thức, sự tồn tại của vật chất không phụ thuộc vào việc con người đã
nhận thức được hay chưa nhận thức được.
+ Vật chất (dưới hình thức tồn tại cụ thể của nó) là cái gây nên cảm giác ở con người khi
trực tiếp hoặc gián tiếp tác động lên các giác quan của con người, tức thừa nhận ý thức, cảm
giác là sự phản ánh của vật chất lên các giác quan.
+ Vật chất là cái mà ý thức chẳng qua chỉ là sự phản ánh của nó, tức là vật chất có trước, ý

1
. V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, t.18, tr.151.

12
thức có sau, vật chất chính là cái quyết định ý thức.
- Ý nghĩa phương pháp luận của định nghĩa:
+ Định nghĩa vật chất của V.I. Lênin đã khắc phục được những hạn chế trong quan
niệm của chủ nghĩa duy vật cũ về vật chất, chống lại được quan niệm duy tâm về vật chất.
+ Định nghĩa vật chất của V.I. Lênin đã giải quyết được hai mặt vấn đề cơ bản của triết học
trên lập trường duy vật triệt để và thừa nhận khả năng nhận thức được thế giới của con người.
+ Định nghĩa vật chất của V.I. Lênin đã định hướng cho các nhà khoa học tự nhiên
trong việc tìm kiếm, khám phá ra những dạng và những cấu trúc vật chất mới, chỉ ra cơ sở
khoa học cho việc xác định vật chất trong lĩnh vực xã hội. Tạo ra nền tảng lý luận khoa
học cho việc giải thích những vấn đề về xã hội.

1.4. Các hình thức tồn tại của vật chất

a. Vận động

Vật chất, cái thực tại khách quan đem lại cho con người trong cảm giác, các dạng tồn tại cụ
thể của vật chất vốn hết sức phong phú đa dạng mà theo Ph. Ăng ghen “các hình thức và các
dạng khác nhau của vật chất chỉ có thể nhận thức được thông qua vận động; thuộc tính của vật
thể chỉ bộc lộ ra qua vận động”1.

Theo Ph. Ăngghen: “Vận động, hiểu theo nghĩa chung nhất, - tức được hiểu là một phương
thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất, - thì bao gồm tất cả mọi sự thay
đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí giản đơn cho đến tư duy”2.
Với cách hiểu như thế, vận động là phương thức tồn tại của vật chất, nhờ vận động và thông
qua vận động mà vật chất biểu hiện sự tồn tại của mình. Vận động của vật chất là tự thân vận
động, là tuyệt đối, vĩnh viễn.
Các hình thức vận động cơ bản của vật chất: Dựa vào các thành tựu khoa học, Ph.
Ăngghen chia vận động thành 5 hình thức cơ bản:
- Vận động cơ học: sự di chuyển vị trí của sự vật trong không gian.
- Vận động vật lý: sự vận động của các phân tử, điện tử, các hạt cơ bản, của các quá trình
nhiệt, điện...
- Vận động hóa học: sự phân giải và hóa hợp của các chất...
-Vận động sinh vật: sự biến đổi gen, trao đổi chất giữa cơ thể sinh vật với môi trường.
- Vận động xã hội: sự biến đổi trong các lĩnh vực của xã hội, sự thay thế nhau các hình thái
kinh tế - xã hội.
Mỗi hình thức vận động cơ bản trên khác nhau về chất, nhưng giữa chúng lại có mối quan
hệ hữu cơ với nhau, trong đó hình thức vận động cao xuất hiện trên cơ sở của hình thức vận
động thấp hơn và bao hàm trong nó những hình thức vận động thấp hơn và các hình thức vận

1
C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.20, tr.743.
2
. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.20, tr.519.

13
động có thể chuyển hóa cho nhau.
Đứng im là một trạng thái đặc biệt của vận động, vận động trong trạng thái cân bằng, trong
sự ổn định tương đối, nói lên sự vật còn là nó mà chưa chuyển hóa thành cái khác.

b. Không gian, thời gian

Chủ nghĩa duy vật biện chứng thừa nhận không gian và thời gian là hình thức tồn tại của
vật chất vận động, được con người khái quát khi nhận thức về thế giới.
- Không gian là hình thức tồn tại của vật chất xét về mặt quảng tính (chiều cao, chiều rộng,
chiều dài), sự cùng tồn tại, trật tự (trước hay sau, trên hay dưới, bên phải hay bên trái) và sự tác
động lẫn nhau.
- Thời gian là hình thức tồn tại của vật chất, xét về mặt độ dài diễn biến, sự kế tiếp nhau của
các quá trình vật chất (lâu, mau, nhanh, chậm).
- Không gian và thời gian có tính khách quan, vĩnh cửu và vô tận. Không gian có tính ba
chiều, thời gian có tính một chiều.

1.5. Tính thống nhất vật chất của thế giới

a. Tồn tại của thế giới là tiền đề cho sự thống nhất của thế giới
Thế giới vật chất quanh ta là tồn tại, nhưng hình thức tồn tại của thế giới vật chất là hết sức
đa dạng. Chủ nghĩa duy vật xem sự tồn tại của thế giới như một chỉnh thể mà bản chất của nó là
vật chất, tồn tại của thế giới là tiền đề cho sự thống nhất của thế giới, thế giới thống nhất ở tính
vật chất của nó. Ngược lại, chủ nghĩa duy tâm thừa nhận thế giới thống nhất ở tính tinh thần.
b. Tính thống nhất vật chất của thế giới
- Chỉ có một thế giới duy nhất là thế giới vật chất, thế giới vật chất tồn tại khách quan.
- Thế giới vật chất tồn tại vĩnh viễn, vô hạn và vô tận, không được sinh ra, không bị mất đi.
- Tính thống nhất vật chất của thế giới gắn liền với tính đa dạng của nó.

2. Nguồn gốc, bản chất và kết cấu của ý thức

2.1. Nguồn gốc của ý thức

a. Nguồn gốc tự nhiên

Dựa trên những thành tựu của khoa học tự nhiên, các nhà sang lập chủ nghĩa Mác –
Lêninkhảng định ý thức là thuộc tính của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc người.
Bộ não người và sự phản ánh thế giới khách quan vào trong bộ não con người chính là
nguồn gốc tự nhiên của ý thức.
Cấu tạo và chức năng của bộ não người: Bộ não người có cấu tạo tinh vi, phức tạp, liên hệ
với các cơ quan cảm giác, thu nhận và xử lý các tác động từ thế giới bên ngoài thông qua các
phản xạ. Sự tương tác giữa thế giới khách quan và con người tạo ra quá trình phản ánh của bộ
não.

14
Thuộc tính phản ánh và sự hình thành ý thức:
- Mọi dạng vật chất đều có khả năng phản ánh.
- Phản ánh là sự tái tạo những đặc điểm của một hệ thống vật chất này ở một hệ thống vật
chất khác trong quá trình tác động qua lại của chúng.
- Cấu tạo vật chất khác nhau sẽ có khả năng phản ánh khác nhau. Do đó, có thể phân chia
các hình thức phản ánh của vật chất từ thấp đến cao như sau: Phản ánh vật lý, hóa học  Phản
ánh sinh học  Phản ánh tâm lý  Phản ánh ý thức.
- Phản ánh ý thức là hình thức phản ánh cao nhất, chỉ có ở con người.

b. Nguồn gốc xã hội

Sự phát triển của giới tự nhiên mới tạo ra tiền đề vật chất có năng lực phản ánh, chỉ là điều
kiện cần cho sự ra đời của ý thức. Hoạt động thực tiễn của loài người mới là nguồn gốc trực tiếp
quyết định sự ra đời của ý thức, trong đó cơ bản nhất và trực tiếp nhất là lao động và ngôn ngữ.
- Lao động: Lao động là phương thức tồn tại cơ bản của con người, đó là quá trình con
người sử dụng công cụ lao động tác động vào giới tự nhiên, cải biến những dạng vật chất của
giới tự nhiên thỏa mãn nhu cầu tồn tại của mình.
+ Lao động từng bước làm biến đổi cấu tạo cơ thể mà trước hết giúp con người giải phóng
hai chi trước của con người để thực hiện những động tác tinh vi hơn, mặt khác cũng giúp con
người có khả năng sáng tạo ra công cụ lao động và sử dụng công cụ ấy phục vụ mục đích sống
của con người.
+ Việc tạo ra và sử dụng công cụ trong lao động một mặt giúp con người thỏa mãn nhu cầu
tồn tại của mình đưa bộ não con người ngày càng phát triển, hoàn thiện về mặt sinh học. Mặt
khác, nó tạo ra công cụ, phương tiện giúp con người nhận thức thế giới thuận lợi hơn. Nó được
xem là thứ nối dài bàn tay và trí óc của con người.
+ Quá trình lao động, con người tương tác với các đối tượng trong thế giới làm cho chúng
bộc lộ ra những thuộc tính thông qua đó con người nhận thức hình thành lên tri thức – thành
phần quan trọng của ý thức. Đồng thời, quá trình lao động con người làm biến đổi thế giới và
ngược lại làm biến đổi chính bản thân mình, ngày càng làm sâu sắc và phong phú thêm ý thức
của mình.
+ Lao động ngay từ đầu đã mang tính xã hội, từ đó nảy sinh nhu cầu hình thành ngôn ngữ.
- Ngôn ngữ:
+ Ngôn ngữ một mặt là kết quả của lao động, mặt khác lại là nhân tố tích cực tác động đến
quá trình lao động và phát triển ý thức con người.
+ Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu vật chất mang nội dung ý thức, là công cụ thể hiện ý thức,
tư tưởng và tạo điều kiện để phát triển ý thức.
+ Ngôn ngữ giúp con người phản ánh khái quát những đặc tính, những thuộc tính của sự
vật, hiện tượng trong thế giới.

15
+ Ngôn ngữ giúp con người trao đổi kinh nghiệm hoạt động sống.
Như vậy, nguồn gốc trực tiếp và quan trọng nhất quyết định sự ra đời và phát triển của ý
thức là lao động và ngôn ngữ, hoạt động thực tiễn xã hội của con người.

2.2. Bản chất của ý thức

Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: Bản chất ý thức là hình ảnh chủ quan của thế
giới khách quan, là quá trình phản ánh tích cực, sáng tạo hiện thực khách quan của óc người.
- Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan:
+ Cả vật chất và ý thức đều tồn tại nhưng sự tồn tại của vật chất là tồn tại khách quan còn ý
thức tồn tại chủ quan. Ý thức không phải sự vật mà chỉ là “hình ảnh” của sự vật ở trong đầu óc
con người. Sự tồn tại của ý thức gắn liền với sự tồn tại của con người và khả năng nhận thức của
con người.
+ Ý thức phản ánh thế giới khách quan, nhưng thế giới đó đã được cải biến thông qua lăng
kính chủ quan của con người (chịu tác động của các yếu tố như: tâm tư, tình cảm, nguyện vọng,
nhu cầu, tri thức, kinh nghiệm...). Ý thức là sự phản ánh năng động, sáng tạo thế giới khách
quan của bộ óc người, là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
- Tính chất năng động, sáng tạo của phản ánh ý thức:
+ Ý thức phản ánh thế giới khách quan nhưng không mang tính thụ động, rập khuôn, máy
móc mà trên cơ sở tiếp thu, xử lý thông tin có chọn lọc, có định hướng.
+ Phản ánh ý thức không dừng lại ở vẻ bề ngoài, mà còn khái quát bản chất, quy luật của sự
vật, hiện tượng.
+ Ý thức có khả năng mô hình hóa đối tượng trong tư duy dưới dạng hình ảnh tinh thần và
chuyển mô hình từ trong tư duy ra hiện thực khách quan thông qua hoạt động thực tiễn.
+ Trên cơ sở những tri thức đã có, con người sáng tạo ra những tri thức mới.
- Ý thức là một hiện tượng xã hội và mang bản chất xã hội:
+ Sự ra đời và phát triển của ý thức gắn liền với hoạt động thực tiễn của con người, chịu chi
phối không chỉ của các quy luật tự nhiên mà còn (và chủ yếu là) của các quy luật xã hội.
+ Ý thức là hình thức phản ánh cao nhất riêng có của con người về hiện thực khách quan
trên cơ sở thực tiễn xã hội - lịch sử.

2.3. Kết cấu của ý thức

- Các lớp cấu trúc của ý thức: khi xem xét ý thức với các yếu tố hợp thành, ý thức gồm
nhiều yếu tố quan hệ mật thiết với nhau, trong đó yếu tố cơ bản nhất là tri thức, tình cảm, niềm
tin, ý chí.
- Các cấp độ của ý thức: khi xem xét ý thức theo chiều sâu của thế giới nội tâm con người,
ý thức bao gồm: tự ý thức, vô thức và tiềm thức.

16
3. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức

3.1. Quan điểm của chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật siêu hình

- Chủ nghĩa duy tâm: Ý thức, tinh thần của con người đã bị trừu tượng hóa, tách khỏi con
người thành một lực lượng thần bí, tiên thiên.
- Chủ nghĩa duy vật siêu hình: Tuyệt đối hóa yếu tố vật chất, chỉ nhấn mạnh một chiều vai
trò của vật chất sinh ra ý thức, quyết định ý thức; phủ nhận tính độc lập tương đối của ý thức.

3.2. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng

- Vật chất quyết định ý thức:


Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: Vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất là
nguồn gốc của ý thức, quyết định ý thức. Vật chất quyết định ý thức thể hiện ở 4 phương diện
sau:
+ Vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức.
+ Vật chất quyết định nội dung của ý thức.
+ Vật chất quyết định bản chất của ý thức.
+ Vật chất quyết định sự vận động, biến đổi của ý thức.
- Ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất:
+Ý thức do vật chất sinh ra, nhưng sau khi hình thành, ý thức có thể tác động trở lại vật
chất. Ý thức có thể thay đổi nhanh chậm, không song hành với hiện thực.
+ Sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thông qua hoạt động thực tiễn của con người.
+ Vai trò của ý thức thể hiện nó có chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con người. Khi phản
ánh đúng hiện thực, nó có thể dự báo, tiên đoán đúng hiện thực trong tương lai, hình thành nên
những học thuyết lý luận có tính định hướng.
+ Xã hội càng phát triển thì vai trò của ý thức ngày càng to lớn, nhất là trong thời đại thông
tin, thời đại kinh tế tri thức, thời đại cách mạng công nghiệp 4.0.

3.3. Ý nghĩa phương pháp luận

- Ý nghĩa phương pháp luận chủ đạo: Tôn trọng tính khách quan kết hợp với phát huy tính
năng động chủ quan.
+ Tôn trọng tính khách quan: Vật chất quyết định ý thức, do đó mọi suy nghĩ và hành động
đều phải xuất phát từ hiện thực khách quan, chống chủ quan duy ý chí. Mọi chủ trương, đường
lối, kế hoạch... đều phải xuất phát từ điều kiện, tiền đề vật chất hiện có. Nhận thức sự vật phải
chân thực.
+ Phát huy tính năng động chủ quan: Vì ý thức có vai trò tác động trở lại đối với vật chất,
cho nên trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, chúng ta phải biết phát huy tính năng động chủ
quan: phát huy tính năng động, sáng tạo của ý thức, phát huy vai trò nhân tố con người, chống

17
tư tưởng thụ động; coi trọng công tác tư tưởng và giáo dục tư tưởng.
- Muốn thực hiện tốt nguyên tắc tôn trọng tính khách quan kết hợp với phát huy tính năng
động chủ quan, cần nhận thức và giải quyết đúng đắn các quan hệ lợi ích giữa cá nhân, tập thể,
xã hội; có động cơ trong sáng, không vụ lợi, có thái độ thật sự khách quan, khoa học trong nhận
thức và hoạt động thực tiễn.

II- PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT

Nghiên cứu nội dung của phép biện chứng duy vật sẽ giúp chúng ta hình thành phương
pháp luận trong nhận thức khoa học và hoạt động thực tiễn.

1. Hai loại hình biện chứng và phép biện chứng duy vật

1.1. Biện chứng khách quan và biện chứng chủ quan

- Khái niệm biện chứng được sử dụng để chỉ những mối liên hệ, tương tác, chuyển hóa và
vận động, phát triển theo quy luật của các sự vật, hiện tượng, quá trình trong giới tự nhiên, xã
hội và tư duy.
- Biện chứng bao gồm biện chứng khách quan và biện chứng chủ quan:
+ Biện chứng khách quan là cái biện chứng vốn có của chính bản thân thế giới vật chất, tồn
tại khách quan độc lập với ý thức con người.
+ Biện chứng chủ quan là cái phản ánh của biện chứng khách quan vào trong đầu óc con
người, là tư duy biện chứng.

1.2. Khái niệm phép biện chứng duy vật

Phép biện chứng là học thuyết nghiên cứu về bản chất biện chứng của thế giới, khái quát
thành một hệ thống các nguyên lý, phạm trù, quy luật khoa học. Từ đó xây dựng hệ thống các
nguyên tắc phương pháp luận của nhận thức và thực tiễn.
Đặc điểm của phép biện chứng duy vật:
- Phép biện chứng duy vật hình thành từ sự thống nhất hữu cơ giữa thế giới quan duy
vật và phương pháp luận biện chứng; giữa lý luận nhận thức và lôgíc biện chứng.
- Về vai trò của phép biện chứng duy vật: tạo ra phương pháp luận khoa học cho nhận thức
và hoạt động thực tiễn.

2. Nội dung của phép biện chứng duy vật

Phép biện chứng duy vật gồm có:


- Hai nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy vật.
- Các cặp phạm trù cơ bản.

18
- Các quy luật cơ bản.

2.1. Hai nguyên lý của phép biện chứng duy vật

Nguyên lý là những khởi điểm (điểm xuất phát đầu tiên) hay những luận điểm cơ bản nhất
có tính chất tổng quát của một học thuyết chi phối sự vận hành của tất cả các đối tượng thuộc
lĩnh vực quan tâm nghiên cứu của nó.

a. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến

* Khái niệm “mối liên hệ” và “mối liên hệ phổ biến”:


- Mối liên hệ là khái niệm dùng để chỉ sự quy định ràng buộc, sự tác động tương hỗ và
chuyển hóa lẫn nhau giữa các yếu tố, bộ phận trong một đối tượng hoặc giữa các đối tượng
trong thế giới.
- Mối liên hệ phổ biến là khái niệm dùng để chỉ tính phổ biến của các mối liên hệ của các
vật, hiện tượng (bao gồm cả đối tượng vật chất hữu hình lẫn đối tượng tinh thần) của thế giới,
trong đó những mối liên hệ phổ biến nhất là những mối liên hệ tồn tại ở mọi sự vật, hiện tượng
của thế giới, nó thuộc đối tượng nghiên cứu của phép biện chứng duy vật.
* Các tính chất của mối liên hệ:
- Tính khách quan của mối liên hệ: các sự vật, hiện tượng trong thế giới tồn tại khách quan,
độc lập, không phụ thuộc vào ý thức con người, do đó tự chúng có mối liên hệ, tác động qua lại
với nhau.
- Tính phổ biến của mối liên hệ: bất cứ sự vật, hiện tượng nào trong tự nhiên, xã hội và tư
duy, ý thức con người, cũng như các mặt trong các sự vật, hiện tượng đều có liên hệ với nhau.
- Tính đa dạng, phong phú của mối liên hệ: mối liên hệ của mỗi sự vật, hiện tượng trong
mỗi lĩnh vực khác nhau có đặc điểm, vị trí, vai trò khác nhau.
* Ý nghĩa phương pháp luận:
- Quan điểm toàn diện:
+ Khi nhận thức sự vật, chúng ta phải xem xét sự vật trong toàn bộ mối quan hệ biện chứng
qua lại giữa các bộ phận, các yếu tố, các mặt của chính sự vật và trong sự tác động qua lại giữa
sự vật đó với sự vật khác.
+ Phải phân loại, đánh giá vị trí, vai trò của từng mối liên hệ đối với sự vận động, phát triển
của sự vật.
- Quan điểm lịch sử - cụ thể: đòi hỏi chúng ta khi xem xét sự vật, hiện tượng phải xác định
được vị trí, vai trò của từng mối liên hệ, trong những không gian, thời gian nhất định, trong điều
kiện, hoàn cảnh mà nó ra đời, tồn tại.

b. Nguyên lý về sự phát triển

* Khái niệm phát triển:


- Phát triển là quá trình vận động của sự vật từ thấp đến cao, từ kém hoàn thiện đến hoàn

19
thiện hơn, từ chất cũ đến chất mới ở trình độ cao hơn.
- Phân biệt sự khác nhau giữa phát triển và vận động: vận động là bao hàm mọi biến đổi nói
chung, còn phát triển biểu hiện khuynh hướng của vận động, vận động theo khuynh hướng tiến
lên làm cho sự vật ngày càng hoàn thiện hơn.
* Các tính chất cơ bản của phát triển:
- Tính khách quan của sự phát triển: sự phát triển của sự vật, hiện tượng trong thế giới
là do việc giải quyết mâu thuẫn vốn có ở bên trong tạo ra chứ không phụ thuộc vào ý thức
con người.
- Tính phổ biến của sự phát triển: mọi sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy ý
thức con người đều nằm trong khuynh hướng phát triển.
- Tính đa dạng, phong phú của sự phát triển: mỗi sự vật, hiện tượng ở mỗi lĩnh vực phát triển
khác nhau qua từng giai đoạn cụ thể thì sự phát triển có những đặc điểm khác nhau.
* Ý nghĩa phương pháp luận:
- Quan điểm phát triển đòi hỏi chúng ta khi xem xét sự vật phải đặt nó trong khuynh hướng
tiến lên, có cái mới, cái tiến bộ ra đời thay thế cái cũ. Tuy nhiên, cũng phải nhận thấy rằng sự
phát triển của sự vật không diễn ra theo đường thẳng mà quanh co, phức tạp.
- Quan điểm phát triển là cơ sở khoa học giúp chúng ta khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ,
ngại đổi mới trong nhận thức và hoạt động thực tiễn.

2.2. Các cặp phạm trù cơ bản của phép biện chứng duy vật

- Phạm trù là những khái niệm chung nhất, phản ánh những mặt, thuộc tính, mối liên hệ
chung, cơ bản nhất của các sự vật, hiện tượng trong một lĩnh vực nhất định.
- Khái niệm là những tri thức của con người phản ánh đúng đắn bản chất của sự vật, hiện
tượng, là kết quả của quá trình nhận thức và kết quả của sự khái quát trong tư duy.
Như vậy, cả “khái niệm” và “phạm trù” đều là tri thức của con người, là kết quả của quá
trình nhận thức, quá trình khái quát hóa, trừu tượng hóa trong tư duy.
- Các phạm trù triết học là những khái niệm chung nhất, phản ánh những mặt, những thuộc
tính, những mối liên hệ cơ bản nhất, phổ biến nhất trong cả tự nhiên, xã hội và tư duy.

2.2.1. Cái riêng và cái chung

* Định nghĩa “cái riêng”, “cái chung” và “cái đơn nhất”:


- Phạm trù cái riêng dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng, một quá trình nhất định.
- Phạm trù cái chung dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính, những yếu tố, những quan
hệ không chỉ có ở một sự vật, hiện tượng mà còn lặp lại ở nhiều sự vật, hiện tượng khác.
- Cái đơn nhất là những mặt, những đặc tính, những tính chất… chỉ tồn tại ở một sự vật,
hiện tượng nào đó mà không lặp lại ở các sự vật, hiện tượng khác.
* Mối liên hệ biện chứng giữa cái riêng, cái chung và cái đơn nhất:
- Cả cái chung và cái riêng đều tồn tại khách quan, giữa chúng có mối quan hệ biện chứng
với nhau.

20
+ Không có cái chung tồn tại thuần túy tách rời cái riêng. Cái chung chỉ tồn tại trong cái
riêng, thông qua cái riêng mà biểu hiện sự tồn tại của mình. Cái chung là bộ phận được khái
quát từ những cái riêng.
+ Không có cái riêng tồn tại tuyệt đối độc lập mà lại không có mối liên hệ với cái chung.
Cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ với cái chung. Cái riêng được gọi là cái riêng khi xem xét
các đối tượng trong mối liên hệ với nhau và với cái chung.
+ Cái riêng là cái toàn bộ, phong phú hơn cái chung; còn cái chung là cái bộ phận nhưng
sâu sắc hơn cái riêng. Cái chung sâu sắc hơn cái riêng vì nó phản ánh những thuộc tính lặp đi
lặp lại ở nhiều sự vật. Còn cái riêng phong phú hơn cái chung vì nó là cái tổng hợp của cái
chung và cái đơn nhất.
- Cái chung và cái đơn nhất có thể chuyển hóa cho nhau trong những điều kiện nhất định.
+ Cái chung có thể chuyển hóa thành cái đơn nhất, đó là quá trình tồn tại và tiêu vong dần
dần của cái cũ.
+ Cái đơn nhất chuyển hóa thành cái chung, đó là quá trình ra đời và phát triển của cái mới.
* Ý nghĩa phương pháp luận:
- Vì cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, nên muốn tìm cái chung phải tìm từ những cái
riêng.
- Vì cái chung sâu sắc hơn cái riêng, nên phải dựa vào cái chung để cải tạo cái riêng và khi
vận dụng cái chung vào cái riêng, phải cá biệt hóa cho phù hợp với đặc điểm của từng cái riêng.
- Trong hoạt động thực tiễn, tùy theo lợi ích và vai trò của cái chung, cái đơn nhất mà cần
tạo điều kiện để cái chung bất lợi và cái đơn nhất có lợi có thể chuyển hóa cho nhau.

2.2.2. Nguyên nhân và kết quả

* Định nghĩa “nguyên nhân” và “kết quả”:


- Phạm trù nguyên nhân dùng để chỉ sự tác động lẫn nhau giữa các mặt trong một sự vật,
hiện tượng, hoặc giữa các sự vật, hiện tượng với nhau tạo ra những biến đổi nhất định.
- Phạm trù kết quả dùng để chỉ những biến đổi xuất hiện do sự tác động giữa các mặt, các
yếu tố trong một sự vật, hiện tượng hoặc giữa các sự vật, hiện tượng.
* Mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả:
Mối quan hệ giữa nguyên nhân và kết quả biểu hiện mối quan hệ khách quan của sự vật,
hiện tượng.
- Nguyên nhân sinh ra kết quả, nên nguyên nhân luôn có trước kết quả, còn kết quả là cái
được sinh ra bởi nguyên nhân nên chỉ xuất hiện sau khi đã có nguyên nhân tác động. Tuy nhiên,
không phải mọi quan hệ nối tiếp về mặt thời gian đều là quan hệ nhân quả mà chỉ có những
quan hệ sản sinh ra nhau mới là quan hệ nhân quả.
- Tính phức tạp của mối quan hệ nhân - quả:
+ Một nguyên nhân sinh ra một hoặc nhiều kết quả.
+ Nhiều nguyên nhân sinh ra một hoặc nhiều kết quả.
- Quan hệ nhân – quả là một chuỗi liên tục. Nguyên nhân và kết quả có thể thay đổi vị trí

21
cho nhau. Điều này có nghĩa là: Một sự vật, hiện tượng nào đó trong mối quan hệ này là nguyên
nhân thì ngược lại trong mối quan hệ khác, nó lại là kết quả và ngược lại.
- Kết quả có khả năng tác động trở lại nguyên nhân theo hướng tích cực hoặc tiêu cực.
* Ý nghĩa phương pháp luận:
- Mối liên hệ nhân - quả có tính khách quan, phổ biến, nghĩa là nhiệm vụ của nhận thức
khoa học là phải tìm ra được nguyên nhân khách quan, tất yếu của những sự vật, hiện tượng
trong tự nhiên, xã hội và tư duy để giải thích và cải biến được hiện tượng đó.
- Mối liên hệ nhân - quả có tính phức tạp, đa dạng nên cần phân biệt chính xác các loại
nguyên nhân để có phương pháp giải quyết cho phù hợp.
- Một nguyên nhân có thể có nhiều kết quả và ngược lại, nên trong nhận thức và hoạt động
thực tiễn phải có quan điểm toàn diện và quan điểm lịch sử - cụ thể để giải quyết và ứng dụng
nó.

2.2.3. Tất nhiên và ngẫu nhiên

* Định nghĩa “tất nhiên” và “ngẫu nhiên”:


- Phạm trù tất nhiên dùng để chỉ cái do những nguyên nhân cơ bản, bên trong của kết cấu
vật chất quyết định và trong những điều kiện nhất định, nó xảy ra như thế, không thể khác.
- Phạm trù ngẫu nhiên dùng để chỉ cái do các nguyên nhân bên ngoài, do sự ngẫu hợp của
nhiều hoàn cảnh bên ngoài quyết định, do đó nó có thể xuất hiện hoặc không xuất hiện, có thể
xuất hiện như thế này hoặc như thế khác.
* Mối quan hệ biện chứng giữa tất nhiên và ngẫu nhiên:
- Tất nhiên và ngẫu nhiên đều tồn tại khách quan và đều có vai trò nhất định trong quá trình
phát triển của sự vật, trong đó tất nhiên giữ vai trò quyết định.
- Cái tất nhiên và ngẫu nhiên đều tồn tại trong sự thống nhất biện chứng với nhau; không có
cái tất nhiên thuần túy và ngẫu nhiên thuần túy.
- Tất nhiên và ngẫu nhiên có thể chuyển hóa cho nhau. Cả tất nhiên và ngẫu nhiên không
nằm yên ở trạng thái cũ mà chúng cũng luôn vận động, biến đổi cùng với sự biến đổi của sự vật,
hiện tượng và trong những điều kiện nhất định có thể chuyển hóa cho nhau.
* Ý nghĩa phương pháp luận:
- Cả tất nhiên và ngẫu nhiên đều tồn tại khách quan. Vì vậy, không thể tìm tất nhiên và
ngẫu nhiên trong ý thức con người.
- Về căn bản trong hoạt động nhận thức và thực tiễn, chúng ta phải dựa vào cái tất nhiên
chứ không dựa vào cái ngẫu nhiên để cải tạo sự vật. Nhưng mặt khác, cũng phải chú ý tới cái
ngẫu nhiên xảy ra.
- Tất nhiên và ngẫu nhiên có thể chuyển hóa cho nhau. Vì vậy, cần tạo điều kiện nhất định
để cản trở hoặc thúc đẩy sự chuyển hóa của chúng theo mục đích nhất định.

2.2.4. Nội dung và hình thức

* Định nghĩa “nội dung” và “hình thức”:

22
- Phạm trù nội dung dùng để chỉ sự tổng hợp tất cả những mặt, yếu tố, quá trình tạo nên sự
vật, hiện tượng.
- Phạm trù hình thức dùng để chỉ phương thức tồn tại, phát triển của sự vật, hiện tượng đó, là
hệ thống các mối liên hệ tương đối bền vững giữa các yếu tố của nó.
* Mối quan hệ biện chứng giữa nội dung và hình thức:
- Sự thống nhất giữa nội dung và hình thức:
+ Thống nhất: Nội dung và hình thức gắn bó với nhau trong một chỉnh thể thống nhất.
Không có hình thức nào tồn tại thuần túy mà không có nội dung và ngược lại không nội dung
nào lại không tồn tại trong một hình thức nhất định.
+ Mâu thuẫn: Tuy nhiên không phải bao giờ nội dung và hình thức cũng phù hợp với nhau
hoàn toàn. Trong quá trình phát triển của sự vật, có thể có hai trường hợp sau:
 Cùng một hình thức có thể chứa đựng những nội dung khác nhau.
 Cùng một nội dung có thể thể hiện ở nhiều hình thức khác nhau.
- Nội dung giữ vai trò quyết định hình thức, hình thức tác động trở lại nội dung:
+ Vai trò của nội dung: Khuynh hướng chủ đạo của nội dung là biến đổi, khuynh hướng
chủ đạo của hình thức là tương đối bền vững, biến đổi chậm hơn so với nội dung. Nhưng do xu
hướng phát triển của sự vật, hình thức buộc cũng phải biến đổi theo cho phù hợp với nội dung,
như vậy nội dung giữ vai trò quyết định đối với hình thức.
+ Vai trò của hình thức:
 Nếu hình thức phù hợp với nội dung sẽ thúc đẩy nội dung phát triển.
Nếu hình thức không phù hợp với nội dung sẽ kìm hãm sự phát triển của nội dung.
* Ý nghĩa phương pháp luận:
- Vì nội dung và hình thức gắn bó với nhau, nên trong nhận thức không tách rời tuyệt đối
hóa giữa nội dung và hình thức, chống chủ nghĩa hình thức.
- Để cải tạo và biến đổi sự vật, trước hết cần căn cứ vào nội dung, song cũng phải chú ý tới
hình thức, theo dõi mối quan hệ giữa nội dung và hình thức để kịp thời điều chỉnh sự can thiệp
của con người vào quá trình biến đổi sự vật.
- Vì nội dung có thể chứa trong nhiều hình thức và ngược lại, nên muốn cải tạo, biến đổi sự
vật, cần phải sử dụng nhiều hình thức.

2.2.5. Bản chất và hiện tượng

* Định nghĩa “bản chất” và “hiện tượng”:


- Phạm trù bản chất dùng để chỉ sự tổng hợp tất cả những mặt, những mối liên hệ tất nhiên,
tương đối ổn định bên trong sự vật, quy định sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng đó.
- Phạm trù hiện tượng dùng để chỉ sự biểu hiện của những mặt, những mối liên hệ đó trong
những điều kiện xác định.
* Mối quan hệ biện chứng giữa bản chất và hiện tượng:
Bản chất và hiện tượng đều tồn tại khách quan, là hai mặt vừa thống nhất, vừa đối lập nhau.

23
- Sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng:
+ Bản chất luôn bộc lộ qua hiện tượng; còn hiện tượng nào cũng là biểu hiện của bản chất ở
mức độ nhất định. Không có bản chất nào tồn tại thuần túy ngoài hiện tượng và ngược lại cũng
không có hiện tượng nào hoàn toàn không phải là biểu hiện của bản chất.
+ Khi bản chất thay đổi thì hiện tượng biểu hiện của nó sớm muộn cũng thay đổi theo. Bản
chất mất thì hiện tượng của nó cũng mất theo.
- Sự đối lập giữa bản chất và hiện tượng:
+ Bản chất thể hiện cái chung, cái tất yếu, quyết định sự phát triển của sự vật, còn hiện
tượng phản ánh cái riêng, cái cá biệt ở bên ngoài sự vật. Vì vậy, cùng một bản chất có thể biểu
hiện bằng những hiện tượng khác nhau, tùy theo sự thay đổi của điều kiện và hoàn cảnh, còn
hiện tượng phong phú và đa dạng.
+ Bản chất là mặt bên trong, ẩn giấu sâu xa hiện thực khách quan, còn hiện tượng là biểu
hiện bên ngoài của hiện thực khách quan đó. Bản chất không biểu hiện ở một hiện tượng mà ở
nhiều hiện tượng. Còn hiện tượng chỉ biểu hiện một khía cạnh nào đó của bản chất.
+ Bản chất là cái tương đối ổn định, còn hiện tượng là cái thường xuyên biến đổi.
* Ý nghĩa phương pháp luận:
- Muốn hiểu được bản chất của sự vật phải thông qua nhiều hiện tượng, phải phân tích tổng
hợp sự biến đổi của nhiều hiện tượng, nhất là những hiện tượng điển hình mới làm rõ bản chất
sự vật.
- Trong nhận thức không dừng lại ở hiện tượng mà phải tiến tới bản chất sự vật. Còn trong
hoạt động thực tiễn, phải dựa vào bản chất sự vật để đưa ra được phương thức cải tạo, biến đổi
sự vật.

2.2.6. Khả năng và hiện thực

* Định nghĩa “khả năng” và “hiện thực”:


- Khả năng là tổng thể các tiền đề của sự biến đổi, sự hình thành của hiện thực mới, là cái
có thể, nhưng ngay lúc này còn chưa có.
- Hiện thực là cái đang có, đang tồn tại thực sự.
* Mối quan hệ biện chứng giữa khả năng và hiện thực:
- Khả năng và hiện thực tồn tại trong mối quan hệ biện chứng không tách rời nhau và luôn
chuyển hóa cho nhau. Trong sự vật, hiện tượng đang tồn tại đã chứa đựng khả năng và sự vận
động, phát triển của sự vật chính là quá trình chuyển hóa từ khả năng thành hiện thực và ngược
lại.
- Ở cùng một sự vật, trong cùng điều kiện nhất định, có thể tồn tại nhiều khả năng, chứ
không phải chỉ có một khả năng. Ngoài những khả năng vốn có, khi có thêm điều kiện mới thì
sự vật sẽ xuất hiện những khả năng mới, đồng thời bản thân mỗi khả năng cũng thay đổi theo sự
thay đổi của điều kiện.

24
- Để khả năng biến đổi thành hiện thực thường không chỉ cần một điều kiện mà là một tập
hợp các điều kiện cần và đủ.
- Trong xã hội, hoạt động có ý thức của con người có vai trò rất quan trọng để biến khả
năng thành hiện thực. Hoạt động có ý thức của con người có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm khả
năng phát triển theo hướng này hoặc hướng khác để tạo ra hiện thực nhanh hoặc chậm.
* Ý nghĩa phương pháp luận:
- Trong hoạt động thực tiễn cần dựa vào hiện thực chứ không dựa vào khả năng để xác định
chủ trương, phương hướng, mục đích hành động của mình.
- Tuy không dựa vào khả năng nhưng cũng phải tính đến các khả năng để đề ra phương
hướng hành động phù hợp với yêu cầu cải tạo, biến đổi sự vật.
- Trong xã hội, muốn khả năng biến thành hiện thực phải phát huy tối đa vai trò của nhân tố
chủ quan.

2.3. Các quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật

* Khái niệm quy luật:


Quy luật là những mối liên hệ phổ biến, khách quan, bản chất, tất yếu và lặp lại giữa các
đối tượng và nhất định tác động khi có các điều kiện thích hợp.
* Phân loại quy luật:
- Căn cứ vào phạm vi hoạt động, quy luật được chia ra:
+ Quy luật riêng: tác động trong một lĩnh vực nhất định.
+ Quy luật chung: tác động trong một số lĩnh vực.
+ Quy luật phổ biến: tác động trong cả tự nhiên, xã hội và tư duy.
- Căn cứ vào lĩnh vực tác động, quy luật được chia ra:
+ Quy luật tự nhiên: hình thành và tác động một cách tự phát trong tự nhiên.
+ Quy luật xã hội: hình thành và tác động thông qua hoạt động của con người có ý thức,
nhưng vẫn mang tính khách quan.
+ Quy luật tư duy: là những mối liên hệ của khái niệm, phán đoán, suy luận, nó phản ánh
những quy luật của hiện thực khách quan vào trong đầu óc con người.
Phép biện chứng duy vật nghiên cứu những quy luật phổ biến của tự nhiên, xã hội và tư
duy.

2.3.1. Quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất
và ngược lại

Quy luật này chỉ ra cách thức chung nhất của sự vận động, phát triển của sự vật.

a. Khái niệm “chất”, “lượng”

* Khái niệm “chất”:

25
- Chất dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật, hiện tượng; là sự thống nhất
hữu cơ của các thuộc tính làm cho sự vật là nó, phân biệt nó với sự vật khác.
- Mối quan hệ giữa chất và thuộc tính:
+ Mỗi sự vật có nhiều thuộc tính cơ bản và không cơ bản, chỉ những thuộc tính cơ bản
mới hợp thành chất của sự vật, khi nào chúng thay đổi thì chất thay đổi; còn các thuộc tính
không cơ bản thay đổi thì chưa dẫn đến sự thay đổi về chất của sự vật.
+ Tuy nhiên, sự phân chia này chỉ có ý nghĩa tương đối và xét trong từng mối quan hệ cụ
thể.
- Chất và các phương thức liên kết: Chất của sự vật không chỉ được quy định bởi chất của
các yếu tố tạo thành mà còn bởi phương thức liên kết của các yếu tố đó.
* Khái niệm “lượng”:
- Lượng dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật về các phương diện: số
lượng các yếu tố cấu thành, quy mô của sự tồn tại, tốc độ, nhịp điệu của các quá trình vận động,
phát triển của sự vật.
- Một sự vật có thể tồn tại nhiều lượng khác nhau, xác định bằng các phương thức khác
nhau phù hợp với từng loại lượng cụ thể của sự vật.
- Lượng cũng có tính khách quan, là cái vốn có của sự vật, quy định sự vật đó.
- Tuy nhiên, sự phân biệt giữa chất và lượng chỉ có ý nghĩa tương đối được xét trong từng
mối quan hệ cụ thể.

b. Quan hệ biện chứng giữa chất và lượng

* Tính thống nhất giữa chất và lượng:


- Bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng là sự thống nhất của hai mặt chất và lượng, chúng tác
động qua lại lẫn nhau làm cho sự vật biến đổi.
- Trong khoảng giới hạn nhất định, sự thay đổi về lượng chưa dẫn đến sự thay đổi căn bản
về chất, sự vật đang còn là chính nó gọi là “độ”. Nói cách khác, “Độ” là phạm trù triết học dùng
để chỉ khoảng giới hạn mà trong đó sự thay đổi về lượng chưa dẫn đến sự thay đổi về chất, sự
vật đang còn là chính nó.
* Quá trình chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất:
- Sự thay đổi về lượng đến một thời điểm nhất định thì tạo ra sự thay đổi căn bản về chất
gọi là “điểm nút”. “Điểm nút” là phạm trù triết học dùng để chỉ thời điểm mà ở đó sự thay đổi
về lượng đã đủ làm thay đổi căn bản về chất của sự vật.
- Sự vật tích lũy đủ về lượng tại điểm nút sẽ tạo ra “bước nhảy”.
“Bước nhảy” là phạm trù triết học dùng để chỉ sự chuyển hóa về chất của sự vật do sự thay
đổi về lượng trước đó tạo ra.
Bước nhảy là sự kết thúc một giai đoạn phát triển, đồng thời lại mở đầu cho giai đoạn phát
triển mới tiếp theo. Cứ như vậy cái mới ra đời thay thế cái cũ.
* Chất mới ra đời tác động trở lại lượng của sự vật:

26
Khi chất mới ra đời quy định lượng mới của sự vật, nó có tác động trở lại đối với lượng của
sự vật, có thể làm thay đổi quy mô, kết cấu, trình độ, nhịp điệu vận động của sự vật.
Khái quát nội dung quy luật: Bất cứ sự vật, hiện tượng nào cũng là sự thống nhất biện
chứng giữa hai mặt chất và lượng. Sự thay đổi dần dần về lượng trong khoảng giới hạn độ tới
điểm nút sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất thông qua bước nhảy. Chất mới ra đời tác động đến sự
thay đổi của lượng mới. Quá trình đó diễn ra liên tục tạo thành phương thức phổ biến của các
quá trình vận động, phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy.

c. Ý nghĩa phương pháp luận

- Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, chúng ta phải chú ý cả hai mặt chất và lượng, tạo
nên sự nhận thức toàn diện về sự vật.
- Cần chú ý từng bước tích lũy về lượng để tạo ra sự biến đổi về chất; đồng thời phát huy
tác động của chất mới để làm thay đổi lượng mới.
- Quy luật này là cơ sở khoa học để chúng ta khắc phục hai biểu hiện tư tưởng sai lầm sau
đây:
+ Tư tưởng nóng vội, chủ quan, duy ý chí, muốn tạo nhanh sự biến đổi về chất mà chưa có
sự tích lũy đủ về lượng.
+ Tư tưởng bảo thủ trì trệ, ngại đổi mới, coi sự phát triển chỉ là sự tăng lên đơn thuần về
lượng mà không chủ động tạo ra sự biến đổi về chất khi có điều kiện.
- Trong hoạt động thực tiễn cần vận dụng linh hoạt các bước nhảy và sử dụng kết hợp các
bước nhảy để cải tạo, biến đổi sự vật.

2.3.2. Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập

Vị trí, vai trò: Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập (quy luật mâu thuẫn)
chỉ ra nguồn gốc vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy.

a. Khái niệm mâu thuẫn và các tính chất chung của mâu thuẫn

* Khái niệm “mâu thuẫn” và “mâu thuẫn biện chứng”:


- Khái niệm mâu thuẫn dùng để chỉ mối liên hệ thống nhất và đấu tranh, chuyển hóa giữa
các mặt của một sự vật, hiện tượng hoặc giữa các sự vật, hiện tượng với nhau.
- Mâu thuẫn biện chứng được tạo nên từ những mặt đối lập, vừa nương tựa vào nhau vừa
phát triển theo những chiều hướng trái ngược nhau.
- Khái niệm mặt đối lập dùng để chỉ những mặt, có những thuộc tính, những khuynh
hướng vận động trái ngược nhau nhưng lại là tiền đề, điều kiện tồn tại của nhau.
* Các tính chất chung của mâu thuẫn:
- Mâu thuẫn có tính khách quan. Điều này có nghĩa là mâu thuẫn của sự vật, hiện tượng
trong thế giới tồn tại độc lập, không phụ thuộc vào ý thức con người; nói cách khác, mâu thuẫn
là cái vốn có của bản thân sự vật, hiện tượng.

27
- Mâu thuẫn có tính phổ biến, nghĩa là mọi sự vật, hiện tượng trong mọi lĩnh vực của tự
nhiên, xã hội và tư duy đều tồn tại mâu thuẫn. Chỉ có sự khác nhau giữa mâu thuẫn đã phát hiện
ra và mâu thuẫn chưa phát hiện ra.
- Mâu thuẫn có tính đa dạng, phong phú. Tính đa dạng của mâu thuẫn được thể hiện ở chỗ:
mỗi sự vật, hiện tượng trong mỗi lĩnh vực khác nhau, qua từng giai đoạn phát triển, mâu thuẫn
có đặc điểm, vị trí, vai trò khác nhau đối với sự vận động, phát triển của sự vật. Đó là mâu thuẫn
cơ bản và không cơ bản, mâu thuẫn bên trong và bên ngoài, mâu thuẫn chủ yếu và thứ yếu...

b. Quá trình vận động của mâu thuẫn

* Trong mỗi mâu thuẫn của các mặt đối lập vừa thống nhất, vừa đấu tranh với nhau:
- Khái niệm thống nhất của các mặt đối lập dùng để chỉ sự liên hệ, nương tựa, ràng buộc,
làm tiền đề tồn tại cho nhau của các mặt đối lập. Sự thống nhất của các mặt đối lập bao hàm sự
đồng nhất của nó.
- Khái niệm đấu tranh của các mặt đối lập dùng để chỉ khuynh hướng tác động qua lại, bài
trừ, phủ định nhau của các mặt đối lập.
- Trong sự thống nhất, đấu tranh của các mặt đối lập, thì sự đấu tranh giữa chúng là tuyệt
đối nói lên sự vận động tuyệt đối của sự vật; còn sự thống nhất của các mặt đối lập là tương đối.
* Quá trình vận động và phát triển của mâu thuẫn:
- Khi mới xuất hiện, mâu thuẫn biểu hiện ở sự khác biệt giữa hai thuộc tính, hai yếu tố nào
đó và dần dần phát triển thành hai mặt đối lập. Hai mặt đối lập đó tồn tại trong cùng một sự vật,
vừa thống nhất, vừa đấu tranh với nhau.
- Sự vật phát triển, sự khác nhau của hai mặt đối lập phát triển thành sự đối lập.
- Khi hai mặt đối lập của mâu thuẫn xung đột với nhau gay gắt và nếu gặp điều kiện thích
hợp thì mâu thuẫn sẽ được giải quyết làm cho sự vật cũ mất đi, sự vật mới ra đời.
- Sự vật mới ra đời lại nảy sinh mâu thuẫn mới và quá trình tác động, chuyển hóa của mâu
thuẫn mới lại tiếp diễn. Bởi vậy, sự liên hệ, tác động, chuyển hóa lẫn nhau giữa hai mặt đối lập
là nguồn gốc, động lực của sự vận động, phát triển.

c. Ý nghĩa phương pháp luận


- Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, chúng ta phải biết phát hiện ra mâu thuẫn, tôn
trọng mâu thuẫn, nắm được bản chất, nguồn gốc và khuynh hướng vận động, phát triển của sự
vật để từ đó đưa ra được những đường lối, chủ trương, biện pháp phù hợp đối với việc cải tạo,
biến đổi sự vật.
- Việc giải quyết mâu thuẫn phải có quan điểm lịch sử - cụ thể, tức là phải xác định được vị
trí, vai trò của từng loại mâu thuẫn để có biện pháp giải quyết cụ thể với yêu cầu của hoạt động
nhận thức và thực tiễn.

2.3.3. Quy luật phủ định của phủ định


Quy luật này chỉ ra xu hướng của sự vận động, phát triển của sự vật.

28
a. Khái niệm phủ định biện chứng và những đặc trưng cơ bản của nó
* Khái niệm phủ định:
- Phủ định là sự thay thế sự vật này bằng sự vật khác trong quá trình vận động, phát triển
của thế giới.
* Khái niệm phủ định biện chứng:
- Khái niệm phủ định biện chứng dùng để chỉ sự phủ định tự thân tạo tiền đề cho sự ra đời
của cái mới thay thế cái cũ.
*Đặc trưng của phủ định biện chứng:
+ Tính khách quan: Sự phủ định được thực hiện do việc giải quyết mâu thuẫn vốn có bên
trong sự vật quy định, hoàn toàn không phụ thuộc ý muốn chủ quan của con người.
+ Tính kế thừa: Phủ định biện chứng kế thừa có chọn lọc những tinh hoa, nhân tố tích cực,
tiến bộ của sự vật cũ và lọc bỏ những yếu tố tiêu cực, bảo thủ, lạc hậu.
+ Tính chất chu kỳ theo hình thức “xoáy ốc”:
Biểu hiện của tính chất chu kỳ: Trong sự vận động vĩnh viễn của thế giới vật chất, phủ
định biện chứng là một quá trình vô tận, tạo nên khuynh hướng phát triển của sự vật từ trình độ
thấp đến trình độ cao hơn, diễn ra có tính chất chu kỳ theo hình thức “xoáy ốc”.
Biểu hiện của tính chất “xoáy ốc”: Trong chuỗi phủ định tạo nên quá trình phát triển của
sự vật, mỗi lần phủ định biện chứng đều tạo ra những tiền đề, điều kiện cho sự phát triển tiếp
theo của nó. Trải qua nhiều lần phủ định, tức “phủ định của phủ định” sẽ dẫn đến kết quả là sự
vật vận động, phát triển theo chiều hướng ngày càng hoàn thiện hơn.
Mỗi chu kỳ phát triển của sự vật thường trải qua hai lần phủ định cơ bản với ba hình thái
tồn tại chủ yếu của nó. Trong đó, hình thái cuối cùng dường như lặp lại hình thái ban đầu nhưng
trên cơ sở cao hơn về trình độ phát triển.
b. Khái quát nội dung quy luật:
Phủ định của phủ định khái quát khuynh hướng phát triển phổ biến của sự vật, hiện tượng
không diễn ra theo đường thẳng mà theo đường “xoáy ốc”. Đường “xoáy ốc” diễn tả tính chất
biện chứng của sự phát triển đó là tính lặp lại, tính kế thừa và tính tiến lên. Mỗi vòng khâu mới
của đường xoáy ốc dường như lặp lại, nhưng với trình độ cao hơn. Sự nối tiếp của các vòng
khâu đó phản ánh quá trình phát triển vô tận từ thấp đến cao của thế giới.

c. Ý nghĩa phương pháp luận

- Quy luật phủ định của phủ định là cơ sở khoa học giúp chúng ta nhận thức đúng đắn về xu
hướng phát triển của sự vật, hiện tượng. Quá trình phát triển đó không diễn ra theo đường thẳng
mà trải qua nhiều lần phủ định quanh co, phức tạp, nhất là trong lĩnh vực xã hội.
- Để cái mới ra đời thay thế cái cũ theo đúng quy luật của nó, chúng ta phải nhận dạng được
cái mới, ủng hộ cái mới và quan trọng hơn là tạo điều kiện cho cái mới phát triển. Để thực hiện
được điều này cũng cần khắc phục tư tưởng giáo điều, bảo thủ, kìm hãm sự ra đời, phát triển

29
của cái mới.
- Phải có quan điểm biện chứng trong quá trình kế thừa của sự phát triển. Chúng ta không
phủ định hoàn toàn nhưng cũng không kế thừa nguyên xi cái cũ mà chỉ kế thừa những nhân tố
tích cực, tiến bộ, hợp lý của cái cũ, phù hợp với sự phát triển của cái mới.

III- LÝ LUẬN NHẬN THỨC

1. Các nguyên tắc của lý luận nhận thức duy vật biện chứng

- Lý luận nhận thức duy vật biện chứng được xây dựng dựa trên các nguyên tắc cơ bản:
Một là, thừa nhận thế giới vật chất tồn tại khách quan, độc lập với ý thức của con người.
Hai là, thừa nhận con người có khả năng nhận thức thế giới khách quan.
Ba là, khẳng định sự phản ánh đó là một quá trình biện chứng, tích cực, tự giác và sáng tạo.
Bốn là, coi thực tiễn là cơ sở chủ yếu và trực tiếp nhất của nhận thức, là động lực, mục đích
của nhận thức và là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý.
2. Nguồn gốc, bản chất của nhận thức
- Chủ nghĩa duy vật biện chứng thừa nhận sự tồn tại khách quan của thế giới và coi thế giới
khách quan là đối tượng của nhận thức. Thế giới vật chất tồn tại khách quan độc lập với ý thức
con người là nguồn gốc duy nhất và cuối cùng của nhận thức.
- Nhận thức là một quá trình phản ánh tích cực, tự giác và sáng tạo thế giới khách quan vào
bộ óc con người trên cơ sở thực tiễn, nhằm tạo ra tri thức về thế giới khách quan.
- Nhận thức là một quá trình biện chứng có vận động và phát triển. Đó là quá trình đi từ
chưa biết đến biết, từ biết ít đến biết nhiều, từ biết chưa đầy đủ đến đầy đủ hơn.
- Nhận thức là quá trình tác động biện chứng giữa chủ thể nhận thức trên cơ sở hoạt động
thực tiễn của con người.

3. Thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức

3.1. Phạm trù thực tiễn

- Định nghĩa: Thực tiễn là toàn bộ hoạt động vật chất - cảm tính, tính lịch sử - xã hội của
con người nhằm cải tạo tự nhiên và xã hộiphục vụ nhân loại tiến bộ.
Khác với hoạt động tư duy, trong hoạt động thực tiễn, con người sử dụng những công cụ
vật chất tác động vào những đối tượng vật chất làm biến đổi chúng theo mục đích của mình.
- Các tính chất cơ bản của thực tiễn:
+ Tính khách quan: thực tiễn là hoạt động vật chất hướng đến cải tạo thế giới khách quan vì
sự sinh tồn và phát triển của xã hội loài người.
+ Tính mục đích: thực tiễn là hoạt động có ý thức, có tính mục đích, khác với hoạt động
mang tính bản năng của loài vật.
+ Tính lịch sử - xã hội: thực tiễn không bất biến mà luôn biến đổi theo từng thời kỳ lịch sử.

30
- Các hình thức cơ bản của thực tiễn:
Hoạt động thực tiễn rất đa dạng và có nhiều hình thức phong phú, song có ba hình thức cơ
bản là:
+ Hoạt động sản xuất vật chất: là hình thức hoạt động cơ bản, đầu tiên của thực tiễn. Đây là
hoạt động mà trong đó con người sử dụng những công cụ lao động tác động vào tự nhiên để tạo
ra của cải vật chất nhằm duy trì sự tồn tại và phát triển của mình.
+ Hoạt động chính trị - xã hội: là hoạt động của các tổ chức cộng đồng người khác nhau
trong xã hội nhằm cải biến những mối quan hệ xã hội để thúc đẩy xã hội phát triển.
+ Hoạt động thực nghiệm khoa học: là một hình thức đặc biệt của thực tiễn. Đây là hoạt
động được tiến hành trong những điều kiện do con người tạo ra gần giống, giống hoặc lặp lại
trạng thái của tự nhiên và xã hội nhằm xác định các quy luật biến đổi và phát triển của đối tượng
nghiên cứu.
Mỗi hình thức hoạt động cơ bản của thực tiễn có chức năng khác nhau, song chúng có mối
quan hệ chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau. Trong mối quan hệ đó, hoạt động sản xuất vật chất
là loại hoạt động có vai trò quyết định đối với các loại hoạt động thực tiễn khác.

3.2. Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức

* Trong mối quan hệ với nhận thức, thực tiễn có vai trò như sau:
- Thực tiễn là cơ sở của nhận thức:
+ Nhận thức ngay từ đầu đều xuất phát từ thực tiễn, từ nhu cầu tồn tại và phát triển của con
người.
+ Thông qua hoạt động thực tiễn, thế giới khách quan bộc lộ những thuộc tính là cơ sở dữ
liệu cho hoạt động nhận thức.
+ Thông qua hoạt động thực tiễn, con người tạo ra những công cụ ngày càng tinh vi giúp
nối dài khí quan vật chất của con người, giúp con người nhận thức thế giới sâu sắc hơn.
- Thực tiễn là động lực của nhận thức: Thực tiễn luôn biến đổi, luôn đặt ra những yêu cầu,
nhiệm vụ mới cần được nhận thức và giải quyết.
- Thực tiễn là mục đích của nhận thức: Mục đích cuối cùng của nhận thức là quay trở về
phục vụ thực tiễn, định hướng và chỉ đạo thực tiễn.
- Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý:
Thực tiễn đóng vai trò là tiêu chuẩn, thước đo giá trị của những tri thức đã đạt được trong
nhận thức, từ đó bổ sung, điều chỉnh, sửa chữa, phát triển và hoàn thiện nhận thức. Nhận thức
của con người phải được kiểm tra trong thực tiễn, nếu chưa hoàn thiện thì bổ sung, nếu sai lầm
thì bác bỏ. Trong thực tiễn con người phải chứng minh chân lý.
* Ý nghĩa phương pháp luận:
Phải luôn quán triệt quan điểm thực tiễn. Quan điểm thực tiễn yêu cầu việc nhận thức phải
xuất phát từ thực tiễn, dựa trên cơ sở thực tiễn, phải coi trọng công tác tổng kết thực tiễn. Việc
nghiên cứu lý luận phải liên hệ với thực tiễn, học đi đôi với hành. Nếu xa rời thực tiễn sẽ dẫn

31
đến sai lầm của bệnh chủ quan, duy ý chí, ngược lại, nếu tuyệt đối hóa vai trò của thực tiễn sẽ
rơi vào chủ nghĩa kinh nghiệm.

4. Các giai đoạn cơ bản của quá trình nhận thức

Nhận thức là một quá trình, trải qua hai giai đoạn: đi từ nhận thức cảm tính (trực quan sinh
động) đến nhận thức lý tính (tư duy trừu tượng):
- Nhận thức cảm tính là giai đoạn đầu tiên của quá trình nhận thức. Đó là giai đoạn con
người nhận thức khách thể trực tiếp bằng các giác quan.
Nhận thức cảm tính gồm 3 hình thức cơ bản từ thấp đến cao: cảm giác, tri giác, biểu tượng.
+ Cảm giác là sự phản ánh những thuộc tính riêng lẻ của sự vật, hiện tượng khi chúng trực
tiếp tác động lên các giác quan của con người.
+ Tri giác là hình ảnh tương đối toàn vẹn về sự vật khi sự vật đó đang trực tiếp tác động lên
các giác quan. Tri giác nảy sinh dựa trên cơ sở của cảm giác, là sự tổng hợp của nhiều cảm giác.
+ Biểu tượng là hình thức phản ánh cao nhất và phức tạp nhất của giai đoạn nhận thức
cảm tính. Đó là hình ảnh cảm tính và tương đối hoàn chỉnh còn lưu lại trong bộ óc người về
sự vật khi sự vật đó không còn trực tiếp tác động vào các giác quan.
- Nhận thức lý tính là giai đoạn cao hơn của quá trình nhận thức. Đó là sự phản ánh gián
tiếp, trừu tượng và khái quát những thuộc tính, những đặc điểm bản chất của sự vật khách quan.
Nhận thức lý tính gồm 3 hình thức cơ bản đi từ thấp đến cao như sau: khái niệm, phán
đoán, suy luận.
+ Khái niệm là hình thức đầu tiên của nhận thức lý tính, phản ánh những đặc tính bản chất
của sự vật.
+ Phán đoán là hình thức của tư duy liên kết các khái niệm lại với nhau để khẳng định hoặc
phủ định một đặc điểm, một thuộc tính nào đó của đối tượng.
+ Suy luận là hình thức của tư duy liên kết các phán đoán lại với nhau để rút ra tri thức mới.
- Mối quan hệ giữa nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính:
Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính là hai giai đoạn phản ánh hai trình độ khác nhau
của quá trình nhận thức nhưng có mối quan hệ qua lại gắn bó với nhau, nhận thức cảm tính là cơ
sở của nhận thức lý tính, nhận thức lý tính định hướng cho nhận thức cảm tính.
Tuy nhiên, quá trình nhận thức không kết thúc ở nhận thức lý tính mà phải quay trở về
thực tiễn để phục vụ thực tiễn và kiểm tra tính đúng đắn của mình. Như vậy, thực tiễn vừa
là điểm khởi đầu vừa là điểm kết thúc của một chu kỳ nhận thức.

2.2. Chân lý và vai trò của chân lý đối với thực tiễn
- Chân lý là những tri thức có nội dung phù hợp với hiện thực khách quan đã được thực tiễn
kiểm nghiệm.
- Các tính chất của chân lý:
+ Tính khách quan: nội dung của chân lý phản ánh hiện thực khách quan, không phụ thuộc

32
vào ý muốn chủ quan của con người.
+ Tính tuyệt đối và tính tương đối: tính tuyệt đối và tính tương đối phụ thuộc vào khả năng
nhận thức của con người. Việc phân biệt chân lý tuyệt đối hay chân lý tương đối cần dựa trên
quan điểm lịch sử - cụ thể.
+ Tính cụ thể: không có chân lý trừu tượng, chân lý luôn mang tính cụ thể.
- Vai trò của chân lý với thực tiễn:
+ Hoạt động thực tiễn chỉ có thể thành công và hiệu quả khi con người vận dụng những tri
thức đúng đắn về thực tiễn khách quan trong chính hoạt động thực tiễn của mình.
+ Mối quan hệ giữa chân lý và hoạt động thực tiễn là mối quan hệ song trùng, chân lý
phát triển được nhờ thực tiễn và thực tiễn phát triển được nhờ vận dụng đúng đắn những
chân lý mà con người đã đạt được trong hoạt động thực tiễn.

Chương 3

CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ

A- LÝ THUYẾT

I- HỌC THUYẾT HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI

1. Sản xuất vật chất là cơ sở của sự tồn tại và phát triển xã hội
- Sản xuất là hoạt động không ngừng sáng tạo ra giá trị vật chất và tinh thần nhằm mục đích
thoả mãn nhu cầu tồn tại và phát triển của con người.
- Sự sản xuất xã hội, tức là sản xuất và tái sản xuất ra đời sống hiện thực, bao gồm ba ph-
ương diện không tách rời nhau là sản xuất vật chất, sản xuất tinh thần và sản xuất ra bản thân
con người.
+ Sản xuất vật chất là quá trình mà trong đó con người sử dụng công cụ lao động tác động
trực tiếp hoặc gián tiếp vào tự nhiên, cải biến các dạng vật chất của giới tự nhiên để tạo ra của
cải xã hội, nhằm thoả mãn nhu cầu tồn tại và phát triển của con người.
+ Sản xuất tinh thần là hoạt động sáng tạo ra các giá trị tinh thần nhằm thỏa mãn nhu cầu
tồn tại và phát triển của con người và xã hội.
+ Sự sản xuất ra bản thân con người ở phạm vi cá nhân, gia đình là việc sinh đẻ và nuôi dạy

33
con cái để duy trì nòi giống; ở phạm vi xã hội là sự tăng trưởng dân số, phát triển con người với
tính cách là thực thể sinh học - xã hội.
- Sản xuất vật chất là cơ sở, nền tảng của sự tồn tại và phát triển xã hội loài người. Điều
này được biểu hiện qua những khía cạnh sau:
+ Sản xuất vật chất là tiền đề trực tiếp tạo ra “tư liệu sinh hoạt của con người” nhằm duy trì
sự tồn tại và phát triển của con người nói chung cũng như từng cá thể người nói riêng.
+ Hoạt động sản xuất vật chất là cơ sở hình thành nên tất cả các hình thức quan hệ xã hội
khác.
+ Sản xuất vật chất là điều kiện chủ yếu sáng tạo ra bản thân con người. Nhờ hoạt động sản
xuất vật chất mà con người hình thành nên ngôn ngữ, nhận thức, tư duy, tình cảm, đạo đức...
Sản xuất vật chất là điều kiện cơ bản, quyết định nhất đối với sự hình thành, phát triển phẩm
chất xã hội của con người.
Sản xuất vật chất là cơ sở của sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người, và xét đến cùng
quyết định toàn bộ sự vận động, phát triển của đời sống xã hội.

2. Biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất

2.1. Phương thức sản xuất

Phương thức sản xuất là cách thức con người thực hiện quá trình sản xuất vật chất ở những
giai đoạn lịch sử nhất định của xã hội loài người. Phương thức sản xuất là sự thống nhất giữa
lực lượng sản xuất với một trình độ nhất định và quan hệ sản xuất tương ứng.

a. Lực lượng sản xuất

- Khái niệm: Lực lượng sản xuất là sự kết hợp giữa người lao động với tư liệu sản xuất, tạo
ra sức sản xuất và năng lực thực tiễn làm biến đổi các đối tượng vật chất của giới tự nhiên theo
nhu cầu nhất định của con người và xã hội.
- Cấu trúc của lực lượng sản xuất:
+ Người lao động là con người có tri thức, kinh nghiệm, kỹ năng lao động và năng lực sáng
tạo nhất định trong quá trình sản xuất của xã hội. Người lao động là chủ thể sáng tạo, đồng thời
là chủ thể tiêu dùng mọi của cải vật chất xã hội.
+ Tư liệu sản xuất là điều kiện vật chất cần thiết để tổ chức sản xuất, bao gồm tư liệu lao
động và đối tượng lao động.
Đối tượng lao động là những yếu tố vật chất của sản xuất mà lao động con người dùng tư
liệu lao động tác động lên, nhằm biến đổi chúng cho phù hợp với mục đích sử dụng của con
người.
Tư liệu lao động là những yếu tố vật chất của sản xuất mà con người dựa vào đó để tác
động lên đối tượng lao động nhằm biến đổi đối tượng lao động thành sản phẩm đáp ứng yêu cầu
sản xuất của con người. Tư liệu lao động gồm công cụ lao động và phương tiện lao động.

34
Phương tiện lao động là những yếu tố vật chất của sản xuất, cùng với công cụ lao động mà
con người sử dụng để tác động lên đối tượng lao động trong quá trình sản xuất.
Công cụ lao động là những phương tiện vật chất mà con người trực tiếp sử dụng để tác
động vào đối tượng lao động nhằm biến đổi chúng tạo ra của cải vật chất phục vụ nhu cầu con
người và xã hội.
- Đặc trưng chủ yếu của lực lượng sản xuất là mối quan hệ giữa người lao động và công
cụ lao động, trong đó, người lao động là nhân tố hàng đầu giữ vai trò quyết định.
- Sự phát triển của lực lượng sản xuất là sự phát triển ở cả tính chất và trình độ:
+ Tính chất của lực lượng sản xuất nói lên tính chất cá nhân hoặc tính chất xã hội hóa trong
việc sử dụng tư liệu sản xuất.
+ Trình độ của lực lượng sản xuất là sự phát triển của người lao động và công cụ lao động.
Trình độ của lực lượng sản xuất được thể hiện ở: (1) Trình độ của công cụ lao động; (2) Trình
độ tổ chức lao động xã hội; (3) Trình độ ứng dụng khoa học vào sản xuất; (4) Trình độ, kinh
nghiệm, kỹ năng của người lao động; (5) Trình độ phân công lao động xã hội.

b. Quan hệ sản xuất

- Khái niệm: Quan hệ sản xuất là tổng hợp các quan hệ kinh tế - vật chất giữa người với
người trong quá trình sản xuất vật chất.
- Kết cấu của quan hệ sản xuất:
+ Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất là quan hệ giữa các tập đoàn người trong việc chiếm
hữu, sử dụng các tư liệu sản xuất xã hội.
+ Quan hệ về tổ chức quản lý sản xuất là quan hệ giữa các tập đoàn người trong việc tổ
chức sản xuất và phân công lao động.
+ Quan hệ phân phối sản phẩm lao động là quan hệ giữa các tập đoàn người trong việc
phân phối sản phẩm lao động xã hội, nói lên cách thức và quy mô của cải vật chất mà các tập
đoàn người được hưởng.
- Quan hệ sản xuất hình thành một cách khách quan, là quan hệ đầu tiên, cơ bản chủ yếu,
quy định mọi quan hệ xã hội.

2.2. Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất

Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của một phương thức sản xuất có tác
động biện chứng, trong đó lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất, quan hệ sản xuất tác
động trở lại to lớn đối với lực lượng sản xuất. Tương tác giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất tạo thành quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Đây là quy luật cơ bản nhất của sự vận động và phát triển xã hội.

a. Vai trò quyết định của lực lượng sản xuất đối với quan hệ sản xuất

- Lực lượng sản xuất giữ vai trò quyết định quan hệ sản xuất bởi vì:

35
+ Lực lượng sản xuất là nội dung của phương thức sản xuất, vì vậy lực lượng sản xuất
quyết định quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của nó.
+ Lực lượng sản xuất là yếu tố động nhất và cách mạng nhất, còn quan hệ sản xuất là yếu tố
tương đối ổn định, có khuynh hướng lạc hậu hơn so với sự phát triển của lực lượng sản xuất.
- Vai trò quyết định của lực lượng sản xuất đối với quan hệ sản xuất được biểu hiện:
+ Lực lượng sản xuất nào thì quan hệ sản xuất ấy. Quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất.
+ Lực lượng sản xuất biến đổi thì quan hệ sản xuất cũng biến đổi theo. Lực lượng sản xuất
vận động, phát triển không ngừng sẽ mâu thuẫn với tính “đứng im” tương đối của quan hệ sản
xuất. Quan hệ sản xuất từ chỗ là “hình thức phù hợp”, “tạo địa bàn” phát triển của lực l ượng sản
xuất trở thành “xiềng xích” kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Đòi hỏi tất yếu của
nền sản xuất là phải xóa bỏ quan hệ sản xuất cũ, thiết lập quan hệ sản xuất mới phù hợp với
trình độ của lực lượng sản xuất đã phát triển.

b. Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất

- Quan hệ sản xuất có thể tác động trở lại lực lượng sản xuất bởi:
+ Quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của lực lượng sản xuất, có tính độc lập tương đối
với lực lượng sản xuất.
+ Quan hệ sản xuất quy định mục đích sản xuất, tác động đến thái độ người lao động, đến
tổ chức phân công lao động xã hội, v.v., nên nó tác động đến sự phát triển của lực lượng sản
xuất.
- Biểu hiện sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đến lực lượng sản xuất:
+ Nếu quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất thì nó sẽ
thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Sự phù hợpcủa quan hệ sản xuất với lực lượng sản
xuất là trạng thái trong đó quan hệ sản xuất là “hình thức phát triển” của lực lượng sản xuất
và “tạo địa bàn đầy đủ” cho lực lượng sản xuất phát triển.
+ Ngược lại, nếu quan hệ sản xuất không phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất thì nó sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất lỗi thời,
lạc hậu hay phát triển trước lực lượng sản xuất đều là không phù hợp.
+ Việc giải quyết mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất phải thông qua
nhận thức và cải tạo xã hội của con người, trong xã hội có giai cấp thì phải thông qua đấu tranh
giai cấp và cách mạng xã hội.

c. Ý nghĩa của quy luật


- Muốn phát triển kinh tế phải bắt đầu từ phát triển lực lượng sản xuất, trước hết là phát
triển lực lượng lao động và công cụ lao động.
- Muốn xóa bỏ một quan hệ sản xuất cũ, thiết lập một quan hệ sản xuất mới phải căn cứ từ
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Việc xóa bỏ một quan hệ sản xuất không được tùy

36
tiện, chủ quan, duy tâm, duy ý chí mà phải từ tính tất yếu kinh tế, yêu cầu khách quan của quy
luật kinh tế.
- Nhận thức đúng đắn quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất có ý nghĩa rất quan trọng trong quán triệt, vận dụng quan điểm, đ ường lối, chính
sách của Đảng, là cơ sở khoa học để nhận thức sâu sắc sự đổi mới tư duy kinh tế của Đảng
Cộng sản Việt Nam.

3. Biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của xã hội

3.1. Khái niệm cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng

a. Cơ sở hạ tầng

- Khái niệm: Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những quan hệ sản xuất của một xã hội trong sự vận
động hiện thực của chúng hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội đó.
- Cấu trúc của cơ sở hạ tầng bao gồm: quan hệ sản xuất thống trị, quan hệ sản xuất tàn dư,
quan hệ sản xuất mầm mống. Trong đó, quan hệ sản xuất thống trị đặc trưng cho cơ sở hạ tầng
của xã hội đó.

b. Kiến trúc thượng tầng


- Khái niệm: Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm, tư tưởng xã hội với những
thiết chế xã hội tương ứng cùng những quan hệ nội tại của thượng tầng hình thành trên một cơ
sở hạ tầng nhất định.
- Cấu trúc của kiến trúc thượng tầng bao gồm toàn bộ những quan điểm tư tưởng về chính
trị, pháp quyền, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật, triết học... cùng những thiết chế xã hội tương ứng
như nhà nước, đảng phái, giáo hội, các đoàn thể và tổ chức xã hội khác.
- Các yếu tố của kiến trúc thượng tầng có đặc điểm riêng, có quy luật vận động và phát
triển riêng nhưng chúng liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau và đều được hình thành từ cơ sở hạ
tầng.
- Trong kiến trúc thượng tầng, các yếu tố như chính trị, pháp lý có mối liên hệ trực tiếp với
cơ sở hạ tầng, còn các yếu tố khác như triết học, nghệ thuật, tôn giáo, đạo đức, v.v. có liên hệ
gián tiếp với cơ sở hạ tầng sinh ra nó.
- Trong xã hội có giai cấp, kiến trúc thượng tầng cũng mang tính chất đối kháng.
- Bộ phận có quyền lực mạnh nhất trong kiến trúc thượng tầng của xã hội có đối kháng giai
cấp là nhà nước - công cụ quyền lực chính trị đặc biệt của giai cấp thống trị.

3.2. Quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng

Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là một quy luật cơ bản
của sự vận động phát triển lịch sử xã hội. Trong mối quan hệ này, cơ sở hạ tầng quyết định kiến
trúc thượng tầng còn kiến trúc thượng tầng tác động trở lại to lớn, mạnh mẽ đối với cơ sở hạ
tầng.

37
a. Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng

- Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng là dựa trên cơ sở: Quan hệ vật chất quyết
định quan hệ tinh thần; tính tất yếu kinh tế xét đến cùng quyết định tính tất yếu chính trị - xã
hội. Kiến trúc thượng tầng được hình thành từ cơ sở hạ tầng. Mọi hiện tượng của kiến trúc
thượng tầng đều do nguyên nhân sâu xa nằm trong cơ cấu kinh tế gây ra.
- Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng biểu hiện:
+ Cơ sở hạ tầng quyết định sự ra đời (nguồn gốc) của kiến trúc thượng tầng. Mỗi cơ sở hạ
tầng sẽ hình thành nên một kiến trúc thượng tầng tương ứng.
+ Cơ sở hạ tầng như thế nào thì cơ cấu, tính chất của kiến trúc thượng tầng là như thế
ấy. Nếu cơ sở hạ tầng có đối kháng hay không đối kháng, thì kiến trúc thượng tầng của nó
cũng có tính chất như vậy. Trong xã hội có giai cấp, giai cấp nào thống trị về kinh tế cũng
chiếm địa vị thống trị về chính trị. Mâu thuẫn trong lĩnh vực kinh tế quyết định tính chất
mâu thuẫn trong lĩnh vực tư tưởng của xã hội.
+ Cơ sở hạ tầng quyết định sự vận động phát triển của kiến trúc thượng tầng. Những biến
đổi căn bản của cơ sở hạ tầng sớm hay muộn sẽ dẫn đến sự biến đổi căn bản trong kiến trúc
thượng tầng. Sự thay đổi đó không phải chỉ diễn ra từ hình thái kinh tế - xã hội này sang hình
thái kinh tế - xã hội khác mà còn diễn ra ngay trong chính một hình thái kinh tế - xã hội.
+ Sự thay đổi cơ sở hạ tầng dẫn đến thay đổi kiến trúc thượng tầng diễn ra phức tạp. Khi cơ
sở hạ tầng thay đổi, những yếu tố của kiến trúc thượng tầng thay đổi nhanh chóng như chính trị,
pháp luật, v.v., nhưng cũng có những yếu tố thay đổi chậm như nghệ thuật, tôn giáo, v.v.

b. Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng

- Sở dĩ kiến trúc thượng tầng lại tác động trở lại đối với cơ sở hạ tầng là vì: Kiến trúc
thượng tầng có tính độc lập tương đối so với cơ sở hạ tầng. Vai trò của kiến trúc thượng tầng
chính là vai trò tích cực, tự giác của ý thức, tư tưởng. Vai trò của kiến trúc thượng tầng còn do
sức mạnh vật chất của bộ máy tổ chức - thể chế luôn có tác động một cách mạnh mẽ trở lại cơ
sở hạ tầng.
- Kiến trúc thượng tầng tác động trở lại đối với cơ sở hạ tầng được biểu hiện:
+ Kiến trúc thượng tầng củng cố, hoàn thiện và bảo vệ cơ sở hạ tầng sinh ra nó; ngăn chặn
cơ sở hạ tầng mới, đấu tranh xóa bỏ tàn dư cơ sở hạ tầng cũ; định hướng, tổ chức, xây dựng chế
độ kinh tế của kiến trúc thượng tầng. Thực chất vai trò kiến trúc thượng tầng là vai trò bảo vệ
duy trì, củng cố lợi ích kinh tế của giai cấp thống trị xã hội.
+ Kiến trúc thượng tầng tác động trở lại cơ sở hạ tầng theo hai chiều hướng. Khi kiến trúc
thượng tầng phản ánh đúng tính tất yếu kinh tế, các quy luật kinh tế khách quan sẽ thúc đẩy kinh
tế phát triển. Và ngược lại, khi kiến trúc thượng tầng không phản ánh đúng tính tất yếu kinh tế,
các quy luật kinh tế khách quan thì sẽ kìm hãm sự phát triển của kinh tế và đời sống xã hội.

38
c. Ý nghĩa của quy luật

- Quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là cơ sở
khoa học cho việc nhận thức một cách đúng đắn mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị. Kinh tế
và chính trị tác động biện chứng, trong đó kinh tế quyết định chính trị, chính trị tác động trở lại
to lớn, mạnh mẽ đối với kinh tế.
- Trong nhận thức và thực tiễn nếu tách rời hoặc tuyệt đối hoá một yếu tố nào giữa kinh tế
và chính trị đều là sai lầm.

4. Sự phát triển các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên

4.1. Phạm trù hình thái kinh tế - xã hội

- Khái niệm: Hình thái kinh tế - xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử dùng
để chỉ xã hội ở từng nấc thang lịch sử nhất định với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã
hội đó, phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất và với một kiến trúc thượng
tầng tương ứng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất ấy.
- Kết cấu phổ biến của một hình thái kinh tế - xã hội bao gồm: (1) Lực lượng sản xuất; (2)
Quan hệ sản xuất (tổng hợp quan hệ sản xuất tạo thành cơ sở hạ tầng); (3) Kiến trúc thượng
tầng.
+ Lực lượng sản xuất là nền tảng vật chất của xã hội, tiêu chuẩn khách quan để phân biệt
các thời đại kinh tế khác nhau, yếu tố xét đến cùng quyết định sự vận động, phát triển của hình
thái kinh tế - xã hội.
+ Quan hệ sản xuất là quan hệ khách quan, cơ bản, chi phối và quyết định mọi quan hệ xã
hội, đồng thời là tiêu chuẩn quan trọng nhất để phân biệt bản chất các chế độ xã hội khác nhau.
+ Kiến trúc thượng tầng là sự thể hiện các mối quan hệ giữa người với người trong lĩnh vực
tinh thần, tiêu biểu cho bộ mặt tinh thần của đời sống xã hội.

4.2. Tiến trình lịch sử - tự nhiên của xã hội loài người

- Ba yếu tố cơ bản: lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tác động
biện chứng, tạo nên sự vậnđộng phát triển của lịch sử xã hội, thông qua sự tác động tổng hợp
của hai quy luật cơ bản là quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực l ượng sản xuất
và quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của xã hội.
- Sự vận động phát triển của xã hội bắt đầu từ sự phát triển của lực lượng sản xuất mà trước
hết là sự biến đổi, phát triển của công cụ sản xuất và sự phát triển về tri thức, kinh nghiệm, kỹ
năng của người lao động. Mỗi sự phát triển của lực lượng sản xuất đều tạo khả năng, điều kiện
và đặt ra yêu cầu khách quan cho sự biến đổi của quan hệ sản xuất.
Khi lực lượng sản xuất phát triển về chất, đòi hỏi phải xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ, thiết lập
quan hệ sản xuất mới về chất. Sự phát triển về chất của quan hệ sản xuất, tất yếu dẫn đến sự
thay đổi về chất của cơ sở hạ tầng xã hội. Khi cơ sở hạ tầng xã hội biến đổi về chất dẫn đến sự

39
biến đổi, phát triển căn bản (nhanh, chậm, ít, nhiều) của kiến trúc thượng tầng xã hội. Hình thái
kinh tế - xã hội cũ mất đi, hình thái kinh tế - xã hội mới, tiến bộ hơn ra đời.
Cứ như vậy, lịch sử xã hội loài người là một tiến trình nối tiếp nhau từ thấp đến cao của các
hình thái kinh tế - xã hội cộng sản nguyên thủy - chiếm hữu nô lệ - phong kiến - tư bản chủ
nghĩa - xã hội chủ nghĩa. Trong đó, thống nhất giữa quy luật chung cơ bản phổ biến với quy luật
đặc thù và quy luật riêng của lịch sử.
- Sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên. Tiến
trình lịch sử - tự nhiên của xã hội loài người là sự thống nhất giữa lôgíc và lịch sử, bao hàm cả
sự phát triển tuần tự đối với lịch sử phát triển toàn thế giới và sự phát triển “bỏ qua” một hay
vài hình thái kinh tế - xã hội đối với một số quốc gia, dân tộc cụ thể.
- Hình thái kinh tế - xã hội cộng chủ nghĩa ra đời là tất yếu khách quan của lịch sử xã hội.

4.3. Giá trị khoa học bền vững và ý nghĩa cách mạng

- Lý luận hình thái kinh tế - xã hội ra đời đem lại một cuộc cách mạng trong toàn bộ quan
niệm về lịch sử xã hội. Lý luận hình thái kinh tế - xã hội đã giải quyết một cách khoa học về
vấn đề phân loại các chế độ xã hội và phân kỳ lịch sử, thay thế các quan niệm duy tâm, siêu
hình trước đó đã thống trị trong khoa học xã hội; chỉ ra động lực phát triển của lịch sử xã hội
là do hoạt động thực tiễn của con người, trước hết là thực tiễn sản xuất vật chất dưới sự tác
động của các quy luật khách quan.
- Muốn nhận thức và cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới phải nhận thức và tác động cả
ba yếu tố cơ bản: lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất (cơ sở hạ tầng) và kiến trúc thượng tầng.
Xem nhẹ hoặc tuyệt đối hoá một yếu tố nào cũng sai lầm, xét đến cùng sự là bắt đầu từ việc xây
dựng, phát triển lực lượng sản xuất.
- Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội là cơ sở khoa học cho việc xác định con đường phát
triển của nước ta, đó là quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa.
- Con đường phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt
Nam là phù hợp với tính quy luật của việc “bỏ qua” một hay vài hình thái kinh tế - xã hội trong
sự phát triển lịch sử và phù hợp với quy luật phát triển rút ngắn trong lịch sử loài ngư ời. Bản
chất của sự phát triển rút ngắn xã hội làrút ngắn các giai đoạn, các bước đi của nền văn minh
loài người, cốt lõi là sự tăng trưởng nhảy vọt của lực lượng sản xuất.
- Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội là cơ sở lý luận, phương pháp luận khoa học trong
quán triệt quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Học thuyết hình thái kinh tế - xã hộilà cơ sở lý luận, phương pháp luận khoa học và
cách mạng trong đấu tranh bác bỏ những quan điểm thù địch, sai trái về xã hội.
- Nghiên cứu lý luận hình thái kinh tế - xã hội có ý nghĩa rất quan trọng đối với nâng cao
nhận thức về bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, quán triệt sâu sắc
đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, củng cố niềm tin, lý tư ởng cách mạng, kiên
định con đường chủ nghĩa xã hội của nước ta. Đây cũng là cơ sở khoa học và cách mạng trong

40
cuộc đấu tranh tư tưởng chống lại các quan điểm sai lầm, phản động hòng phủ nhận mục tiêu, lý
tưởng, phủ nhận con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

II- GIAI CẤP VÀ DÂN TỘC

1. Giai cấp và đấu tranh giai cấp

1.1. Giai cấp

a. Định nghĩa

Trong tác phẩm Sáng kiến vĩ đại, V.I. Lênin đã đưa ra một định nghĩa khoa học về giai cấp
như sau: “Người ta gọi là giai cấp, những tập đoàn người to lớn gồm những người khác nhau về
địa vị của họ trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử, khác nhau về quan hệ
của họ (thường thường thì những quan hệ này được pháp luật quy định và thừa nhận) đối với tư
liệu sản xuất, về vai trò của họ trong tổ chức lao động xã hội và như vậy là khác nhau về cách
thức hưởng thụ và về phần của cải xã hội ít hoặc nhiều mà họ được hưởng. Giai cấp là tập đoàn
người, mà tập đoàn này có thể chiếm đoạt lao động của tập đoàn khác, do chỗ tập đoàn đó có
địa vị khác nhau trong một chế độ kinh tế - xã hội nhất định”.

b. Nguồn gốc giai cấp

- Nguyên nhân sâu xa của sự xuất hiện giai cấp là sự phát triển của lực lượng sản xuất. Sự
phát triển của lực lượng sản xuất làm cho năng suất lao động tăng lên, xuất hiện của cải dư thừa,
tạo khả năng khách quan, tiền đề cho tập đoàn người này chiếm đoạt lao động của tập đoàn
người khác.
- Nguyên nhân trực tiếp đưa tới sự xuất hiện giai cấp là sự ra đời chế độ tư hữu về tư liệu
sản xuất. Chừng nào, ở đâu còn tồn tại chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất thì ở đó còn tồn tại giai
cấp và đấu tranh giai cấp.

c. Kết cấu xã hội - giai cấp

Kết cấu xã hội - giai cấp là tổng thể các giai cấp và mối quan hệ giữa các giai cấp, tồn tại
trong một giai đoạn lịch sử nhất định.
Trong một kết cấu xã hội bao giờ cũng gồm có hai giai cấp cơ bản và những giai cấp không
cơ bản, hoặc các tầng lớp xã hội trung gian. Giai cấp cơ bản là giai cấp gắn với phương thức sản
xuất thống trị, là sản phẩm của những phương thức sản xuất thống trị nhất định. Đó là giai cấp
chủ nô và nô lệ trong xã hội chiếm hữu nô lệ, giai cấp địa chủ và nông dân trong xã hội phong
kiến, giai cấp tư sản và vô sản trong xã hội tư bản chủ nghĩa.

1.2. Đấu tranh giai cấp

41
Đấu tranh giai cấp là cuộc đấu tranh của các tập đoàn người to lớn có lợi ích căn bản đối
lập nhau trong một phương thức sản xuất nhất định. Như vậy, đấu tranh giai cấp là tất yếu do sự
đối lập về lợi ích căn bản không thể điều hòa được giữa các giai cấp. Thực chất của đấu tranh
giai cấp là cuộc đấu tranh của quần chúng lao động bị áp bức, bóc lột chống lại giai cấp áp bức,
bóc lột nhằm lật đổ ách thống trị của chúng.
Trong xã hội có giai cấp, đấu tranh giai cấp là động lực quan trọng, trực tiếp của lịch sử.

1.3. Đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản

a. Đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản khi chưa có chính quyền

Tổng kết thực tiễn cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản khi chưa giành được chính
quyền, C. Mác và Ph. Ăngghen đã khái quát và chỉ ra 3 hình thức cơ bản đó là: đấu tranh kinh
tế, đấu tranh chính trị và đấu tranh tư tưởng. Trong đó, đấu tranh chính trị là hình thức đấu tranh
cao nhất của giai cấp vô sản. Mục tiêu của đấu tranh chính trị là đánh đổ ách thống trị của giai
cấp tư sản, giành chính quyền về tay giai cấp vô sản.

b. Đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội

Cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản diễn ra trong điều kiện mới, với mục tiêu xây
dựng thành công chủ nghĩa xã hội, tất yếu phải có hình thức mới, phải sử dụng tổng hợp các
hình thức đấu tranh, bằng bạo lực và hòa bình, bằng quân sự và kinh tế, bằng giáo dục và hành
chính...

c. Đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay

Nội dung của cuộc đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
hiện nay là thực hiện thắng lợi mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, xây dựng một xã
hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Về thực chất, đây là cuộc đấu tranh
giữa các nhân tố thúc đẩy với các nhân tố cản trở sự phát triển của đất nước theo định hướng xã
hội chủ nghĩa.

2. Dân tộc

2.1. Khái niệm

Dân tộc là một cộng đồng người ổn định được hình thành trong lịch sử trên cơ sở một lãnh
thổ thống nhất, một ngôn ngữ thống nhất, một nền kinh tế thống nhất, một nền văn hóa và tâm
lý, tính cách thống nhất, với một nhà nước và pháp luật thống nhất.

2.2. Sự hình thành dân tộc ở châu Âu

Ở châu Âu, dân tộc hình thành gắn liền với sự hình thành và phát triển của chủ nghĩa tư
bản. Sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa tư bản là điều kiện căn bản xóa bỏ tình trạng phân tán

42
về tư liệu sản xuất, về tài sản và về dân cư đưa đến sự hình thành một dân tộc thống nhất.

2.3. Tính đặc thù của sự hình thành dân tộc Việt Nam

Dân tộc Việt Nam được hình thành rất sớm trong lịch sử gắn liền với nhu cầu dựng nước và
giữ nước, với quá trình đấu tranh chống giặc ngoại xâm và cải tạo thiên nhiên, bảo vệ nền văn
hóa dân tộc.

3. Mối quan hệ giai cấp - dân tộc - nhân loại

3.1. Quan hệ giai cấp - dân tộc

a. Giai cấp quyết định dân tộc

Sự phát triển của phương thức sản xuất xã hội là nguyên nhân xét đến cùng quyết định
sự hình thành, phát triển của các hình thức cộng đồng người trong lịch sử.
Quan hệ giai cấp quyết định khuynh hướng phát triển và tính chất của dân tộc. Trong một
thời đại lịch sử, mỗi dân tộc đều do một giai cấp làm đại diện, giai cấp đó quy định tính chất dân
tộc.

b. Vấn đề dân tộc có ảnh hưởng quan trọng đến vấn đề giai cấp

Đấu tranh giải phóng dân tộc là điều kiện, tiền đề cho đấu tranh giải phóng giai cấp. Trong
thời đại đế quốc chủ nghĩa, các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc có vai trò hết sức to lớn đối
với sự nghiệp cách mạng của giai cấp vô sản và nhân dân lao động. Trong thời đại toàn cầu hóa
và cách mạng khoa học công nghệ đang diễn ra mạnh mẽ như ngày nay, các quốc gia, dân tộc
ngày càng xích lại gần nhau hơn tạo điều kiện thuận lợi cho đấu tranh giải phóng giai cấp.

3.2. Quan hệ giai cấp, dân tộc với nhân loại

Giai cấp, dân tộc và nhân loại có mối quan hệ biện chứng, được thể hiện ở những nội dung
cơ bản sau: Trong xã hội có giai cấp, lợi ích nhân loại không tách rời với lợi ích giai cấp, lợi ích
dân tộc và bị chi phối bởi lợi ích giai cấp và dân tộc. Tuy nhiên, vấn đề nhân loại không phải bị
chi phối một cách thụ động bởi vấn đề dân tộc và giai cấp, mà có sự tác động trở lại rất quan
trọng. Trước hết, sự tồn tại của nhân loại là tiền đề, là điệu kiện tất yếu thường xuyên của sự tồn
tại dân tộc và giai cấp. Đồng thời, sự phát triển về mọi mặt của nhân loại tạo ra những điều kiện
thuận lợi cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và giai cấp.
Vận dụng sáng tạo lý luận về giai cấp và đấu tranh giai cấp, về mối quan hệ biện chứng
giữa giai cấp, dân tộc, nhân loại của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta
đã đưa sự nghiệp đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa đến thắng lợi, góp phần
tích cực vào thực hiện tiến bộ xã hội của nhân dân thế giới.

43
III- NHÀ NƯỚC VÀ CÁCH MẠNG XÃ HỘI

1. Nhà nước

1.1. Nguồn gốc của nhà nước

- Ph. Ăngghen cho rằng, nhà nước là một phạm trù lịch sử: “Nhà nước tồn tại không phải là
mãi mãi từ ngàn xưa. Đã từng có xã hội không cần đến nhà nước, không có một khái niệm nào
về nhà nước và chính quyền nhà nước cả”1.
- Nhà nước là “sản phẩm của một xã hội đã phát triển tới một giai đoạn nhất định” khi “xã
hội đó đã bị phân thành những mặt đối lập không thể điều hòa mà xã hội đó bất lực không sao
loại bỏ được”2.
- V.I. Lênin cho rằng, khi trong xã hội xuất hiện “biểu hiện của mâu thuẫn giai cấp không
thể điều hòa được” thì nhà nước ra đời. Rằng: “Bất cứ ở đâu, hễ lúc nào và chừng nào, về mặt
khách quan, những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được, thì nhà nước xuất hiện. Và
ngược lại, sự tồn tại của nhà nước chứng tỏ rằng những mâu thuẫn giai cấp là không thể điều
hòa được”3.
Như vậy, có thể nói: nguyên nhân sâu xa của sự xuất hiện nhà nước là do sự phát triển của
lực lượng sản xuất dẫn đến sự dư thừa tương đối của cải, xuất hiện chế độ tư hữu, còn nguyên
nhân trực tiếp dẫn tới sự xuất hiện nhà nước là do mâu thuẫn giai cấp trong xã hội gay gắt
không thể điều hòa được.

1.2. Bản chất của nhà nước

- Theo Ph. Ăngghen: Nhà nước “chẳng qua chỉ là một bộ máy của một giai cấp này dùng để
trấn áp một giai cấp khác, điều đó trong chế độ cộng hòa dân chủ cũng hoàn toàn giống như
trong chế độ quân chủ”4.
- V.I. Lênnin, trong tác phẩm Nhà nước và cách mạng, một lần nữa khẳng định lại quan
điểm của C. Mác về nhà nước: “Theo Mác, nhà nước là một cơ quan thống trị giai cấp, là một
cơ quan áp bức của một giai cấp này đối với một giai cấp khác; đó là sự kiến lập một “trật tự”,
trật tự này hợp pháp hóa và củng cố sự áp bức kia bằng cách làm dịu xung đột giai cấp” 3.
Như vậy, nhà nước, về bản chất, là một tổ chức chính trị của một giai cấp thống trị về mặt
kinh tế nhằm bảo vệ trật tự hiện hành và đàn áp sự phản kháng của các giai cấp khác.

1.3. Đặc trưng cơ bản của nhà nước


Ph. Ăngghen cho rằng, nhà nước thường có ba đặc trưng cơ bản:

1
. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.21, tr.257, 252.
2
C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.21, tr.257, 252.
3
, 3, 4. V.I. Lênin: Toàn tập, Sđd, t.33, tr.9, 10, 11.
4
. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.22, tr.290-291.

44
Một là, nhà nước quản lý cư dân trên một vùng lãnh thổ nhất định: “... so với tổ chức huyết
tộc trước kia (thị tộc hay bộ tộc) thì đặc trưng thứ nhất của nhà nước là ở chỗ nó phân chia thần
dân trong quốc gia theo sự phân chia lãnh thổ...”4.
Hai là, nhà nước có hệ thống các cơ quan quyền lực chuyên nghiệp mang tính cưỡng chế
đối với mọi thành viên.
Ba là, nhà nước có hệ thống thuế khóa để nuôi bộ máy chính quyền.

1.4. Chức năng cơ bản của nhà nước


- Nhà nước có các chức năng sau: chức năng thống trị chính trị của giai cấp và chức năng
xã hội.
+ Chức năng thống trị chính trị của giai cấp chịu sự quy định bởi tính giai cấp của nhà
nước. Là công cụ thống trị giai cấp, nhà nước thường xuyên sử dụng bộ máy quyền lực để duy
trì sự thống trị đó thông qua hệ thống chính sách và pháp luật. Bộ máy quyền lực của nhà nước
từ trung ương đến cơ sở, nhân danh nhà nước duy trì trật tự xã hội, đàn áp mọi sự phản kháng
của giai cấp bị trị, các lực lượng chống đối nhằm bảo vệ quyền lợi và địa vị của giai cấp thống
trị.
+ Chức năng xã hội của nhà nước được biểu hiện ở chỗ, nhà nước nhân danh xã hội làm
nhiệm vụ quản lý nhà nước về xã hội, điều hành các công việc chung của xã hội như: thủy lợi,
giao thông, y tế, giáo dục, môi trường... để duy trì sự ổn định của xã hội trong “trật tự” theo
quan điểm của giai cấp thống trị.
+ Chức năng đối nội là sự thực hiện đường lối đối nội nhằm duy trì trật tự xã hội thông qua
các công cụ như: chính sách xã hội, luật pháp, cơ quan truyền thông, văn hóa, giáo dục... Chức
năng đối nội được thực hiện trong tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội, y tế, giáo dục của
mỗi quốc gia, dân tộc nhằm đáp ứng và giải quyết những nhu cầu chung của toàn xã hội.
+ Chức năng đối ngoại của nhà nước là sự triển khai thực hiện chính sách đối ngoại của
giai cấp thống trị nhằm giải quyết mối quan hệ với các thể chế nhà nước khác dưới danh nghĩa
là quốc gia, dân tộc, nhằm bảo vệ lãnh thổ quốc gia, đáp ứng nhu cầu trao đổi kinh tế, văn hóa,
khoa học kỹ thuật, y tế, giáo dục... của mình.

1.5. Các kiểu và hình thức nhà nước


- Kiểu nhà nước là khái niệm dùng để chỉ bộ máy thống trị đó thuộc về giai cấp nào, tồn tại
trên cơ sở chế độ kinh tế nào, tương ứng với hình thái kinh tế - xã hội nào. Trong lịch sử xã hội
có giai cấp đã từng tồn tại bốn kiểu nhà nước:
+ Kiểu nhà nước chiếm hữu nô lệ.
+ Kiểu nhà nước phong kiến.
+ Kiểu nhà nước tư sản.
+ Kiểu nhà nước vô sản.
- Hình thức nhà nước là khái niệm dùng để chỉ cách thức tổ chức, phương thức thực hiện

45
quyền lực nhà nước của giai cấp thống trị. Hình thức nhà nước thực chất là hình thức cầm quyền
của giai cấp thống trị. Một kiểu nhà nước có thể có nhiều hình thức nhà nước khác nhau:
+ Kiểu nhà nước chủ nô có các hình thức nhà nước chủ nô quý tộc, nhà nước chủ nô dân
chủ.
+ Kiểu nhà nước phong kiến có các hình thức nhà nước phong kiến tập quyền, nhà nước
phong kiến phân quyền.
+ Kiểu nhà nước tư sản có các hình thức nhà nước cộng hòa tổng thống, nhà nước cộng hòa
đại nghị, nhà nước cộng hòa hỗn hợp, nhà nước quân chủ lập hiến, v.v..
+ Kiểu nhà nước vô sản có các hình thức: Công xã Pari, nhà nước Xôviết, nhà nước dân
chủ nhân dân.

IV- Ý THỨC XÃ HỘI

1. Khái niệm tồn tại xã hội và các yếu tố cơ bản của tồn tại xã hội

1.1. Khái niệm

Tồn tại xã hội là toàn bộ sinh hoạt vật chất và điều kiện sinh hoạt vật chất của mỗi cộng
đồng người trong những điều kiện lịch sử xác định.

1.2. Các yếu tố cơ bản của tồn tại xã hội

Các yếu tố cơ bản tạo thành điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội, gồm có:
Một là, phương thức sản xuất ra của cải vật chất của xã hội đó.
Hai là, các yếu tố thuộc về điều kiện tự nhiên - hoàn cảnh địa lý như: các điều kiện khí hậu,
đất đai, sông hồ, rừng biển...
Ba là, các yếu tố dân cư, bao gồm: cách thức tổ chức dân cư, tính chất lưu dân cư, mô hình
tổ chức dân cư...
Các yếu tố đó tồn tại trong mối quan hệ thống nhất biện chứng, tác động lẫn nhau tạo thành
điều kiện sinh tồn và phát triển của xã hội, trong đó phương thức sản xuất vật chất là yếu tố cơ
bản nhất.

2. Ý thức xã hội và kết cấu của ý thức xã hội

2.1. Khái niệm

Ý thức xã hội dùng để chỉ phương diện sinh hoạt tinh thần của xã hội, nảy sinh từ tồn tại
xã hội và phản ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn phát triển nhất định.
- Ý thức xã hội là sự phản ánh tồn tại xã hội.
- Ý thức xã hội vừa là sản phẩm của những hoạt động mang tính xã hội của con người vừa
là sự phản ánh của con người về đời sống xã hội của họ.
- Ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất định nên không thể

46
có ý thức xã hội chung cho mọi xã hội.
- Ý thức cá nhân không đồng nhất với ý thức xã hội. Ý thức cá nhân mang tính xã hội.

2.2. Kết cấu của ý thức xã hội

Tùy các góc độ xem xét khác nhau mà người ta có thể phân chia ý thức xã hội thành các bộ
phận khác nhau.
- Theo trình độ phản ánh, người ta chia ý thức xã hội thành ý thức xã hội thông thường và ý
thức lý luận.
- Ý thức xã hội còn được phân thành hai cấp độ: tâm lý xã hội và hệ tư tưởng.
- Theo nội dung và lĩnh vực phản ánh đời sống xã hội thì ý thức xã hội gồm các hình thái ý
thức xã hội sau đây: ý thức chính trị, ý thức pháp quyền, ý thức đạo đức, ý thức nghệ thuật (ý
thức thẩm mỹ), ý thức tôn giáo, ý thức khoa học, ý thức triết học.

3. Tính giai cấp của ý thức xã hội

Trong xã hội có giai cấp, ý thức xã hội cũng có tính giai cấp, phản ánh điều kiện sinh hoạt
vật chất và lợi ích khác nhau, đối lập nhau giữa các giai cấp. Mỗi giai cấp đều có đời sống sinh
hoạt tinh thần đặc thù của nó nhưng hệ tư tưởng thống trị xã hội bao giờ cũng là hệ tư tưởng của
giai cấp thống trị xã hội, nó có ảnh hưởng đến ý thức của các giai cấp trong đời sống xã hội.
Theo quan niệm của C. Mác và Ph. Ăngghen: “Trong mọi thời đại, những tư tưởng của giai cấp
thống trị là những tư tưởng thống trị. Điều đó có nghĩa là giai cấp nào là lực lượng vật chất
thống trị trong xã hội thì cũng là lực lượng tinh thần thống trị trong xã hội. Giai cấp nào chi
phối những tư liệu sản xuất vật chất thì cũng chi phối luôn cả những tư liệu sản xuất tinh thần” 1.

4. Mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội

4.1. Vai trò quyết định của tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội

- Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội vì: ý thức xã hội là sự phản ánh tồn tại xã hội phụ
thuộc vào tồn tại xã hội.
- Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội như thế nào?
+ Tồn tại xã hội là nguồn gốc khách quan, là cơ sở của sự hình thành, ra đời của ý thức xã
hội.
+ Tồn tại xã hội quyết định nội dung, tính chất, đặc điểm của các hình thái ý thức xã hội.
+ Tồn tại xã hội thay đổi thì kéo theo sự thay đổi của ý thức xã hội.
Lưu ý: Khi tồn tại xã hội thay đổi thì ý thức xã hội cũng thay đổi theo. Tuy nhiên, mức độ
và nhịp điệu thay đổi của các bộ phận ý thức xã hội diễn ra khác nhau, có những bộ phận biến
đổi nhanh, có những bộ phận biến đổi chậm.
- Trong xã hội có giai cấp (tức tồn tại xã hội có giai cấp) thì ý thức xã hội cũng mang tính

1
. C. Mác và Ph. Ăngghen:Toàn tập, Sđd, t.3, tr.66.

47
giai cấp. Tuy nhiên, không phải bất cứ tư tưởng, quan niệm, lý luận hình thái ý thức xã hội nào
cũng phản ánh rõ ràng và trực tiếp những quan hệ kinh tế của thời đại mà chỉ khi nào xét đến
cùng thì chúng ta mới thấy rõ những mối quan hệ kinh tế được phản ánh bằng cách này hay
cách khác trong các tư tưởng ấy.

4.2. Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội

- Là một chỉnh thể tương đối độc lập phản ánh tồn tại xã hội dưới những góc độ khác nhau,
các hình thái ý thức xã hội có quy luật nội tại riêng, lôgíc của sự phát triển riêng của nó.
- Trong xã hội có những lực lượng xã hội cố duy trì, sử dụng ý thức xã hội phục vụ lợi ích
riêng. Do đó, ý thức xã hội không phụ thuộc hoàn toàn vào tồn tại xã hội mà có tính độc lập
tương đối.
a. Ý thức xã hội thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội
- Ý thức xã hội là cái phản ánh nên là cái có sau tồn tại xã hội. Tồn tại xã hội cũ bị thay thế
bằng tồn tại xã hội mới. Phương thức sản xuất cũ mất đi, phương thức sản xuất mới ra đời
nhưng ý thức xã hội cũ chưa mất đi.
- Tính lạc hậu được biểu hiện trong ý thức xã hội thông thường, ý thức lý luận và đặc biệt là
trong tâm lý xã hội, tình cảm, ước muốn, thói quen, tập quán.
- Nguyên nhân:
+ Tồn tại xã hội thường biến đổi với tốc độ nhanh mà ý thức xã hội có thể phản ánh không
kịp và trở nên lạc hậu. Hơn nữa, ý thức xã hội là cái phản ánh nên chỉ biến đổi sau khi có sự
biến đổi của tồn tại xã hội. Nói cách khác, ý thức xã hội là cái phản ánh, tồn tại xã hội là cái bị
phản ánh cho nên tồn tại xã hội bao giờ cũng biến đổi trước còn ý thức xã hội là cái biến đổi
sau.
+ Do sức mạnh của thói quen truyền thống, tập quán cũng như do tính lạc hậu, bảo thủ của
một số hình thái ý thức xã hội.
+ Ý thức xã hội mang tính giai cấp nên những tư tưởng cũ, lạc hậu thường được các thế lực
xã hội phản tiến bộ lưu giữ và truyền bá nhằm chống các lực lượng xã hội tiến bộ.
- Ý nghĩa: Những tư tưởng lạc hậu, tiêu cực thường không mất đi một cách dễ dàng. Do đó,
trong sự nghiệp xây dựng xã hội mới phải thường xuyên tăng cường công tác tư tưởng, đấu
tranh chống lại những âm mưu và hành động phá hoại của những lực lượng thù địch về mặt tư
tưởng, kiên trì xoá bỏ những tàn dư cũ, đồng thời ra sức giữ gìn và phát huy những truyền thống
tư tưởng tốt đẹp.
b. Ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội
- Trong những điều kiện nhất định, những tư tưởng khoa học tiên tiến có thể vượt trước sự
phát triển của tồn tại xã hội, dự báo tương lai, tổ chức, chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con
người, hướng hoạt động đó vào việc giải quyết những nhiệm vụ mới do sự phát triển chín muồi
của đời sống vật chất mà xã hội đặt ra.
- Lưu ý:

48
+ Có tư tưởng vượt trước là tư tưởng khoa học, có tư tưởng vượt trước là không khoa học.
+ Khi nói tư tưởng tiên tiến có thể vượt trước tồn tại xã hội, dự kiến được quá trình khách
quan của sự phát triển xã hội không có nghĩa là tư tưởng khoa học không còn bị tồn tại xã hội
quyết định nữa, tư tưởng khoa học tiên tiến không thoát ly tồn tại xã hội mà căn cứ vào tồn tại
xã hội, phản ánh sâu sắc, chính xác tồn tại xã hội.
- Nguyên nhân: Những tư tưởng khoa học có thể vượt trước tồn tại xã hội vì nó phản ánh
được quy luật vận động (cái tất yếu) từ quá khứ đến hiện tại nên có thể dự báo được tương lai.
Do đó, những tư tưởng khoa học vượt trước có vai trò định hướng, chỉ đạo hoạt động của con
người. Nếu không có tư tưởng, ý thức soi đường thì sẽ mò mẫm trong hành động.
c) Tính kế thừa trong sự phát triển của ý thức xã hội
- Kế thừa: Ý thức của một thời đại không chỉ phản ánh tồn tại xã hội ấy mà còn tiếp thu yếu
tố tư tưởng của thời đại trước.
- Nguyên nhân: Xuất phát từ quy luật phủ định biện chứng cái mới ra đời trên cơ sở cái cũ.
- Biểu hiện:
+ Những quan điểm lý luận của mỗi thời đại không xuất hiện trên mảnh đất trống không mà
được tạo ra trên cơ sở kế thừa những thành tựu lý luận của các thời đại trước đó.
+ Một trong những hình thức quan trọng của cái được kế thừa trong ý thức xã hội là truyền
thống.
- Lưu ý:
+ Do ý thức có sự kế thừa trong sự phát triển, nên không thể giải thích được một hiện tượng
nào đó nếu chỉ dựa vào những quan hệ kinh tế hiện có, mà không chú ý đến các giai đoạn phát
triển trước đó.
+ Thừa nhận tính kế thừa trong sự phát triển của tư tưởng giúp chúng ta giải thích hiện
tượng vì sao một nước có trình độ phát triển tương đối kém về kinh tế nhưng tư tưởng lại ở trình
độ phát triển cao.
+ Trong xã hội có giai cấp, tính kế thừa của ý thức gắn với tính giai cấp của nó. Những giai
cấp có lợi ích khác nhau thì kế thừa những nội dung ý thức khác nhau của các thời đại trước.
- Ý nghĩa:
+ Tính kế thừa của ý thức xã hội có ý nghĩa to lớn đối với sự nghiệp xây dựng nền văn hóa
tinh thần của xã hội xã hội chủ nghĩa. V.I. Lênin nhấn mạnh rằng, văn hóa xã hội chủ nghĩa cần
phải phát huy những thành tựu và truyền thống tốt đẹp nhất của nền văn hóa nhân loại từ cổ tới
kim trên cơ sở thế giới quan mácxít.
+ Đảng ta khẳng định: “Phát triển văn hóa dân tộc đi đôi với mở rộng giao lưu văn hóa với
nước ngoài, vừa giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, vừa tiếp thu tinh hoa văn hóa thế
giới”.
+ Khi nghiên cứu các hình thái ý thức xã hội, chúng ta phải nghiên cứu bối cảnh xuất hiện
tư tưởng đó (tồn tại xã hội), những tư tưởng tiền bối (tính kế thừa).
d. Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội

49
- Các hình thái ý thức xã hội như chính trị, pháp quyền, đạo đức, tôn giáo, triết học, văn
học, phản ánh tồn tại xã hội bằng những hình thức và phương diện khác nhau nhưng giữa chúng
có sự tác động qua lại và ảnh hưởng lẫn nhau. Giống nhau là cùng chung nguồn gốc là tồn tại xã
hội, phản ánh tồn tại xã hội. Khác nhau về hình thức phản ánh và phương diện phản ánh.
- Trong mỗi thời đại, tùy theo những hoàn cảnh lịch sử xã hội cụ thể mà thường có những
hình thái ý thức xã hội nào đó nổi lên hàng đầu. Ở chúng tập trung ý thức của thời đại đó và tác
động mạnh đến các hình thái ý thức xã hội khác.
- Trong sự tác động lẫn nhau giữa các hình thái ý thức xã hội thì triết học có vai trò đặc biệt
quan trọng. Nó có chức năng thế giới quan và phương pháp luận để từ đó hình thành nhân sinh
quan tích cực hoặc tiêu cực.
- Ý nghĩa: Khi phân tích một hình thái ý thức xã hội nào đó thì không nên chỉ chú ý tới các
điều kiện kinh tế - xã hội sinh ra nó và những ý thức mà nó kế thừa được của các thời đại trước
mà còn phải chú ý tới sự tác động của nó tới các hình thái ý thức xã hội khác, gắn nó với tồn tại
xã hội và các hình thái ý thức xã hội có liên quan.
đ. Ý thức xã hội tác động trở lại tồn tại xã hội
- Vì sao ý thức xã hội có thể tác động trở lại tồn tại xã hội?
+ Ý thức xã hội có tính vượt trước.
+ Tất cả mọi hoạt động của con người đều do ý thức chỉ đạo.
- Ý thức xã hội tác động trở lại tồn tại xã hội như thế nào?
+ Bản thân ý thức xã hội tự nó không trực tiếp làm biến đổi tồn tại xã hội mà phải thông
qua hoạt động thực tiễn.
+ Ý thức tác động thông qua hoạt động nên ảnh hưởng đến kết quả hoạt động: tác động tích
cực khi ý thức, tư tưởng tiến bộ, cách mạng, phản ánh đúng hiện thực khách quan; tác động tiêu
cực khi ý thức, tư tưởng lạc hậu, phản ánh không đúng hiện thực khách quan.
+ Mức độ tác động của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội phụ thuộc vào điều kiện lịch sử
cụ thể; tính chất các mối quan hệ kinh tế làm nảy sinh tư tưởng đó; vai trò của giai cấp đề ra tư
tưởng đó; mức độ phản ánh đúng đắn của tư tưởng đó và mức độ triển khai thực hiện tư tưởng
đó trong quần chúng.
- Ý nghĩa:
+ Phải phát huy được vai trò của ý thức tiến bộ, cách mạng.
+ Coi trọng đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa.
+ Thấy được tầm quan trọng trong vai trò của ý thức xã hội đối với quá trình hình thành
nền văn hóa mới và con người mới.

V- TRIẾT HỌC VỀ CON NGƯỜI

1. Khái niệm con người và bản chất con người

50
1.1. Khái niệm con người

Theo C. Mác, con người là một sinh vật có tính xã hội ở trình độ phát triển cao nhất của
giới tự nhiên và của lịch sử xã hội, là chủ thể của lịch sử, sáng tạo nên tất cả các thành tựu của
văn minh và văn hóa.
- Con người là thực thể sinh học - xã hội: Xét về phương diện sinh học, con người vừa là
một thực thể sinh vật, vừa là sản phẩm của giới tự nhiên, vừa là một động vật xã hội.
+ Với tư cách là một thực thể sinh vật, con người có đặc tính sinh học, bản năng sinh học.
Tuy con người là sản phẩm tiến hoá cao nhất của giới tự nhiên, nhưng cũng như các loài động
vật khác con người cũng phải duy trì sự tồn tại thông qua việc tìm kiếm thức ăn, nước uống, đấu
tranh sinh tồn, v.v. Khi xem xét bản năng sinh học của con người không thể tách rời với phương
diện xã hội, trong phương diện sinh học đã có phương diện xã hội.
+ Với tư cách là một bộ phận của giới tự nhiên: xét về phương diện thực thể sinh học, con
người phục tùng các quy luật của giới tự nhiên, nhưng cao hơn các thực thể sinh học khác con
người có thể biến đổi giới tự nhiên. Xét về phương diện thể xác, vì “tự nhiên là thân thể vô cơ
của con người”1, con người sống bằng những sản phẩm tự nhiên nên bằng hoạt động thực tiễn
con người là một bộ phận của giới tự nhiên, gắn bó hòa hợp với tự nhiên.
+ Với tư cách là một thực thể xã hội, con người có các hoạt động xã hội, tồn tại trong môi
trường xã hội. Chính nhờ môi trường xã hội mà con người trở thành một thực thể xã hội và
mang bản chất xã hội. Nếu con vật sống bản năng, dựa hoàn toàn vào các sản phẩm của tự nhiên
thì con người sống bằng lao động sản xuất để cải tạo tự nhiên, sáng tạo ra các vật phẩm thỏa
mãn nhu cầu của con người. Hoạt động quan trọng nhất của con người là hoạt động sản xuất.
Lao động là hoạt động đặc trưng của con người, nhờ có lao động mà ngôn ngữ xuất hiện, đó là
yếu tố quan trọng, tiên quyết của sự hình thành và phát triển con người về cả phương diện sinh
học lẫn phương diện xã hội. Trong lao động, con người vừa có các quan hệ trong sản xuất vừa
có các quan hệ xã hội khác.
- Con người là sản phẩm của lịch sử và của chính bản thân con người:
+ C. Mác xuất phát từ quan niệm coi con người hiện thực đang hoạt động, lao động sản
xuất làm ra lịch sử của chính mình, là những con người như đang tồn tại.
+ Con người là sản phẩm của lịch sử và của bản thân con người nhưng con người không thụ
động để lịch sử làm thay đổi mình mà con người còn là chủ thể của lịch sử.
- Con người vừa là chủ thể của lịch sử, vừa là sản phẩm của lịch sử.
+ Lao động và sáng tạo là thuộc tính tối cao của con người, hoạt động sản xuất (chế tạo
công cụ) là hoạt động lịch sử đầu tiên mang tính sáng tạo, giúp con người tách khỏi loài vật,
tách khỏi tự nhiên để làm chủ thực tiễn, làm ra lịch sử của mình.
+ Con người không thể sáng tạo ra lịch sử theo ý muốn chủ quan của mình mà con người
vừa phải tiếp tục các hoạt động sáng tạo trên những điều kiện lịch sử do thế hệ trước để lại, vừa
phải tiến hành các hoạt động mới của mình để cải biến những điều kiện cũ. Lịch sử sản xuất ra
1
. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.20, tr.146.

51
con người như thế nào thì tương ứng, con người cũng sáng tạo ra lịch sử như thế ấy.

1.2. Bản chất con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội

- Trong Luận cương về Phoiơbắc, C. Mác viết: “Bản chất con người không phải là một cái
trừu tượng của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa
những quan hệ xã hội”1.
Theo đó, không có con người trừu tượng chung chung, mà chỉ có con người sống và hoạt
động trong một môi trường xã hội nhất định, ở một thời gian xác định với toàn bộ các quan hệ
xã hội hiện thời. Chỉ trong điền kiện ấy, bản chất của con người mới được bộc lộ.

2. Hiện tượng tha hóa con người và vấn đề giải phóng con người

2.1. Hiện tượng tha hoá con người

- Thực chất của hiện tượng tha hoá con người là lao động của con người bị tha hóa: Thực
chất lao động bị tha hoá là quá trình lao động và sản phẩm của lao động từ chỗ để phục vụ con
người, phát triển con người lại trở thành lực lượng nô dịch con người: con người chỉ hành động
với tính cách con người khi thực hiện các chức năng sinh học, còn khi thực hiện hoạt động lao
động với tư cách là hoạt động đặc trưng của con người thì họ lại như là con vật.
- Nguyên nhân của hiện tượng tha hóa con người: Do xã hội xuất hiện chế độ tư hữu về tư
liệu sản xuất, là hiện tượng lịch sử đặc thù chỉ diễn ra trong xã hội có sự phân chia giai cấp, có
sự chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất là đỉnh cao trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa.
- Biểu hiện của hiện tượng tha hóa con người:
+ Con người đánh mất mình trong lao động, con người thực hiện hoạt động đặc trưng của
mình không được tự do để sáng tạo, phát triển phẩm chất người mà bị ép buộc bởi những điều
kiện xã hội.
+ Con người bị lệ thuộc vào tư liệu sản xuất do chính con người sáng tạo ra, mối quan hệ
giữa người với người (quan hệ giữa người lao động với chủ sở hữu tư liệu sản xuất) thay thế
bằng quan hệ giữa người với vật, vì nó được thực hiện thông qua số vật phẩm do người lao động
tạo ra và số tiền công mà người lao động được trả.
+ Con người bị bần cùng hoá, phát triển phiến diện, không phát huy đầy đủ, không phát
triển được bản chất người. Khoa học, công nghệ càng phát triển, lợi nhuận các chủ sở hữu tư
liệu càng lớn thì sự tha hoá con người càng sâu sắc.

2.2. Vấn đề giải phóng con người

- Tư tưởng căn bản, cốt lõi của chủ nghĩa Mác - Lênin: Giải phóng toàn thể xã hội khỏi
ách bóc lột, áp bức.
- Nội dung của việc giải phóng con người:

1
. C. Mác và Ph. Ăngghen:Toàn tập, Sđd,t.3, tr.11.

52
+ Giải phóng về phương diện chính trị: thông qua đấu tranh giai cấp để thay thế chế độ sở
hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất và phát triển sản xuất tư bản chủ nghĩa. Đây là
nội dung quan trọng nhất.
+ Giải phóng thực sự con người: khắc phục sự tha hoá của con người và lao động của họ,
đưa lao động sáng tạo trở thành chức năng thực sự của con người. Đây là nội dung then chốt.
+ Giải phóng con người trên tất cả nội dung, phương diện: từ con người cá nhân, con người
giai cấp, con người dân tộc, con người nhân loại, v.v..
- Sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi
người:
+ Đưa lại tự do thực sự cho con người là mục đích giải phóng tha hóa của con người.
+ Điều kiện con người được tự do: khi chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư
liệu sản xuất bị thủ tiêu triệt để, lao động của con người không còn bị tha hóa.
+ Vì sao tự do của mỗi người tất yếu là điều kiện cho sự phát triển tự do của mọi người: Vì
con người là sự thống nhất giữa cá nhân và xã hội, cá nhân với giai cấp, dân tộc và nhân loại,
bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội. Mặt khác, sự phát triển của xã hội cũng là
tiền đề để phát trển mỗi cá nhân.

3. Vai trò của quần chúng nhân dân và lãnh tụ trong lịch sử

3.1. Vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử

- Quần chúng nhân dân là bộ phận có cùng chung lợi ích căn bản, bao gồm những thành
phần, những tầng lớp, những giai cấp liên kết thành một tập thể dưới sự lãnh đạo của một cá
nhân, một tổ chức hay đảng phái nhằm giải quyết những vấn đề kinh tế, chính trị, văn hóa nhất
định của xã hội, thời đại...
- Quần chúng nhân dân là chủ thể sáng tạo ra lịch sử. Điều này thể hiện ở những điểm sau
đây:
+ Quần chúng nhân dân là lực lượng sản xuất cơ bản của xã hội.
+ Quần chúng nhân dân là động lực, lực lượng cơ bản của những cải biến và tiến bộ xã hội.
+ Quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra những giá trị trên mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội: văn hóa, chính trị, đạo đức, nghệ thuật...
Vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân không bao giờ tách rời vai trò cụ thể của
mỗi cá nhân mà đặc biệt là vai trò của các cá nhân ở vị trí thủ lĩnh, lãnh tụ hay vĩ nhân trong
cộng đồng nhân dân.

3.2. Vai trò của lãnh tụ trong lịch sử

- Lãnh tụ là những cá nhân kiệt xuất do phong trào cách mạng của quần chúng tạo nên, gắn
bó mật thiết với quần chúng nhân dân.
- Những phẩm chất cần có của lãnh tụ: tri thức uyên bác, nắm được xu thế vận động của

53
dân tộc, thời đại; có năng lực tập hợp quần chúng, thống nhất ý chí và hành động của quần
chúng để thực hiện những mục tiêu, nhiệm vụ nhất định; gắn với quần chúng, đại diện cho lợi
ích của quần chúng, vì quần chúng.
* Mối quan hệ giữa quần chúng nhân dân và lãnh tụ:
- Về mục đích và lợi ích của quần chúng nhân dân và lãnh tụ là thống nhất. Trong mỗi giai
đoạn lịch sử khác nhau, lợi ích có thể thay đổi nhưng luôn là cầu nối thống nhất giữa quần
chúng nhân dân và lãnh tụ.
- Lãnh tụ xuất hiện từ phong trào quần chúng, việc giải quyết các nhiệm vụ lịch sử nhanh
hay chậm của lãnh tụ có ảnh hưởng đến phong trào quần chúng.
- Quần chúng nhân dân và lãnh tụ có mối quan hệ biện chứng. Quần chúng nhân dân đóng
vai trò quyết định đối với sự phát triển của lịch sử. Lãnh tụ là người dẫn dắt, định hướng, thúc
đẩy phong trào quần chúng, là cơ sở thúc đẩy sự phát triển lịch sử.
- Ý nghĩa phương pháp luận:
+ Cung cấp phương pháp luận khoa học về việc kết hợp hài hoà giữa vai trò quần chúng
nhân dân và lãnh tụ trong từng điều kiện cụ thể sẽ tạo sức mạnh tổng hợp thúc đẩy phong trào
và sự vận động, phát triển của cộng đồng xã hội nói chung.
+ Không nên tuyệt đối hoá vai trò của lãnh tụ dẫn đến tệ sùng bái cá nhân, nếu tuyệt đối hoá
vai trò của quần chúng nhân dân, xem nhẹ vai trò của cá nhân lãnh tụ dẫn đến xem thường sáng
kiến cá nhân, không phát huy được sáng tạo của lãnh tụ.

4. Vấn đề con người trong sự nghiệp cách mạng ở Việt Nam

- Cơ sở giải quyết vấn đề con người ở Việt Nam: Dựa trên lý luận của chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Nội dung phát triển con người trong giai đoạn hiện nay: Phát triển con người toàn diện
đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước hiện nay.
- Đặc điểm, phẩm chất con người phát triển toàn diện:
+ Có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội,
có ý chí vươn lên đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, đoàn kết với nhân dân thế giới
trong sự nghiệp đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
+ Có ý thức tập thể, đoàn kết, phấn đấu vì lợi ích chung.
+ Có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần kiệm, trung thực, nhân nghĩa, tôn trọng
kỷ cương phép nước, quy ước của cộng đồng; có ý thức bảo vệ cải thiện môi trường sinh thái.
+ Lao động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kỹ thuật, sáng tạo, năng suất cao vì lợi
ích của bản thân, gia đình, tập thể và xã hội.
+ Thường xuyên học tập, nâng cao hiểu biết, trình độ chuyên môn, trình độ thẩm mỹ và thể
lực .
1

1
.Xem Đảng Cộng sản Việt Nam:Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa

54
- Phát huy vai trò của con người để thực hiện mục tiêu giải phóng con người, xem con
người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp đổi mới luôn được Đảng Cộng sản Việt
Nam quán triệt trong tất cả các lĩnh vực, vận dụng nhiều giải pháp để phát huy mạnh mẽ vai trò
của con người. Con người được đặt là trung tâm của mọi sự phát triển. Bài học lịch sử của cách
mạng Việt Nam là mọi sự thắng lợi đều dựa trên nền tảng phát huy, sử dụng đúng đắn con
người, nhất là trong điều kiện đất nước hiện nay, càng phải chú trọng, phát triển, sử dụng, phát
huy cao nhất vai trò của con người.

VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr.58-59.

55

You might also like