You are on page 1of 55

PHẦN TRẮC NGHIỆM

Những khẳng định sau đây là đúng hay sai? Vì sao?


1. Nhà nước tồn tại trong mọi chế độ xã hội
 Nhận định " Nhà nước tồn tại trong mọi chế độ xã hội" là nhận sai. Vì Nhà nước,
sản phẩm của cuộc đấu tranh giai cấp, xuất hiện từ khi loài người bị phân chia thành
những giai cấp đối kháng, là bộ máy do giai cấp nắm được quyền thống trị về kinh tế,
chính trị, xã hội lập nên để điều hành toàn bộ hoạt động của xã hội trong một nước với
múc đích là bảo vệ quyền lợi của giai cấp thống trị

2. Điều luật với quy phạm pháp luật là 2 khái niệm không đồng nhất
 Đúng. Quy phạm pháp luật là quy tắc xử sự chung, có hiệu lực bắt buộc chung,
được áp dụng lặp đi lặp lại nhiều lần đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong phạm vi
cả nước hoặc đơn vị hành chính nhất định, do cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền
quy định trong Luật này ban hành và được Nhà nước bảo đảm thực hiện. Còn Điều
luật chỉ là đơn vị cơ bản có đánh số thứ tự của một văn bản quy phạm pháp luật.

3. Bộ luật Hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2015 là văn bản
quy phạm pháp luật.
 Đúng. Vì Bộ luật Hình sự nằm trong là Điều 4 Luật Ban hành văn bản quy phạm
pháp luật 2015, sửa đổi 2020 quy định hệ thống văn bản quy phạm pháp luật.
4. Áp dụng pháp luật là hoạt động điều chỉnh cá biệt.
 Sai. Vì Áp dụng pháp luật là loạt động thực hiện pháp luật mang tính tổ chức quyền lực
nhà nước, được thực hiện bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nhà chức trách hoặc tổ
chức xã hội được Nhà nước trao quyền, nhằm cá biệt hoá quy phạm pháp luật vào các
trường hợp cụ thể, đối với cá nhân, tổ chức cụ thể

5. A có ý định ăn cắp xe máy. Trong trường hợp này A không vi phạm pháp luật
 Đúng. Vì A chỉ có ý định nhưng chưa có hành vi vi phạm pháp luật.

6. Pháp luật là phương tiện duy nhất để nhà nước quản lý xã hội
 Sai. Vì Nhà nước quản lý xã hội bằng Hiến pháp và Pháp luật

7. Điều lệ của Đảng Cộng sản Việt Nam là văn bản quy phạm pháp luật
 Sai. Vì theo Điều 4 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015, sửa đổi 2020
quy định hệ thống văn bản quy phạm pháp luật không bao gồm Điều lệ của Đảng
Cộng sản Việt Nam
8. Áp dụng pháp luật chỉ được tiến hành khi có vi phạm pháp luật
 Đúng. Vì áp dụng pháp luật được tiến hành khi xảy ra tranh chấp giữa các bên
tham gia quan hệ pháp luật, khi cần áp dụng các biện pháp cưỡng chế đối với chủ
thể có hành vi vi phạm…

9. Áp dụng pháp luật là hoạt động mang tính tổ chức, thể hiện quyền lực nhà nước
 Đúng, vì Áp dụng pháp luật là loạt động thực hiện pháp luật mang tính tổ chức
quyền lực nhà nước , được thực hiện bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nhà
chức trách hoặc tổ chức xã hội được Nhà nước trao quyền, nhằm cá biệt hoá quy
phạm pháp luật vào các trường hợp cụ thể, đối với cá nhân, tổ chức cụ thể

10. Anh H bị mắc bệnh tâm thần, đã hành hung Ông B khiến ông B bị thương nặng. Trong
trường hợp này H không bị coi là vi phạm pháp luật
 Đúng. Theo Điều 21 Bộ luật hình sự 2015 quy định người thực hiện hành vi nguy
hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần làm mất khả năng nhận thức
hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu trách nhiệm hình
sự; Tức là không có năng lực trách nhiệm hình sự
11. Chính phủ là một cơ quan nhà nước thuộc hệ thống cơ quan quyền lực nhà nước
 Sai. Vì Cơ quan quyền lực nhà nước chỉ gồm Quốc hội và Hội đồng nhân dân các
cấp

12. Văn bản luật là văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất
(Quốc hội) ban hành
 Sai. Văn bản luật là văn bản quy phạm pháp luật đơn vị hành chính nhất định, do
cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền ban hành.

13. Điều lệ của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh là văn bản quy phạm pháp luật
 Sai. Vì theo Điều 4 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015, sửa đổi 2020
quy định hệ thống văn bản quy phạm pháp luật không bao gồm Điều lệ của Đoàn
Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh.
14. Cưỡng chế nhà nước là biện pháp duy nhất để bảo đảm cho pháp luật được thực hiện
trong đời sống xã hội.
 Sai. Vì để bảo đảm cho pháp luật được thực hiện phải kết hợp nhiều biện pháp:
giáo dục, thuyết phục, khuyến khích và cưỡng chế bắt buộc
15. Công dân A không có hành vi buôn bán ma túy. Trong trường hợp này anh A đã chấp
hành pháp luật.
 Sai. Anh A đã kiềm chế bản thân, không cho mình thực hiện những điều pháp luật
cấm nên A đã tuân thủ pháp luật chứ không phải chấp hành pháp luật

16. Cá nhân chỉ cần đạt đến một độ tuổi nhất định theo qui định của pháp luật thì người đó
có năng lực hành vi.
 Sai vì không phải ai đến độ tuổi nhất định đều có đủ năng lực hành vi

17. Để làm pháp sinh một quan hệ pháp luật cụ thể thì phải có đầy đủ các điều kiện sau: Quy
phạm pháp luật; Chủ thể có năng lực chủ thể; sự kiện pháp lý.
 Đúng vì Quan hệ pháp luật là các quan hệ xã hội được điều chỉnh bởi các quy phạm
pháp luật khác nhau, những quan hệ xã hội này xác lập, phát triển, tồn tại hay chấm
dứt dựa trên quy định của pháp luật, các bên tham gia vào quan hệ đó là những chủ
thể có quyền chủ thể và nghĩa vụ pháp lý phát sinh được pháp luật quy định và Nhà
nước sẽ bảo đảm thực hiện.

18. Tuân theo pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật trong đó cá nhân, tổ chức
thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình thông qua những hành động tích cực.
 Sai vì Các cá nhân, tổ chức thực hiện đầy đủ những nghĩa vụ, chủ động làm
những gì mà pháp luật quy định phải làm là chấp hành pháp luật

19. Mọi quy tắc xử sự chung đều là quy phạm pháp luật
 Sai vì chỉ quy tắc xử sự chung được nhà nước công nhận theo trình tự thủ tục theo
luật định nó mới trở thành các quy phạm pháp luật

20. Vi phạm pháp luật phải là hành vi trái pháp luật


 Đúng . Vi phạm pháp luật là hành vi trái pháp luật, có lỗi của chủ thể có năng lực
trách nhiệm pháp lí xâm hại tới quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ.

21. Văn bản quy phạm pháp luật là hình thức duy nhất của pháp luật
 Sai. Bởi vì: Pháp luật Việt Nam thừa nhận tập quán pháp, tiền lệ pháp và văn bản
quy phạm pháp luật.

22. Mọi phong tục tập quán trong xã hội đều là tập quán pháp
 Sai vì Tập quán pháp là tập quán được pháp luật thừa nhận có giá trị pháp lý, trở
thành những quy tắc xử sự chung và được Nhà nước bảo đảm thực hiện. Những
tập quán không được sự thừa nhận thì k phải là tập quán pháp

23. Pháp luật có tính xác định chặt chẽ về hình thức
 Đúng vì Pháp luật có tính xác định chặt chẽ về mặt hình thức vì hình thức thể hiện
của pháp luật là các văn bản có chứa Quy phạm pháp luật do cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền ban hành.

24. Mọi quan hệ xã hội đều là quan hệ pháp luật


 Nhận định trên: SAI. Bởi vì Không phải mọi quan hệ xã hội đều có pháp luật điều
chỉnh

25. B dùng điện để bẫy chuột nhưng không may C đi qua bị điện giật chết. Trong trường
hợp này B không vi phạm pháp luật
 Sai. Hành vi sử dụng điện để bẫy, bắt động vật hoặc làm phương tiện bảo vệ mà
không được phép của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thì đều là hành vi bị
nghiêm cấm. Do vậy B đã vi phạm pháp luật

26. Trong hệ thống chính trị của Việt Nam, Nhà nước giữ vị trí trung tâm, trụ cột của hệ
thống chính trị.
 Đúng. Không những đứng ở vị trí trung tâm của hệ thống chính trị mà Nhà nước
còn là người đại diện chính thức cho các giai cấp và tầng lớp trong xã hội.

27. Tuân theo pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật trong đó chủ thể chủ động làm
những gì pháp luật quy định phải làm.
 Sai . Vì tuân thủ pháp luật là việc cá nhân, tổ chức không làm những điều pháp
luật cấm
28. Điều lệ của Đảng Cộng sản Việt Nam là văn bản quy phạm pháp luật
 Sai. Vì theo Điều 4 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015, sửa đổi 2020
quy định hệ thống văn bản quy phạm pháp luật không bao gồm Điều lệ của Đảng
Cộng sản Việt Nam

29. Chỉ có Thủ tướng Chính phủ mới có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp
luật với tên gọi là Quyết định.
 Sai. Theo điều 4 chương I Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Thủ tướng
Chính phủ và chủ tịch nước cũng có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm
pháp luật với tên gọi là Quyết định.

30. Ông A là người có thu nhập cao, hàng năm ông A chủ động đến cơ quan thuế để nộp
thuế thu nhập cá nhân. Trong trường hợp này ông A đã chấp hành pháp luật.
 Sai. Thỉ hành pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật một cách chủ động nên
ông A đang thi hành pháp luật

31. Nhà nước chỉ tồn tại trong xã hội có giai cấp
 Đúng. Nhà nước mang bản chất giai cấp. Nó ra đời, tồn tại và phát triển trong xã
hội có giai c ấp, là sản phẩm của đấu tranh giai cấp và do một hay một liên minh
giai cấp nắm giữ

32. Văn bản quy phạm pháp luật chỉ do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành
 Đúng . Văn bản có chứa quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm
quyền ban hành được gọi là văn bản quy phạm pháp luật

33. Mọi quyết định của Thủ tướng Chính phủ đều là văn bản quy phạm pháp luật
 Sai. không phải quyết định nào của Thủ tướng cũng là văn bản pháp luật mà có
quyết định là quyết định cá biệt hoặc nội bộ, không phải là văn bản quy phạm pháp
luật

34. Mọi quy phạm pháp luật đều có chế tài


 Sai vì rất ít các quy phạm pháp luật Luật Hiến pháp có thêm phần chế tài.

35. Khi tham gia giao thông, anh A điều khiển xe mô tô có đội mũ bảo hiểm. Trong
trường hợp này anh A đã tuân theo pháp luật.
 Sai vì Thi hành pháp luật: là thực hiện pháp luật một cách chủ động. Chủ thể thực
hiện một thao tác nhất định để thực thi pháp luật được. Vậy nên A đang thi hành
pháp luật

36. Pháp luật chỉ được bảo đảm thực hiện bằng biện pháp cưỡng chế nhà nước.
 Đúng vì khi có người VPPL, NN dùng các biện pháp để cưỡng chế và được đảm
bảo thực hiện bằng quân đội, công an.

37. Điều luật và quy phạm pháp luật là hai khái niệm đồng nhất
 Sai vì Còn Điều luật chỉ là đơn vị cơ bản có đánh số thứ tự của một văn bản quy
phạm pháp luật.

38. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước đơn nhất
 Đúng vì Nhà nước CHXHCNVN là Nhà nước đơn nhất - một nhà nước thống
nhất, trong đó, lãnh thổ quốc gia được chia thành các đơn vị hành chính lãnh thổ.

39. Cá nhân, tổ chức muốn trở thành chủ thể của quan hệ pháp luật thì phải có năng lực
chủ thể và phải tham gia vào một quan hệ pháp luật cụ thể.
 Đúng . Cá nhân hay tổ chức có năng lực pháp luật và năng lực hành vi pháp luật,
tham gia vào các quan hệ pháp luật, có quyền và nghĩa vụ pháp lí nhất định

40. Mọi hành vi trái pháp luật đều là vi phạm pháp luật
 Sai vì có những hành vi trái PL do tình thế cấp thiết, do phòng vệ chính đáng hoặc
do sự kiện bất ngờ

41. Mọi hành vi có lỗi của chủ thể vi phạm đều là vi phạm pháp luật
 Sai. Những hành vi trái pháp luật mang tính khách quan, không có lỗi của chủ thể
thực hiện hành vi đó (chủ thể không cố ý và cũng không vô ý thực hiện) thì không
bị coi là vi phạm pháp luật.

42. Pháp luật tồn tại trong mọi chế độ xã hội


 Sai. Trong xã hội cộng sản nguyên thủy chưa có nhà nước nên cũng chưa có pháp
luật
43. Tuân theo pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật trong đó cá nhân, tổ chức kiềm
chế không thực hiện những điều mà pháp luật cấm.
 Đúng . tuân thủ pháp luật là việc cá nhân, tổ chức không làm những điều pháp luật
cấm, đồng nghĩa với việc tuân thủ pháp luật được biểu hiện dưới dạng không hành
động.

44. Điều lệ của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh không phải là văn bản quy phạm
pháp luật.
 Đúng. Vì theo Điều 4 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015, sửa đổi
2020 quy định hệ thống văn bản quy phạm pháp luật không bao gồm Điều lệ của
Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh.

45. A có ý định ăn cắp xe máy. Trong trường hợp này A đã vi phạm pháp luật
 Sai. Vì Vi phạm pháp luật là một hiện tượng lệch chuẩn xã hội, gây ra hoặc đe dọa
gây ra những hậu quả xấu cho xã hội nhưng A chưa có hành động nên A k vi phạm
pháp luật
46. Mọi quy phạm pháp luật đều có 3 bộ phận: giả định, quy định và chế tài
 - Sai vì kỹ thuật lập pháp cho phép không nhất thiết phải diễn đạt đầy đủ các bộ
phận của QPPL
47. Hành vi có lỗi của chủ thể là vi phạm pháp luật
 Sai. chủ thể thực hiện không cố ý và cũng không vô ý thực hiện hoặc không nhận
thức hành vi của mình thì chủ thể đó không bị xem là có lỗi và hành vi đó không
bị xem là hành vi vi phạm pháp luật.

48. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước đơn nhất
 Đúng vì Nhà nước CHXHCNVN là Nhà nước đơn nhất - một nhà nước thống
nhất, trong đó, lãnh thổ quốc gia được chia thành các đơn vị hành chính lãnh thổ.

49. Cá nhân muốn trở thành chủ thể độc lập của quan hệ pháp luật thì chỉ cần đạt đến một
độ tuổi nhất định theo quy định của pháp luật.
 Sai vì mới chỉ có độ tuổi không thì chưa đủ mà còn phải có tiêu chuẩn về mặt lý trí
nghĩa là họ phải là người có thể làm chủ hành vi của mình.

50. Mọi văn bản do Quốc hội ban hành đều là văn bản quy phạm pháp luật.
 Sai. Không phải văn bản do Quốc hội ban hành cũng đều là văn bản quy phạm
pháp luật

51. Pháp luật mang bản chất của giai cấp cầm quyền
 Đúng . Vì Pháp luật do nhà nước ban hành phù hợp với ý chí nguyện vọng của giai
cấp cầm quyền mà nhà nước là đại diện.
52. Chỉ Quốc hội mới có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật với hình thức
là Nghị quyết.
 Sai. Ngoài quốc hội ra còn có Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân
dân tối cao, nghị quyết liên tịch giữa Ủy ban thường vụ Quốc hội với Đoàn Chủ
tịch Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam....

53. Trách nhiệm pháp lý chính là chế tài của quy phạm pháp luật.
 Sai. Chế tài là bộ phận xác định hình thức trách nhiệm pháp lý khi có hành vi vi
phạm ghi rõ trong phần quy định và giả định của quy phạm pháp luật.

54. Anh H bị mắc bệnh tâm thần, đã hành hung Ông B khiến ông B bị thương nặng. Trong
trường hợp này H bị coi là vi phạm pháp luật.
 Sai. Theo Điều 21 Bộ luật hình sự 2015 quy định người thực hiện hành vi nguy
hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần làm mất khả năng nhận thức
hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu trách nhiệm hình
sự; Tức là không có năng lực trách nhiệm hình sự

55. Chấp hành pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật trong đó chủ thể không làm
những điều mà pháp luật cấm
 Sai. Chấp hành là làm theo đúng những điều được đề ra trong văn bản quy phạm
pháp luật, văn bản cá biệt hay trong mệnh lệnh của cấp trên...

56. Cá nhân và công dân là hai khái niệm đồng nhất


 Sai. Vì công dân trước hết biểu hiện tính chất đặc biệt của mối quan hệ pháp lý
giữa Nhà nước với một số người nhất định.

57. Căn cứ để làm pháp sinh, thay đổi hoặc chấm dứt một quan hệ pháp luật là: chủ thể có
năng lực chủ thể; nội dung và khách thể.
 Sai. Vì Căn cứ để làm pháp sinh, thay đổi hoặc chấm dứt một quan hệ pháp luật là:
Quy phạm pháp luật, sự kiện pháp lý và năng lực chủ thể của cơ quan, tổ chức, cá
nhân có liên quan
58. Pháp luật chỉ tồn tại trong xã hội có giai cấp
 đúng, bởi vì theo học thuyết Mác Lênin, pháp luật chỉ ra đời, tồn tại trong xã hội
có giai cấp, là sản phẩm của xã hội đó.

59. Bộ luật Hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2015 không phải
là văn bản quy phạm pháp luật.
 Đúng vì Bộ luật Hình sự không nằm trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật
hiện hành

60. B dùng điện để bẫy chuột nhưng không may C đi qua bị điện giật chết. Trong trường
hợp này B bị coi vi phạm pháp luật.
 Đúng. Vì Hành vi sử dụng điện để bẫy, bắt động vật hoặc làm phương tiện bảo vệ
mà không được phép của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thì đều là hành vi bị
nghiêm cấm. Do vậy B đã vi phạm pháp luật

61. Văn bản quy phạm pháp luật là hình thức cơ bản, chủ yếu của pháp luật.
 Đúng. Vì Sở dĩ văn bản quy phạm pháp luật là hình thức chủ yếu của pháp luật
nước hiện nay là vì: Nó có nhiều ưu điểm, đủ khả năng khắc phục những hạn chế
của tập quán pháp và án lệ

62. Chỉ Chủ tịch nước mới có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật dưới tên
gọi là Quyết định.
 Sai. Theo điều 4 chương I Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Thủ tướng Chính
phủ cũng có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật với tên gọi là Quyết định

63. Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam
 Đúng. Cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân Việt Nam và là cơ quan quyền lực
Nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được gọi là
Quốc hội.

64. Bất kỳ cá nhân, tổ chức nào cũng là chủ thể quan hệ pháp luật
 Sai. Vì Cá nhân hay tổ chức phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi pháp
luật, tham gia vào các quan hệ pháp luật, có quyền và nghĩa vụ pháp lí nhất định
thì mới có thể trở thành chủ thể quan hệ pháp luật
65. Hành vi vi phạm đạo đức là vi phạm pháp luật
 Sai. Không phải Hành vi vi phạm đạo đức cũng là vi phạm pháp luật ví dụ Bất
hiếu với cha mẹ

66. Pháp luật do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận và được bảo đảm thực hiện bằng sức
mạnh của nhà nước.\
 Đúng. Pháp luật do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận và được bảo đảm thực hiện
bằng sức mạnh của nhà nước là thể hiện đặc trưng tính quyền lực, bắt buộc chung.

67. Anh M đi bỏ phiếu bầu đại biểu Quốc hội. Trong trường hợp này anh M đã chấp hành
pháp luật.
 Sai . Anh M đi bỏ phiếu bầu đại biểu Quốc hội. Trong trường hợp này anh M đã sử
dụng pháp luật

68. Ông A là người có thu nhập cao, hàng năm ông A chủ động đến cơ quan thuế để nộp
thuế thu nhập cá nhân. Trong trường hợp này ông A đã tuân theo pháp luật.
 Sai. Ông A là người có thu nhập cao, hàng năm ông A chủ động đến cơ quan thuế
để nộp thuế thu nhập cá nhân. Trong trường hợp này ông A đã thi hành pháp luật

69. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 là một loại văn bản
quy phạm pháp luật.
 Đúng vì hệ thống văn bản Quy phạm pháp luật theo quy định hiện hành của pháp
luật Việt Nam bao gồm Hiến pháp.

70. Sử dụng pháp luật là là hình thức thực hiện pháp luật trong đó chủ thể chủ động làm
những gì mà pháp luật cho phép.
 Đúng. Sử dụng pháp luật là một hình thức tuân thủ pháp luật, khi một cá nhân, tổ
chức thực hiện các hành vi cụ thể, chủ động và tích cực đối với các quyền của
mình trong những việc mà pháp luật cho phép

71. Pháp luật chỉ được bảo đảm thực hiện bằng biện pháp cưỡng chế nhà nước.
 Sai. Vì Pháp luật chỉ được bảo đảm thực hiện bằng biện pháp giáo dục , thuyết phục,
cưỡng chế
72. Chỉ Bộ trưởng mới có thẩm quyền ban hành văn bản quy pháp pháp luật với hình thức
là Thông tư.
 Sai. Vì ngoài ra còn có Thông tư của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao; thông tư
của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao... có thẩm quyền ban hành văn
bản quy pháp pháp luật với hình thức là Thông tư.

73. Áp dụng pháp luật khi có vi phạm pháp luật chỉ là một trong những trường hợp cần áp
dụng pháp luật.
 Đúng. Vì Áp dụng pháp luật khi có vi phạm pháp luật chỉ là một trong những
trường hợp cần áp dụng pháp luật. Ngoài ra còn có xảy ra tranh chấp về quyền và
nghĩa vụ pháp lí giữa các bên tham gia quan hệ pháp luật mà họ không tự giải
quyết được, Khi cần áp dụng các biện pháp cưỡng chế nhà nước trong các trường
hợp khác,...

74. Hành vi của anh B điều khiển xe mô tô vượt đèn đỏ là hành vi thực hiện pháp luật.

 Sai. Vì Người điều khiển xe mô tô vượt đèn đỏ thuộc vi phạm luật hành chính.
75. Cảnh sát giao thông phạt tiền anh A vì A điều khiển xe mô tô phóng nhanh vượt ẩu.
Trong trường hợp này cảnh sát giao thông đã áp dụng pháp luật để phạt tiền anh A.
 Đúng. Vì A điều khiển xe mô tô phóng nhanh vượt ẩu nên cảnh sát giao thông đã
áp dụng pháp luật  nhằm cá biệt hoá quy phạm pháp luật vào các trường hợp cụ
thể, đối với cá nhân, tổ chức cụ thể.
CÂU HỎI LÝ THUYẾT
1. Trình bày nguồn gốc ra đời của nhà nước theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin?
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin thì nhà nước nảy sinh từ xã hội và là sản
phẩm có điều kiện của xã hội loài người. Nhà nước không ra đời ngay từ khi xã hội loài người
mới xuất hiện mà chỉ ra đời khi xã hội đã phát triển đến giai đoạn nhất định. Đó là giai đoạn
có sự phân chia con người thành giai cấp, thành kẻ giàu, người nghèo, thành người tự do, chủ
nô và nô lệ, thành kẻ giàu có đi bóc lột và kẻ nghèo khó bị bóc lột, tức là thành những lực
lượng xã hội có khả năng kinh tế và địa vị xã hội khác biệt nhau, mâu thuẫn và đấu tranh với
nhau; đồng thời có sự tích tụ của cải và tập trung quyền lực vào tay một số ít người, một lực
lượng xã hội nào đó. Trong lịch sử xã hội loài người đã có thời kỳ chưa có nhà nước, đó là
thời kỳ cộng sản nguyên thủy, song tất cả những nguyên nhân và điều kiện dẫn đến sự ra đời
của nhà nước lại nảy sinh trong thời kỳ này.
2. Phân tích khái niệm và đặc điểm của nhà nước?
1 – Cơ quan nhà nước là gì?
Cơ quan nhà nước là bộ phận cơ bản cấu thành nhà nước, bao gồm số lượng người nhất
định, được tổ chức và hoạt động theo quy định của pháp luật, nhân danh nhà nước thực hiện
quyền lực nhà nước.
2 – Đặc điểm của Cơ quan nhà nước?
a – Cơ quan nhà nước ỉà bộ phận cơ bản cấu thành nhà nước và đó chỉ là những bộ phận
then chốt, thiết yếu của nhà nước.
Mỗi cơ quan nhà nước gồm một số lượng người nhất định, có thể gồm một người
(Nguyên thủ quốc gia ở nhiều nước) hoặc một nhóm người (Quốc hội, Chính phủ…).
b – Cơ quan nhà nước do nhà nước và nhân dân thành lập. Tùy thuộc chức năng, nhiệm
vụ của nhà nước, cơ chế tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước… mà nhà nước có thể thành lập
mới, sáp nhập, chia tách hay xóa bỏ một cơ quan nào đó trong bộ máy nhà nước. Nhà nước có thể
tổ chức các cuộc bầu cử để nhân dân bầu cử ra các cơ quan nhà nước mới, tức là tổ chức cho nhân
dân tham gia thành lập các cơ quan nhà nước. Ví dụ, bầu Quốc hội và Hội đồng nhân dân ở nước
ta.
c – Tổ chức và hoạt động của cơ quan nhà nước do pháp luật quỵ định. Pháp luật quy định
cụ thể về vị trí, tính chất, vai trò, con đường hình thành, cơ cấu tổ chức, nội dung, hình thức,
phương pháp hoạt động… của mỗi cơ quan trong bộ máy nhà nước.
d – Mỗi cơ quan nhà nước có những chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn riêng do pháp luật
quy định. Ví dụ, chức năng của Nghị viện (Quốc hội) là lập pháp, quyết định những vấn đề quan
trọng của đất nước;… chức năng của Toà án là xét xử các vụ án.
đ – Mỗi cơ quan nhà nước được trao cho những quyền năng nhất định để thực hiện những
nhiệm vụ, quyền hạn nhất định. Toàn bộ nhiệm vụ và quyền hạn mà một cơ quan nhà nước được
thực hiện và phải thực hiện tạo nên thẩm quyền của cơ quan nhà nước. Cơ quan nhà nước nhân
danh và sử dụng quyền lực nhà nước, sử dụng những quyền năng nhất định để thực hiện thẩm
quyền của mình.
Quyền năng mà cơ quan nhà nước được sử dụng để thực hiện thẩm quyền của mình gồm
có:
– Có quyền ban hành những quyết định nhất định dưới dạng quy tắc xử sự chung (ví dụ,
luật của Quốc hội) hoặc quyết định cá biệt (ví dụ, bản án của Tòa án) là những quyết định có giá
trị bắt buộc phải tôn trọng hoặc thực hiện đối với các tổ chức và cá nhân có liên quan;
– Có quyền yêu cầu các tổ chức và cá nhân có liên quan phải thực hiện nghiêm chỉnh
những quyết định do nó hoặc các chủ thể khác có thẩm quyền ban hành;
– Có quyền kiểm tra, giám sát việc thực hiện và sửa đổi, bổ sung hoặc thay thế các quyết
định đó;
– Có quyền sử dụng các biện pháp cần thiết, trong đó có cả các biện pháp cưỡng chế nhà
nước để bảo đảm thực hiện các quyết định đó.

3. Phân tích bản chất, chức năng và hình thức của Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam?
Bản chất của nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa việt nam theo Hiến pháp 2013 là nhà nước
của dân, do dân và vì dân. Cụ thể:
– Nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước;
– Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của tất cả các dân tộc trên lãnh
thổ Việt Nam, là biểu hiện tập trung của khối đại đoàn kết toàn dân tộc;
– Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được tổ chức và hoạt động trên cơ sở
nguyên tắc bình đẳng trong mối quan hệ giữa nhà nước và công dân;
– Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước dân chủ và pháp quyền.
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là kiểu nhà nước xã hội chủ nghĩa.
--Nhà nước bảo đảm cho nhân dân thực sự tham gia vào quản lý nhà nước và quản lý xã hội,
đảm bảo quyền ứng cử cũng như quyền bầu cử của nhân dân, thực sự có quyền lựa chọn
những người đại biểu xứng đáng của mình vào cơ quan quyền lực nhà nước.

Chức năng
Ta căn cứ vào tính chất chức năng phân thành:
 Chức năng cơ bản
 Chức năng không cơ bản.
Ta căn cứ vào thời gian thực hiện chức năng:
 Chức năng lâu dài
 Chức năng tạm thời
Ta căn cứ vào đối tượng của chức năng:
 Chức năng đối nội (là chức năng cơ bản)
 Chức năng đối ngoại.
Nhà nước có hai chức năng chính phân theo đối tượng là chức năng đối nội và chức
năng đối ngoại, cụ thể:
Chức năng đối nội là những mặt hoạt động chủ yếu của nhà nước trong nội bộ đất
nước. Ví dụ: Đảm bảo trật tự xã hội, trấn áp những phần tử chống đối chế độ, bảo vệ chế độ
kinh tế… la những chức năng đối nội của các nhà nước.
Chức năng đối ngoại thể hiện vai trò của nhà nước trong quan hệ với các nhà nước và
dân tộc khác. Ví dụ: phòng thủ đất nước, chống sự xâm lược từ bên ngoài, thiết lập các mối
bang giao với các quốc gia khác…
Các chức năng đối nội và đối ngoại có quan hệ mật thiết với nhau. Việc xác định và
thực hiện các chức năng đối ngoại luôn luôn phải xuất phát từ tình hình thực hiện các chức
năng đối nội. Đồng thời, kết quả của việc thực hiện các chức năng đối ngoại sẽ tác động mạnh
mẽ tới việc tiến hành các chức nang đối nội.
Để thực hiện các chức năng đối nội và đối ngoại, nhà nước sử dụng nhiều hình thức và
phương pháp hoạt động khác nhau, trong đó có ba hình thức hoạt động chính là: Xây dựng
pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật và bảo vệ pháp luật. Trong mỗi nhà nước, việc sử dụng
ba hình thức hoạt động này cũng có những đặc điểm khác nhau. Tùy thuộc vào tình hình cụ
thể của mỗi nước, các phương pháp hoạt động để thực hiện các chức năng của nhà nước cũng
rất đa dạng nhưng nhìn chung có hai phương pháp chính là thuyết phục và cưỡng chế.
Trong các nhà nước bóc lột, cưỡng chế được sử dụng rộng rãi và là phương pháp chủ
yếu để thực hiện các chức năng của nhà nước. Ngược lại, trong các nhà nước xã hội chủ
nghĩa, thuyết phục là phương pháp cơ bản, còn cưỡng chế được sử dụng kết hợp và dựa trên
cơ sở của thuyết phục và giáo dục. Các chức năng và nhiệm vụ của nhà nước được thực hiện
thông qua bộ máy nhà nước.
Bộ máy nhà nước là hệ thống các cơ quan từ trung ương xuống địa phương, bao gồm
nhiều loại cơ quan như cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp … Toàn bộ hoạt động của bộ
máy nhằm thực hiện các chức năng của nhà nước, phục vụ cho lợi ích của giai cấp thống trị.
Bộ máy nhà nước bao gồm nhiều cơ quan, mỗi cơ quan cũng có những chức năng, nhiệm vụ
riêng phù hợp với phạm vi quyền hạn được giao.
Vì vậy cần phân biệt chức năng nhà nước với chức năng của mỗi cơ quan nhà nước cụ
thể. Chức năng của nhà nước là phương diện hoạt động chủ yếu của toàn thể bộ máy nhà
nước, trong đó mỗi cơ quan khác nhau của nhà nước đều tham gia thực hiện ở những mức độ
khác nhau. Chức năng của một cơ quan chỉ là những mặt hoạt động chủ yếu của riêng cơ quan
đó nhằm góp phần thực hiện những chức năng và nhiệm vụ chung của nhà nước.
Hình thức
(i) Hình thức chính thể: Cộng hòa dân chủ – Cộng hòa xã hội chủ nghĩa.
Chính thể cộng hòa dân chủ của nhà nước Công hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có nhiều đặc
điểm riêng khác với cộng hòa dân chủ tư sản.
(ii) Hình thức cấu trúc nhà nước: Công hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước
đơn nhất, có độc lập, chủ quyền, có một hệ thống pháp luật thống nhất, có hiệu lực trên phạm
vi toàn quốc., được Hiến pháp 2013 quy định tại Điều 1: Nước Công hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam là một nhà nước độc lập, có chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bao gồm
đất liền, các hải đảo, vùng biển và vùng trời.

4. So sánh pháp luật với các quy phạm xã hội khác?


Khái niệm:
 Quy phạm pháp luật:
Quy phạm pháp luật là những quy tắc xử sự chung do nhà nước đặt ra hoặc thừa nhận
và bảo đảm thực hiện. Phải đảm bảo thực hiện trong tính bắt buộc chung, trong quyền lực nhà
nước. Mọi cá nhân, tổ chức trong xã hội đều phải đảm bảo tuân thủ.
Nhằm mục đích để điều chỉnh các mối quan hệ xã hội theo những định hướng, đạt
được mục đích đề ra trong quản lý nhà nước. Tiếp cận các công bằng và bình đẳng trong xã
hội, cũng như bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp cho người dân.
 Quy phạm xã hội:
Quy phạm xã hội là những quy tắc xử sự chung trong xã hội. Được xây dựng và tồn tại lâu
đời, nhằm điều chỉnh các mối quan hệ giữa con người với con người trong một cộng đồng,
một khu vực nhất định. Các quy phạm này được thực hiện với phạm vi xã hội nhất định, có
giới hạn người tham gia và tuân thủ. Mọi người tham gia vì tính hợp lý, bảo đảm cho các nhu
cầu hay quyền lợi nhất định của họ.
Nguồn gốc:
 Quy phạm pháp luật:
Là kết quả của cả quá trình tư duy sáng tạo. Thực hiện với hoạt động của các cơ quan nhà
nước về Lập pháp, Hành pháp, Tư pháp. Bộ máy nhà nước phân công và phối hợp để mang
đến hiệu quả quản lý chung trên toàn xã hội. Thể hiện ý chí của nhà nước, do Nhà nước ban
hành hoặc thừa nhận. Khi được quy định là quy phạm pháp luật sẽ được ghi nhận trong luật
và các văn bản có giá trị pháp lý khác.
 Quy phạm xã hội:
Được hình thành từ thực tiễn đời sống xã hội, từ đó áp dụng trong thời gian dài. Bắt nguồn từ
các quan niệm về đạo đức, lối sống. Hình thành nên các quy tắc chung cho nhóm người trong
cân bằng các quyền và lợi ích.

Phạm vi:
 Quy phạm pháp luật:

Áp dụng rộng rãi trên toàn lãnh thổ đất nước, quốc gia và toàn bộ người dân.Thực hiện quy
định với tất cả các khía cạnh, lĩnh vực trong tiếp cận hoạt động của con người. Mang đến quy
tắc, chuẩn mực đối với mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
 Quy phạm xã hội:
Phạm vi hẹp hơn, chỉ áp dụng trong một tổ chức hay một cộng đồng nhất định. Thực hiện với
quy phạm xã hội do người dân nhất chí thực hiện. Mang đến các thống nhất, thỏa thuận thành
lập nguyên tắc chung.
Mục đích:
 Quy phạm pháp luật:
Để điều chỉnh mối quan hệ xã hội dựa theo ý chí của nhà nước. Trong đó, nguyên tắc quản lý
nhà nước là tìm kiếm quyền và lợi ích cho người dân khi tham gia vào xã hội. Cũng như cấm
các hành vi xâm phạm đến quyền và lợi ích của chủ thể khác được pháp luật bảo vệ.

 Quy phạm xã hội:


Để điều chỉnh mối quan hệ xã hội giữa con người với con người. Thông thường gắn với yếu
tố tình cảm, cảm xúc trong một nhóm người, một cộng đồng.

Hình thức:
 Quy phạm pháp luật:
Thông qua hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật. Được cơ quan nhà nước có thẩm quyền
ban hành, có hiệu lực thi hành trên toàn quốc. Các chủ thể liên quan bắt buộc tuân thủ quy
định này.

 Quy phạm xã hội:


Bằng hình thức truyền miệng, quy tắc ngầm trong cuộc sống. Được duy trì khi thường xuyên
sử dụng tạo thành nguyên tắc chung. Các cá nhân hay tổ chức quản lý với uy tín được công
nhận, tạo ra sức ảnh hưởng với cộng đồng.

Nội dung:
 Quy phạm pháp luật:
– Là quy tắc xử sự với việc được làm, việc phải làm, việc không được làm. Từ đó hình thành
các quyền, nghĩa vụ phải tuân thủ.
– Mang tính chất bắt buộc chung đối với tất cả mọi người trong xã hội. Như pháp luật nước ta
được áp dụng cho tất cả người dân Việt nam và người nước ngoài sinh sống trên lãnh thổ Việt
nam.
– Được thực hiện bằng biện pháp cưỡng chế của Nhà nước. Từ giáo dục, thuyết phục đến
cưỡng chế là biện pháp mạnh nhất. Nhà nước có sức mạnh của quyền lực, cùng các chế tài tạo
nên uy quyền.
– Mang tính quy phạm chuẩn mực, có giá trị pháp lý cao nhất. Có giới hạn, các chủ thể buộc
phải xử sự trong phạm vi pháp luật cho phép. Từ đó mang đến hiệu quả thống nhất trong tổ
chức, hoạt động xã hội.
– Thể hiện ý chí và bảo vệ quyền lợi cho giai cấp thống trị. Ngoài ra cũng thực hiện các đại
diện quyền lực quản lý. Trong đó, quyền lực tối cao thuộc về nhân dân, nhà nước là đại diện
thống nhất quyền lực.
 Quy phạm xã hội:
– Là các quan điểm chuẩn mực đối với đời sống tinh thần, tình cảm của con người. Được thừa
nhận trong các giá trị chuẩn mực mang lại cho nhận thức và tư duy của con người.
– Không mang tính bắt buộc thực hiện. Tuy nhiên có thể mất uy tín trong cộng đồng, không
nhận được sự tôn trọng từ nhóm người của cộng đồng.
– Không được bảo đảm thực hiện bằng biện pháp cưỡng chế. Được thực hiện bằng 1 cách tự
nguyện, tự giác.
– Không có sự thống nhất, không rõ ràng, cụ thể như quy phạm pháp luật. Chỉ mang tính chất
thừa nhận vì tính hợp lý trong tổ chức.
– Thể hiện ý chí và bảo vệ quyền lợi cho đông đảo tầng lớp và tất cả mọi người. Mang đến
các ý nghĩa nhận thức, phát triển tư duy. Giúp con người tiếp cận với các chuẩn mực đạo đức,
cũng như thúc đẩy hiệu quả tuân thủ pháp luật. Các quy phạm này không được trái với quy
phạm pháp luật.
Đặc điểm:
Quy phạm pháp luật:
– Dễ thay đổi, làm sao phù hợp với thực tiễn nhu cầu tiếp cận của con người. Cũng như điều
chỉnh để mang đến chặt chẽ của quy định.
– Có sự tham gia của Nhà nước, do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận.
-Cứng rắn, không tình cảm, thể hiện sự răn đe.
Quy phạm xã hội:

– Không dễ thay đổi, thường mang đến hiệu quả ứng dụng và áp dụng thường xuyên.
– Do tổ chức chính trị, xã hội, tôn giáo quy định hay tự hình thành trong xã hội. Tạo thành
nguyên tắc chung trên địa bàn, hay trong một nhóm người.
– Là những quy tắc xử sự không có tính bắt buộc chỉ có hiệu lực đối với thành viên tổ chức.
Là những người mong muốn nhận được các lợi ích từ tổ chức.
Phương thức tác động:
Quy phạm pháp luật:
Thuyết phục, cưỡng chế bằng quyền lực nhà nước.
Quy phạm xã hội:
Chịu tác động từ dư luận xã hội. Như các nhận xét, đánh giá và cái nhìn của xã hội về hành vi
thực hiện.

5. Phân tích các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam
 Nguyên tắc tập quyền
Đây là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ở các nhà nước xã
hội chủ nghĩa trước đây (tập quyền xã hội chủ nghĩa). Tập quyền nghĩa là quyền lực nhà nước
tập trung vào một nơi, một cá nhân, một cơ quan. Nguyên tắc tập quyền trong tổ chức và hoạt
động của bộ máy nhà nước thể hiện ở chỗ quyền ra quyết định được tập trung tại cơ quan
quyền lực nhà nước cao nhất, cơ quan này có quyền quyết định mọi vấn đề quan trọng của đất
nước mà không có sự tham gia hoặc tham gia rất ít của các cơ quan khác trong bộ máy nhà
nước.

Trong các nhà nước xã hội chủ nghĩa trước đây có quan niệm cho rằng, quốc hội
những nước này phải khác nghị viện tư sản ở chỗ nó phải vừa là cơ quan lập pháp, vừa là cơ
quan hành pháp. Hiên pháp các nước này đều quy định Quốc hội (Đại hội đại biểu nhân dân
toàn quốc, Xô Viết tối cao...) là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, bởi vậy về mặt pháp lí
mọi quyền lực tối cao của nhà nước đều tập trung vào quốc hội. Quốc hội có toàn quyền quyết
định mọi vấn đề quan trọng của đất nước, ngoài những thẩm quyền được hiến pháp quy định,
quốc hội còn có thể tự quy định cho mình những nhiệm vụ, quyền hạn khác. Quốc hội là cơ
quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp, thông qua hiến pháp, quốc hội thành lập và trao
quyền cho các cơ quan nhà nước khác. Chính vì vậy, các cơ quan nhà nước khác được coi như
phái sinh từ quốc hội, nhận quyền lực từ quốc hội. Trong mối quan hệ với chính phủ, hiến
pháp xác định chính phủ là cơ quan chấp hành và hành chính nhà nước cao nhất của quốc hội
(Điều 104 Hiến pháp Việt Nam năm 1980).

 Nguyên tắc phân chia quyền lực nhà nước (nguyên tắc phân quyền)
Tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước vốn có mầm mống từ thời cổ đại, được đề cập trong
các tác phẩm của Aristote và đã được vận dụng vào việc tổ chức bộ máy nhà nước Athens, La
Mã. Đen thời kì cách mạng tư sản, tư tưởng này được kế thừa và phát triển bởi Locke,
Montesquieu, Rousseau... Hiện nay, tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước đã được thể chế
hoá thành pháp luật, trở thành một trong những nguyên tắc cơ bản, quan trọng bậc nhất trong
tổ chức và hoạt động của bộ máy các nhà nước tư sản trên thế giới. Nguyên tắc này bao gồm
những nội dung cơ bản sau:
Một là, quyền lực nhà nước được phân chia thành nhiều loại quyền khác nhau như quyền lập
pháp, quyền hành pháp, quyền tư pháp... và được trao cho các cơ quan nhà nước khác nhau
thực hiện một cách độc lập, mỗi cơ quan chỉ thực hiện một quyền. Điều này đảm bảo không
một cơ quan nào nắm trọn Vẹn quyền lực nhà nước, cũng như không một cơ quan nào có thể
lấn sân sang hoạt động của cơ quan khác. Thực chất của sự phân chia quyền lực là sự phân
định một cách rạch ròi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan nhà nước, đồng thời
đảm bảo sự chuyên môn hoá trong việc thực hiện quyền lực nhà nước. Các cơ quan lập pháp,
hành pháp, tư pháp... đều thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình trên cơ sở pháp luật.
Hai là, giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp... còn có sự kiềm chế, đối trọng,
chế ước lẫn nhau theo phương châm không cơ quan nào nằm ngoài sự kiểm soát, giám sát từ
phía cơ quan khác. Điều này nhằm ngăn ngừa tình trạng lạm quyền, chuyên quyền, độc đoán
hoặc thiếu trách nhiệm trong việc thực hiện quyền lực nhà nước, qua đó bảo đảm quyền, lợi
ích họp pháp, chính đáng của các cá nhân, tổ chức trong xã hội cũng như có thể tránh được
những mối nguy hại khác. Bên cạnh đó, sự kiểm soát, giám sát lẫn nhau giữa các cơ quan lập
pháp, hành pháp, tư pháp cũng thể hiện sự phối hợp với nhau nhằm tạo nên sự thống nhất của
quyền lực nhà nước.
Ở các nước tư bản, tuỳ thuộc vào điều kiện kinh tế, xã hội cụ thể, việc áp dụng nguyên
tắc phân quyền trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước không hoàn toàn giống nhau.
Thực tế cho thấy, có thể có ba mô hình áp dụng nguyên tắc này trong tổ chức và hoạt động
của bộ máy nhà nước tư sản, đó là mô hình phân quyền cứng rắn, thể hiện điển hình ở Mỹ;
mô hình phân quyền mềm dẻo, thể hiện điển hình ở Anh, Đức; mô hình phân quyền hỗn họp
(trung gian), thể hiện điển hình ở Pháp, Nga. Sự khác nhau giữa ba mô hình này thể hiện ở cơ
cấu các thiết chế quyền lực tối cao, địa vị của từng thiết chế cũng như mối quan hệ giữa
chúng.
Hiện nay, quan niệm về phân chia quyền lực nhà nước không chỉ giới hạn ở việc phân
quyền theo chiều ngang (lập pháp, hành pháp, tư pháp...). Lí luận và thực tiễn cho thấy rằng,
sự phân chia quyền lực nhà nước còn diễn ra theo chiều dọc, giữa nhà nước liên bang với nhà
nước thành viên, giữa chính quyền trung ương với chính quyền địa phương, giữa các cấp
chính quyền địa phương với nhau.

Nguyên tắc bộ máy nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở Hiến pháp và pháp
luật (nguyên tắc pháp chế)
Đây là nguyên tắc đòi hỏi việc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước không thể
được tiến hành một cách tuỳ tiện, độc đoán theo ý chí cá nhân của người cầm quyền mà phải
dựa trên cơ sở các quy định của Hiến pháp và pháp luật. Hầu hết các nhà nước đương đại đều
có hiến pháp, đồng thời hệ thống pháp luật có quy định khá đầy đủ về cơ cấu tổ chức bộ máy
nhà nước, trình tự thành lập, chức năng, thẩm quyền... của các cơ quan, nhân viên nhà nước,
về mặt tổ chức, nguyên tắc này đòi hỏi việc thành lập mới, giải thể, chia tách, sáp nhập một
cơ quan nhà nước, cơ cấu của nó, vấn đề tuyển dụng, bổ nhiệm các thành viên trong cơ quan
đó... đều phải được tiến hành theo đúng quy định của Hiến pháp và pháp luật, về mặt hoạt
động, nguyên tắc này đòi hỏi các cơ quan và nhân viên nhà nước phải thực hiện đúng đắn, đầy
đủ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, theo đúng trình tự, thủ tục đã được Hiến pháp
và pháp luật quy định…

 Nguyên tắc đảm bảo chủ quyền nhân dân


Nguyên tắc này được áp dụng phổ biến trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà
nước ở các nhà nước đương đại.
Trong các xã hội trước đây, chủ quyền quốc gia thuộc về nhà nước. Nhà nước có
quyền quyết định tối cao mọi vấn đề của đất nước, người dân bị coi như “bề tôi” của nhà
nước, được gọi là thần dân, họ phải phục tùng nhà nước một cách tuyệt đối. Trong xã hội hiện
đại, chủ quyền quốc gia thuộc về nhân dân. Nhân dân là người chủ tối cao của đất nước, là
người thành lập ra nhà nước, trao quyền cho nhà nước và kiểm tra, giám sát hoạt động của
nhà nước. Nhân dân có quyền quyết định tối cao các vấn đề quan trọng của đất nước, nhà
nước phải phục tùng các quyết định của nhân dân.
Hiện nay, nhìn chung, Hiến pháp và pháp luật của các quốc gia trên thế giới đều quy định chủ
quyền thuộc về nhân dân; quy định các hình thức để nhân dân tham gia vào tổ chức và hoạt
động của bộ máy nhà nước; quy định vị trí, vai trò của cơ quan dân cử trong bộ máy nhà
nước; quy định những vấn đề quan trọng của đất nước mà nhà nước không được tự ý quyết
định, nhà nước phải trưng cầu ý kiến nhân dân; quy định trách nhiệm của nhà nước trong việc
thừa nhận, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ các quyền con người, quyền công dân; quy định vai trò
của xã hội dân sự…
 Nguyên tắc tập trung dân chủ
Đây là nguyên tắc đặc thù trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước xã hội chủ
nghĩa.
Tập trung dân chủ là nguyên tắc kết hợp hài hoà giữa chỉ đạo, lãnh đạo tập trung và
mở rộng dân chủ. ở các nước xã hội chủ nghĩa, một mặt luôn coi trọng mở rộng dân chủ,
nhưng đồng thời cũng nhấn mạnh vai trò chỉ đạo, lãnh đạo tập trung. Chính vì vậy, trong tổ
chức hoạt động của bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa nói riêng cũng như hoạt động của xã
hội nói chung đều luôn coi trọng nguyên tắc này.
tắc này đòi hỏi, trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, một mặt phải bảo
đảm sự chỉ đạo, lãnh đạo tập trung, thống nhất của trung ương với địa phương, của cấp trên
với cấp dưới và mặt khác phải mở rộng dân chủ, phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của
địa phương và cấp dưới; phải coi trọng vai trò của tập thể nhưng mặt khác phải đề cao vai trò,
trách nhiệm cá nhân của người lãnh đạo; phát huy tính năng động, sáng tạo của cấp dưới
nhưng luôn phải đảm bảo sự chỉ đạo tập trung thống nhất của cấp trên; quyết định thuộc về số
đông nhưng phải lắng nghe ý kiến của thiểu số…

Nguyên tắc bảo đảm sự lãnh đạo của đảng cầm quyền
Trong xã hội đương đại, ở hầu hết các nước trên thế giới, nhà nước đều chịu sự lãnh
đạo của một đảng phái hoặc một liên minh các đảng phái chính trị nhất định. Ở các nước tư
bản, mỗi cuộc bầu cử nghị viện (quốc hội) thực chất là một cuộc chạy đua giữa các đảng phái
chính trị để giành quyền lãnh đạo nhà nước. Bởi vì, sau cuộc bầu cử nghị viện, đảng nào
chiếm đa số ghế trong nghị viện thì sẽ trở thành đảng cầm quyền, đứng ra thành lập chính
phủ, lãnh tụ của đảng đó sẽ giữ chức vụ thủ tướng chính phủ, đa số các ghế bộ trưởng sẽ
thuộc về đại diện đảng đó và đương nhiên, các chính sách của chính phủ sẽ chịu sự chi phối
của đảng này. Nếu không có đảng nào chiếm đa số ghế như quy định thì đảng nào có nhiều
ghế nhất có thể đứng ra liên minh với một hoặc một số đảng khác để thành lập chính phủ. Các
đảng đó sẽ thỏa thuận với nhau để lựa chọn những người nắm giữ các chức vụ thủ tướng, bộ
trưởng và chính phủ sẽ chịu sự chi phoi của liên minh các đảng phái đó. Tuy nhiên, một số
nước thường có truyền thống hai đảng thay nhau cầm quyền, ví dụ, ở Mỹ, hai đảng đó là Dân
chủ và Cộng hoà, còn ở Anh thì đó là hai đảng Lao động và Bảo thủ; vì thế, các chính sách
của các nhà nước ttên về cơ bản chịu sự chi phối của các đảng này.

Ở các nước thuộc khối xã hội chủ nghĩa trước đây và ở Việt Nam, Trung Quốc, Cu
Ba... hiện nay, tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước luôn được đặt dưới sự lãnh đạo của
Đảng cộng sản - đội tiên phong của giai cấp công nhân. Các chức vụ quan trọng trong bộ máy
nhà nước đều do Đảng đề cử, giới thiệu. Nhà nước đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, là nơi thể
chế đường lối, chính sách của Đảng, tổ chức thực hiện và bảo vệ đường lối, chính sách của
Đảng. Vì thế, các mục tiêu chính trị, đường lối, chính sách của Đảng sẽ được nhà nước thể
chế hóa thành pháp luật và tổ chức thực hiện trong thực tế.

6. Phân tích khái niệm và đặc điểm của quy phạm pháp luật?
Quy phạm pháp luật là quy tắc xử sự chung do nhà nước đặt ra hoặc thừa nhận và bảo đảm
thực hiện để điều chỉnh các quan hệ xã hội theo định hướng, mục đích của nhà nước .
Đóng vai trò quan trọng tạo nên “xương sống” của hệ thống pháp luật, văn bản quy phạm
pháp luật của cơ quan quyền lực nhà nước mang những đặc điểm cơ bản sau:

- Thứ nhất, văn bản quy phạm pháp luật do chủ thể có thẩm quyền ban hành.Không phải mọi
cơ quan nhà nước hoặc mọi cá nhân đều có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp
luật. Tại điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp
luật năm 2002 đã quy định rõ,những cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành văn bản quy
phạm pháp luật bao gồm: QH, UBTVQH, Chủ tịch nước, Hội đồng thẩm phán toà án nhân
dân tối cao, Chính phủ, HĐND các cấp, UBND các cấp; có sự phối hợp giữa những cơ quan
nhà nước, giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền với cơ quan trung ương của tổ chức chính
trị- xã hội để ban hành văn bản quy phạm pháp luật liên tịch.

Những cá nhân có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật là Thủ tướng chính phủ,
chánh án Toà án nhân dân tối cao, viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, bộ trưởng, thủ
trưởng cơ quan ngang bộ. Vì vậy, dấu hiệu đầu tiên để khẳng định một văn bản quy phạm
pháp luật của cơ quan quyền lực nhà nước là văn bản đó phải được ban hành bởi QH và
HĐND các cấp.

- Thứ hai, văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan quyền lực nhà nước được ban hành theo
thủ tục, trình tự luật định. Xuất phát từ tầm quan trọng của văn bản quy phạm pháp luật do cơ
quan quyền lực nhà nước ban hành đối với hoạt động quản lý nhà nước, từ yêu cầu đảm bảo
sự chặt chẽ, thống nhất trong hoạt động xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, trình tự, thủ
tục ban hành văn bản quy phạm pháp luật luôn đóng vai trò hết sức quan trọng.

Cho nên, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2002, Luật Ban hành văn bản quy phạm
pháp luật của HĐND và UBND 2004 đã quy định trình tự, thủ tục ban hành văn bản quy
phạm pháp luật của hệ thống cơ quan quyền lực từ trung ương đến địa phương khá đầy đủ và
hợp lý. Theo đó, một văn bản quy phạm pháp luật của QH hay HĐND được ban hành qua
các bước: lập chương trình, soạn thảo, lấy ý kiến góp ý cho dự thảo văn bản, thẩm tra, thẩm
định, đến thông qua, ký, công bố tất cả đều phải tuân thủ đúng quy định của luật ( mục 2 đến
mục 9 chương III của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật và chương III Luật Ban
hành văn bản quy phạm pháp luật của HĐND và UBND). Việc tuân thủ những quy định về
trình tự, thủ tục trong hoạt động ban hành văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan quyền lực
Nhà nước là điều kiện để đảm bảo nguyên tắc pháp chế XHCN, nguyên tắc cơ bản trong quá
trình xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.

- Thứ ba, văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan quyền lực Nhà nước chứa đựng các quy
định xử sự chung (quy phạm pháp luật). Các quy tắc xử sự chính là những khuôn mẫu, chuẩn
mực mà mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân phải tuân theo khi tham gia các quan hệ xã hội được
quy tắc đó điều chỉnh. Về mặt hình thức,quy phạm pháp luật chứa đựng trong các văn bản quy
phạm pháp luật. Trong mối quan hệ này, quy phạm pháp luật là nội dung còn văn bản quy
phạm pháp luật là hình thức. Đây là đặc điểm quan trọng nhất của văn bản quy phạm pháp
luật.

Do chứa đựng và thể hiện ý chí của nhà nước với nội dung là các quy tắc xử sự cho nên văn
bản quy phạm pháp luật của cơ quan quyền lực luôn luôn có giá trị bắt buộc chung và được
đảm bảo thực hiện bằng Nhà nước với nhiều biện pháp như tuyên truyền, giáo dục, tổ chức,
hành chính, kinh tế và đặc biệt là biện pháp cưỡng chế.

- Thứ tư, văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan quyền lực Nhà nước có đối tượng áp dụng
chung, được áp dụng nhiều lần trong thực tiễn. Với nội dung là các quy phạm pháp luật, văn
bản quy phạm pháp luật của cơ quan quyền lực tác động lên nhiều đối tượng, đó là một nhóm
chủ thể lớn có chung một hoặc một số yếu tố nào đó như: quốc tịch, địa bàn cư trú… hoặc là
mọi chủ thể nằm trong điều kiện, hoàn cảnh mà quy phạm pháp luật quy định.
Mặt khác, văn bản quy phạm pháp luật được dùng để điều chỉnh các quan hệ xã hội có tính
phổ biến, nên quy tắc xử sự chung mà các đối tượng tác động của pháp luật phải tuân theo khi
rơi vào tình huống dữ liệu, tình huống đó có tính lặp đi lặp lại trên thực tế nên các quy phạm
được sử dụng nhiều lần. Nói cách khác, văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan quyền lực
nhà nước được sử dụng nhiều lần, nó khác với văn bản áp dụng pháp luật chỉ được thực hiện
duy nhất một lần trên thực tế đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể.

7. Trình bày các nội dung các yếu tố cấu thành quy phạm pháp luật?
Cấu thành vi phạm pháp luật là những dấu hiệu đặc trưng của một vi phạm pháp luật cụ thể.
Vi phạm pháp luật bao gồm 4 yếu tố cấu thành là mặt khách quan, mặt chủ quan, chủ thể và
khách thể.
Chủ thể của vi phạm pháp luật là cá nhân, tổ chức có năng lực trách nhiệm pháp lý và đã thực
hiện hành vi trái pháp luật. Mỗi loại vi phạm pháp luật đều có cơ cấu chủ thể riêng tùy thuộc
vào mức độ xâm hại các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ

Khách thể của vi phạm pháp luật là quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ nhưng bị hành vi
trái pháp luật xâm hại tới. Tính chất của khách thể vi phạm pháp luật cũng là một yếu tố đánh
giá mức độ nguy hiểm trong hành vi trái pháp luật. Là một trong những căn cứ để phân loại
hành vi vi phạm pháp luật
Mặt chủ quan của vi phạm pháp luật gồm lỗi, động cơ, mục đích vi phạm pháp luật:
– Lỗi là một trạng thái tâm lý thể hiện thái độ tiêu cực của chủ thể đối với hậu quả xấu trong
hành vi của mình (nhìn thấy trước được hậu quả xấu trong hành vi của mình mà vẫn thực
hiện) và trong chính hành vi đó (hành vi chủ động, có ý thức….) tại thời điểm chủ thể thực
hiện hành vi trái pháp luật đó.
Lỗi được chia thành hai loại: cố ý và vô ý
+ Lỗi cố ý gồm:
Lỗi cố ý trực tiếp: là lỗi của một chủ thể khi thực hiện hành vi trái pháp luật nhận thức rõ
hành vi của mình là trái pháp luật, thấy trước được hậu quả của hành vi đó và mong muốn cho
hậu quả đó xảy ra.
Lỗi cố ý gián tiếp: là lỗi của một chủ thể khi thực hiện một hành vi trái pháp luật nhận thức rõ
hành vi của mình là trái pháp luật, thấy trước được hậu quả của hành vi đó, tuy không mong
muốn song có ý thức để mặc cho hậu quả đó xảy ra.
+ Lỗi vô ý gồm:
Lỗi vô ý do cẩu thả :là lỗi của một chủ thể đã gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội nhưng do
cẩu thả nên không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả đó, mặc dù có thể thấy
trước và phải thấy trước hậu quả này.

Lỗi vô ý vì quá tự tin: là lỗi của một chủ thể tuy thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu
quả nguy hiểm cho xã hội song tin chắc rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc cỏ thể ngăn
ngừa được nên mới thực hiện và có thể gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội.
– Động cơ là cái thúc đẩy chủ thể thực hiện hành vi vi phạm pháp luật.
– Mục đích là kết quả cuối cùng mà chủ thể vi phạm pháp luật mong đạt tới khi thực hiện
hành vi vi phạm pháp luật.
Mặt khách quan của vi phạm pháp luật.
Mặt khách quan của vi phạm pháp luật là những biểu hiện ra bên ngoài thế giới khách quan
của vi phạm pháp luật. Nó bao gồm hành vi trái pháp luật, sự thiệt hại cho xã hội và quan hệ
nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và sự thiệt hại cho xã hội, thời gian, địa điểm, công cụ vi
phạm. Trước hết phải xác định xem vụ việc vừa xảy ra có phải do hành vi của con người hay
không, nếu phải thì hành vi đó có trái pháp luật không, nếu trái pháp luật thì trái như thế nào.
Sự thiệt hại cho xã hội là những tổn thất về vật chất hoặc tinh thần do hành vi trái pháp luật
gây ra.

8. Phân tích khái niệm, đặc điểm của quan hệ pháp luật?

Phân tích khái niệm


Quan hệ pháp luật là các quan hệ xã hội được điều chỉnh bởi các quy phạm pháp luật khác
nhau, những quan hệ xã hội này xác lập, phát triển, tồn tại hay chấm dứt dựa trên quy định
của pháp luật, các bên tham gia vào quan hệ đó là những chủ thể có quyền chủ thể và nghĩa
vụ pháp lý phát sinh được pháp luật quy định và Nhà nước sẽ bảo đảm thực hiện.

Quan hệ pháp luật là quan hệ xã hội mang tính chất ý chí – ý chí của Nhà nước thông qua các
quy phạm pháp luật mà nội dung của chúng được xác định bằng các điều kiện kinh tế, chính
trị, xã hội tôn tại trong xã hội đó vào thời diêm lịch sử nhất định. Ngoài ra, các quan hệ pháp
luật còn mang ý chí của các chủ thể tham gia vào quan hệ đó. Ý chí của các chủ thể phải phù
hợp với ý chí của Nhà nước và được thể hiện khác nhau ttong từng quan hệ cụ thể, từng giai
đoạn của nó (phát sinh, thực hiện hoặc chấm dứt). Có thể chỉ thể hiện khi phát sinh, lúc thực
hiện hay chấm dứt một quan hệ cụ thể, song ý chí của các chủ thể tham gia vào các quan hệ
này phải phù hợp với ý chí của Nhà nước thể hiện qua các quy phạm pháp luật dân sự và các
nguyên tắc chung của luật dân sự được quy định ữong BLDS.
đặc điểm của quan hệ pháp luật
Đặc điểm của quan hệ pháp luật
+ Quan hệ pháp luật phát sinh trên cơ sở các quy phạm pháp luật. Nếu không có quy phạm
pháp luật thì không có quan hệ pháp luật. Quy phạm pháp luật dự liệu những tình huống phát
sinh quan hệ pháp luật; xác định thành phần chủ thể tham gia quan hệ pháp luật; nội dung
những quyền chủ thể và nghĩa vụ pháp lý.
+ Quan hệ pháp luật mang tính ý chí. Tính ý chí này trước hết là ý chí của nhà nước, vì pháp
luật do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận. Sau đó ý chí của các bên chủ thể tham gia quan hệ
pháp luật, vì hành vi của cá nhân, tổ chức là hành vi có ý chí.
+ Các bên tham gia quan hệ pháp luật ràng buộc với nhau bằng các quyền chủ thể và nghĩa
vụ pháp lý. Đây chính là yếu tố làm cho quan hệ pháp luật được thực hiện. Quyền của chủ thể
này là nghĩa vụ của chủ thể kia và ngược lại.
+ Quan hệ pháp luật được nhà nước bảo đảm thực hiện và có thể cả bằng biện pháp cưỡng
chế. Trước hết, nhà nước bảo đảm thực hiện quan hệ pháp luật bằng biện pháp giáo dục thuyết
phục. Bên cạnh đó nhà nước còn bảo đảm thực hiện pháp luật bằng biện pháp kinh tế, tổ chức
– hành chính. Những biện pháp đó không có hiệu quả khi áp dụng, thì khi cần thiết nhà nước
sử dụng biện pháp cưỡng chế.
+ Quan hệ pháp luật mang tính cụ thể. Bởi vì quan hệ pháp luật xác định cụ thể chủ thể tham
gia quan hệ, nội dung các quyền và nghĩa vụ pháp lý.

9. Vi phạm pháp luật là gì? Phân tích các dấu hiệu của vi phạm pháp luật.
Vi phạm pháp luật là gì?
Vi phạm pháp luật là hành vi trái pháp luật và có lỗi, do chủ thể có năng lực trách nhiệm pháp
lý thực hiện, xâm hại đến các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ
Phân tích các dấu hiệu của vi phạm pháp luật
Dấu hiệu hành vi: Vi phạm pháp luật phải là hành vi của con người, tức là xử sự thực tế, cụ
thể của cá nhân hoặc tổ chức nhất định, bởi vì pháp luật được ban hành để điều chỉnh hành vi
của các chủ thể mà không điều chỉnh suy nghĩ của họ. Mác đã từng nói: ngoài hành vi của tôi
ra, tôi không tồn tại đối với pháp luật, không phải là đối tượng của nó. Vì vậy, phải căn cứ
vào hành vi thực tế của các chủ thể mới có thể xác định được là họ thực hiện pháp luật hay vi
phạm pháp luật. Hành vi xác định này có thể được thực hiện bằng hành động (ví dụ: Giết
người, gây thương tích….) hoặc bằng không hành động (ví dụ: trốn tránh nghĩa vụ nộp thuế).
* Dấu hiệu trái pháp luật:
Vi phạm pháp luật là hành vi trái với các quy phạm của pháp luật, xâm hại tới các quan hệ xã
hội được pháp luật xác lập và bảo vệ
– Một hành vi được coi là trái pháp luật khi nó không phù hợp với các quy định của pháp luật,
xâm hại tới quyền của công dân, tài sản của Nhà nước….Thông thường, một người không
phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi của mình nếu hành vi đó chưa được pháp
luật quy định. Sự quy định của pháp luật là cơ sở pháp lý để xác định tính trái pháp luật trong
một hành vi cụ thể
– Hành vi của con người có thể được các quy phạm xã hội khác nhau cùng điều chỉnh
* Dấu hiệu năng lực trách nhiệm pháp lý:

Hành vi trái pháp luật xác định do chủ thể có năng lực hành vi thực hiện. Người có năng lực
hành vi là người có khả năng nhận thức, điều khiển được hành vi, việc làm của mình và chịu
trách nhiệm về hành vi của mình đã thực hiện.

* Dấu hiệu lỗi:


Vi phạm pháp luật là hành vi có lỗi của chủ thể.
Vi phạm pháp luật là hành vi trái pháp luật nhưng hành vi trái pháp luật đó phải chứa đựng lỗi
của chủ thể của hành vi. Để xác định hành vi vi phạm pháp luật phải xem xét cả mặt chủ quan
của hành vi, tức là xác định lỗi của học, biểu hiện trạng thái tâm lý của người thực hiện hành
vi đó. Trạng thái tâm lý có thể là cố ý hay vô ý. Lỗi là yếu tố không thể thiếu được để xác
định hành vi vi phạm pháp luật và lỗi cũng là cơ sở để xác định trách nhiệm pháp lý đối với
chủ thể của hành vi vi phạm pháp luật.
Như vậy, chỉ những hành vi trái pháp luật mà có lỗi của chủ thể thì mới bị coi là vi phạm pháp
luật. Còn trong trường hợp chủ thể thực hiện một xử sự có tính chất trái pháp luật nhưng chủ
thể không nhận thức được hành vi của mình và hậu quả của hành vi đó gây ra cho xã hội hoặc
nhận thức được hành vi và hậu quả của hành vi của mình nhưng không điều khiển được hành
vi của mình thì không bị coi là có lỗi và không phải là vi phạm pháp luật.

* Dấu hiệu quan hệ xã hội bị xâm hại:


Vi phạm pháp luật là hành vi xâm hại trực tiếp hoặc gián tiếp tới các quan hệ xã hội được
pháp luật bảo vệ, tức là làm biến dạng đi cách xử sự là nội dung của quan hệ pháp luật đó

10. Phân tích khái niệm hình thức pháp luật và các hình thức pháp luật ?

Phân tích khái niệm hình thức pháp luật


Hình thức pháp luật là cách thức thể hiện ý chí của nhà nước hay cách thức mà nhà nước sử
dụng để chuyển ý chí của nó thành pháp luật.
Theo cách tiếp cận của triết học, hình thức của pháp luật cũng như hình thức của các sự vật,
hiện tượng khác luôn bao gồm hình thức bên trong và hình thức bên ngoài.
Hình thức bên trong của pháp luật là cơ cấu bên trong của nó, là mối liên hệ, sự liên kết giữa
các yếu tố cấu thành pháp luật. Pháp luật là hệ thống quy tắc ứng xử của con người trong đời
sống hàng ngày được hình thành thông qua nhà nước, do vậy hình thức bên trong của pháp
luật chính là mối liên hệ, sự liên kết giữa các quy tắc xử sự đó. Trong khoa học pháp lí, hình
thức bên trong của pháp luật được đề cập bằng khái niệm hình thức cấu trúc của pháp luật.
Vấn đề này sẽ được nghiên cứu sâu sắc hơn trong Chương Hệ thống pháp luật của giáo trình
này.
Hình thức bên ngoài của pháp luật là dáng vẻ bề ngoài, là dạng (phương thức) tồn tại của nó.
Dựa vào hình thức của pháp luật, người ta có thể thấy pháp luật tồn tại trong thực tế dưới
dạng nào, nằm ở đâu. Hình thức bên ngoài của pháp luật cũng được tiếp cận trong mối tương
quan với nội dung của nó. Theo cách hiểu này, nội dung của pháp luật là toàn bộ những yếu tố
tạo nên pháp luật, còn hình thức của pháp luật được hiểu là yếu tố chứa đựng hoặc thể hiện
nội dung. Pháp luật là một hiện tượng xã hội phức tạp, nó được thể hiện dưới nhiều hình thức
khác nhau. Thực tiễn lịch sử cho thấy, pháp luật chủ yếu được thể hiện dưới những hình thức
là tập quán pháp, tiền lệ pháp và văn bản quy phạm pháp luật.
Các hình thức pháp luật
Pháp luật có 03 hình thức cơ bản, tức là những hình thức được hầu hết các nhà nước sử dụng,
đó là tập quán pháp, tiền lệ pháp, văn bản quy phạm pháp luật. Ba hình thức này cũng đồng
thời là ba nguồn hình thức của pháp luật.
a – Tập quán pháp
Tập quán pháp là những tập quán của cộng đồng phù hợp với ý chí của nhà nước được nhà
nước thừa nhận, nâng lên thành pháp luật.
Ví dụ, tập quán ăn Tết cổ truyền, phong tục Giỗ Tổ Hùng Vương, tập quán xác định họ, dân
tộc cho con… ở nước ta đã trở thành tập quán pháp.

Nhà nước thừa nhận tập quán thành tập quán pháp bằng nhiều cách thức khác nhau, có thể liệt
kê danh mục các tập quán được nhà nước thừa nhận, viện dẫn các tập quán trong pháp luật
thành văn, áp dụng tập quán để giải quyết vụ việc phát sinh trong thực tiễn… Tập quán pháp
có thể được tạo ra từ hoạt động của cơ quan lập pháp, cũng có thể được tạo ra từ hoạt động
của các cơ quan tư pháp khi áp dụng tập quán để giải quyết một vụ việc cụ thể. Song, nhà
nước thường chỉ thừa nhận những tập quán không trái với những giá trị đạo đức xã hội và trật
tự công cộng.
b – Tiền lệ pháp (án lệ)
Tiền lệ pháp là những bản án, quyết định của chủ thể có thẩm quyền khi giải quyết các vụ
việc cụ thể, được nhà nước thừa nhận có chứa đựng khuôn mẫu để giải quyết các vụ việc khác
tương tự.
Tiền lệ pháp có thể được thể hiện trong các bản án, quyết định hành chính, tư pháp. Song, các
quốc gia trên thế giới thường chỉ thừa nhận tiền lệ pháp do Tòa án tạo ra, vì vậy ngày nay tiền
lệ pháp còn được gọi là án lệ. Ví dụ, các án lệ được Chánh án Tòa án nhân dân tối cao của
Việt Nam công bố.
Trên thực tế có hai loại án lệ, một là án lệ tạo ra quy phạm pháp luật, nguyên tắc pháp luật
mới, đây là loại án lệ cơ bản, án lệ gắn với chức năng sáng tạo pháp luật của Tòa án; hai là, án
lệ hình thành bởi quá trình Tòa án giải thích các quy định trong pháp luật thành văn.
c – Văn bản quy phạm pháp luật
Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản chứa đựng các quy tắc xử sự chung do các cơ quan
nhà nước hoặc nhà chức trách (chủ thể) có thẩm quyền ban hành theo trình tự, thủ tục, hình
thức do pháp luật quy định.
Ví dụ, Hiến pháp năm 2013, Luật tổ chức Quốc hội năm 2014… của nước ta là những văn
bản quy phạm pháp luật.
Văn bản quy phạm pháp luật có các đặc điểm sau:
– Là văn bản do các cơ quan nhà nước hoặc nhà chức trách có thấm quyền ban hành pháp luật
ban hành.
– Là văn bản có chứa đựng các quy phạm pháp luật, tức là các quy tắc xử sự chung được nhà
nước bảo đảm thực hiện.
– Được thực hiện nhiều lần trong thực tế cuộc sống và được thực hiện trong mọi trường hợp
khi có các sự kiện pháp lý tương ứng với nó xảy ra cho đến khi nó hết hiệu lực.
– Tên gọi, nội dung, trình tự và thủ tục ban hành văn bản quy phạm pháp luật được quy định
cụ thể trong pháp luật.
Văn bản quy phạm pháp luật có thể được dùng để ban hành, sửa đối, bố sung, thay thế hoặc
bãi bỏ các quy phạm pháp luật và văn bản quy phạm pháp luật. Văn bản quy phạm pháp luật
bao gồm nhiều loại theo quy định của mỗi nước, thông thường nó gồm hai loại chính là văn
bản luật và văn bản dưới luật.

11. Trình bày các hệ thống cơ quan trong bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam hiện nay
Thông thường trong bộ máy nhà nước Việt Nam nói chung bao gồm ba loại cơ quan: cơ quan
lập pháp, cơ quan hành pháp, cơ quan tư pháp.

Cơ quan quyền lực nhà nước (Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất của nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa
phương).
Cơ quan hành chính nhà nước, tức là cơ quan hành pháp (đứng đầu hệ thống này là
Chính phủ, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan trực thuộc Chính phủ và Ủy ban nhân dân cấp
tỉnh, huyện, xã, các sở, phòng, ban…).
Cơ quan tư pháp bao gồm: Các cơ quan xét xử (Tòa án nhân dân tối cao, các Tòa án
nhân dân địa phương, Tòa án quân sự…) và các cơ quan kiểm sát (Viện kiểm sát nhân dân tối
cao, các Viện kiểm sát nhân dân địa phương).

12. Hình thức nhà nước là gì? Phân tích các yếu tố cấu thành của hình thức nhà nước?
Hình thức nhà nước là một trong những vấn đề cơ bản của lý luận về nhà nước. Hình
thức nhà nước là yếu tố quan trọng quyết định kết quả thống trị chính trị của giai cấp thống
trị.
Hình thức nhà nước là cách thức tổ chức quyền lực nhà nước và những biện pháp để tổ
chức và thực hiện quyền lực nhà nước. Hình thức nhà nước là một khái niệm chung được hình
thành từ 3 yếu tố:
Hình thức chính thể
Đây là cách thức để tổ chức, trình tự thành lập của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất và
mối quan hệ giữa các cơ quan đó với nhau cũng như là thái độ của các cơ quan này với nhân
dân.
Hình thức chính thể bao gồm có hai dạng đó là chính thể quân chủ và hình thức chính thể
cộng hòa.
– Hình thức chính thể quân chủ: Đây là hình thức chính thể mà quyền lực cao nhất sẽ tập
trung vào toàn bộ hoặc là tập trung một phần vào người đứng đầu nhà nước theo nguyên tắc
thừa kế là chính thể quân chủ tuyệt đối và chính thể quân chủ hạn chế.

– Hình thức chính thể cộng hòa: Đây là hình thức mà trong đó quyền lực cao nhất thuộc về cơ
quan được bầu ra trong một khoảng thời gian cụ thể, có hai loại chính thể là chính thể cộng
hòa quý tộc và chính thể cộng hòa dân chủ.
Hình thức cấu trúc nhà nước
Đây là sự tổ chức nhà nước thành những đơn vị hành chính lãnh thổ và tính chất quan
hệ giữa các bộ phận cấu thành nhà nước với nhau, giữa cơ quan nhà nước ở trung ương với cơ
quan nhà nước ở địa phương.
Bao gồm có hình thức cấu trúc nhà nước đơn nhất và hình thức cấu trúc nhà nước liên bang.
– Hình thức cấu trúc nhà nước đơn nhất: Đây là nhà nước có chủ quyền chung và có
lãnh thổ toàn vẹn thống nhất, bộ phận hợp thành nhà nước là những đơn vị hành chính lãnh
thổ không có chủ quyền riêng.
– Hình thức cấu trúc nhà nước liên bang: Được hình thành từ hai hay nhiều quốc gia
thành viên và các thành viên này có chủ quyền riêng bên cạnh chủ quyền chung của nhà nước
liên bang.
Chế độ chính trị
Đây là toàn bộ những phương pháp, những đoạn cũng như cách thức mà nhà nước sử
dụng để thực hiện quyển lực của nhà nước, thực hiện việc quản lý xã hội theo ý chí của nhà
nước.
Chế độ này được chia thành hai loại là chế độ nhà nước dân chủ và chế độ nhà nước
phản dân chủ.

13. Pháp luật là gì? Phân tích bản chất và đặc điểm cơ bản của pháp luật?
Pháp luật là gì?
Theo định nghĩa pháp luật là hệ thống bao gồm những quy tắc xử sự chung được đặt
ra bởi nhà nước. Và mang tính chất bắt buộc thực hiện. Có các biện pháp giáo dục hoặc cưỡng
chế để đảm bảo thực hiện theo pháp luật. Hướng tới mục đích bảo vệ quyền lợi của giai cấp
mình và điều chỉnh các mối quan hệ xã hội.
Phân tích bản chất
Pháp luật mang tính giai cấp
Học thuyết Mác-Lênin về nhà nước và pháp luật lần đầu tiên trong lịch sử, đã giải
thích một cách đúng đắn khoa học về bản chất của pháp luật và những mối quan hệ của nó với
các hiện tượng khác trong xã hội có giai cấp. Theo học thuyết Mác-Lênin, pháp luật chỉ phát
sinh tồn tại và phát triển trong xã hội có giai cấp. Bản chất của pháp luật thể hiện ở tính giai
cấp của nó, không có “pháp luật tự nhiên” hay pháp luật không mang tính giai cấp.
Tính giai cấp của pháp luật thể hiện trước hết ở chỗ, pháp luật phản ánh ý chí nhà
nước của giai cấp thống trị. C.Mác và Ănghen khi nghiên cứu về pháp luật tư sản đã đi đến
kết luận: Pháp luật tư sản chẳng qua chỉ là ý chí của giai cấp tư sản được đề lên thành luật, cái
ý chí mà nội dung của nó là do điều kiện sinh hoạt vật chất của giai cấp tư sản quyết định.
Nhờ nắm trong tay quyền lực nhà nước, giai cấp thống trị đã thông qua nhà nước để thể hiện ý
chí của giai cấp mình một cách tập trung, thống nhất và hợp pháp hóa thành ý chí của nhà
nước, ý chí đó được cụ thể hóa trong các văn bản pháp luật do các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền ban hành. Nhà nước ban hành và bảo đảm cho pháp luật được thực hiện, vì vậy pháp
luật là những quy tắc xử sự chung có tính bắt buộc đối với mọi người.
Trong xã hội có giai cấp tồn tại nhiều loại quy phạm khác nhau, thể hiện ý chí và
nguyện vọng của các giai cấp, các lực lượng xã hội khác nhau, nhưng chỉ có một hệ thống
pháp luật thống nhất chung cho toàn bộ xã hội.
Tính giai cấp của pháp luật còn thể hiện ở mục đích điều chỉnh các quan hệ xã hội.
Mục đích của pháp luật trước hết nhằm điều chỉnh quan hệ giữa các giai cấp, tầng lớp trong
xã hội. Vì vậy, pháp luật là nhân tố để điều chỉnh về mặt giai cấp các quan hệ xã hội nhằm
hướng các quan hệ xã hội phát triển theo một “trật tư” phù hợp với ý chí của giai cấp thống
trị, bảo vệ và củng cố địa vị của giai cấp thống trị. Với ý nghĩa đó, pháp luật chính là công cụ
để thực hiện sự thống trị giai cấp.
Bản chất giai cấp là thuộc tính chung của bất kỳ kiểu pháp luật nào nhưng mỗi kiểu
pháp luật lại có những nét riêng và cách biểu hiện riêng. Ví dụ: Pháp luật chủ nô công khai
quy định quyền lực vô hạn của chủ nô, tình trạng vô quyền của nô lệ. Pháp luật phong kiến
công khai quy định đặc quyền, đặc lợi của địa chủ phong kiến, cũng như quy định các chế tài
hà khắc dã man để đàn áp nhân dân lao động. Trong pháp luật tư sản bản chất giai cấp được
thể hiện một cách thận trọng, tinh vi dưới nhiều hình thức như quy định về mặt pháp lý những
quyền tự do, dân chủ… nhưng thực chất pháp luật tư sản luôn thể hiện ý chí của giai cấp tư
sản và mục đích trước hết nhằm phục vụ lợi ích cho giai cấp tư sản. Pháp luật xã hội chủ
nghĩa thể hiện ý chí của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, là công cụ để xây dựng một
xã hội mới trong đó mọi người đều được sống tự do, bình đẳng, công bằng xã hội được bảo
đảm.
Tính xã hội của pháp luật
Pháp luật do nhà nước, đại diện chính thức của toàn xã hội ban hành nên nó còn mang
tính chất xã hội. Nghĩa là, ở mức độ ít hay nhiều (tùy thuộc vào hoàn cảnh trong mỗi giai
đoạn cụ thể), pháp luật còn thể hiện ý chí và lợi ích của các giai tầng khác trong xã hội. Ví dụ:
Pháp luật tư sản Ơ giai đoạn đầu, sau khi cách mạng tư sản thắng lợi, bên cạnh việc thể hiện ý
chí của giai cấp tư sản còn thể hiện nguyện vọng dân chủ và lợi ích của nhiều tầng lớp khác
trong xã hội. Trong quá trình phát triển tiếp theo, tùy theo tình hình cụ thể, giai cấp tư sản đã
điều chỉnh mức độ thể hiện đó theo ý chí của mình để pháp luật có thể “thích ứng” với điều
kiện và bối cảnh xã hội cụ thể. Đối với pháp luật xã hội chủ nghĩa cũng vậy, bên cạnh việc
pháp luật thể hiện ý chí của giai cấp công nhân và nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của
Đảng, trong những điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của mỗi thời kỳ (mỗi giai đoạn nhất định
của quá trình phát triển), cũng phải tính đến ý chí và lợi ích của các tầng lớp khác.
Như vậy, pháp luật là một hiện tượng vừa mang tính giai cấp lại vừa thể hiện tính xã
hội. Hai thuộc tính này có mối liên hệ mật thiết với nhau. Xét theo quan điểm hệ thống, không
có pháp luật chỉ thể hiện duy nhất tính giai cấp; ngược lại, cũng không có pháp luật chỉ thể
hiện tính xã hội.
Tuy nhiên mức độ đậm, nhạt của hai tính chất đó của pháp luật rất khác nhau và
thường hay biến đổi tùy thuộc vào điều kiện kinh tế, xã hội, đạo đức, quan điểm, đường lối và
các trào lưu chính trị xã hội trong mỗi nước, ở một thời kỳ lịch sử nhất định.
Từ sự phân tích trên có thể định nghĩa pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự do nhà
nước ban hành và bảo đảm thực hiện, thể.hiện ý chí của giai cấp thống trị trong xã hội, là
nhân tô điều chỉnh các quan hệ xã hội. Để giải thích rõ bản chất của pháp luật còn cần thiết
phải phân tích các mối quan hệ giữa pháp luật với kinh tế, chính trị. đạo đức và nhà nước.
Đặc điểm cơ bản của pháp luật
Trên cơ sở quan niệm như trên về pháp luật, có thể thấy, pháp luật có các đặc trưng cơ bản
sau:
Thứ nhất, pháp luật có tỉnh quyền lực nhà nước
Tính quyền lực nhà nước là đặc điểm riêng có của pháp luật. Để thực hiện việc tổ chức
và quản lí các mặt của đời sống xã hội, nhà nước cần có pháp luật. Các quy định pháp luật có
thể do nhà nước đặt ra, cũng có thể được tạo nên từ việc nhà nước thừa nhận các quy tắc xử
sự sẵn có trong xã hội như đạo đức, phong tục tập quán, tín điều tôn giáo... Với tính cách là
những quy tắc xử sự, phảp luật chính là những yêu cầu, đòi hỏi hoặc cho phép của nhà nước
đối với hành vi ứng xử của các chủ thể trong xã hội. Nói cách khác, pháp luật thể hiện ý chí
của nhà nước. Thông qua pháp luật, nhà nước cho phép người dân được làm gì, không cho
phép họ làm gì hay bắt buộc họ phải làm gì, làm như thế nào... Với quyền lực của mình, nhà
nước có thể sử dụng nhiều biện pháp khác nhau để tổ chức thực hiện pháp luật, yêu cầu các cá
nhân, tổ chức trong xậ hội phải thực hiện pháp luật nghiêm chỉnh. Khi cần thiết, nhà nước có
thể sử dụng các biện pháp cưỡng chế để bảo vệ pháp luật, trừng phạt người vĩ phạm, đảm bảo
cho pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh trong cuộc sống.

Thứ hai, pháp luật có tính quy phạm phổ biến


“Quy phạm” nghĩa là khuôn thước, khuôn mẫu, chuẩn mực. Các quy định của pháp
luật là những khuôn mẫu, chuẩn mực định hướng cho nhận thức và hành vi của mọi người,
hướng dẫn cách xử sự cho cá nhân, tổ chức trong xã hội. Các chủ thể khi ở vào điều kiện,
hoàn cảnh do pháp luật dự liệu thì xử sự theo những khuôn mẫu mà nhà nước đã nêu ra. Căn
cứ vào các quy định của pháp luật, các tổ chức và cá nhân trong xã hội sẽ biết mình được làm
gì, không được làm gì, phải làm gì và làm như thế nào khi ở vào một điều kiện, hoàn cảnh cụ
thể nào đó. Phạm vi tác động của pháp luật rất rộng lớn, nó là khuôn mẫu ứng xử cho mọi cá
nhân, tổ chức trong đời sống hàng ngày, nó điều chỉnh các quan hệ xã hội trên các lĩnh vực
của cuộc sống, pháp luật tác động đến mọi địaphưorng, vùng, miền của đất nước.

Thứ ba, pháp luật có tính hệ thống


Bản thân pháp luật là một hệ thống các quy phạm hay cạc quy tăc xử sự chung, các
nguyên tắc, các khai niệm pháp lí... Pháp luật điều chỉnh quan hệ xã hội bằng cậch tác động
lên cách xử sự của các chủ thể tham gia quan hệ xã hội đó, làm cho quan hệ phát triển theo
chiều hướng nhà nước mong muốn. Mặc dù điều chỉnh các quan hệ xã hội trong nhiều lĩnh
vực khác nhau, song các quy định của pháp luật không tồn tại biệt lập mà giữa chúng có mối
liên hệ nội tại thống nhất với nhaú, tạo nên một chỉnh thể thống nhất.

Thứ tư, pháp luật có tính xác định về hình thức


Pháp luật được thể hiện trong những hình thức xác định như tập quán pháp, tiền lệ
pháp, văn bản quy phạm pháp luật. Ở dạng thành văn, các quy định của pháp luật được thể
hiện một cách rõ ràng, cụ thể, không trừu tượng, chung chung, bảo đảm có thể được hiểu và
thực hiện thống nhất trên toàn xậ hội.
Ngày nay, sự giao lưu quốc tế ngày càng mở rộng, sự tác động qua lại, ràng buộc, phụ
thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia ngày càng lớn. Đe điều chỉnh mối quan hệ giữa các quốc
giá, các tổ chức quốc tế cũng cần có pháp luật, gọi là pháp .luật quốc tế. Pháp luật quốc tế
được hiểu là hệ thống quy phạm do các quốc gia, các tổ chức quốc tế thỏa thuận xây dựng nên
để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong đời sống quốc tế. Bên cạnh những điểm
tương đồng với pháp luật quốc gia, pháp luật quốc tế có những nét đặc thù. Trong phạm vi bài
viết này chủ yếu đề cập đến pháp luật quốc gia.

14. Phân tích cơ cấu của quy phạm pháp luật? Cho ví dụ minh họa.
Về nguyên tắc, mỗi quy phạm pháp luật có ba bộ phận là giả định, quy định và chế tài.
Trong đó:
1) Giả định là phần xác định chủ thể tham gia quan hệ pháp luật và những hoàn cảnh,
điều kiện mà chủ thể gặp phải trong thực tiễn;
Ví dụ về giả định: “Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình
trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu hoặc thực hiện hành vi
quan hệ tình dục khác trái với ý muốn của nạn nhân, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.”
(khoản 1, Điều 141 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017). Bộ phận giả định của quy
phạm là: “Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự
vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục
khác trái với ý muốn của nạn nhân”.
2) Quy định là phần xác định chủ thể phải làm gì khi gặp phải hoàn cảnh, điều kiện đã
nêu trong phần giả định (được một quyền, phải làm một nghĩa vụ, phải tránh các xử sự bị
cấm);
Ví dụ về quy định: “Mọi người có quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề
mà pháp luật không cấm.” (Điều 33 Hiến pháp năm 2013). Bộ phận quy định của quy phạm là
“có quyền tự do kinh doanh” (được làm gì).
Hoặc “Trường hợp các bên không có thỏa thuận và pháp luật không quy định thì có
thể áp dụng tập quán nhưng tập quán áp dụng không được trái với các nguyên tắc cơ bản của
pháp luật dân sự quy định tại Điều 3 của Bộ luật này” (Điều 5 Bộ luật Dân sự năm 2015), bộ
phận quy định của quy phạm là: “thì có thể áp dụng tập quán nhưng tập quán áp dụng không
được trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự quy định tại Điều 3 của Bộ luật này”
3) Chế tài là phần nêu rõ biện pháp, hình thức xử lí của nhà nước đối với người đã xử
sự không đúng với quy định, hậu quả mà người đó phải gánh chịu. Tuy nhiên, trong thực tiễn
xây dựng pháp luật, phần lớn các quy phạm pháp luật được xây dựng từ hai bộ phận là giả
định - quy định hoặc giả định - chế tài. Trừ một số quy phạm pháp luật đặc biệt như quy phạm
định nghĩa, quy phạm xác định nguyên tắc, còn hầu hết các quy phạm pháp luật # đều phải có
phần giả định. Bởi nếu không có phần giả định thì không thể xác định được quy phạm pháp
luật này áp dụng cho ai, trong trường hợp nào hoặc với điều kiện nào. Các quy phạm pháp
luật hiến pháp thông thường chỉ có phần giả định và quy định, còn các quy phạm pháp luật
phần riêng của Bộ luật hình sự thường chỉ có phần giả định và chế tài.
Quy phạm pháp luật là đơn vị cấu trúc nhỏ nhất của hệ thống pháp luật.
Quy phạm xung đột thống nhất là quy phạm pháp luật có trong các điều ước quốc tế
do các bên kết ước xây dựng nên.
Quy phạm xung đột thông thường là quy phạm pháp luật có trong các đạo luật trong
nước (do mỗi quốc gia tự ban hành).
Ví dụ về chế tài: “Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không
thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình
dục khác trái với ý muốn của nạn nhân, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.” (khoản 1, Điều
141 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017). Bộ phận chế tài của quy phạm là “phạt tù
từ 02 năm đến 07 năm.”
=> Nhận định này sai. Không phải mọi quy phạm pháp luật luôn có đủ 3 bộ phận giả định,
quy định và chế tài.
Quay trở lại với ví dụ “Mọi người có quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà
pháp luật không cấm.” (Điều 33 Hiến pháp năm 2013). Có thể thấy rằng quy phạm pháp luật
này chỉ có Bộ phận quy định là “có quyền tự do kinh doanh” (được làm gì) mà không có bộ
phận giả định và chế tài.

15. Trách nhiệm pháp lý là gì? Trình bày các căn cứ để truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với
chủ thể vi phạm pháp luật.
Trách nhiệm pháp lý là gì?
Trách nhiệm pháp lý là việc mà Nhà nước áp dụng đối với cá nhân, tổ chức gây ra hậu
quả vi phạm pháp luật, các cá nhân, tổ chức phải chịu những chế tài theo quy phạm pháp luật.
Trách nhiệm pháp lý còn là việc cá nhân, tổ chức cần phải thực hiện nghĩa vụ của
mình trước pháp luật, tùy theo tính chất, mức độ hành vi gây ra cá nhân, tổ chức phải gánh
chịu trách nhiệm hình sự, hành chính và bồi thường dân sự.

Trình bày các căn cứ để truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với chủ thể vi phạm pháp luật.
Căn cứ để truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với chủ thể vi phạm pháp luật bao gồm căn cứ
pháp lý và căn cứ thực tế.
a – Căn cứ pháp lý
Căn cứ pháp lý để truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với chủ thể vi phạm pháp luật là các quy
định của pháp luật về vi phạm pháp luật và xử lý vi phạm pháp luật. Đó là các quy định của
pháp luật về những vấn đề sau:
– Những hành vi bị coi là vi phạm pháp luật;
– Các biện pháp cưỡng chế nhà nước dự kiến sẽ áp dụng đối với chủ thể vi phạm, điều kiện để
áp dụng các biện pháp đó;
– Về hiệu lực hồi tố, về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm pháp lý…;
– Thời hiệu truy cứu trách nhiệm pháp lý;
– Thẩm quyền truy cứu trách nhiệm pháp lý;
– Trình tự, thủ tục truy cứu trách nhiệm pháp lý…
b – Căn cứ thực tế
Căn cứ thực tế để truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với chủ thể vi phạm pháp luật là các yếu
tố cấu thành vi phạm pháp luật của chủ thể vi phạm nhằm đánh giá đúng tính chất và mức độ
nguy hiểm cho xã hội của vi phạm pháp luật, trên cơ sở đó, chủ thể có thẩm quyền mới có thể
xác định được biện pháp cưỡng chế cần áp dụng cho phù hợp với mức độ vi phạm của chủ
thể. Cụ thể là căn cứ vào các yếu tố sau:

– Căn cứ vào hành vi trái pháp luật, tức là chủ thể có thẩm quyền phải khẳng định được trong
thực tế đã xảy ra hành vi trái pháp luật, phải xác định được cụ thể dạng hành vi trái pháp luật
là thuộc loại vi phạm pháp luật nào, hình sự, dân sự hoặc hành chính hay kỷ luật; nếu là vi
phạm hành chính thì thuộc loại vi phạm cụ thể nào; nếu là tội phạm hình sự thì thuộc loại tội
cụ thể nào; phải xác định được tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi đó…
– Căn cứ vào hậu quả nguy hiểm cho xã hội của hành vi trái pháp luật, tức là những thiệt hại
thực tế mà xã hội đã phải gánh chịu do hành vi này gây ra và xác định được mối quan hệ nhân
quả giữa hành vi và hậu quả nguy hiểm cho xã hội đó
– Căn cứ vào mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại cho xã hội, bởi lẽ,
một người sẽ không phải chịu trách nhiệm về những thiệt hại không phải do hành vi của mình
gây ra.
– Căn cứ vào thời gian, địa điểm, phương tiện vi phạm (phương tiện có làm sát thương nhiều
người không) bởi vì đó cũng là những yếu tố có thể giúp cho việc xác định tính chất và mức
độ nguy hiểm cho xã hội của vi phạm pháp luật.
– Căn cứ vào lỗi của chủ thể, phải xác định được cụ thể đó là lỗi cố ý hay lỗi vô ý; nếu cố ý
thì đó là cố ý trực tiếp hay gián tiếp; nếu vô ý thì là vô ý vì cấu thả hay vô ý vì quá tự tin.
– Căn cứ vào động cơ, mục đích cụ thể của chủ thể vi phạm; đó có phải là động cơ vụ lợi,
động cơ đê hèn… không; mục đích cụ thể của chủ thể khi thực hiện hành vi trái pháp luật là
gì…
– Căn cứ vào chủ thể của vi phạm pháp luật, tức là phải chú ý tới năng lực trách nhiệm pháp
lý của chủ thể vi phạm. Với chủ thể là cá nhân thì phải xem xét đến độ tuổi, sự phát triển về
trí tuệ và trạng thái tâm lý của chủ thể khi thực hiện hành vi trái pháp luật. Với chủ thể là tổ
chức thì phải xem xét đến tư cách pháp nhân hoặc địa vị pháp lý của nó.
– Căn cứ vào khách thể của vi phạm pháp luật, tức là phải chú ý tới tính chất và tầm quan
trọng của quan hệ xã hội bị xâm hại để đánh giá mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi
trái pháp luật.
16. Phân tích khái niệm và đặc điểm của áp dụng pháp luật. Cho ví dụ.
Áp dụng pháp luật là loạt động thực hiện pháp luật mang tính tổ chức quyền lực nhà
nước, được thực hiện bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nhà chức trách hoặc tổ chức xã
hội được Nhà nước trao quyền, nhằm cá biệt hoá quy phạm pháp luật vào các trường hợp cụ
thể, đối với cá nhân, tổ chức cụ thể.
Đặc điểm của áp dụng pháp luật
a – Áp dụng pháp luật là hoạt động thể hiện tính tổ chức, quyền lực nhà nước, bởi vì:
– Hoạt động áp dụng chỉ do các cơ quan nhà nước, tổ chức hoặc cá nhân có thẩm quyền theo
quy định của pháp luật tiến hành và mỗi chủ thể đó chỉ có thể áp dụng pháp luật trong một
phạm vi nhất định theo quy định của pháp luật.
Ví dụ: Ở nước ta chỉ có Ủy ban nhân dân mới có thể xem xét để cấp Giấy chứng nhận kết hôn
cho một cặp nam nữ ở địa phương khi họ yêu cầu, chỉ có Tòa án nhân dân mới có thể áp dụng
pháp luật trong xét xử để định tội và định hình phạt cho người phạm tội…
Hoạt động áp dụng pháp luật là sự tiếp tục thể hiện ý chí của nhà nước, thông qua hoạt động
áp dụng pháp luật, ý chí nhà nước thể hiện trong các quy phạm pháp luật trở thành hiện thực
trong thực tế, đuợc thể hiện một cách cụ thể trong các trường hợp cụ thể.

Ví dụ: Thông qua việc cấp Giấy chứng nhận kết hôn cho một cặp nam nữ cụ thể, ý chí của
Nhà nước trong các quy định của Luật hôn nhân và gia đình mới trở thành hiện thực trong
thực tế.

– Khi áp dụng pháp luật, trên cơ sở các quy định của pháp luật, các chủ thể có thẩm quyền áp
dụng có thể ban hành những mệnh lệnh, quyết định có giá trị bắt buộc phải tôn trọng hoặc
thực hiện đối với đối tượng áp dụng. Các mệnh lệnh, quyết định này chủ yếu thể hiện ý chí
đơn phương của chủ thể có thẩm quyền áp dụng mà không phụ thuộc vào ý chí của đối tượng
áp dụng. Các mệnh lệnh, quyết định áp dụng pháp luật của các cơ quan, tổ chức nhà nước sẽ
được nhà nước bảo đảm thực hiện bằng nhiều biện pháp, trong đó có cả biện pháp cưỡng chế
nhà nước.
Ví dụ: Khi xem xét hồ sơ xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của một cá
nhân, tổ chức nào đó, Ủy ban nhân dân cấp huyện trở lên phải căn cứ vào các quy định của
Luật Đất đai và các nghị định hướng dẫn thi hành để ra quyết định cấp hay không cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất cho cá nhân tổ chức đó. Quyết định này thể hiện ý chí đơn
phương của Ủy ban nhân dân mà không phụ thuộc vào ý chí của cá nhân, tổ chức nộp hồ sơ
xin cấp.

– Áp dụng pháp luật là hoạt động có tính tổ chức rất cao vì nó vừa là hình thức thực hiện pháp
luật vừa là hình thức chủ thể có thẩm quyền tổ chức cho các chủ thể khác thực hiện các quy
định của pháp luật, do vậy, hoạt động này phải được tiến hành theo những điều kiện, trình tự,
thủ tục rất chặt chẽ do pháp luật quy định.
Ví dụ: Hoạt động xem xét để cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho người sử
dụng đất của Ủy ban nhân dân vừa là hình thức thực hiện pháp luật của Ủy ban nhân dân, vừa
là hình thức Ủy ban nhân dân tổ chức cho người sử dụng đất thực hiện pháp luật, do vậy, hoạt
động này phải được tiến hành theo đúng trình tự, thủ tục do Luật Đất đai quy định.

b – Áp dụng pháp luật là hoạt động cá biệt hoá các quy phạm pháp luật hiện hành vào những
trường hợp cụ thể, đối với các cá nhân, tổ chức cụ thể
Vì thế, áp dụng pháp luật là hoạt động điều chỉnh cá biệt, cụ thể đối với các quan hệ xã
hội.
Ví dụ: Hoạt động áp dụng pháp luật của Cảnh sát giao thông khi xử lý một người vi
phạm pháp luật giao thông cụ thể là sự cá biệt hóa các quy định về xử lý vi phạm pháp luật
trong lĩnh vực giao thông vào trường hợp cụ thể của người vi phạm đó.

c – Áp dụng pháp luật là hoạt động thể hiện tính sáng tạo
Bởi vì, các quy định của pháp luật thường mang tính chất chung, khái quát, song các
vụ việc xảy ra trong thực tế vô cùng đa dạng, phong phú và phức tạp. Do vậy, muốn đưa ra
được một quyết định “thấu tình, đạt lý” để giải quyết vụ việc thì cần có sự sáng tạo của người
áp dụng.

17. Thực hiện pháp luật là gì? Nêu các hình thức thực hiện pháp luật. Cho ví dụ minh họa.
Thực hiện pháp luật là gì?
Thực hiện pháp luật là hành vi của chủ thể (hành động hoặc không hành động) được
tiến hành phù hợp với quy định, với yêu cầu của pháp luật, tức là không trái, không vượt quá
khuôn khổ mà pháp luật đã quy định.
Thực hiện pháp luật có thể là một xử sự có tính chủ động, được tiến hành bằng một
thao tác nhất định nhưng đó cũng có thể là một xử sự có tính thụ động, tức là không tiến hành
vượt xử sự bị pháp luật cấm.
Từ việc hiểu Thực hiện pháp luật là gì có thể khái quát hai đặc điểm cơ bản của thực
hiện pháp luật đó là:
– Thực hiện pháp luật là hành vi hợp pháp của các chủ thể pháp luật
– Thực hiện pháp luật được tiến hành bởi nhiều chủ thể với nhiều cách thức khác nhau
Nêu các hình thức thực hiện pháp luật. Cho ví dụ minh họa.
Hình thức đầu tiên là tuân thủ pháp luật:
Đây là hình thức thực hiện pháp luật một cách thụ động, thể hiện ở sự kiềm chế của
chủ thể để không vi phạm các quy định cấm đoán của pháp luật.
Ví dụ 1: Việc một người không nhận hối lộ, không sử dụng chất ma tuý, không thực
hiện hành vi lừa đảo, không lái xe chở quá số người quy định,… là người đó đã tuân thủ pháp
luật
Ví dụ 2: Không vi phạm các quy định luật an toàn giao thông khi tham gia giao thông,
không trộm cắp tài sản,….
– Hình thức thứ hai là thi hành pháp luật (hay còn gọi là chấp hành pháp luật):
Đây là hình thức thực hiện pháp luật một cách chủ động. Chủ thể pháp luật chủ động thực
hiện nghĩa vụ của mình.
Ví dụ: Công dân thực hiện nghĩa vụ quân sự, thực hiện nghĩa vụ đóng thuế, nghĩa vụ
lao động công ích, nghĩa vụ nuôi dạy con cái, chăm sóc ông bà, cha mẹ người thân khi họ già
yếu… v.v

– Hình thức thứ ba là sử dụng pháp luật:


Tại hình thức này chủ thể có thể thực hiện quyền chủ thể của mình. Sử dụng pháp luật
là khả năng của các chủ thể pháp luật có thể sử dụng khai thác hay không sử dụng, khai thác,
hưởng quyền mà luật đã dành cho mình.
Ví dụ 1: Cán bộ Ủy ban nhân dân xem xét cấp Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn cho
công dân.
Ví dụ 2: Công an phường xem xét thực hiện đăng ký thường trú cho công dân khi đủ
điều kiện.
Ví dụ 3: Pháp luật cho phép vợ, chồng được ly hôn khi mục đích hôn nhân không thể
thực hiện. Chị A đã thỏa thuận ly hôn với chồng khi người chồng không thực hiện được các
nghĩa vụ cơ bản đối với gia đình, mục đích của hôn nhân không được đảm bảo.
– Hình thức thực hiện pháp luật cuối cùng là áp dụng pháp luật:
Hình thức áp dụng pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật trong đó nhà nước thông qua các
cơ quan có thẩm quyền tổ chức cho các chủ thể pháp luật thực hiện các quy định của pháp
luật hoặc ban hành quyết định làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt các quan hệ pháp luật cụ
thể.
Ví dụ: Cảnh sát giao thông ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với người đi
vào đường ngược chiều hay không đội mũ bảo hiểm khi tham gia giao thông đường bộ.
Ví dụ: Uỷ ban nhân dân ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với trường hợp
khai báo gian dối trong quá trình thực hiện các biện pháp phòng chống dịch như khai báo y tế,
vi phạm về quy định cách ly y tế.
Hình thức áp dụng pháp luật có một số đặc điểm đó là:
– Áp dụng pháp luật là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước
– Áp dụng pháp luật là hoạt động có thủ tục phức tạp và chặt chẽ được pháp luật quy định cụ
thể (ví dụ như trường hợp xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông cũng được
pháp luật quy định một cách chi tiết)
– Áp dụng pháp luật là hoạt động mang tính sáng tạo
– Áp dụng pháp luật là hoạt động mang tính cá biệt cho từng quan hệ xã hội nhất định.

18. Phân tích khái niệm và đặc điểm của văn bản quy phạm pháp luật. Cho ví dụ minh
họa.
Khái niệm
Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản do các cơ quan nhà nước cố thẩm quyền ban
hành theo trình tự thủ tục luật định, trong đó có chứa đựng các quy tắc xử sự mang tính bắt
buộc chung, làm khuôn mẫu cho xử sự của các chủ thể pháp luật, được áp dụng nhiều lần cho
nhiều chủ thể pháp luật trong một khoảng thời gian và không gian nhất định nhằm điều chỉnh
các quan hệ xã hội theo một trật tự nhất định mà nhà nước muốn xác lập.
Điều 2 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 định nghĩa:
“Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản có chứa quy phạm pháp luật, được ban hành theo
đúng thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục quy định trong Luật này.

Đặc điểm
Văn bản quy phạm pháp luật có những đặc điểm sau:
- Do những cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền ban hành và bảo đảm thực hiện
bao gồm: Quốc hội, ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Thủ tướng Chính
phủ, Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng Kiểm toán nhà nước, bộ trưởng, thủ trưởng cơ
quan ngang bộ, hội đồng nhân dân các cấp, uỷ ban nhân dân các cấp. Ngoài ra, theo quy định
của pháp luật văn bản quy phạm pháp luật còn được ban hành bởi Đoàn Chủ tịch ủy ban trung
ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phối hợp với ủy ban Thường vụ Quốc hội hoặc Chính phủ,
các chủ thể phối hợp với nhau để ban hành thông tư liên tịch (Xem: Điều 4 Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2020).
- Nội dung của văn bản quy phạm pháp luật là các quy phạm pháp luật được áp dụng
nhiều lần trong thực tiễn và là cơ sở để ban hành các văn bản áp dụng pháp luật và văn bản
hành chính thông dụng.
Ví dụ: Luật Giáo dục đại học năm 2012 được Quốc hội ban hành là văn bản quy phạm
pháp luật. Dựa trên những quy định của Luật này, các cơ sở giáo dục đại học ban hành văn
bản áp dụng pháp luật và văn bản hành chính để thực hiện.
Điều 3 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 định nghĩa:
“Quy phạm pháp luật là quy tắc xử sự chung, có hiệu lực băt buộc chung, được áp dụng lặp đi
lặp lại nhiều lần đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong phạm vi cả nước hoặc đơn vị hành
chính nhất định, do cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền quy định trong Luật này ban
hành và được Nhà nước bảo đảm thực hiện"
Dưới góc độ khoa học, quy phạm pháp luật là quy tắc xử sự chung do Nhà nước ban
hành hoặc thừa nhận nhằm xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ của cá nhân, tổ
chức. Quy phạm là danh từ gốc Hán có nghĩa đen là khuôn thước, tức là mực thước, khuôn
mẫu. Như vậy, danh từ quy phạm dùng để chỉ cái khuôn, cái mẫu, cái thước mà người ta nói
và làm theo.(1) Ngoài ra, quy phạm còn có nghĩa như quy tắc (phép tắc) nhưng với nghĩa đầy
đủ hon đó là khuôn mẫu, chuẩn mực đã được họp pháp hoá để mọi người đối chiếu và lựa
chọn cách xử sự phù hợp. về cơ cấu của quy phạm pháp luật, đa số các luật gia đều cho rằng
quy phạm pháp luật thông thường có ba bộ phận: giả định, quy định, chế tài. Bộ phận giả định
của quy phạm pháp luật xác định điều kiện, hoàn cảnh có thể xảy ra trong cuộc sống mà khi
gặp điều kiện, hoàn cảnh đó, các chủ thể sẽ xử sự theo cách thức Nhà nước đặt ra. Nó trả lời
câu hỏi: Cá nhân nào? tổ chức nào? khi nào? trong điều kiện, hoàn cảnh nào?
Bộ phận quy định của quy phạm pháp luật định hướng hành vi xử sự của cá nhân, tổ
chức theo hướng chỉ rõ những hành vi được thực hiện, hành vi không được thực hiện và cách
thức việc cụ thể xảy ra trên thực tế, nên được áp dụng lặp đi lặp lại nhiều lần. Còn văn bản áp
dụng pháp luật chỉ được thực hiện duy nhất một lần. Có nghĩa văn bản quy phạm pháp luật có
khả năng tác động trong khoảng thời gian lâu dài.
Tính bắt buộc chung đã ảnh hưởng đến hiệu lực pháp lý của văn bản quy phạm pháp
luật. Văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lý trong phạm vi cả nước hoặc từng địa
phương tùy thuộc vào thẩm quyền của cơ quan ban hành cũng như nội dung của mỗi văn bản
quy phạm pháp luật. Thông thường, văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước ở trung
ương ban hành có hiệu lực pháp lý trên phạm vi cả nước, văn bản quy phạm pháp luật do cơ
quan nhà nước ở địa phương ban hành có hiệu lực pháp lý trên phạm vi địa phương đó. Ngoài
ra, có trường họp văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước trung ương ban hành
nhưng có hiệu lực pháp lý trên phạm vi lãnh thổ địa phương xuất phát từ tính đặc thù của địa
phương đã quyết định tới nội dung văn bản quy phạm pháp luật. Dấu hiệu này là cơ sở để
phân biệt với những văn bản có nội dung đặt ra quy tắc xử sự nội bộ trong cơ quan nhà nước.
Hiện nay, khá nhiều văn bản như quy chế, điều lệ, quy định, nội quy... có nội dung là quy tắc
xử sự nội bộ được ban hành kèm theo hình thức văn bản quyết định, nghị quyết. Những quy
tắc xử sự được đặt ra để điều chỉnh hoạt động trong nội bộ một cơ quan nhà nước không phải
là quy phạm pháp luật vì các quy tắc xử sự đó không có tính bắt buộc chung mà chỉ là văn bản
được ban hành để điều hành quản lý nội bộ, chúng có tính chất bắt buộc nhưng chỉ đối với các
đơn vị trực thuộc, nhân viên của cơ quan đó.

- Văn bản quy phạm pháp luật được ban hành theo hình thức do pháp luật quy định.
Văn bản quy phạm pháp luật được ban hành theo hình thức có nghĩa là đúng tên loại
văn bản và đúng thể thức, kĩ thuật trình bày. Theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy
phạm pháp luật năm 2015, những cơ quan nhà nước, cá nhân có thẩm quyền ban hành văn bản
quy phạm pháp luật với tên gọi xác định: Quốc hội ban hành Hiến pháp, luật, nghị quyết; ủy
ban Thường vụ Quốc hội ban hành pháp lệnh, nghị quyết, nghị quyết liên tịch với Đoàn Chủ
tịch Uỷ ban trung ương Mặt trận Tố quốc Việt Nam; Chủ tịch nước ban hành lệnh, quyết
định; Chính phủ ban hành nghị định, nghị quyết liên tịch với Đoàn Chủ tịch Uỷ ban trung
ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; Thủ tướng Chính phủ ban hành quyết định; Hội đồng
Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao ban hành nghị quyết; Chánh án Toà án nhân dân tối cao
ban hành thông tư; Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành thông tư; bộ trưởng,
thủ trưởng cơ quan ngang bộ ban hành thông tư; Tổng Kiểm toán nhà nước ban hành quyết
định; hội đồng nhân dân ban hành nghị quyết; ủy ban nhân dân ban hành quyết định. Theo
quy định của pháp luật (Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015, Luật sửa đổi,
bổ sung một sô điêu của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2020 và Nghị định
số 34/2016/NĐ-CP ngày 14/5/2016 của Chính phủ quy định chi tiết một số điêu và biện pháp
thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật), văn bản quy phạm pháp luật phải có đủ
và trình bày đúng những yếu tố như: quốc hiệu; tiêu ngữ; tên cơ quan ban hành; số, kí hiệu
văn bản; địa danh, thời gian ban hành; tên vãn bản; trích yếu nội dung; chữ kí; nơi nhận.
- Trình tự, thủ tục ban hành tuân theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm
pháp luật năm 2015. Vãn bản quy phạm pháp luật được ban hành theo trình tự: lập chương
trình xây dựng văn bản; soạn thảo; lấy ý kiến đóng góp; thấm định, thẩm Ưa; trình, thông qua,
kí chứng thực và ban hành.
Trong những dấu hiệu trên, nội dung có chứa đựng quy phạm pháp luật được coi là
dấu hiệu đặc trưng quan trọng và thể hiện bản chất nhất của văn bản quy phạm pháp luật.
Trên thực tiễn, việc sử dụng khái niệm văn bản quy phạm pháp luật và văn bản pháp
luật có những nét tương đồng, đồng nhất nhưng khác biệt trong văn phong sử dụng của người
học luật chuyên ngành và trong xã hội (nói chung). Có thể hiểu rằng văn bản quy phạm pháp
luật là cách thức sử dụng mang tính luật học và được người học luật, nhà nghiên cứu pháp lý
sử dụng thường xuyên, còn khái niệm văn bản pháp luật là một khái niệm được sử dụng phổ
biến hơn trên thực tiễn của đời sống xã hội.

19. Vi phạm pháp luật là gì? Phân tích các dấu hiệu của vi phạm pháp luật. Cho ví dụ cụ thể
và chỉ ra các dấu hiệu của vi phạm pháp luật đó.
Khái niệm
Vi phạm pháp luật là hành vi trái pháp luật và có lỗi, do chủ thể có năng lực trách
nhiệm pháp lý thực hiện, xâm hại đến các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ.
Phân tích các dấu hiệu của vi phạm pháp luật
Dấu hiệu hành vi: Vi phạm pháp luật phải là hành vi của con người, tức là xử sự thực
tế, cụ thể của cá nhân hoặc tổ chức nhất định, bởi vì pháp luật được ban hành để điều chỉnh
hành vi của các chủ thể mà không điều chỉnh suy nghĩ của họ. Mác đã từng nói: ngoài hành vi
của tôi ra, tôi không tồn tại đối với pháp luật, không phải là đối tượng của nó. Vì vậy, phải
căn cứ vào hành vi thực tế của các chủ thể mới có thể xác định được là họ thực hiện pháp luật
hay vi phạm pháp luật. Hành vi xác định này có thể được thực hiện bằng hành động (ví dụ:
Giết người, gây thương tích….) hoặc bằng không hành động (ví dụ: trốn tránh nghĩa vụ nộp
thuế).

* Dấu hiệu trái pháp luật:


Vi phạm pháp luật là hành vi trái với các quy phạm của pháp luật, xâm hại tới các quan hệ xã
hội được pháp luật xác lập và bảo vệ
– Một hành vi được coi là trái pháp luật khi nó không phù hợp với các quy định của pháp luật,
xâm hại tới quyền của công dân, tài sản của Nhà nước….Thông thường, một người không
phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi của mình nếu hành vi đó chưa được pháp
luật quy định. Sự quy định của pháp luật là cơ sở pháp lý để xác định tính trái pháp luật trong
một hành vi cụ thể
– Hành vi của con người có thể được các quy phạm xã hội khác nhau cùng điều chỉnh
* Dấu hiệu năng lực trách nhiệm pháp lý:
Hành vi trái pháp luật xác định do chủ thể có năng lực hành vi thực hiện. Người có năng lực
hành vi là người có khả năng nhận thức, điều khiển được hành vi, việc làm của mình và chịu
trách nhiệm về hành vi của mình đã thực hiện.

* Dấu hiệu lỗi:


Vi phạm pháp luật là hành vi có lỗi của chủ thể.
Vi phạm pháp luật là hành vi trái pháp luật nhưng hành vi trái pháp luật đó phải chứa đựng lỗi
của chủ thể của hành vi. Để xác định hành vi vi phạm pháp luật phải xem xét cả mặt chủ quan
của hành vi, tức là xác định lỗi của học, biểu hiện trạng thái tâm lý của người thực hiện hành
vi đó. Trạng thái tâm lý có thể là cố ý hay vô ý. Lỗi là yếu tố không thể thiếu được để xác
định hành vi vi phạm pháp luật và lỗi cũng là cơ sở để xác định trách nhiệm pháp lý đối với
chủ thể của hành vi vi phạm pháp luật.
Như vậy, chỉ những hành vi trái pháp luật mà có lỗi của chủ thể thì mới bị coi là vi phạm pháp
luật. Còn trong trường hợp chủ thể thực hiện một xử sự có tính chất trái pháp luật nhưng chủ
thể không nhận thức được hành vi của mình và hậu quả của hành vi đó gây ra cho xã hội hoặc
nhận thức được hành vi và hậu quả của hành vi của mình nhưng không điều khiển được hành
vi của mình thì không bị coi là có lỗi và không phải là vi phạm pháp luật.

* Dấu hiệu quan hệ xã hội bị xâm hại:


Vi phạm pháp luật là hành vi xâm hại trực tiếp hoặc gián tiếp tới các quan hệ xã hội được
pháp luật bảo vệ, tức là làm biến dạng đi cách xử sự là nội dung của quan hệ pháp luật đó

20. Nhà nước là gì ? Phân tích bản chất và đặc trưng cơ bản của nhà nước.
Như vậy, nhà nước được hiểu là “hình thức (phương thức) tổ chức xã hội có giai cấp, là tổ
chức quyền lực chính trị công cộng đặc biệt, có chức năng quản lý xã hội để phục vụ lợi ích
trước hết cho giai cấp thống trị và thực hiện những hoạt động nảy sinh từ bản chất của xã
hội”.

Nhà nước đầu tiên trong lịch sử là Nhà nước chiếm hữu nô lệ. Đó là nhà nước xuất hiện trong
cuộc đấu tranh không thể điều hòa được giữa giai cấp chủ nô và giai cấp nô lệ. Tiếp đó là nhà
nước phong kiến và nhà nước tư bản chủ nghĩa mà sự xuất hiện của nó cũng dựa trên mâu
thuẫn đối kháng nói trên. Như thế ở bất kỳ nơi đâu và lúc nào khi mà mâu thuẫn giai cấp
không thể điều hòa được thì ở đó nhà nước xuất hiện.

Như Lênin đã viết: “Nhà nước là sản phẩm và biểu hiện của những mâu thuẫn giai cấp không
thể điều hòa được. Bất cứ ở đâu, hễ lúc nào và chừng nào mà về mặt khách quan, những mâu
thuẫn giai cấp không thể điều hòa được thì nhà nước sẽ xuất hiện và ngược lại, sự tồn tại của
nhà nước chứng tỏ rằng những mâu thuẫn giai cấp là không thể điều hòa được”.

Bản chất của nhà nước


Bản chất của nhà nước thể hiện ở hai thuộc tính: Tính giai cấp và tính xã hội.

– Tính giai cấp


Tính giai cấp của nhà nước thể hiện ở chỗ nhà nước là bộ máy đặc biệt do giai cấp cầm quyền
tổ chức nhằm mục đích bảo vệ vị thế và lợi ích của giai cấp cầm quyền.

Tùy thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh và mối tương quan giữa các tầng lớp trong xã hội trong
mỗi nhà nước mà mức độ thể hiện tính giai cấp lại khác nhau…

Nhà nước xuất hiện và tồn tại một cách khách quan theo quy luật vận động và phát triển của
kinh tế, xã hội. Và nhà nước là tổ chức quyền lực công cộng của toàn xã hội. Vì vậy, nhà
nước có vị trí tựa hồ như đứng trên xã hội, đứng trên giai cấp.

Quyền lực nhà nước là một loại quyền lực đặc biệt, có tổ chức chặt chẽ và có sức mạnh cưỡng
chế. Quyền lực nhà nước bao gồm quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp. Quyền
lập pháp là quyền ban hành và sửa đổi pháp luật, quyền hành pháp là quyền thực hiện và áp
dụng pháp luật, quyền tư pháp là quyền xét xử.

Tuy nhiên, tính giai cấp của nhà nước cũng có những biến đổi nhất định bởi nó bị ảnh hưởng
nhiều yếu tố khác nhau trong từng kiểu nhà nước. Do vậy, tính giai cấp luôn là thuộc tính thể
hiện bảo chất của nhà nước cần được nhận thức một cách sâu sắc.

Nhà nước là sản phẩm của xã hội có giai cấp và là biểu hiện của sự không thể điều hoà được
các mâu thuẫn của giai cấp đối kháng. Nhà nước là tổ chức quyền lực chính trị đặc biệt. Để
làm rõ bản chất của nhà nước cần phải xác định nhà nước đó của ai? Do giai cấp nào tổ chức
và lãnh đạo? Phục vụ trước tiên cho lợi ích của giai cấp nào?

Trong xã hội có đối kháng giai cấp, sự thống trị của giai cấp này đối với giai cấp khác được
thể hiện dưới ba quyền lực: kinh tế, chính trị và tư tưởng.

Trong ba quyền lực, quyền lực kinh tế đóng vai trò chủ đạo, là cơ sở để đảm bảo cho sự thống
trị giai cấp. Quyền lực kinh tế tạo ra cho chủ sở hữu khả năng bắt những người khác phụ
thuộc vào mình về mặt kinh tế. Tuy nhiên, bản thân quyền lực kinh tế lại không có khả năng
duy trì quan hệ bóc lột, vì thế để bảo đảm cho quan hệ bóc lột, giai cấp nắm quyền lực kinh tế
phải thông qua quyền lực chính trị.
Quyền lực chính trị xét về mặt bản chất là bạo lực có tổ chức của một giai cấp nhằm trấn áp
các giai cấp khác trong xã hội. Thông qua nhà nước, giai cấp thống trị về kinh tế đã trở thành
chủ thể của quyền lực chính trị. Nhờ nắm trong tay nhà nước, giai cấp thống trị đã tổ chức và
thực hiện quyền lực chính trị của mình, hợp pháp hoá ý chí của giai cấp mình thành ý chí nhà
nước và như vậy buộc các giai cấp khác phải tuân theo trật tự phù hợp với lợi ích của giai cấp
thống trị. Bằng cách đó giai cấp thống trị đã thực hiện sự chuyên chính của giai cấp mình đối
với các giai cấp khác.
Để thực hiện sự chuyên chính giai cấp, giai cấp thống trị không đơn thuần chỉ sử dụng bạo lực
cưỡng chế mà còn thông qua sự tác động về tư tưởng. Chính vì vậy, khi nắm trong tay quyền
lực kinh tế và quyền lực chính trị, giai cấp thống trị còn thông qua nhà nước xây dựng hệ tư
tưởng của giai cấp mình thành hệ tư tưởng thống trị trong xã hội, buộc các giai cấp khác phải
lệ thuộc vào mình về mặt tư tưởng.
Như vậy, nhà nước là công cụ sắc bén thể hiện và thực hiện ý chí của giai cấp cầm quyền, bảo
vệ trước tiên lợi ích của giai cấp thống trị trong xã hội.

Nhà nước, hiểu theo nghĩa pháp luật, là một tổ chức xã hội đặc biệt của quyền lực chính trị
được giai cấp thống trị thành lập nhằm thực hiện quyền lực chính trị của mình. Nhà nước vì
thế mang bản chất giai cấp. Nhà nước xuất hiện kể từ khi xã hội loài người bị phân chia thành
những lực lượng giai cấp đối kháng nhau; nhà nước là bộ máy do lực lượng nắm quyền thống
trị (kinh tế, chính trị, tư tưởng) thành lập nên, nhằm mục đích điều khiển, chỉ huy toàn bộ hoạt
động của xã hội trong một quốc gia, trong đó chủ yếu để bảo vệ các quyền lợi của lực lượng
thống trị. Thực chất, nhà nước là sản phẩm của cuộc đấu tranh giai cấp. Ăngghen đã nêu rõ:
“bản chất của nhà nước chẳng qua chỉ là một bộ máy trấn áp của một giai cấp này đối với một
giai cấp khác, điều đó trong chế độ cộng hòa dân chủ cũng hoàn toàn giống như trong chế độ
quân chủ vậy”. Với tư cách là bộ máy trấn áp của giai cấp này với giai cấp khác, nhà nước của
giai cấp bóc lột là bộ máy được lập ra nhằm hợp pháp hóa và củng cố sự áp bức của giai cấp
đó đối với giai cấp bị trị và đối với quần chúng nhân dân lao động. Tất cả mọi hoạt động
chính trị, văn hóa, xã hội do nhà nước tiến hành xét đến cùng đều xuất phát từ lợi ích và nhằm
để phục vụ cho lợi ích của giai cấp thống trị.

Các nhà kinh điển của Chủ nghĩa Mác-Lênin đã chỉ ra rằng: nhà nước là một hiện tượng thuộc
kiến trúc thượng tầng trên một cơ sở kinh tế nhất định, đó là công cụ để duy trì sự thống trị
của giai cấp này đối với giai cấp khác. Về bản chất giai cấp của nhà nước, V.I Lênin đã nhận
định: “nhà nước là bộ máy để giai cấp này áp bức giai cấp khác, một bộ máy để duy trì dưới
sự thống trị của một giai cấp lên tất cả các giai cấp bị lệ thuộc khác”.

– Tính xã hội
Tính xã hội là một thuộc tính khách quan phổ biến của nhà nước. Nhà nước ra đời và tồn tại
trong xã hội bao gồm giai cấp thống trị và các giai cấp, tầng lớp dân cư khác. Bản thân giai
cấp thống trị chỉ có thể tồn tại trong mối quan hệ với các giai cấp, tầng lớp dân cư khác. Bởi
vậy, nhà nước ngoài tính chất là một công cụ duy trì sự thống trị và bảo vệ lợi ích của giai cấp
thống trị còn phải là một tổ chức quyền lực công. Quyền lực công là phương thức tổ chức bảo
đảm lợi ích chung của xã hội. Nhà nước phải giải quyết những vấn đề nảy sinh trong đời sống
xã hội, bảo đảm trật tự chung cho xã hội ổn định, tồn tại và phát triển. Do đó, nhà nước không
chỉ bảo vệ quyền lợi của giai cấp thống trị mà còn bảo vệ quyền lợi của giai tầng khác trong
xã hội khi mà lợi ích đó không mâu thuẫn căn bản với lợi ích của giai cấp thống trị.

Các đặc trưng của nhà nước


Nhà nước xuất hiện dù với bất cứ nguyên nhân nào, với bản chất gì thì đều có những đặc
trưng khác biệt so với tổ chức của xã hội thị tộc, bộ lạc và các tổ chức chính trị xã hội khác do
giai cấp thống trị thiết lập và sử dụng để quản lý xã hội. Vì nhà nước là sản phẩm của xã hội
có giai cấp và là biểu hiện của sự không thể điều hòa được các mâu thuẫn giai cấp đối kháng.
Theo quan điểm của học thuyết Mác-Lênin, nhà nước có năm đặc trưng cơ bản:

Nhà nước có quyền quản lý dân cư, phân chia lãnh thổ thành các đơn vị hành chính

Lãnh thổ và dân cư là hai yếu tố căn bản cấu thành nên nhà nước. Nếu như xã hội thị tộc, bộ
lạc quản lý các thành viên của mình theo huyết thống thì nhà nước quản lý tổ chức dân cư
theo các đơn vị hành chính lãnh thổ, không phụ thuộc huyết thống, giới tính, nghề nghiệp.
Mọi nhà nước đều có lãnh thổ riêng để quản lý, chia lãnh thổ của mình thành các đơn vị hành
chính như tỉnh, huyện, xã,… nhằm quản lý một cách chặt chẽ, hệ thống từ trên xuống dưới.
Nhà nước có quyền lực chính trị công cộng đặc biệt

Khác với các tổ chức khác, nhà nước là tổ chức duy nhất thiết lập một quyền lực mà chủ thể
của nó là giai cấp thống trị về kinh tế, chính trị, tư tưởng trong xã hội.
1.Nhà nước là gì ? Phân tích bản chất và đặc trưng cơ bản của nhà nước.
Trong xã hội cộng sản nguyên thủy đã có quyền lực, nhưng đó là quyền lực xã hội, do tất cả
các thành viên trong xã hội thiết lập và họ tự giác phục tùng, không cần một bộ máy cưỡng
chế nào cả, do đó nó hòa nhập với toàn cư dân. Khi nhà nước ra đời thì quyền lực xã hội
nhường chỗ cho một thứ quyền lực mới – quyền lực nhà nước của giai cấp thống trị, được
đảm bảo thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế của nhà nước, bởi vậy nó không thể hòa nhập
hoàn toàn với cư dân. Quyền lực này mang tính chính trị, giai cấp, được thực hiện bởi một bộ
máy hùng mạnh nhất bao gồm hệ thống cơ quan, tổ chức và đội ngũ công chức đông đảo và
nhiều loại. Hệ thống bộ máy này được tổ chức chặt chẽ từ trung ương xuống cơ sở, được vận
hành theo những nguyên tắc, quy định thống nhất và thông suốt. Thông qua bộ máy này địa vị
của giai cấp thống trị được duy trì, buộc các tầng lớp, giai cấp khác phải phục tùng theo ý chí
của mình, ý chí của giai cấp thống trị trở thành ý chí nhà nước thống trị xã hội.
Nhà nước có chủ quyền quốc gia

Chủ quyền quốc gia thể hiện quyền độc lập tự quyết của nhà nước về những chính sách đối
nội và đối ngoại không phụ thuộc vào các yếu tố bên ngoài. Chủ quyền quốc gia là thuộc tính
gắn liền với nhà nước, dân tộc.
Tính tối cao của chủ quyền nhà nước thể hiện ở chỗ chỉ có quyền lực của nhà nước được trao
quyền và có trách nhiệm về tuyên bố, thực hiện và bảo vệ chủ quyền quốc gia.
Dấu hiệu chủ quyền nhà nước thể hiện sự độc lập, bình đẳng giữa các quốc gia, dân tộc dù đó
là quốc gia, dân tộc lớn hay nhỏ.
Nhà nước có quyền xây dựng, sáng tạo pháp luật

Pháp luật là công cụ hỗ trợ giúp nhà nước tổ chức và quản lý xã hội. Nhà nước là tổ chức duy
nhất có quyền ban hành pháp luật và bảo đảm thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế.
Thông qua pháp luật, mọi cá nhân, cơ quan, tổ chức phải tuân thủ và bảo vệ pháp luật.
Nhà nước có quyền ban hành các sắc thuế và thu thuế

Để nuôi dưỡng bộ máy nhà nước, nhà nước phải đặt ra các loại thuế.
Chỉ có nhà nước mới có quyền quy định việc thu thuế nhằm đảm bảo cho sự phát triển kinh
tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng và giải quyết các công việc chung của toàn xã hội.

21.Hình thức pháp luật là gì? Trình bày các hình thức của pháp luật. Liên hệ ở Việt Nam hiện
nay.
Hình thức pháp luật là cách thức thể hiện ý chí của nhà nước hay cách thức mà nhà nước sử
dụng để chuyển ý chí của nó thành pháp luật.

Pháp luật có hình thức bên trong và bên ngoài:

– Hình thức bên trong là cơ cấu bên trong của pháp luật, là mối liên hệ, sự liên kết giữa các
yếu tố cấu thành pháp luật. Hình thức bên trong của pháp luật được gọi là hình thức cấu trúc
cửa pháp luật, bao gồm các bộ phận cấu thành của hệ thống pháp luật như ngành luật, chế
định pháp luật và quy phạm pháp luật.

– Hình thức bên ngoài là dáng vẻ bề ngoài hay phương thức tồn tại của pháp luật. Dựa vào
hình thức của pháp luật, người ta có thể biết pháp luật tồn tại trong thực tế dưới dạng nào,
nằm ở đâu. Hình thức bên ngoài của pháp luật cũng được tiếp cận trong mối tương quan với
nội dung của nó. Theo cách hiểu này, nội dung của pháp luật là toàn bộ những yếu tố tạo nên
pháp luật, còn hình thức của pháp luật được hiểu là yếu tố chứa đựng hoặc thể hiện nội dung.
Nếu hiểu nội dung của pháp luật là ý chí của nhà nước thì hình thức pháp luật là cách thức thể
hiện ý chí của nhà nước.

- Các hình thức pháp luật trong khoa học pháp lý:
Pháp luật có 03 hình thức cơ bản, tức là những hình thức được hầu hết các nhà nước sử dụng,
đó là tập quán pháp, tiền lệ pháp, văn bản quy phạm pháp luật. Ba hình thức này cũng đồng
thời là ba nguồn hình thức của pháp luật.

Tập quán pháp:


Tập quán pháp là những tập quán được Nhà nước thừa nhận có giá trị pháp lý, trở thành
những quy tắc xử sự chung và được Nhà nước bảo đảm thực hiện.

Tập quán pháp được thừa nhận như một loại nguồn của pháp luật ở nhiều quốc gia trên thế
giới. Tại các nước theo truyền thống Civil Law, tập quán pháp là loại nguồn quan trọng của
pháp luật. Các nước theo truyền thống Common Law xem tập quán pháp là loại nguồn thứ ba
bổ sung cho văn bản lập pháp và tiền lệ pháp.
Đối với vai trò hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam, tập quán pháp có các ưu điểm vượt
trội sau:

Thứ nhất, tập quán pháp là những quy phạm pháp luật có tính hợp lý cao được bảo đảm bởi
thời gian và cộng đồng. Trong điều kiện mà trình độ phát triển của các cộng đồng còn khác
biệt thì các quy phạm pháp luật ở trình độ khái quát cao khó xâm nhập vào các lĩnh vực cụ thể
của đời sống cộng đồng. Vì vậy, tập quán pháp sẽ đóng vai trò vô cùng cần thiết để thay cho
pháp luật mà các mối quan hệ xã hội vẫn được giải quyết hiệu quả.

Thứ hai, tập quán pháp tạo sự hài hòa hợp lý giữa lý luận và thực tiễn trong quá trình áp dụng
pháp luật. Những tập quán pháp phù hợp lại góp phần làm cho pháp luật được thực hiện một
cách nghiêm chỉnh, tự giác hơn, dựa trên lòng tin và sự tuân thủ sẵn có của người dân đối với
các tập quán.

Thứ ba, tập quán pháp khắc phục các khiếm khuyết của văn bản quy phạm pháp luật. Trong
thực tiễn luôn tồn tại những vấn đề cụ thể mà pháp luật chưa quy định hoặc quy định chưa
đầy đủ. Trong những trường hợp đó, áp dụng tập quán pháp có ý nghĩa bổ sung cho pháp luật
để điều chỉnh các hành vi xã hội. Tập quán pháp và pháp luật thành văn có mối quan hệ qua
lại với nhau rất chặt chẽ. Pháp luật thành văn sẽ định hướng, tạo nên khung pháp lý cho luật
tập quán phát triển. Tập quán pháp lại có thể tạo nên cơ sở để pháp luật thành văn điều chỉnh
kịp thời các vấn đề xã hội.

Tại Việt Nam, trong Bộ luật dân sự năm 2015, Nhà nước ta đã thừa nhận tập quán. Việc thừa
nhận này trước hết thông qua một nguyên tắc tại Điều 5 Bộ luật dân sự năm 2015: “Trường
hợp các bên không có thỏa thuận và pháp luật không quy định thì có thể áp dụng tập quán
nhưng tập quán áp dụng không được trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự quy
định tại Điều 3 của Bộ luật này”. Đồng thời, Bộ luật dân sự năm 2015 cũng đã đưa ra nhiều
quy định chi tiết thừa nhận tập quán như áp dụng tập quán lựa chọn dân tộc cho con (khoản 1
Điều 29); giải thích giao dịch dân sự (khoản 1 Điều 121); Xác định ranh giới giữa các bất
động sản (Khoản 1 Điều 175); xác lập quyền sở hữu (Điều 211); xác định trách nhiệm dân sự
(khoản 4 Điều 605). Từ đó, có thể khẳng định, tập quán chính thức được thừa nhận nhằm điều
chỉnh các quan hệ xã hội như các quy tắc xử sự do Nhà nước đặt ra.
Tuy nhiên, cơ chế chuyển tải các quy phạm tập quán vào cuộc sống còn rất nhiều trở ngại.
Một là, tình trạng các cơ quan nhà nước lại “luật hóa” các quan hệ xã hội mà lẽ ra có thể điều
chỉnh tốt bằng tập quán pháp. Chẳng hạn, từ Điều 471 Bộ luật dân sự năm 2015 về hụi, họ,
biêu, phường, ngày 19/2/2019 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 19/2019/NĐ-CP về hụi,
họ, biêu, phường. Việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành ra văn bản quy phạm pháp
luật mới điều chỉnh luôn vấn đề được quy định là áp dụng theo tập quán đã phần nào “vô hiệu
hóa” vai trò của tập quán pháp. Hai là, tâm lý e ngại tập quán không minh bạch, mang tính địa
phương cục bộ nên nhiều cơ quan nhà nước “chủ động” né tránh việc áp dụng tập quán pháp.
Thực tế khảo sát ở một số tỉnh miền núi thường xuyên áp dụng phong tục, tập quán cho thấy,
có đến một nửa số bản án, quyết định viện dẫn tập quán để giải quyết tranh chấp không được
Viện kiểm sát, Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận. Ngay đối với các đoàn thể xã hội cũng chỉ
chấp nhận, đồng tình với 58,3% các bản án, quyết định có áp dụng tập quán. Ba là, hiện nay,
các quy định pháp luật về việc áp dụng tập quán còn quy định chưa nhất quán, thậm chí mâu
thuẫn nhau. Điều 5 của Bộ luật dân sự năm 2015 nêu rõ thứ tự ưu tiên trong việc áp dụng tập
quán.

Theo đó, tập quán được ưu tiên áp dụng trước, nếu không có tập quán mới áp dụng quy định
tương tự của pháp luật. Tuy nhiên, trong các điều luật cụ thể của Bộ luật dân sự năm 2015 lại
thể hiện sự không nhất quán khi quy định các chủ thể có thẩm quyền có thể lựa chọn vị trí ưu
tiên trong việc áp dụng pháp luật. Ví dụ, theo khoản 2 Điều 29 Bộ luật dân sự năm 2015 quy
định “Cá nhân khi sinh ra được xác định dân tộc theo dân tộc của cha đẻ, mẹ đẻ. Trường hợp
cha đẻ, mẹ đẻ thuộc hai dân tộc khác nhau thì dân tộc của con được xác định theo dân tộc của
cha đẻ hoặc mẹ đẻ theo thỏa thuận của cha đẻ, mẹ đẻ; trường hợp không có thỏa thuận thì dân
tộc của con được xác định theo tập quán; trường hợp tập quán khác nhau thì dân tộc của con
được xác định theo tập quán của dân tộc ít người hơn”. Với quy định này, khó có thể nói rằng
tập quán được ưu tiên áp dụng so với thỏa thuận.

Tiền lệ pháp:
Là hình thức nhà nước thừa nhận các quyết định của cơ quan hành chính hoặc xét xử giải
quyết những vụ việc cụ thể để áp dụng đối với các vụ việc tương tự. Hình thức này đã được
sử dụng trong các nhà nước chủ nô, được sử dụng rộng rãi trong các nhà nước phong kiến và
hiện nay vẫn chiếm vị trí quan trọng trong pháp luật tư sản, nhất là ở Anh, Mỹ (đặc biệt là
trong dân luật).
Tiền lệ pháp hình thành không phải do hoạt động của cơ quan lập pháp mà xuất hiện từ hoạt
động của cơ quan hành pháp và tư pháp. Vì vậy, hình thức này dễ tạo ra sự tùy tiện, không
phù hợp với nguyên tắc pháp chế đòi hỏi phải tôn trọng nguyên tắc tối cao của luật và phải
phân định rõ chức năng, quyền hạn của các cơ quan trong bộ máy nhà nước trong việc xây
dựng và thực hiện pháp luật.

Tuy nhiên, trên thực tế trong chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ (nhất là thời kỳ sau
cách mạng), do hệ thống pháp luật chưa được xây dựng được hoàn chỉnh, trước yêu cầu của
cách mạng cần phải giải quyết ngay một số vụ việc, trong các nhà nước xã hội chủ nghĩa vẫn
còn sử dụng hình thức này. Nhưng đó là sự vận dụng linh hoạt dựa trên cơ sở của luật và
đường lối chính sách của Đảng. Khi hệ thống pháp luật được xây dựng đồng bộ, hoàn chỉnh
thì hình thức này không còn tồn tại trong các nhà nước xã hội chủ nghĩa.

Văn bản quy phạm pháp luật:


Là hình thức pháp luật tiến bộ nhất. Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản do cơ quan nhà
nước có thẩm quyền ban hành trong đó quy định những quy tắc xử sự chung (quy phạm đối
với mọi người) được áp dụng nhiều lần trong đời sống xã hội. Có nhiều loại văn bản pháp
luật. Ở mỗi nước, trong những điều kiện cụ thể có những quy định riêng về tên gọi và hiệu lực
pháp lý của các loại văn bản pháp luật. Nhưng nhìn chung, các văn bản pháp luật đều được
ban hành theo một trình tự thủ tục nhất định và chứa đựng những quy định cụ thể (các quy
phạm pháp luật).

Trong pháp luật chủ nô và phong kiến, các văn bản pháp luật còn chưa hoàn chỉnh và kỹ thuật
xây dựng chưa cao. Nhiều đạo luật chỉ là sự ghi chép lại một cách có hệ thống các án lệ và
các tập quán đã được thừa nhận. Pháp luật tư sản đã có nhiều hình thức văn bản phong phú và
được xây dựng với kỹ thuật cao. Đặc biệt ở giai đoạn đầu, sau khi cách mạng tư sản thành
công, nguyên tắc pháp chế được đề cao đã làm cho pháp luật tư sản có hệ thống văn bản
tương đối thống nhất dựa trên cơ sở của luật. Nhưng với bản chất của nó cho nên sau thắng lợi
hoàn toàn đối với chế độ phong kiến, giai cấp tư sản tự mình phá vỡ nguyên tắc pháp chế do
mình đề ra bằng nhiều cách như hạ thấp vai trò của nghị viện, mở rộng quyền của tổng thống
và chính phủ, sử dụng rộng hình thức tập quán pháp và tiền lệ pháp. Bằng cách đó, giai cấp tư
sản đã phá vỡ tính thống nhất theo nguyên tắc pháp chế của các văn bản pháp luật; kỹ thuật
xây dựng văn bản cao được sử dụng để che đậy bản chất của pháp luật tư sản.

Pháp luật xã hội chủ nghĩa có hệ thống các văn bản thống nhất được xây dựng theo nguyên
tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa, tôn trọng tính tối cao của hiến pháp và luật. Hệ thống các văn
bản pháp luật xã hội chủ nghĩa ngày càng được xây dựng hoàn chỉnh, đồng bộ với kỹ thuật
cao phản ánh đúng bản chất của pháp luật xã hội chủ nghĩa.

Trong lịch sử có ba hình thức pháp luật được thừa nhận là tập quán pháp, tiền lệ pháp và văn
bản quy phạm pháp luật. Như vậy, ngoài hình thức văn bản quy phạm pháp luật, việc điều
chỉnh các quan hệ xã hội còn có thể có sự tham gia của tập quán pháp, tiền lệ pháp.

Ở Việt Nam, tiền lệ pháp và tập quán pháp không được coi là hình thức pháp luật thông dụng
và ít được quan tâm nghiên cứu. Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay khi chúng ta đang
chuyển sang cơ chế kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì việc đổi mới tư
duy pháp lý, trong đó đổi mới nhận thức về hình thức pháp luật là một trong những yêu cầu có
tính bức xúc, cần được quan tâm đúng mức.

Thực tế đã cho thấy, một quy phạm pháp luật phải chứa đựng quy tắc xử sự chung, thế nhưng
việc áp dụng các quy tắc xử sự chung này cho mọi trường hợp, kể cả các trường hợp đặc biệt
là điều không thể. Văn bản quy phạm pháp luật phải có tính khái quát hóa cao. Song chính sự
khái quát hóa quá cao đó lại khiến cho văn bản quy phạm pháp luật dễ dàng bộc lộ khuyết
điểm. Ngoài ra, văn bản quy phạm pháp luật thường dễ bị lạc hậu so với cuộc sống.
Chính những điểm yếu nói trên làm cho văn bản quy phạm pháp luật chưa đáp ứng yêu cầu
điều chỉnh toàn bộ hành vi con người, điều chỉnh các quan hệ xã hội. Muốn khắc phục những
hạn chế kể trên, cần có nhiều giải pháp mà một trong những giải pháp quan trọng là đa dạng
hóa hình thức pháp luật.

22. Phân tích khái niệm chủ thể quan hệ pháp luật. Các loại chủ thể. Nêu các dấu hiệu của
pháp nhân.
Chủ thể pháp luật là cá nhân, tổ chức có khả năng có quyền và nghĩa vụ pháp lý theo quy định
của pháp luật. Chủ thể pháp luật khác với chủ thể quan hệ pháp luật. Để trở thành chủ thể
pháp luật chỉ cần có năng lực pháp luật, nhưng để trở thành chủ thể của một quan hệ pháp luật
cụ thể thì phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi pháp luật, tức là phải có khả năng tự
mình thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật.

Chủ thể quan hệ pháp luật Dân sự


Cũng giống như các quan hệ pháp luật nói chung, chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự là
những người tham gia vào quan hệ pháp luật dân sự và có các quyền, nghĩa vụ phát sinh từ
quan hệ đó. Chủ thể của quan hệ này bao gồm:

Cá nhân: Người có đủ năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự;
Pháp nhân: Pháp nhân là tổ chức thống nhất, độc lập, hợp pháp, có tài sản riêng và chịu trách
nhiệm bằng tài sản của mình. Chủ thể này tham gia vào các quan hệ pháp luật một cách độc
lập và nhân danh chính mình.
Tổ hợp tác: Là loại hình được thành lập dựa trên hợp đồng hợp tác kinh doanh (có chứng thực
của UBND xã, phường) của 3 cá nhân trở lên, cùng đóng góp tài sản, công sức để thực hiện
công việc nhất định, cùng có trách nhiệm và cùng có lợi.
Hộ gia đình: Hộ gia đình mà các thành viên có tài sản chung để làm kinh tế chung trong quan
hệ sử dụng đất, sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp và một số lĩnh vực kinh doanh khác theo quy
định của pháp luật là chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự.
Nhà nước: Với tư cách là chủ thể đặc biệt trong giao dịch dân sự. Nhà nước là chủ thể của
một số quan hệ như quan hệ thừa kế, quan hệ sở hữu…

Chủ thể quan hệ pháp luật Hành chính


Trong quan hệ pháp luật hành chính chủ thể chính là các bên tham gia quan hệ này có năng
lực chủ thể với các quyền và nghĩa vụ tương ứng đối với nhau theo quy định của pháp luật
hành chính. Chủ thể của quan hệ này gồm: cán bộ nhà nước, đơn vị kinh tế, cơ quan nhà
nước, công dân Việt Nam, tổ chức xã hội, người nước ngoài, người không quốc tịch.

Trong đó một loại chủ thể luôn hiện diện trong mọi quan hệ pháp luật hành chính đó là:

Chủ thể quản lý hành chính nhà nước: Là cá nhân hoặc tổ chức của con người mang quyền
lực hành chính, nhân danh nhà nước và thực hiện chức năng quản lý hành chính nhà nước.
Chủ thể của quản lý hành chính nhà nước: Là một bên trong quan hệ hành chính pháp lý, chịu
sự quản lý và tuân theo mệnh lệnh của chủ thể quản lý. Trong quan hệ pháp luật hành chính,
đây có thể là cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia không với tư cách là người có quyền lực
hành chính nhà nước; hoặc công dân cá nhân, tổ chức kinh tế ngoài quốc doanh, tổ chức xã
hội không mang quyền lực hành chính nhà nước.
Vì vậy, công dân Việt Nam không chỉ là chủ thể quản lý mà còn có quyền và nghĩa vụ tham
gia quản lý nhà nước, làm cho mục đích quản lý hành chính ngày càng thể hiện rõ hơn lợi ích
và nguyện vọng của họ của người dân.

Chủ thể của quan hệ pháp luật Đất đai


Chủ thể pháp luật đất đai là các bên tham gia quan hệ pháp luật đất đai bao gồm nhà nước và
người sử dụng đất. Theo đó, người sử dụng đất là chủ thể của quan hệ pháp luật đất đai.
Người sử dụng đất có thể là tổ chức, hộ gia đình, cá nhân trực tiếp tham gia vào quan hệ pháp
luật đất đai, có ý chí độc lập, có quyền và nghĩa vụ nhất định.

Các chủ thể trong quan hệ đất đai bao gồm: Tổ chức trong nước: Cơ quan nhà nước, đơn vị
kinh tế, tổ chức chính trị – xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân, …, cá nhân trong nước, hộ gia
đình, cộng đồng dân cư trên địa bàn hoặc cùng dòng họ, cơ sở tôn giáo, tổ chức nước ngoài
với có chức năng ngoại giao, người Việt Nam định cư ở nước ngoài đầu tư và hoạt động văn
hóa, khoa học thường xuyên hoặc trở về sinh sống ổn định tại Việt Nam, tổ chức, cá nhân
nước ngoài đầu tư vào Việt Nam theo quy định của pháp luật về đầu tư.

Nhà nước là chủ thể đặc biệt của Quan hệ pháp luật đất đai, Nhà nước tham gia Quan hệ pháp
luật đất đai với tư cách là chủ sở hữu đại diện chủ hữu và thống nhất quản lý toàn bộ đất đai.
Nhà Nước thường xuyên tham gia vào quan hệ pháp luật đất đai và luôn có tư cách chủ thể.
Ngoài Nhà nước còn có các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân, cơ sở tôn giáo và cộng đồng dân
cư. Nhưng không phải mọi tổ chức, hộ gia đình, cá nhân, cơ sở tôn giáo, cộng đồng dân cư
đều là chủ thể của pháp luật đất đai mà phải đáp ứng những điều kiện nhất định.

Chủ thể quan hệ pháp luật Lao động


Chủ thể của quan hệ pháp luật lao động là những bên tham gia quan hệ pháp luật lao động bao
gồm:

Người lao động: Là các cá nhân 15 tuổi trở lên, có khả năng lao động và có giao kết hợp đồng
lao động, có đầy đủ năng lực hành vi lao động và năng lực pháp luật lao động. Người lao
động bao gồm: công dân, người nước ngoài và người không quốc tịch.
Người sử dụng lao động: Là doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức, cá nhân nếu là cá nhân thì phải
đủ 18 tuổi trở lên và được thuê, sử dụng và trả công. Có đủ các điều kiện theo quy định của
pháp luật, phải có năng lực hành vi và năng lực pháp luật lao động.

Các dấu hiệu của pháp nhân:


Pháp nhân là tổ chức đáp ứng đủ đầy đủ 4 điều kiện sau: (1) Được thành lập hợp pháp; (2) Có
cơ cấu tổ chức chặt chẽ; (3) Có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách
nhiệm bằng tài sản đó; (4) Nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc lập.
23. Phân tích khái niệm chủ thể quan hệ pháp luật. Các loại chủ thể. Nêu các dấu hiệu của
pháp nhân. (giống 22)

24. Phân tích vai trò của pháp luật trong đời sống xã hội.
Pháp luật có vị trí và tầm quan trọng hết sức lớn. Pháp luật là quy tắc ứng xử đặc biệt
quan trọng trong đời sống chung, yếu tố thiết yếu trong đời sống hàng ngày. Vai trò của pháp
luật đối với xã hội cụ thể như sau:
 Thứ nhất: Pháp luật là công cụ điều tiết và định hướng sự phát triển của các quan hệ
xã hội
Pháp luật không sinh ra các quan hệ xã hội nhưng pháp luật như là phương thức hữu
hiệu để điều tiết và định hướng các quan hệ xã hội. Pháp luật giúp con người xác định và làm
theo những quy tắc ứng xử trong khuân khổ nhất định. Pháp luật còn giúp quy định quyền và
nghĩa vụ cụ thể cho chủ thể tham gia vào quan hệ xã hội cũng như các biện pháp bảo đảm
thực hiện các quyền đó. Pháp luật tạo ra hành lang pháp lý, khuôn khổ cho các quan hệ xã hội
vận hành.
Nhờ có pháp luật, các thành viên trong xã hội nắm bắt được những hành vi nào là hợp
pháp, được khuyến khích, hành vi nào là bắt buộc, hành vi nào bị ngăn cấm để từ đó có cách
ứng xử phù hợp. Pháp luật tăng cường các xu hướng phát triển tốt của các quan hệ xã hội,
khuyến khích xu hướng tốt và loại bỏ, ngăn cản những quan hệ xấu trong xã hội. Những quan
hệ xã hội phù hợp với mục đích, định hướng của nhà nước được pháp luật phát triển và bảo vệ
sự tồn tại của những quan hệ xã hội đó.
 Thứ hai: Pháp luật là cơ sở để đảm bảo an toàn xã hội
Đất nước có yên bình thì đời sống nhân dân mới có ấm no và có điều kiện xây dựng và phát
triển. An toàn xã hội có ý nghĩa hết sức quan trọng, đất nước nào có đời sống nhân dân an
toàn luôn là điểm hướng tới trên toàn thế giới. An toàn xã hội được hiểu là trạng thái của đời
sống xã hội.

Đất nước có một nền chính trị ổn định, không bạo động, không chống phá nhà nước và
biểu tình, vũ trang nhân dân,.. Người dân được sống và học tập làm việc ở môi trường an
toàn, không bị xâm phạm.
Pháp luật đưa ra những quy tắc xử sự chung và thiết chế cho mọi người. Pháp luật cấm
những hành vi gây mất an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội và quy định cụ thể các biện
pháp trừng phạt đối với những chủ thể có hành vi xâm hại đến an toàn xã hội, thiết lập cơ chế
bảo đảm được trật tự, an ninh, an toàn xã hội.
 Thứ ba: Pháp luật là cơ sở để giải quyết tranh chấp trong xã hội
Trong xã hội con người sống với nhau không tránh khỏi những mâu thuẫn, tranh chấp. Xã hội
càng phát triển thì những tranh chấp phát sinh ngày càng nhiều lên. Pháp luật là căn cứ để các
bên có căn cứ để phân định ai đúng ai sai, là chuẩn mực chung để các bên giải quyết tranh
chấp với nhau. Pháp luật quy định thẩm quyền, trình tự, thủ tục để giải quyết các tranh chấp
đó nhằm bảo đảm cho tranh chấp được giải quyết một cách công bằng, vừa thấu tình, vừa đạt
lý, bảo đảm tính công minh của pháp luật.
 Thứ tư: Pháp luật là phương tiện bảo đảm và bảo vệ quyền con người
“Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có
thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu
cầu hạnh phúc” (Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ). Quyền con người đã trở thành
một giá trị chung được toàn thế giới công nhận.
Pháp luật là phương tiện bảo đảm và bảo vệ quyền con người. pháp luật quy định cụ
thể về quyền con người trong các lĩnh vực khác nhau, vừa quy định các biện pháp bảo đảm
thực hiện quyền con người. Pháp luật còn cấm những hành vi xâm hại tới quyền con người và
quy định các biện pháp trừng phạt nghiêm khắc đối với các chủ thể có hành vi đó, qua đó bảo
vệ quyền con người tốt nhất.

 Thứ năm: Pháp luật là phương tiện bảo đảm dân chủ, bình đẳng, công bằng và tiến bộ
xã hội
Bảo đảm dân chủ, bình đẳng, công bằng và tiến bộ xã hội là những giá trị của nhân
loại. Dân chủ tức là dân là chủ và dân làm chủ. Người dân có quyền tự quyết các vấn đề của
bản thân, của nhà nước và toàn xã hội. Pháp luật quy định quyền lực nhà nước thuộc về nhân
dân, đảm bảo cho nhân dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội, thực hiện việc kiểm tra,
giám sát hoạt động của nhà nước, quy định trách nhiệm của nhà nước trước nhân dân.
Bình đẳng, công bằng là ai cũng như ai và không có sự phân biệt đối xử hay đặc cách
nào. Người có chức có quyền hay người dân lao động bình thường dù mắc lỗi đều xử phạt và
xử phạt như nhau. Pháp luật là bình đẳng ai cũng như ai giữa mọi người, không có phân biệt
về nguồn gốc xuất thân, chủng tộc, màu da, giới tính, dân tộc, tôn giáo, quan điểm chính trị,
tài sản.
 Thứ sáu: Pháp luật bảo đảm sự phát triển bền vững của xã hội
Phát triển bền vững là mục tiêu mà mọi quốc gia hướng đến. Chỉ có phát triển bền vững mới
tạo được sự ổn định và nền tảng tốt nhất cho mỗi đất nước. Pháp luật điều chỉnh các quan hệ
xã hội theo chiều hướng vừa bảo đảm tăng trưởng kinh tế, vừa bảo đảm phát triển xã hội, vừa
bảo vệ môi trường.
 Thứ bảy: Vai trò giáo dục của pháp luật
Pháp luật tác động lên ý thức của con người và điều chỉnh hành vi của họ qua việc giáo dục
pháp luật. Pháp luật đưa ra nhận thức, tư tưởng để người dân có thể học và noi theo, đồng thời
việc giáo dục giúp nâng cao nhận thức, định hướng tư tưởng và làm thay đổi hành vi của các
chủ thể trong xã hội. Pháp luật là cơ sở hình thành ý thức tuân thủ pháp luật, thái độ tôn trọng
pháp luật, sống và làm việc theo pháp luật, tạo nên những thói quen suy nghĩ và hành động
tốt, hợp pháp. Pháp luật giáo dục ý thức công dân, làm hình thành ở mỗi người ý thức về trách
nhiệm, bổn phận của cá nhân đối với cộng đồng, công dân đối với đất nước.

You might also like