You are on page 1of 39

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH

-----ooo-----

BÀI TẬP LỚN


Môn: Triết học Mac – Lênin
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Cảnh Vinh

Mã sinh viên: 11216259

Lớp: EMQI – Quản trị Chất lượng và Đổi mới K63

Giảng viên: Nguyễn Thị Lê Thư

Hà Nội – 12/2021
1
MỤC LỤC
ĐỀ BÀI SỐ 2............................................................................................................4

LỜI NÓI ĐẦU..........................................................................................................5

A. PHÂN TÍCH ĐỊNH NGHĨA VẬT CHẤT CỦA LÊNIN................................7

I. Phân tích định nghĩa vật chất của Lê – nin và rút ra ý nghĩa phương pháp
luận........................................................................................................................7

II. Các quan điểm về vật chất trong lịch sử.......................................................7

III. Điều kiện ra đời định nghĩa vật chất của Triết học Mác Lê-nin.............11

IV. Cuộc cách mạng khoa học tự nhiên cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX......14

V. Định nghĩa vật chất của Lê-nin....................................................................15

1. Định nghĩa.....................................................................................................15

2. Nội dung định nghĩa......................................................................................16

3. Giải thích.......................................................................................................18

4. Ý nghĩa và ý nghĩa của phương pháp luận....................................................19

5. Ví dụ về một thành tựu khoa học..................................................................23

V. Phân tích định nghĩa vật chất của Lê-nin...................................................24

VI. Phương thức và hình thức tồn tại của vật chất.........................................24

1. Vận động là phương thức tồn tại của vật chất...............................................24

2. Không gian thời gian là những hình thức tồn tại của vật chất......................26

VIII. Tiểu kết......................................................................................................27

B. CHỨNG MINH NĂNG LƯỢNG LÀ VẬT CHẤT........................................28

2
I. Tiền đề khoa học tự nhiên ra đời các khái niệm về năng lượng.................28

II. Khái niệm về năng lượng..............................................................................29

1. Năng lượng trong triết học............................................................................29

2. Năng lượng về mặt vật lý..............................................................................29

III. Mối liên hệ giữa vật chất và năng lượng....................................................30

III. Tiểu kết........................................................................................................34

TỔNG KẾT............................................................................................................36

TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................................................37

3
ĐỀ BÀI SỐ 2
Phân tích định nghĩa vật chất của Lê-nin.
Chứng minh năng lượng là vật chất

4
LỜI NÓI ĐẦU

Vào cuối thế kỉ XIX, khoa học tự nhiên mà chủ yếu là vật lý học đã có một
loạt phát minh rất quan trọng đem lại cho con người những hiểu biết mới về cấu
trúc và tính chất của vật chất trong lĩnh vực vi mô, đã làm thay đổi căn bản quan
niệm cổ truyển về vật chất.

Năm 1895, Rơnghen đã phát hiện ra tia X có nguồn gốc từ nguyên tử. Điều
đã chứng tỏ nguyên tử không phải là một cái gì hoàn toàn đơn giản. Năm 1986,
Béccơren phát hiện được hiện tượng phóng xạ của nguyên tố Uranium có nguyên
nhân bên trong là do tính không vững của nguyên tử gây ra. Năm 1987, Tômxơn
phát hiện ra điện tử và chứng minh rằng, điện tử là một trong những thành phần
cấu tạo nên nguyên tử. Năm 1901, Kaufman đã chứng minh được khối lượng của
điện tử không phải là bất biến mà nó biến đỏi theo vận tốc của điện tử.

Tất cả những phát minh ấy đem lại cho con người những hiểu biết mới về
nguyên tử rằng, nguyên tử có cấu trúc phức tạp, nó không phải là đơn vị nhỏ nhất,
mà nó có thể bị phân rã hoặc chuyển hoá. Điều đã gây ra một cuộc khủng hoảng về
thế giới quan trong các nhà triết học và khoa học tự nhiên, khiến cho những nhà
khoa học “giỏi khoa học nhưng kém cái về triết học” đã trượt từ chủ nghĩa duy vật
siêu hình, máy móc đến đến chủ nghĩa tương đối, hoài nghi và cuối cùng rơi vào
quan điểm của chủ nghĩa duy tâm rằng, “vật chất tiêu tan”. Lợi dụng cơ hội này,
các nhà triết học duy tâm, đẩy mạnh cuộc tấn công trực diện vào khái niệm vật
chất. Họ la lối lên rằng, nếu nguyên tử bị phá vỡ, tức là “vật chất tiêu tan” và chủ
nghĩa duy vật dựa trên nền tàng khái niệm vật chất đã cũng phải bị biến mất theo.

5
Tình hình mới của lịch sử và thời đại đã thôi thúc V.I.Lê-nin đưa ra định
nghĩa khoa học về vật chất. Một mặt, trên cơ sở phân tích một cách sâu sắc và khái
quát những thành tựu của khoa học tự nhiên; mặt khác, kế thừa và tiếp tục phát
triển những tư tưởng triết học của C.Mác và Ăngghen vê sự đối lập giữa vật chất
và ý thức, về bản chất và tính thống nhất vật chất của thế giới, về tính khái quát của
phạm trù vật chất và sự tồn tại của vật chất dưới các dạng cụ thể v.v.

Với tư cách là một sinh viên đại học, đồng thời là một công dân của nước
Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, em mong muốn tìm hiểu kỹ hơn về Triết
học Mac – Lênin phần vật chất và các mối liên hệ với vật chất, cụ thể là đề tài “
Phân tích định nghĩa vật chất của Mac – Lênin. Chứng minh năng lượng là vật
chất”. Em cũng mong muốn góp một phần công sức nhỏ bé vào sự nghiệp nghiên
cứu, phát triển các vấn đề triết học cho nước nhà.

Do thời gian và kiến thức bản thân còn hạn chế cho nên bài viết của em
không thể tránh khỏi thiếu sót, em kính mong sự góp ý của cô cùng toàn thể bạn
đọc.

Em xin chân thành cảm ơn!

6
A. PHÂN TÍCH ĐỊNH NGHĨA VẬT CHẤT CỦA LÊNIN
I. Phân tích định nghĩa vật chất của Lê – nin và rút ra ý nghĩa phương pháp
luận
Trước khi phân tích nội dung định nghĩa vật chất của V.I.Lênin, cần tìm hiểu
phương pháp định nghĩa vật chất. V.I.Lênin chỉ ra rằng, không thể định nghĩa vật
chất bằng phương pháp định nghĩa các khái niệm thông thường. Phương pháp định
nghĩa các khái niệm thông thường là quy khái niệm cần định nghĩa vào khái niệm
rộng hơn nó, rồi chỉ ra đặc điểm của nó. Chẳng hạn định nghĩa: hình vuông là hình
tứ giác 4 cạnh bằng nhau, 4 góc vuông và có 2 đường chéo bằng nhau, giao điểm
giữa hai đường chéo vuông góc và chia đường chéo thành hai nửa bằng nhau.
Nhưng đối với phạm trù vật chất, với tư cách là một phạm trù triết học - một phạm
trù rộng nhất, rộng đến cùng cực, không thể có một phạm trù nào rộng hơn phạm
trù vật chất – thường duy nhất về mặt phương pháp luận chỉ có thể định nghĩa vật
chất bằng cách đối lập tuyệt đối nó với ý thức, xem vật chất là thực tại khách quan
tồn tại độc lập với ý thức là cái phản ánh nó. Vì vậy, trong định nghĩa vật chất xuất
hiện từ cảm giác (tức ý thức).
II. Các quan điểm về vật chất trong lịch sử
Vật chất với tư cách là một phạm trù Triết học có lịch sử khoảng 2500 năm
xuất hiện cùng với sự xuất hiện của triết học trong lịch sử. Ngay từ khi mới ra đời,
xung quanh phạm trù vật chất đã diễn ra cuộc đấu tranh gay gắt không khoan
nhượng giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Chủ nghĩa duy vật coi thực
thể thế giới là vật chất tồn tại vĩnh cửu, tạo nên mọi sự vật hiện tượng và các thuộc
tính của chúng. Chủ nghĩa duy tâm tìm mọi cách phủ nhận và làm sụp đổ phạm trù
vật chất của chủ nghĩa duy vật. Chúng công kích, xuyên tạc phạm trù vật chất, cho
rằng cơ sở tồn tại của thế giới là một bản nguyên tinh thần nào đó. Có thể là do ý

7
Chúa, do ý niệm tuyệt đối tạo nên. Vì vậy, họ cho rằng vật chất chỉ là một phạm
trù trống rỗng, phi hiện thực, một sự nhào nặn chủ quan của các nhà duy vật.

Phạm trù vật chất có quá trình phát sinh phát triển gắn liền với hoạt động
thực tiễn của con người và sự hiểu biết của con người về thế giới tự nhiên .Việc
tìm hiểu, khám phá về bản chất, cấu trúc của thế giới xung quanh con người luôn
luôn là một vấn đề được quan tâm trong các trường phái triết học duy vật. Vào thời
kỳ trước khi có sự xuất hiện của triết học Mác thì người ta quan niệm, tìm mọi
cách để tìm hiểu , để giải thích nguyên thể cơ bản đầu tiên cấu tạo nên thế giới và
Vì vậy, phạm trù vật chất được xuất hiện từ khá sớm và được đặc biệt quan tâm.
Chủ nghĩa duy vật khẳng định thực thể tạo nên thế giới khách quan và các vật thể
nói riêng đó là vật chất và nó tồn tại vĩnh cửu. Tuy nhiên, việc lập luận và lý giải
về vật chất của các nhà triết học ở thời kỳ trước Mác là không đồng nhất với nhau.

Vào thời kỳ cổ đại, ở Hy Lạp nói riêng, ở phương Tây nói chung các nhà
triết học duy vật đã đồng nhất vật chất nói chung với các dạng cụ thể nào đó của
nó. Còn ở phương đông, quan niệm vật chất thể hiện qua một số trường phái triết
học Ấn Độ và Trung Hoa về thế giới. Ấn Độ có Trường phái LOKAYATA cho
rằng tất cả được tạo ra bởi sự kết hợp trong 4 yếu tố Đất - Nước - Lửa - Khí.
Những yếu tố này có khả năng tự tồn tại, tự vận động trong không gian và cấu
thành vạn vật. Tính đa dạng của vạn vật chính là do sự kết hợp khác nhâu của 4
yếu tố bản nguyên đó. Phái Nyaya và Vaisesia coi nguyên tử là thực thể của thế
giới.

Trung Hoa có Thuyết Âm Dương cho rằng nguyên lý vận hành đầu tiên và
phổ biến của vạn vật là tương tác của những thế lực đối lập nhau đó là âm và
dương. Trong đó âm là phạm trù rất rộng phản ánh khái quát, phổ biến của vạn vật
như là nhu, tối, ẩm, phía dưới, bên phải, số chẵn.

8
Dương cũng là phạm trù rất rộng đối lập với âm. Phản ánh những thuộc tính
như cương, sáng, khô, phía trên, số lẻ, bên trái. Hai thế lực này thống nhất với
nhau, chế ước lẫn nhau tạo thành vũ trụ và vạn vật.

Thuyết Ngũ hành của Trung quốc có xu hướng phân tích về cấu trúc của vạn
vật để quy nó về yếu tố khởi nguyên với tính chất khác nhau. Theo thuyết này có 5
nhân tố khởi nguyên là Kim - Mộc - Thủy - Hỏa - Thổ : Kim tượng trưng cho tính
chất trắng, khô, cay, ở phía Tây; Mộc tượng trưng cho tính chất xanh, chua, ở phía
Đông; Thủy tượng trưng cho tính chất đen, mặn, ở phía Bắc; Hỏa tượng trưng cho
tính chất đỏ, đắng, ở phía Nam; Thổ tương trưng cho tính chất vàng, ngọt, ở giữa.

Năm yếu tố này không tòn tại đọc lập, tuyệt đối mà tác động lẫn nhau theo
nguyên tắc tương sinh, tương khắc với nhau tạo ra vạn vật. Những tư tưởng về âm,
dương, ngũ hành, tuy có nhưng hạn chế nhất định nhưng đó là triết lý đặc sắc mang
tính duy vật và biện chứng nhằm lý giải về vật chất và cấu tạo của vũ trụ.

Ở phương tây, các nhà triết học quy thế giới vào một chỉnh thể thống nhất từ
đó đi tìm bản nguyên vật chất đầu tiên cấu tạo nên thế giới đó, chẳng hạn người ta
cho rằng vật chất là nước, không khí, lửa...Một số quan điểm điển hình thời kỳ này
là: Taket coi vật chất là nước, Anaximen coi vật chất là không khí, Hêraclit coi vật
chất là lửa, Anximangdo coi vật chất là hạt praton, đây là một thực thể không xác
định về chất. Đặc biệt đỉnh cao của quan niệm về vật chất của thời kỳ Hy Lạp cổ
đại là thuyết nguyên tử của Lơxip và Đêmocrip. Theo thuyết này thì thực thể tạo
nên thế giới là nguyên tử và nó là phần tử nhỏ bé nhất và không thể phân chia
được, không thể xâm nhập và quan sát được, chỉ có thể nhận biết được bằng tư
duy. Các nguyên tử không khác nhau về chất mà chỉ khác nhau về hình dạng. Sự
kết hợp các nguyên tử khác nhau theo một trật tự khác nhau sẽ tạo nên vật thể khác
nhau. Thuyết nguyên tử tồn tại đến cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 mới bị khoa học
đánh đổ và có hạn chế lịch sử nhất định. Tuy nhiên nó có ý nghĩa to lớn đối với sự
9
định hướng cho sự phát triển khoa học nói chung đặc biệt là lĩnh vực vật lý sau
này. Đồng thời nó có tác dụng to lớn trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa duy
tâm, thần học, tôn giáo...

Vào thế kỷ 17, thế kỷ 18 nền khoa học tự nhiên, thực nghiệm ở châu âu có
sự phát triển mạnh mẽ. Đặc biệt là trên lĩnh vực vật lý học với phát minh của Niu
Tơn, phương pháp nghiên cứu ở trong vật lý đã xâm nhập ảnh hưởng rất lớn vào
trong triết học. Chủ nghĩa duy vật nói chung và phạm trù vật chất nói riêng đã có
những bước phát triển mới chứa đựng nhiều yếu tố biện chứng.

Côbecnich chứng minh mặt trời là trung tâm đã làm đảo lộn truyền thuyết
của kinh thánh và quan điểm của thần học về thời gian.

Quan điểm của Fanxitbaycơn: coi thế giới vật chất tồn tại khách quan, vật
chất là tổng hợp các hạt. Ông coi tự nhiên là tổng hợp của những vật chất có chất
lượng luôn màu, muôn vẻ.

Quan điểm của Gatxăngdi: Phát triển học thuyết nguyên tử của thời cổ đại
cho rằng thế giới gồm những nguyên tử có tính tuyệt đối như tính kiên cố và tính
không thể thông qua.

Thế kỉ 18, các nhà triết học Pháp đã phát triển phạm trù vật chất lên một tầm
cao mới. Đitơro cho rằng vũ trụ trong con người, trong mọi sự vật chỉ có một thực
thể duy nhất là vật chất. Sự sâm nhập ấy đã chi phối sự hiểu biết, nhận thức về vật
chất, mọi hiện tượng tự nhiên đã được giải thích là được tác động qua lại giữa lực
hút và lực đẩy, giữa các phần tử của vật chất, các phần tử ấy là bất biến. Sự thay
đổi của nó chỉ là mặt vị trí, hình thể trong không gian. Mọi sự phân biệt về chất bị
xem nhẹ và đều được quy giải chỉ sự khác nhau về lượng. Vì vậy, các nhà triết học
duy vật thời kỳ này đã đồng nhất vật chất với khối lượng và coi vận động của vật

10
chất chỉ là vận động cơ học và nguyên nhân của sự vận động đó là do tác động từ
bên ngoài.

Vào thế kỷ 19, trong nền triết học Đức cổ điển là Phoi-ơ Bách, ông chứng
minh và khẳng định rằng thế giới này là vật chất và vật chất theo ông là toàn bộ thế
giới tự nhiên. Nó không do ai sáng tạo ra mà nó tồn tại độc lập với ý thức và không
phụ thuộc vào bất cứ ý niệm, ý thức nào.

Sự tồn tại của giới tự nhiên năm ngay trong lòng của giới tự nhiên. tuy nhiên
Phoi-ơ Bách lại không thấy đuợc mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, mối quan hệ
giữa con người với xã hội, con người với giới tự nhiên. Ông đã không xác định
đuợc vật chất trong lĩnh vực xã hội, cũng như hoạt động vật chất của con người là
gì. Mặc dù vậy những quan niệm của ông về vật chất đã có ý nghĩa lịch sử lớn lao
trong cuộc đấu tranh chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo, trong việc khôi phục những tư
tưởng duy vật thành hệ thống. Và vì vậy, triết học duy vật của ông đã trở thành
một trong nhưng tiền đề, nguồn gốc lý luận của Triết học duy vật Mác xít sau này.

Như vậy, các nhà triết học duy vật trước Mác trong cuộc đấu tranh chống
chủ nghĩa duy tâm đã hết sức quan tâm giải quyết vấn đề cốt lõi là vật chất. Họ đưa
ra những kiến giải khác nhau về vật chất và qua đó đã có những đóng góp hết sức
quan trọng đối với lịch sử phát triển của triết học duy vật. Tuy nhiên tất cả họ đều
mắc phải hạn chế lớn nhất là đã đồng nhất vật chất với vật thể hoặc một thuộc tính
nào đó của vật thể, họ không thấy được sự tồn tại của vật chất gắn liền với vận
động và họ không chỉ ra được biểu hiện của vật chất trong đời sống xã hội và chỉ
đến khi triết học Mác xít xuất hiện thì phạm trù vật chất mới được giải quyết một
cách khoa học.

11
III. Điều kiện ra đời định nghĩa vật chất của Triết học Mác Lê-nin
Việc khám phá bản chất và cấu trúc của sự tồn tại thế giới xung quanh ta là
vấn đề được quan tâm hàng đầu trong lịch sử nhận thức của nhân loại. Hầu hết các
trường phái triết học, dưới góc độ khác nhau đều hướng đến giải quyết vấn đề này.
Vì thế trong Triết học phạm trù vật chất xuất hiện.
Một số điều kiện khách quan và chủ quan sau đây đã làm các nhà triết học đi
tìm câu trả lời cho định nghĩa về vật chất.
Ở thời kỳ cổ đại các nhà triết học duy vật đi tìm một nguyên thể vật chất đầu
tiên, coi đó là cơ sở của thế giới, của mọi sự tồn tại và họ thường đồng nhất vật
chất nói chung với một dạng cụ thể của nó. Đến thời kỳ cận đại (thế kỷ XVII -
XVIII) các nhà triết học duy vật một mặt tiếp tục thừa nhận quan điểm đồng nhất
vật chất với nguyên tử - là dạng vật chất nhỏ bé nhất, không thể phân chia được
nữa. Mặt khác, rơi vào quan điểm siêu hình đồng nhất vật chất với một thuộc tính
nào đó của nó như khối lượng, năng lượng… Những quan niệm về vật chất nêu
trên mặc dù còn có những hạn chế như: mang tính chất thô sơ, chất phác, cơ giới,
siêu hình. Song đã khẳng định sự tồn tại của thế giới vật chất, đây là cơ sở để bác
bỏ quan điểm của chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo cho rằng ý thức tinh thần là cái có
trước quyết định vật chất.

Trong giai đoạn của C.Mác và Ph.Ăngghen, các ông chưa đưa ra định nghĩa
vật chất, nhưng cũng đã đưa ra quan điểm như: về sự đối lập giữa vật chất và ý
thức, về bản chất và tính thống nhất vật chất của thế giới, về vận động, về không
gian, thời gian... Chính những quan điểm đó đã đặt cơ sở làm nền móng để sau này
V.I.Lênin kế thừa và phát triển nâng nội dung phạm trù vật chất thành một định
nghĩa hoàn chỉnh.
Cuộc cách mạng trong khoa học tự nhiên cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỉ XX nổ
ra với nhiều phát kiến mang tính chất vạch thời đại đặc biệt là những phát minh

12
như: Rơnghen phát hiện ra tia X, Béccơren phát hiện ra hiện tượng phóng xạ,
Tômxơn phát hiện ra điện tử, Kaufman đã phát hiện ra rằng trong quá trình vận
động, khối lượng của điện tử thay đổi khi vận tốc của nó thay đổi và thuyết tương
đối của Anhxtanh… Những phát minh khoa học quan trọng này đã có ảnh hưởng
thay đổi to lớn đến nhiều phương diện sau:
Một là, các phát minh khoa học đã đưa lại những biến đổi sâu sắc và một
bước tiến của loài người trong việc nhận thức giới tự nhiên, đã chứng minh rằng:
nguyên tử không phải là phần tử nhỏ bé nhất, do vậy không thể quy vật chất về
nguyên tử. Vật chất với các thuộc tính của nó không phải là bất biến, tất cả không
ngừng được sinh ra và không ngừng được chuyển hoá từ dạng này sang dạng khác.
Hai là, những phát minh khoa học đó đồng thời cũng đối lập gay gắt với
những quan niệm máy móc, siêu hình đang thống trị trong khoa học thời kỳ bấy
giờ như: đồng nhất vật chất với khối lượng, năng lượng, trọng lượng...
Ba là, với những thành tựu trên đã gây ra một cuộc khủng hoảng về thế giới
quan trong các nhà triết học và khoa học tự nhiên. Khiến những nhà khoa học “giỏi
khoa học nhưng kém cỏi về triết học” đã trượt từ chủ nghĩa duy vật máy móc, siêu
hình sang chủ nghĩa tương đối hoài nghi và cuối cùng rơi vào quan điểm của chủ
nghĩa duy tâm cho rằng “vật chất tiêu tan”.
Bốn là, lợi dụng cơ hội này các nhà triết học duy tâm đã biện hộ, công kích
và giải thích xuyên tạc để phủ định chủ nghĩa duy vật. Họ cho rằng: nếu nguyên tử
bị phá vỡ tức là “vật chất tiêu tan” và chủ nghĩa duy vật sụp đổ.
Trước tình hình đó: V.I.Lênin đã chỉ ra rằng sự khủng hoảng thế giới quan
chỉ có tính chất tạm thời, không phải vật chất tiêu tan mà là do nhận thức của con
người có giới hạn nên chưa lý giải hết sự vận động và biến đổi của thế giới khách
quan. Đồng thời, để phê phán quan điểm của chủ nghĩa duy tâm và khắc phục
những hạn chế của chủ nghĩa duy vật trước Mác về vật chất, Lênin đã định nghĩa
vật chất với tư cách là một phạm trù Triết học.
13
V.I.Lênin đưa ra một phương pháp mới của lôgíc biện chứng để định nghĩa
vật chất chứ không sử dụng phương pháp thông thường, bởi ông chỉ ra rằng, phạm
trù vật chất với tư cách là phạm trù triết học - một phạm trù khái quát nhất, không
có một phạm trù nào rộng hơn phạm trù vật chất. Cách duy nhất về mặt phương
pháp luận, chỉ có thể định nghĩa vật chất bằng cách đặt phạm trù ấy đối lập với ý
thức, xem vật chất là thực tại khách quan tồn tại độc lập với ý thức của con người,
ý thức chỉ là sự phản ánh thế giới khách quan mà thôi. Từ đó, giải thích vấn đề cơ
bản của triết học trên lập trường thế giới quan duy vật và phương pháp biện chứng.
IV. Cuộc cách mạng khoa học tự nhiên cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
Năm 1895, Rơnghen phát hiện ra tia X. Năm 1896, Béccơren phát hiện ra
hiện tượng phỏng xạ của nguyên tố Urani. Năm 1897, Tômxơn phát hiện ra điện
tử. Năm 1901, Kaufman đã chứng minh được khối lượng của điện tử không phải là
bất biến mà thay đổi theo vận tốc vận động của nguyên tử. Năm 1898 – 1902, nhà
nữ vật lý học Ba Lan Mari Scôlôđốpsca cùng với chồng là Pie Curie, nhà hoá học
người Pháp, đã khám phá ra chất phóng xạ mạnh là pôlôni và radium. Những phát
hiện vĩ đại đó chứng tỏ rằng, nguyên tử không phải là phần tử nhỏ nhất mà nó có
thể bị phân chia, chuyển hoá. Năm 1905, Thuyết Tương đối hẹp và năm 1916,
Thuyết Tương đối Tổng quát của Anhxtanh ra đời dã chứng minh: không gian, thời
gian, khối lượng luôn biến đổi cùng với sự vận động của vật chất.

Thế giới vật chất không có và không thể có những vật thể không có kết cấu,
tức là không thể có đơn vị cuối cùng, tuyệt đối đơn giản và bất biển để đặc trưng
chung cho vật chất. Thế giới ấy còn nhiều điều “kỳ lạ” mà con người đã và đang
tiếp tục khám phá, chẳng hạn như: sự chuyển hoa giữa hạt và trường, sống và hạt,
hạt và phản hạt, “hụt khối lượng", quan hệ bất định, v.v.. Điều này đã khẳng định
dự đoán thiên tài của Ph. Ăngghen: Không thể coi nguyên tử là phần tử nhỏ nhất

14
của vật chất đã biết" và của V.I. Lênin: “Điện tử cũng vô cùng tận như nguyên tử,
tự nhiên là vô tận” là hoàn toàn đúng đắn.

Đứng trước những phát hiện trên đây của khoa học tự nhiên, không ít nhà
khoa học và triết học đứng trên lập trường duy vật tự phát, siêu hình đã hoang
mang, dao động, hoài nghi tính đúng đắn của chủ nghĩa duy vật. Họ cho rằng,
nguyên tử không phải là phần tử nhỏ nhất, mà có thể bị phân chia, tan rã, bị “mất
đi”. Do đó, vật chất cũng có thể biến mất; có hiện tượng không có khối lượng cơ
học, hạt chuyển thành trường, cũng có nghĩa là vật chất chỉ còn là năng lượng, là
sóng phi vật chất; quy luật cơ học không còn tác dụng gì trong thế giới vật chất “kỳ
lạ”, thế giới tồn tại không có quy luật, mọi khoa học trở thành thừa và nếu có
chăng cũng chỉ là sự sáng tạo tuỷ tiện của tư duy con người; khách thể tiêu tan, chủ
thể trở thành cái có trước, cái còn lại duy nhất là chúng ta và cảm giác cùng tư duy
của chúng ta để tổ chức những cảm giác đó. Theo đó, E.Makhơ phủ nhận tính hiện
thực khách quan của điện tử. Ôtvan phủ nhận sự tồn tại thực tế của nguyên tử và
phân tử. Còn Piếcsơn thì định nghĩa: “Vật chất là cái phi vật chất đang vận động”.
Đây chính là cuộc khủng hoảng vật lý học hiện đại mà như V.I. Lênin khẳng định,
thực chất của nó “là ở sự đảo lộn của những quy luật cũ và những nguyên lý cơ
bản, ở sự thay thế chủ nghĩa duy vật bằng chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa bất khả
tri”.

Tình hình trên đã làm cho nhiều nhà khoa học tự nhiên trượt từ chủ nghĩa
duy vật máy móc, siêu hình sang chủ nghĩa tương đối, rồi rơi vào chủ nghĩa duy
tâm. V.I. Lênin gọi đó là “chủ nghĩa duy tâm vật lý học” và coi đó là “một bước
ngoặt nhất thời”, là “thời kỳ ốm đau ngắn ngủi”, là “chứng bệnh của sự trưởng
thành”, là “một vài sản phẩm chết, một vài thứ cặn bã nào đó phải vứt vào sọt rác”.
Để khắc phục cuộc khủng hoảng này, VI. Lênin cho rằng: “Tinh thần duy vật cơ
bản của vật lý học, cũng như của tất cả các khoa học tự nhiên hiện đại, sẽ chiến

15
thẳng tất cả mọi thứ khủng hoảng, nhưng với điều kiện tất yếu là chủ nghĩa duy vật
biện chứng phải thay thế chủ nghĩa duy vật siêu hình.”
V. Định nghĩa vật chất của Lê-nin
1. Định nghĩa
Lênin là nhà một nhà chính trị và tư tưởng cách mạng hàng đầu của Thế kỷ
XX. Ông đã để lại cho thế giới những giá trị vĩ đại trường tồn mãi với thời gian.
Một trong số đó là nội dung về định nghĩa vật chất.

Trong lịch sử tư tưởng triết học đã có nhiều nhà tư tưởng đưa ra quan điểm
của mình về phạm trù vật chất, song vẫn còn mắc phải những hạn chế nhất định,
chưa giải quyết triệt để phạm trù vật chất. Trong tác phẩm “Chủ nghĩa duy vật và
chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán” (viết năm 1908, xuất bản lần đầu năm 1909)
V.I.Lênin đã đưa ra một định nghĩa chính xác, khoa học và sâu sắc nhất về phạm
trù vật chất: “Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan,
được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại,
chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”

2. Nội dung định nghĩa


2.1. Vật chất là một phạm trù triết học
“Vật chất” ở đây không thể hiểu theo nghĩa hẹp như là vật chất trong lĩnh
vực vật lý, hóa học, sinh học (nhôm, đồng, H2O, máu, nhiệt lượng, từ
trường…) hay ngành khoa học thông thường khác… Cũng không thể hiểu như vật
chất trong cuộc sống hàng ngày (tiền bạc, cơm ăn áo mặc, ô tô, xe máy…).
“Vật chất” trong định nghĩa của Lênin là một phạm trù triết học, tức là phạm
trù rộng nhất, khái quát nhất, rộng đến cùng cực, không thể có gì khác rộng hơn.

Đến nay, nhận thức luận (tức lý luận về nhận thức của con người) vẫn chưa
hình dung được cái gì rộng hơn phạm trù vật chất. Ta không thể “nhét” vật chất
này trong một khoảng không gian nhất định, vì không có gì rộng hơn nó.

16
Ý nghĩa của nội dung này ở chỗ: thứ nhất, khắc phục triệt để sai lầm cơ bản
của chủ nghĩa duy vật trước Mác, đã là quy vật chất về một dạng cụ thể của vật
chất; đưa học thuyết duy vật tiến lên một bước mới, đáp ứng được những đòi hỏi
mới do những phát minh mới nhất của khao học tự nhiên đề ra; thứ hai, cho chúng
ta cơ sở khoa học để nhận thức vật chất dưới dạng xã hội, đã là những quan hệ sản
xuất, tổng hợp các quan hệ sản xuất hạ tầng, tạo thành quan hệ vật chất, mặt vật
chất, từ đây làm nảy sinh quan hệ tư tưởng, đã là kiến trúc thượng tầng, mặt ý thức.
Định nghĩa vật chất của V.I. Lênin đã khắc phục quan điểm duy tâm về lĩnh vực xã
hội của chủ nghĩa duy vật trước Mác.

2.2. Vật chất là thực tại khách quan


Vật chất tồn tại khách quan trong hiện thực, nằm bên ngoài ý thức và không
phụ thuộc vào ý thức của con người. “Tồn tại khách quan” là thuộc tính cơ bản của
vật chất, là tiêu chuẩn để phân biệt cái gì là vật chất, cái gì không phải là vật chất.
Dù con người đã nhận thức được hay chưa, dù con người có mong muốn hay
không thì vật chất luôn tồn tại vĩnh viễn trong vũ trụ.

Ý nghĩa của nội dung này ở chỗ nó chống lại mọi luận điệu sai lầm của chủ
nghĩa duy tâm dưới mọi hình thức như duy tâm chủ quan, duy tâm khách quan, nhị
nguyên luận là những trường phái triết học cố luận giải cho tinh thần là cái sinh ra
mọi sự vật, hiện tượng phong phú, đưa dạng của thế giới xung quanh chúng ta.

2.3. Vật chất được đem lại cho con người trong cảm giác
Vật chất, tức là thực tại khách quan, là cái có trước cảm giác (nói rộng ra là
ý thức). Như thế, vật chất “sinh ra trước”, là tính thứ nhất. Cảm giác (ý thức) “sinh
ra sau”, là tính thứ hai. Do tính trước – sau như vậy, vật chất không lệ thuộc vào ý
thức, nhưng ý thức lệ thuộc vào vật chất.

17
Trước khi loài người xuất hiện trên trái đất, vật chất đã tồn tại nhưng chưa
có ý thức vì chưa có con người. Đây ví dụ cho thấy vật chất tồn tại khách quan,
không lệ thuộc vào ý thức.

Có ý thức của con người trước hết là do có vật chất tác động trực tiếp hoặc
gián tiếp lên giác quan (mắt, mũi, tai, lưỡi…) của con người. Đây là ví dụ cho thấy
ý thức lệ thuộc vào vật chất. Như thế, ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan
vào trong bộ óc con người một cách năng động, sáng tạo.

Ý nghĩa của nội dung này là ở chỗ: thứ nhất, hoàn toàn bác bỏ thuyết không
thể biết; thứ hai, cổ vũ các nhà khoa học ngày càng đi sâu vào nghiên cứu, phát
hiện ra những kết cấu mới, những thuộc tính mới cũng như những quy luật vận
động và phát triển của thế giới vật chất, từ đó làm giàu thêm kho tàng tri thức của
nhân loại.

2.4. Vật chất được giác quan của con người chép lại, chụp lại, phản ánh
Vật chất là một phạm trù triết học, tuy rộng đến cùng cực nhưng được biểu
hiện qua các dạng cụ thể (sắt, nhôm, ánh sáng mặt trời, khí lạnh, cái bàn, quả
táo…) mà các giác quan của con người (tai, mắt, mũi…) có thể cảm nhận được.

Giác quan của con người, với những năng lực vốn có, có thể chép lại, chụp
lại, phản ánh sự tồn tại của vật chất, tức là nhận thức được vật chất. Sự chép lại,
chụp lại, phản ánh của giác quan đối với vật chất càng rõ ràng, sắc nét thì nhận
thức của con người về vật chất càng sâu sắc, toàn diện.

Nói rộng ra, tư duy, ý thức, tư tưởng, tình cảm… của con người chẳng qua
chỉ là sự phản ánh, là hình ảnh của vật chất trong bộ óc con người.

18
3. Giải thích
Theo định nghĩa của Lênin về vật chất cần phân biệt “vật chất” với tư cách
là phạm trù triết học với những dạng biểu hiện cụ thể của vật chất. Vật chất với tư
cách là phạm trù triết học là kết quả của sự khái quát hóa, trừu tượng hóa những
thuộc tính, những mối liên hệ vốn có của các sự vật, hiện tượng nên nó phản ánh
cái chung, vô hạn, vô tận, không sinh ra, không mất đi; còn tất cả những sự vật,
những hiện tượng là những dạng biểu hiện cụ thể của vật chất nên nó có quá trình
phát sinh, phát triển, chuyển hóa. Vì vậy, không thể đồng nhất vật chất với một hay
một số dạng biểu hiện cụ thể của vật chất.
Đặc trưng quan trọng nhất của vật chất là thuộc tính khách quan tức là thuộc
tính tồn tại ngoài ý thức, độc lập, không phụ thuộc vào ý thức của con người, cho
dù con người có nhận thức được hay không nhận thức được nó.
Vật chất (dưới hình thức tồn tại cụ thể của nó) là cái có thể gây nên cảm giác
ở con người khi nó trực tiếp hay gián tiếp tác động đến giác quan của con người; ý
thức của con người là sự phản ánh đối với vật chất, còn vật chất là cái được ý thức
phản ánh.
4. Ý nghĩa và ý nghĩa của phương pháp luận
4.1. Ý nghĩa của định nghĩa
Định nghĩa của Lênin về vật chất có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển
của chủ nghĩa duy vật và nhận thức khoa học
Bằng việc tìm ra thuộc tính quan trọng nhất của vật chất là thuộc tính khách
quan, Lênin đã phân biệt sự khác nhau giữa vật chất và vật thể, khắc phục được
hạn chế trong quan niệm về vật chất của chủ nghĩa duy vật cũ; cung cấp căn cứ
nhận thức khoa học để xác định những gì thuộc về vật chất; tạo lập cơ sở lý luận
cho việc xây dựng quan điểm duy vật về lịch sử, khắc phục được những hạn chế
duy tâm trong quan niệm về lịch sử của chủ nghĩa duy vật trước Mác.

19
Khi khẳng định vật chất là thực tại khách quan “được đem lại cho con người
trong cảm giác” và “được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lai, phản ánh”,
Lênin không những đã khẳng định tính thứ nhất của vật chất, tính thứ hai của ý
thức theo quan điểm duy vật mà còn khẳng định khả năng con người có thể nhận
thức được thực tại khách quan thông qua sự “chép lại, chụp lại, phản ánh” của con
người đối với thực tại khách quan.
4.1.1. Bác bỏ những quan điểm của chủ nghĩa duy tâm về vật chất
Khi khẳng định vật chất là thực tại khách quan được đem lại cho con người
trong cảm giác, tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác, Lênin đã thừa nhận: Trong thế
giới hiện thực, vật chất có trước cảm giác (ý thức), vật chất là tính thứ nhất, là
nguồn gốc khách quan của cảm giác (ý thức).

Luận điểm này bác bỏ những quan điểm của chủ nghĩa duy tâm cho rằng vật
chất chỉ là phức hợp của những cảm giác (Platon), hoặc vật chất là sự tha hóa của
“ý niệm tuyệt đối” (Heghen).

Luận điểm này cũng trả lời dứt khoát mặt thứ nhất của vấn đề cơ bản
của triết học: Vật chất có trước hay ý thức có trước? Lênin khẳng định vật chất có
trước.

4.1.2. Phủ nhận thuyết không thể biết về vật chất


Thuyết không thể biết cho rằng con người không thể nhận thức được thế giới
khách quan, những tri thức mà con người biết được về thế giới khách quan chỉ là
hư ảo, giả dối, không có thật.

Khi khẳng định vật chất là cái được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại,
phản ánh…, Lênin đã nhấn mạnh: Bằng những phương pháp nhận thức khác nhau,
con người có thể nhận thức được thế giới vật chất. Như thế, luận điểm này đã phủ
nhận thuyết không thể biết.
20
Luận điểm này cũng trả lời dứt khoát mặt thứ hai của vấn đề cơ bản của triết
học: Con người có nhận thức được thế giới khách quan hay không? Lênin khẳng
định là có.

Với niềm tin có thể nhận thức được thế giới, con người sẽ có thêm sức
mạnh, ý chí, nghị lực để chinh phục tự nhiên, sáng tạo nên những giá trị phục vụ
cuộc sống của con người và thúc đẩy xã hội phát triển. Con người sẽ không rơi vào
thế bị động, bỏ mặc số phận mình cho một thế lực siêu nhiên nào đó.

4.1.3. Khắc phục những khiếm khuyết trong các quan điểm siêu hình, máy móc về
vật chất
Với định nghĩa vật chất của Lênin, chúng ta hiểu rằng không có một dạng cụ
thể cảm tính nào của vật chất, hay một tập hợp nào đó các thuộc tính của vật chất,
lại có thể đồng nhất hoàn toàn với bản thân vật chất. Vật chất phải được hiểu là tất
cả những gì tồn tại khách quan bên ngoài ý thức, bất kể sự tồn tại ấy đã được con
người nhận thức được hay chưa, đã biết về nó hay chưa.
Với những luận điểm rút ra này, định nghĩa vật chất của Lênin đã khắc phục
những quan điểm phiến diện, siêu hình, máy móc về vật chất như: Vật chất là các
dạng cụ thể như cái bàn, cái ghế, ánh sáng mặt trời, quả táo, nước, lửa, không khí;
đồng nhất vật chất với khối lượng, coi vận động của vật chất chỉ là biểu hiện của
vận động cơ học.

4.1.4. Định hướng các khoa học cụ thể trong việc tìm kiếm các dạng hoặc hình
thức mới của vật thể
Khẳng thế giới vật chất khách quan là vô cùng, vô tận, không bao giờ biến
mất, luôn luôn vận động, định nghĩa vật chất của Lênin đã cổ vũ các nhà khoa học
(nhà vật lý học, nhà hóa học, nhà sinh học) kiên trì, đi sâu nghiên cứu thế giới vật

21
chất để tìm ra những kết cấu mới, những dạng thức thuộc tính, quy luật vận động
mới của vật chất, từ đó làm phong phú, sâu sắc hơn kho tàng tri thức của nhân loại.

Ví dụ tiêu biểu là vào tháng 9/1995, tại Trung tâm Nghiên cứu hạt nhân châu
Âu (CERN), theo lý thuyết về phản hạt, các nhà khoa học đã tiến hành thực
nghiệm tạo ra được 9 phản nguyên tử, tức là 9 phản vật thể đầu tiên.

4.1.5. Định nghĩa vật chất cho phép xác định vật chất trong lĩnh vực xã hội
Trong việc nhận thức các hiện tượng thuộc đời sống xã hội, định nghĩa vật
chất của Lênin đã giúp chúng ta xác định được cái gì là vật chất trong lĩnh vực xã
hội. Đây là điều mà các nhà duy vật trước Mác chưa đạt tới.

Ta có thể tìm thấy vật chất trong lĩnh vực xã hội ở ở các hoạt động thực
tiễn của con người, tiêu biểu là hoạt động sản xuất vật chất để nuôi sống con người
và phát triển xã hội.

Định nghĩa vật chất của Lênin giúp các nhà khoa học có cơ sở lý luận để giải
thích những nguyên nhân cuối cùng của các biến cố xã hội, những nguyên nhân
thuộc về sự vận động của phương thức sản xuất, trên cơ sở đó, con người có thể
tìm ra các phương tán tối ưu để thúc đẩy xã hội phát triển.

4.2. Ý nghĩa của phương pháp luận


Từ nội dung định nghĩa vật chất của V.I.Lênin, có thể rút ra một số kết luận
có tính chất phương pháp luận cho nhận thức và hoạt động thực tiễn như sau:
Một là, không được quan niệm một cách giản đơn rằng, nói vật chất có trước
ý thức, ý thức có sau vật chất; hoặc ngược lại, nói ý thức có trước vật chất, vật chất
có sau ý thức thì có sao đâu; mà phải thấy rằng, nói như thế nào đã là khẳng định
lập trường và phương pháp giải quyết các vấn đề của cuộc sống, của nhận thức
khoa học hoàn toàn trái ngược nhau.

22
Hai là, chống bệnh chủ quan duy ý chí, mà biểu hiện là quá đề cao, tuyệt đối
hoá vai trò, tác dụng của nhân tố chủ quan; là quan niệm sai trái cho rằng con
người có thể làm được tất cả những gì con người mong muốn, bất chấp quy luật
khách quan, không dựa vào các điều kiện vật chất tối thiểu, lấy ý chí áp đặt cho
thực tế, lấy ảo tưởng thay cho hiện thực. Điều đó yêu cầu phải nắm vững nguuyên
tắc khách quan. Nguyên tắc khách quan đòi hỏi chúng ta trong nhận thức và hành
động không được chủ quan, duy ý chí, không được lấy ý muốn chủ quan nóng vội,
lấy tình cảm làm điểm xuất phát cho chiến lược hay sách lược cách mạng; phải
xuất phát từ thực tế khách quan, từ bản thân sự vật, phản ánh sự vật một cách trung
thành như nó vốn có, phải tôn trọng sự thật, phải tôn trọng và hành động theo quy
luật khách quan như Đảng ta đã kết luận: “Mọi đường lối, chủ trương của Đảng
phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan”.
Ba là, phải biết nhận thức và vận dụng quy luật khách quan một cách chủ
động, sáng tạo với ý chí không ngừng tiến công cải tạo hiện thực theo nhu cầu tiến
bộ của xã hội. Phải chống thái độ tiêu cực, thụ động, vịn vào điều kiện khách quan
mà ngồi chê, ỷ lại không dám hành động. Thái độ đầu hàng, chịu bó tay trước khó
khăn của hoàn cảnh... suy cho cùng là do coi thường, hạ thấp vai trò và tác dụng
của ý thức tư tưởng, của tính năng động sáng tạo của con người trong hoạt động
thực tiễn.
5. Ví dụ về một thành tựu khoa học
Ngày này, khoa học và công nghệ hiện đại đã có những bước phát triển
mạnh mẽ, sản xuất ra nhiều loại máy móc không những có khả năng thay thế lao
động cơ bắp, mà còn có thể thay thế cho một phần lao động trí óc con người.
Chẳng hạn máy tính điện tử, “người máy thông minh”, “trí tuệ nhân tạo”. Song,
điều đó không có nghĩa là máy móc cũng có ý thức như con người. Ý thức và máy
tính điện tử là hai quá trình khác nhau về bản chất. “Người máy thông minh” thực

23
ra chỉ là một quá trình vật lý. Hệ thống thao tác của nó đã được con người lập trình
phỏng theo một số thao tác của tư duy con người.
Máy móc chỉ là những kết cấu kỹ thuật do con người sáng tạo ra. Còn con
người là một thực thể xã hội năng động được hình thành trong tiến trình lịch sử
tiến hóa lâu dài của giới tự nhiên và thực tiễn xã hội. Máy không thể sáng tạo lại
hiện thực dưới dạng tinh thần trong bản thân nó. Năng lực đó chỉ có con người có ý
thức mới thực hiện được và qua đó lập trình cho máy móc thực hiện. Sự phản ánh
sáng tạo, tái tạo lại hiện thực chỉ có ở ý thức con người với tính cách là một thực
thể xã hội, hoạt động cải tạo thế giới khách quan. Ý thức mang bản chất xã hội. Do
vậy, dù máy móc có hiện đại đến đâu chăng nữa cũng không thể hoàn thiện được
bộ óc con người.
V. Phân tích định nghĩa vật chất của Lê-nin
Theo định nghĩa vật chất của Lê-nin, thì trước tiên cần phải phân biệt vật
chất với tư cách là một phạm trù triết học với “vật chất là toàn bộ thực tại khách
quan”. Nó khái quát những thuộc tính cơ bản nhất, phổ biến nhất của mọi dạng tồn
tại của vật chất với khái niệm vật chất được sử dụng trong các khoa học chuyên
ngành, hay nói cách khác là khác dùng để chỉ những dạng vật chất cụ thể như:
nước lửa không khí, nguyên tử, thịt bò…
Thứ hai thuộc tính cơ bản nhất, phổ biến nhất của mọi dạng vật chất chính là
thuộc tính tồn tại khách quan, nghĩa là sự tồn tại vận động và phát triển của nó
không lệ thuộc vào tâm tư, nguyện vọng, ý chí và nhận thức của con người.
Thứ ba vật chất (dưới những hình thức tồn tại cụ thể của nó) là nguồn gốc
khách quan của cảm giác, ý thức; những cái có thể gây nên cảm giác ở con người
khi nó trực tiếp hay gián tiếp tác động đến các giác quan của con người.
Thứ tư trong định nghĩa này, Lê-nin đã giải quyết triệt để vấn đề cơ bản của
triết học Cụ thể là vật chất là cái có trước, ý thức là cái có sau thể hiện ở câu“ được
đem lại cho con người trong cảm giác”; con người có khả năng nhận thức được thế
24
giới thông qua câu “ được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh”, Lê-
nin khẳng định bằng nhiều cách thức khác nhau, bằng nhiều trình độ khác nhau con
người tiến hành nhận thức thế giới.
VI. Phương thức và hình thức tồn tại của vật chất
1. Vận động là phương thức tồn tại của vật chất
Ăngghen định nghĩa:” Vận động theo nghĩa chung nhất, tức được hiểu là
một phương thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất – thì
bao gồm tất cả mọi sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy. Theo quan niệm của
Ăngghen: vận động không chỉ thuần túy là sự thay đổi vị trí trong không gian mà
là “mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ”, vận động “là một
phương thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất” nên thông
qua vận động mà các dạng cụ thể của vật chất biểu hiện sự tồn tại cụ thể của mình;
vận động của vật chất là tự thân vận động; và, sự tồn tại của vật chất luôn gắn liền
với vật chất.

Dựa trên thành tựu khoa học trong thời đại mình, Ăngghen đã phân chia vận
động thành năm hình thức cơ bản: vận động cơ học, vận động vật lý, vận động hóa
học, vận động sinh học và vận động xã hội.

Các hình thức vận động nói trên được sắp xếp theo thứ tự từ thấp đến cao
tương ứng với trình dộ kết cấu của vật chất. Các hình thức vận động khác nhau về
chất song chúng không tồn tại biệt lập mà có mối quan hệ mật thiết với nhau, trong
đó: hình thức vận động cao xuất hiện trên cơ sở các hình thức vận động thấp và
bao hàm trong nó những hình thức vận động thấp hơn. Trong sự tồn tại của mình,
mỗi sự vật có thể có nhiều hình thức vận động khác nhau song bản thân nó bao giờ
cũng được đặc trưng bởi hình thức vận động cao nhất mà nó có.

25
Bằng việc phân loại các hình thức vận động cơ bản, Ăngghen đã đặt cơ sở
cho việc phân loại, phân ngành, hợp ngành khoa học. tư tưởng về sự thống nhất
nhưng khác nhau về chất của các hình thức vận động cơ bản còn là cơ sở để chống
lại khuynh hướng đánh đồng các hình thức vận động hoặc quy hình thức vận động
này vào hình thức vận động khác trong quá trình nhận thức.

Khi khẳng định vận động là phương thức tồn tại của vật chất, là thuộc tính
cố hữu của vật chất; chủ nghĩa duy vật biện chứng cũ đã khẳng định vận động là
vĩnh viễn. Điều này không có nghĩa chủ nghĩa duy vật biện chứng phủ nhận sự
đứng im, cân bằng; song đứng im, cân bằng chỉ là hiện tượng tương đối, tạm thời
và thực chất đứng im, cân bằng chỉ là một trạng thái đặc biệt của vận động.

Đứng im là tương đối vì đứng im, cân bằng chỉ xảy ra trong một số quan hệ
nhất định chứ không xảy ra với tất cả mọi quan hệ; đứng im, cân bằng chỉ xảy ra
trong một hình thức vận động chứ không phải xảy ra với tất cả các hình thức vận
động. Đứng im là tam thời vì đứng im không phải là cái tồn tại vĩnh viễn mà chỉ
tồn tại trong một thời gian nhất định, chỉ xét trong một hay một số quan hệ nhất
định, ngay trong sự đứng im vẫn diễn ra những quá trình biến đổi nhất định. Đứng
im là trạng thái đặc biệt của vận động, đó là vận động trong thế cân bằng, ổn định;
vận động chưa làm thay đổi căn bản về chất, về vị trí, hình dáng, kết cấu của sự
vật.

2. Không gian thời gian là những hình thức tồn tại của vật chất

Mọi dạng cụ thể của vật chất đều tồn tại ở một vị trí nhất định, có một quảng
tính nhất định và tồn tại trong những mối tương quan nhất định với những dạng vật
chất khác. Những hình thức tồn tại như vậy được gọi là không gian. mặt khác, sự

26
tồn tại của sự vật còn được thể hiện ở quá trình biến đổi: nhanh hay chậm, kế tiếp
và chuyển hóa,…Những hình thức tồn tại như vậy được gọi là thời gian.

Ăngghen viết: “Các hình thức cơ bản của mọi tồn tại là không gian và thời
gian; tồn tại ngoài thời gian thì cũng hết sức vô lý như tồn tại ngoài không gian”.
Như vậy, vật chất, không gian, thời gian không tách rời nhau; không có vật chất
tồn tại ngoài không gian và thời gian; cũng không có không gian, thời gian tồn tại
ngoài vật chất vận động. Là những hình thức tồn tại của vật chất, không tách khỏi
vật chất nên không gian, thời gian có những tính chất chung như những tính chất
của vật chất, đó là tính khách quan, tính vĩnh cửu, tính vô tận và vô hạn. Ngoài ra,
không gian có thuộc tính ba chiều còn thời gian chỉ có một chiều. tính ba chiều của
không gian và một chiều của thời gian biểu hiện hình thức tồn tại về quảng tính và
quá trình diễn biến của vật chất vận động.

VIII. Tiểu kết

Thế giới vật chất thể hiện hết sức phong phú đa dạng, song những dạng biểu
hiện của thế giới vật chất đều phản ánh bản chất của thế giới và thống nhất với
nhau. Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định bản chất của thế giới là vật
chất, thế giới thống nhất ở tính vật chất. Theo quan điểm đó:

Chỉ có một thế giới duy nhất là thế giới vật chất; thế giới vật chất là cái có
trước, tồn tại khách quan, độc lập với ý thức con người. Thế giới vật chất tồn tại
vĩnh viễn, vô tận, vô hạn, không sinh ra, không mất đi.

Mọi tồn tại của thế giới vật chất đều có mối liên hệ thống nhất với nhau,
biểu hiện ở chỗ chúng đều là những dạng cụ thể của vật chất, là những kết cấu vật
chất, có nguồn gốc vật chất, do vật chất sinh ra và cùng chịu sự chi phối của những
quy luật khách quan, phổ biến của thế giới vật chất. Trong thế giới vật chất không

27
có gì khác ngoài những quá trình vật chất đang biến đổi và chuyển hóa lẫn nhau, là
nguồn gốc, nguyên nhân và kết quả của nhau.

Bản chất vật chất và tính thống nhất vật chất của thế giới là kết luận được rút
ra từ việc khái quát những thành tựu của khoa học, được khoa học và cuộc sống
hiện thực của con người kiểm nghiệm. Nó không chỉ định hướng cho con người
giải thích về tính đa dạng của thế giới mà còn định hướng cho con người tiếp tục
nhận thức về tính đa dạng ấy để thực hiện quá trình cải tạo hợp quy luật.

28
B. CHỨNG MINH NĂNG LƯỢNG LÀ VẬT CHẤT
I. Tiền đề khoa học tự nhiên ra đời các khái niệm về năng lượng
Trong những thập kỷ đầu thế kỷ XIX, khoa học tự nhiên phát triển mạnh với
nhiều phát minh quan trọng và với những phát minh đó, khoa học đã cung cấp cơ
sở tri thức khoa học để tư duy biện chứng vượt lên tính tự phát của phép biện
chứng cổ đại, thoát khỏi tính thần bí của phép biện chứng duy tâm và trở thành
khoa học.
Định luật bảo toàn và chuyển hoá năng lượng của các nhà khoa học tự nhiên
chứng tỏ lực cơ học, nhiệt, ánh sáng, điện tử, các quá trình hoá học không tách rời
nhau, mà liên hệ với nhau và hơn thế nữa, trong những điều kiện nhất định, chúng
chuyển hoá cho nhau mà không mất đi, chỉ có sự chuyển hoá không ngừng của
năng lượng từ dạng này sang dạng khác. Định luật đã dẫn đến kết luận triết học là
sự phát triển của vật chất là một quá trình vô tận của sự chuyển hoá những hình
thức vận động của chúng.
Thuyết tế bào chứng minh rằng, tế bào là cơ sở của kết cấu và sự phát triển
chung của thực vật và động vật. Bản chất sự phát triển của chúng đều nằm trong sự
hình thành và phát triển của tế bào. Thuyết tế bào xác định sự thống nhất về mặt
nguồn gốc và hình thức giữa động vật và thực vật; giải thích quá trình phát triển
của chúng; đặt cơ sở cho sự phát triển của toàn bộ nền sinh học; phá bỏ quan niệm
siêu hình về mặt nguồn gốc và hình thức giữa giới thực vật với động vật.
Thuyết tiến hoá giải thích duy vật về nguồn gốc và sự phát triển của các loài
thực vật và động vật. Các loài thực vật và động vật biến đổi, các loài đang tồn tại
được sinh ra từ các loài khác bằng con đường chọn lọc tự nhiên và chọn lọc nhân
tạo. Phát minh này đã khắc phục được quan điểm cho rằng giữa thực vật và động
vật không có sự liên hệ; là bất biến; chúng do Thượng Đế tạo ra và đã đem lại cho
sinh học cơ sở thật sự khoa học, xác định tính biến dị và di truyền giữa các loài.

29
Những phát minh trên đây của khoa học tự nhiên cho thấy sự tiến bộ của khoa học
là tiền đề cho sự tiến bộ của triết học.
II. Khái niệm về năng lượng
1. Năng lượng trong triết học
Năng lượng là một khái niệm được nghiên cứu ngay từ khi các khoa học
Phương Tây mới ra đời. Aristote, nhà triết học Hy Lạp thế kỷ II trước công
nguyên, đã nói đến hai mặt của năng lượng : động năng – mà ông gọi là « lực sống
» - và thế năng, năng lượng tiềm tàng mà người ta giải phóng nó hoặc không, như
nước trong đập hay điện trữ trong pin. Các khái niệm này sau đó đã thay đổi nhiều.
Tuy nhiên, nếu như khái niệm về năng lượng ở Phương Tây có nhiều thay đổi,
trước hết phải khẳng định đây là một hiện thực khách quan, có thể đo lường và
lượng hóa được.

Theo nhà vật lý thiên văn học Morvan Salez, « năng lượng, giống như tiền
bạc, có thể tích trữ được, đó là một trong các quy luật của vật lý học, nhưng nó
thay đổi về hình thức : từ khi vũ trụ ra đời đến nay, năng lượng không thêm vào,
mà chỉ thay hình đổi dạng ». Đầu thế kỷ XX, nhà bác học Einstein đã phát hiện ra
rằng vật chất, khối lượng, cũng là một hình thức năng lượng. Vật chất có thể được
chuyển hóa thành các tia và năng lượng cũng có thể được chuyển thành vật chất, ví
dụ như những chuyển hóa diễn ra ở các ngôi sao.
2. Năng lượng về mặt vật lý

Trong vật lý, năng lượng là đại lượng vật lý mà phải được chuyển đến
một đối tượng để thực hiện một công trên, hoặc để làm nóng, các đối tượng. Năng
lượng là một đại lượng được bảo toàn; định luật bảo toàn năng lượng cho biết năng
lượng có thể được chuyển đổi thành các dạng khác nhau, nhưng không tự nhiên
sinh ra hoặc mất đi. Đơn vị SI của năng lượng là jun, đó là công làm cho một đối
tượng di chuyển với khoảng cách 1 mét để chống lại một lực có giá trị 1 newton.

30
Các dạng năng lượng phổ biến bao gồm động năng của vật chuyển
động, năng lượng tiềm tàng được lưu trữ bởi vị trí của vật trong trường lực (lực
hấp dẫn, điện hoặc từ), năng lượng đàn hồi được lưu trữ bằng cách kéo căng vật
thể rắn, năng lượng hóa học được giải phóng khi nhiên liệu bị đốt cháy, năng
lượng bức xạ mang theo ánh sáng và năng lượng nhiệt do nhiệt độ của một vật thể.

III. Mối liên hệ giữa vật chất và năng lượng

Triết học duy vật biện chứng đến nay cho rằng vạn vật trong vũ trụ là vật
chất, năng lượng là một dạng vật chất đặc biệt. Vật chất luôn vận động và vận
động là thuộc tính của vật chất.

Thực tế, vạn vật trong vũ trụ được hình thành bởi hai yếu tố cơ bản là vật
chất và năng lượng. Vật chất và năng lượng là hai khái niệm, hai phạm trù triết học
riêng nhưng có mối quan hệ đặc biệt với nhau. Chúng là hai bản thể của vũ trụ. Vật
chất luôn vận động, nhưng vận động không phải là thuộc tính của vật chất. Vật
chất, với các cấu trúc của nó, là nơi trú ngụ và phát huy tác dụng của năng lượng,
còn năng lượng giúp cho vật chất có cấu trúc và làm cho các cấu trúc đó vận động.
Mối quan hệ này vì vậy trở nên đặc biệt. Không có năng lượng thì vật chất không
có cấu trúc và sự vận động. Ngược lại, không có vật chất thì năng lượng không có
nơi cư trú và phát huy tác dụng của nó. Đây là nguyên lý và cũng là ý nghĩa triết
học của mối quan hệ đặc biệt giữa vật chất và năng lượng.

Tác dụng tạo cho vật chất có cấu trúc của năng lượng thể hiện ở chỗ năng
lượng tạo ra lực liên kết. Với các tác dụng khác nhau của năng lượng mà vật chất
có các dạng liên kết khác nhau. Có hai dạng liên kết cơ bản là liên kết vật lý và liên
kết hoá học. Liên kết vật lý tạo ra các cấu trúc vật chất không có tổ chức hoặc tổ
chức thấp. Liên kết hoá học tạo ra các cấu trúc vật chất có tính tổ chức. Liên kết
vật lý được thức hiện bởi các lực hấp dẫn, lực điện tích trái dấu, lực từ. Liên kết

31
hoá học được thực hiện bởi lưới lực điện từ. Trong một cấu trúc vật chất có thể tồn
tại đồng thời cả hai hình thức liên kết này.

Một đặc điểm của các cấu trúc vật chất là chúng không có tính liên tục. Mỗi
cấu trúc vật chất, dù nhỏ đến đâu, cũng đều được tạo ra từ các cấu trúc thành viên
nhỏ hơn với một hình thức liên kết nào đó và có khoảng cách giữa các thành viên.
Đây là một đặc điểm quan trọng giúp cho các cấu trúc có thể vận động, hấp thụ và
giải phóng năng lượng. Trong liên kết vật lý, độ bền của các cấu trúc hay độ bền
của các mối liên kết giữa các thành viên phụ thuộc vào cường độ của lực liên kết.
Cường độ của lực liên kết phụ thuộc vào mức năng lượng trong các thành viên và
khoảng cách giữa chúng. Một đặc điểm của các cấu trúc vật chất được tạo bởi liên
kết vật lý là khi tăng mức năng lượng tạo ra liên kết thì thì cấu trúc đó có thể bị co
lại, thể tích của cấu trúc vật chất đó bị giảm xuống và ngược lại.

Một trong những tác dụng mà có thể cho đó là ý nghĩa đặc biệt của năng
lượng, đó là tạo ra các cấu trúc chức năng ghi nhớ của các tế bào thần kinh. Với
các hình thức ghi nhớ, các phương thức truyền dẫn kích thích thần kinh (mà thực
chất là truyền dẫn năng lượng) và với các phương thức xử lý thông tin thần kinh
(phẳng hoặc không gian) mà trong hệ thần kinh của động vật đa bào và con người
có từ một đến năm phương thức hoạt động thần kinh, trong đó có hai phương thức
đã nêu trong học thuyết Páp–lốp.
Năng lượng là một bản thể của vũ trụ. Nhưng khi năng lượng tồn tại trong
những cấu trúc vật chất khác nhau, chúng có thể có những tác dụng khác nhau và
hình thành nên các dạng năng lượng khác nhau như điện năng, cơ năng, quang
năng v.v…Tác dụng đối nghịch nhau của các dạng năng lượng cũng làm cho các
cấu trúc vật chất vận động. Sự tồn tại của các dạng năng lượng, về thực chất, đó là
sự tồn tại của các cấu trúc vật chất mang năng lượng với mức cao. Các mức năng
lượng này có thể thay đổi dẫn đến sự thay đổi trạng thái hoặc tính chất của các cấu
32
trúc vật chất mang năng lượng. Có nhiều dạng năng lượng đã được con người biết
đến và đã xác định được về cả hai mặt định tính và định lượng. Nhưng cũng có
những dạng năng lượng đang tồn tại và trong đó có những dạng có ý nghĩa đặc biệt
đối với sự sống nhưng chưa được xác định hoặc xác định chưa đầy đủ. Chúng được
cảm nhận bằng các vị chua, cay, mặn, ngọt, đắng, chát, các mùi thơm, nồng, hôi,
hắc…Không có chúng máu sẽ không đông để bịt kín các vết thương hở giúp cho sự
cầm máu. Thiếu chúng nhện sẽ không giăng được tơ, tằm không thể làm kén…
Chúng có thể di chuyển dưới dạng bức xạ hoặc khi có mức năng lượng thấp, chúng
chỉ có thể di chuyển do chênh lệch mật độ, thậm trí chỉ có thể di chuyển từ nguyên
tử này sang nguyên tử khác khi các nguyên tử đó có khoảng cách rất nhỏ. Chúng
có thể tồn tại tự do hoặc được các chất hoá học, các vật thể hấp thụ. Chúng là khí
trong quan niệm của người Phương Đông. Có thể phần lớn trong chúng là
các lượng tử ánh sáng bị suy giảm rất nhiều năng lượng.
Nguyên lý của mối quan hệ giữa vật chất và năng lượng trên đây là một
nguyên lý cơ bản. Nó không chỉ là cơ sở của lý luận về hoạt động của hệ thần kinh
mà còn chỉ ra và mở ra rất nhiều hướng nghiên cứu mới. Nó chỉ ra được bản chất
của hiện tượng lão hoá, nguyên lý của sự hoà tan, nó cho thấy cơ chế tác động của
các chất bổ, chất độc, chất hại lên cơ thể sinh vật, giúp cho sự định nghĩa một cách
chính xác thế nào là thuốc bổ, thế nào là thuộc độc, thế nào là thuốc hại, giúp cho
sự lý giải tại sao thuốc bổ có thể có tác dụng hại còn thuộc độc lại có thể có những
lợi ích nào đó. Nó chỉ ra cơ chế gây nghiện của ma tuý, cơ chế làm giảm đau
của moóc-phin và của các hoạt chất có tính cay nóng (là hai phương pháp giảm đau
cho hai cơ chế đau khác nhau). Nghiên cứu về độ bền của các liên kết vật chất dưới
ánh sáng của nguyên lý này chúng ta còn xây dựng được lý luận về một trong ba
hệ thống miễn dịch trong cơ thể sinh vật đó là hệ thống miễn dịch cơ bản có trong
tất cả các thực thể sống. Ý nghĩa của nguyên lý còn được thấy trong cuộc sống
hàng ngày, từ việc nấu ăn đến việc giặt giũ. Nó cho chúng ta thấy cơ chế tác dụng
33
của các loại gia vị lên thức ăn, tác động của các chất tẩy rửa, Trong y học, những
lý luận phát triển từ nguyên lý này là cơ sở khoa học hiện đại làm sáng tỏ và bổ
xung lý luận của y học cổ truyền phương Đông, lý giải được nguyên lý của các
phương pháp rèn luyện sức khoẻ bằng khí công, các phép dưỡng sinh…, giúp
chúng ta hiểu được tác dụng sát trùng của bạc, hiểu được nguyên lý của phương
pháp điều trị triệu chứng, hiểu được tại sao dung dịch foóc-môn giúp cho các tiêu
bản sinh vật không bị thối rữa, hàn the làm cho thức ăn chậm ôi thiu. Lý luận về
các quá trình tạo ra các prôtêin, các cấu trúc tế bào, các bộ phận của cơ thể sinh vật
cũng sẽ được bổ xung trên cơ sở của nguyên lý này. Hệ thống gene sử dụng năng
lượng làm phương tiện thông tin để tạo ra các cấu trúc nói trên với các phương
thức lập trình hoàn toàn, không hoàn toàn, lập trình bán phần và lập trình toàn
phần. Với phương thức lập trình không hoàn toàn, sinh giới có thêm một đặc tính
nữa bên cạnh hai đặc tính di truyền và biến dị để thúc đẩy quá trình tiến hoá và
thích nghi với môi trường sống, đồng thời giúp cho hệ thần kinh có thể ghi nhớ
được, đó là đặc tính biến đổi.
Sự phát triển lý luận dựa trên nguyên lý của mối quan hệ đặc biệt giữa vật
chất và năng lượng còn cho ta thấy lời giải về sự thay đổi màu sắc ánh sáng phản
xạ của vật thể và sự bạc màu của màu sắc ánh sáng trong ánh nắng mặt trời.
Nghiên cứu về sự hình thành liên kết hoá học của các nguyên tố hoá học và mô
hình không gian của nguyên tử còn cho ta thấy rằng trong một số phản ứng hoá
học có toả nhiệt thì nhiệt toả ra từ thành phần nào, từ cấu trúc nào của các chất
tham gia phản ứng. Ví dụ, trong phản ứng giữa ôxy và hiđrô thì nhiệt năng được
toả ra từ các điện tử của ôxy, điều này có nghĩa ôxy mới là nhiên liệu chứ không
phải hiđrô là nhiên liệu trong việc đốt hiđrô. Nhưng trong việc đốt các nhiên liệu
hoá thạch (dầu mỏ, than đá…) thì ôxy không bị mất năng lượng. Trong trường hợp
này, ôxy không phải là nhiên liệu.

34
Các cấu trúc vật chất khác nhau có thể hấp thụ hoặc giải phóng các dạng
năng lượng khác nhau với các mức và các hình thức khác nhau. Sự giải phóng
năng lượng có thể diễn ra do các phản ứng hoá học, do sự phá vỡ một cấu trúc vật
chất có hình thức liên kết vật lý thành các cấu trúc nhỏ hơn. Một cấu trúc vật chất
bị suy giảm năng lượng có thể do một sự tác động nào đó hoặc năng lượng tự thoát
dần ra ngoài.

Một trong những khó khăn mà khoa học sẽ gặp phải khi nghiên cứu về các
dạng năng lượng chưa được xác định trên đây là ảnh hưởng của mức năng lượng
thấp của các cấu trúc vật chất mang năng lượng. Do mức năng lượng thấp mà khả
năng tạo ra các tác động rõ rệt lên các phương tiện, các dụng cụ đo của chúng là rất
yếu, không đủ để các dụng cụ xác định chúng hoạt động. Nghiên cứu về chúng
càng trở nên có ý nghĩa khi một bộ phận trong chúng đã và đang được chúng ta gọi
bằng cái tên là năng lượng sinh học, chính là linh hồn của sự sống, linh hồn của
mỗi chúng ta.

III. Tiểu kết


Năng lượng là vật chất. Vật chất cùng với không gian và thời gian là những
vấn đề cơ bản mà tôn giáo, triết học và vật lý học nghiên cứu. Vật lý học và các
ngành khoa học tự nhiên nghiên cứu cấu tạo cũng như những thuộc tính cụ thể của
các dạng thực thể vật chất khác nhau trong thế giới tự nhiên. Các thực thể vật chất
có thể ở dạng từ trường (cấu tạo bởi các hạt trường, thường không có khối lượng
nghỉ, nhưng vẫn có khối lượng toàn phần), hoặc dạng chất (cấu tạo bởi các hạt
chất, thường có khối lượng nghỉ) và chúng đều chiếm không gian. Với định nghĩa
trên, các thực thể vật chất được hiểu khá rộng rãi, như một vật vĩ mô mà cũng có
thể như bức xạ hoặc những hạt cơ bản cụ thể và ngay cả sự tác động qua lại của
chúng. Đôi khi người ta nói đến thuật ngữ phản vật chất trong vật lý. Đó thực ra
vẫn là những dạng thức vật chất theo định nghĩa trên, nhưng là một dạng vật chất
35
đặc biệt ít gặp trong tự nhiên. Mọi thực thể vật chất đều tương tác lẫn nhau và
những tương tác này cũng lại thông qua những dạng vật chất (cụ thể là những hạt
tương tác trong các trường lực, ví dụ hạt photon trong trường điện từ).
Năng lượng và vật chất là những thuật ngữ có quan hệ mật thiết với nhau.
Quan trọng hơn, vật chất có hai dạng là năng lượng và khối lượng. Vật chất là bất
kỳ chất nào có khối lượng và thể tích, nhưng năng lượng là thuộc tính của vật chất.

36
TỔNG KẾT

Nhìn chung, vật chất bao giờ cũng đóng vai trò quyết định đối với ý thức, nó
là cái có trước ý thức, nhưng ý thức lại tác động trở lại vật chất. Mối quan hệ tác
động qua lại này chỉ được thực hiện thông qua hoạt động thực tiễn của con người.
Chúng ta nâng cao vai trò của ý thức với vật chất chính là ở chỗ nâng cao năng lực
nhận thức các quy luật khách quan và vận dụng các quy luật khách quan trong hoạt
động thực tiễn của con người.

Thứ nhất bằng việc chỉ ra thuộc tính cơ bản nhất, phổ biến nhất là thuộc tính
tồn tại khách quan, định nghĩa vật chất của Lê-nin đã giúp chúng ta phân biệt được
sự khác nhau căn bản giữa phạm trù vật chất với tư cách là phạm trù triết học, khoa
học chuyên ngành, từ đó khắc phục được hạn chế trong các quan niệm của các nhà
triết học trước đó, cung cấp căn cứ khoa học để xác định những gì thuộc và không
thuộc về vật chất.

Thứ hai, khi khẳng định vật chất là thực tại khách quan được đem lại cho
con người trong cảm giác được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại phản ánh,
Lê-nin đã giải quyết triệt để vấn đề cơ bản của triết học đó là vật chất là cái có
trước, ý thức là cái có sau, vật chất quyết định ý thức. Đó là con người có thể nhận
thức được thế giới khách quan thông qua sự chép lại, chụp lại, phản ánh của con
người đối với thực tại khách quan.

Mặc dù định nghĩa vật chất của Lê-nin đã ra đời gần hai thế kỷ nhưng nó
vẫn giữ nguyên giá trị thực tiễn và khoa học. Hơn 100 năm đã trôi qua, định nghĩa

37
kinh điển về vật chất của triết học Mácxít do V.I.Lê-nin nêu ra luôn có ý nghĩa thế
giới quan và phương pháp luận khoa học đối với giai cấp công nhân và nhân loại
tiến bộ trong công cuộc sáng tạo xã hội mới, Và cả trong thời đại hiện nay, định
nghĩa vật chất của V.I.Lê-nin vẫn là cơ sở lý luận khoa học cho chúng ta chống lại
mọi luận điểm sai lầm trong các trào lưu của triết học tư sản hiện đại, chống chủ
nghĩa giáo điều và chủ nghĩa xét lại, bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin là
nền tảng tư tưởng và là kim chỉ nam cho chúng ta trong sự nghiệp sáng tạo xã hội
mới.

Trong quá trình làm bài em còn gặp phải nhiều sai sót, em mong nhận được
sự bổ khuyết từ phía cô giáo phụ trách bộ môn Triết học Mác – Lênin để em có
điều kiện hoàn thành sự hiểu biết về cả lý luận và thực tiễn, rút kinh nghiệm cho
những bài làm tiếp theo.

Em xin chân thành cảm ơn!

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Giáo trình Triết học Mac – Lênin/ GS.TS Phạm Văn Đức (Chủ biên), 2019

2. Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, NXB Chính trị
Quốc gia

3. "Phân tích định nghĩa vật chất của Lênin, từ đó rút ra ý ...."
https://baigiangmaclenin.blogspot.com/2017/10/phan-tich-inh-nghia-vat-chat-cua-
lenin.html.

38
4. "Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức theo Triết học." 30 tháng 11
năm 2021, https://luatduonggia.vn/moi-quan-he-bien-chung-giua-vat-chat-va-y-
thuc-trong-nen-kinh-te-nuoc-ta-hien-nay/.

5. "Quan niệm của các nhà triết học duy vật trước C.Mác về Vật chất"
http://winds.violet.vn/entry/show/entry_id/11529455.

6. "QUAN NIỆM về vật chất của các nhà duy vật TRƯỚC CMÁC."
https://123docz.net/document/4597633-quan-niem-ve-vat-chat-cua-cac-nha-duy-
vat-truoc-cmac.htm.

7. “Hồ Chí Minh: Toàn tập” – NXB Chính trị Quốc gia

8. Ph. Ăngghen “Chống Đuy – rinh”

39

You might also like