You are on page 1of 24

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP.

HỒ CHÍ MINH
KHOA ĐÀO TẠO CHẤT LƯỢNG CAO


TIỂU LUẬN
MÔN HỌC: TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN
ĐỂ TÀI: MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC
THEO QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG VÀ LIÊN
HỆ VỚI VẤN ĐỀ CỦA THỰC TẾ
GVHD: Ts.BÙI XUÂN DŨNG
SVTH:
Huỳnh Thanh Duy 21110118
Trần Nguyễn Quốc Bảo 21110112
Lê Trần Minh Chiến 21110115
Nguyễn Hoài Bảo 21110108
Trần Như Thiện 21110235
Mã lớp học: LLCT130105_22_1_02CLC

TP. HỒ CHÍ MINH – THÁNG 12 NĂM 2022


NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….

Điểm: …………………………

KÝ TÊN
MỤC LỤC

Lý do chọn đề tài.............................................................................................................2

Đối tượng và phương pháp nghiên cứu đề tài..............................................................2

Mục đích của đề tài.........................................................................................................2

Bố cục đề tài.....................................................................................................................3

Phần 2. Nội dung:...............................................................................................................3

Chương 1: Những lý luận về mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức theo
quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng..............................................................3

1.1. Lý luận chung về mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức theo
quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng...........................................................3

1.1.1. Vật chất........................................................................................................3

1.1.2. Ý thức...........................................................................................................4

1.1.3. Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức.....................................8

1.2. Ý nghĩa của phương pháp luận......................................................................12

Chương 2. Liên hệ mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức theo chủ nghĩa
duy vật biện chứng với vấn đề của thực tiễn..............................................................13

2.1. Mối quan hệ giữa sự phát triển Kinh tế của Việt Nam với văn hóa tinh thần
trong xã hội trong xã hội Việt Nam..........................................................................13

2.2. Liên hệ bản thân với mối quan hệ giữa vật chất và ý thức.............................18

Phần 3. Kết luận...............................................................................................................20

Tài Liệu Tham Khảo


Phần 1. Lời mở đầu:
Lý do chọn đề tài:
Thế giới quanh ta luôn luôn tồn tại những mối quan hệ tác động lẫn nhau và cũng
có những mối quan hệ chỉ tác động một chiều. Trong những mối quan hệ ấy, có một mối
quan hệ luôn là “Vấn đề cơ bản to lớn của triết học mọi thời đại, đặc biệt là của triết học
hiện đại”, chính là mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức theo quan điểm của
chủ nghĩa duy vật biện chứng. Tùy theo lập trường của mỗi người, tùy vào từng góc nhìn
thì mối quan hệ này sẽ có những tác động khác nhau lên thế giới quan đó và từ đó hình
thành lên những con đường khác nhau là chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Đồng
thời nó còn khẳng định tính Đảng trong triết học, như Lênin đã từng viết: “Triết học hiện
đại cũng có tính Đảng như triết học hai nghìn năm về trước. Những đảng phái đang đấu
tranh với nhau, về thực chất, mặc dù thực chất đó bị che giấu bằng những nhãn hiệu mới
của thủ đoạn lang băm hoặc tính phi đảng ngu xuẩn - là chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa
duy tâm.”. Thế giới có hoàn hảo đến đâu cũng đều quy về hai lĩnh vực: vật chất và ý thức.
Và cũng vì vậy nên có rất nhiều quan điểm triết học xoay quanh hai chủ thể trong mối
quan hệ này.
Chính vì sự thu hút và kỳ thú của mối quan hệ qua lại giữa vật chất và ý thức, đồng thời
cũng bắt nguồn từ sự tò mò muốn biết rằng chúng tồn tại như thế nào trong cuộc sống
thực tiễn quanh chúng ta.Nên nhóm em quyết định chọn đề tài: "Mối quan hệ biện
chứng giữa vật chất và ý thức theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
liên hệ với vấn đề của thực tế."

Đối tượng và phương pháp nghiên cứu đề tài:


Đối tượng nghiên cứu: Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức theo quan
điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng và liên hệ với vấn đề của thực tế.
Phương pháp nghiên cứu: đọc và nghiên cứu giáo trình Triết học Mác – Lênin, sau
đó tổng hợp thông tin để đưa ra những nhận xét và đánh giá toàn diện nhất.
Mục đích của đề tài:
Nắm rõ những lý thuyết và những quan niệm về mối quan hệ giữa vật chất và ý
thức theo chủ nghĩa duy vật biện chứng. Cũng như việc áp dụng nó như thế nào vào thực
tiễn sao cho có hiệu quả như mong đợi.
Thông qua việc nghiên cứu mối quan hệ giữa vật chất và ý thức theo chủ nghĩa duy
vật biện chứng, đồng thời cũng có thể tìm hiểu được các khái niệm về vật chất và ý thức.
Để rồi từ đó biết được những gì cơ bản về hai chủ thể này.
Bố cục đề tài:
Tiểu luận gồm hai chương chính:
Chương 1. Những lý luận về mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức theo
quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Chương 2. Liên hệ mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức theo chủ nghĩa
duy vật biện chứng với vấn đề của thực tiễn.

Phần 2. Nội dung:


Chương 1: Những lý luận về mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức
theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng.
1.1. Lý luận chung về mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức theo
quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng
1.1.1. Vật chất:
1.1.1.1. Định nghĩa vật chất:

Theo quan niệm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, bản chất của thế giới là vật chất, thế
giới thống nhất ở tính vật chất của nó. Vật chất là một phạm trù nền tảng của chủ nghĩa
duy vật triết học. Trong lịch sử tư tưởng nhân loại, xung quanh vấn đề này luôn diễn ra
cuộc đấu tranh không khoan nhượng giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Bản
thân quan niệm của chủ nghĩa duy vật về phạm trù vật chất cũng trải qua lịch sử phát triển
lâu dài, gắn liền với những tiến bộ của khoa học và thực tiễn.
Kế thừa tư tưởng của C.Mác và Ăng-ghen cùng các thành tựu khoa học ở những thời kỳ
trước, Lênin đã định nghĩa vật chất như sau: “Vật chất là một phạm trù triết học dùng để
chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của
chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và không lệ thuộc vào cảm giác.”
Tóm lại thông qua định nghĩa vật chất, Lênin đã giải quyết triệt để vấn đề cơ bản của triết
học đó là vật chất là cái có trước, ý thức là cái có sau, vật chất quyết định ý thức. Đó là
con người có thể nhận thức được thế giới khách quan thông qua sự chép lại, chụp lại,
phản ánh của con người đối với thực tại khách quan.

1.1.1.2. Các hình thức tồn tại vật chất:

Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, vận động là phương thức tồn
tại của vật chất, còn không gian, thời gian là những hình thức tồn tại của vật chất. Vậy
như thế nào là vật chất và như thế nào là không gian và thời gian?
Vận động: là phương thức tồn tại của vật chất và cũng là thuộc tính cố hữu của vật
chất. Bất cứ sự vật, hiện tượng nào dù là trong tự nhiên hay là trong xã hội,dù là vật thể
vô cùng lớn như các ngôi sao,những thiên hà,… hay những vật thể vô cùng nhỏ như các
hạt cơ bản, dù có thuộc giới vô sinh hay giới hữu sinh cũng đều tồn tại trong trạng thái
vận động và biến đổi không ngừng.
Không gian và thời gian: là các hình thức tồn tại của vật chất. Không có vật chất
nào tồn tại bên ngoài không gian và cũng như tồn tại bên ngoài thời gian. Đồng thời
không có không gian, thời gian nào tồn tại bên ngoài vật chất.2

1.1.2. Ý thức:
1.1.2.1. Định nghĩa ý thức:
Để đưa ra được định nghĩa về ý thức con người đã trải qua một thời kỳ lịch sử lâu dài, nó
trải qua những tư tưởng từ thô sơ, sai lệch cho tới những định nghĩa có tính khoa học. Ý
thức là sự phản ánh năng động, sáng tạo thế giới khách quan vào đầu óc con người, là
hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Ý thức là toàn bộ sản phẩm những hoạt động
tinh thần của con người, bao gồm những tri thức, kinh nghiệm, những trạng thái tình cảm,
ước muốn, hy vọng, ý chí niềm tin, ... của con người trong cuộc sống. Ý thức là sản phẩm
của quá trình phát triển của tự nhiên và lịch sử - xã hội, là kết quả của quá trình phản ánh
thế giới khách quan vào trong đầu óc của con người.

Theo ý kiến của triết học Mác-Lênin ý thức được định nghĩa là một phạm trù song song
với phạm trù vật chất. Theo đó, ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất khách quan vào bộ
óc con người và có sự cải biến và sáng tạo. Ý thức có mối quan hệ hữu cơ với vật chất.
1.1.2.2. Nguồn gốc của ý thức

Theo quan điểm của chủ nghĩa Lênin thì trong lịch sử triết học, vấn đề nguồn gốc, bản
chất của ý thức là một trong những vấn đề trung tâm của cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa
duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Triết học duy vật biện chứng khẳng định, ý thức của con
người có nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội.

Nguồn gốc tự nhiên của ý thức: Các yếu tố tạo thành nguồn gốc tự nhiên của ý thức là bộ
óc con người và hoạt động của nó cùng mối quan hệ giữa con người với thế giới khách
quan; trong đó, thế giới khách quan tác động đến bộ óc con người từ đó tạo ra khả năng
hình thành ý thức của con người về thế giới khách quan. Như vậy, ý thức chính là sự phản
ánh của con người về thế giới khách quan.

Nguồn gốc xã hội của ý thức: Để cho ý thức ra đời, nguồn gốc tự nhiên là rất quan trọng,
không thể thiếu được, song chưa đủ. Điều kiện quyết định, trực tiếp và quan trọng nhất
cho sự ra đời của ý thức là những tiền đề, nguồn gốc xã hội. Đó là lao động, tức là thực
tiễn xã hội và ngôn ngữ. Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc
người thông qua lao động, ngôn ngữ và các cơ quan xã hội. Theo Ph. Ăng-ghen, lao động
và ngôn ngữ là hai sức kích thích biến đổi bộ não động vật thành bộ não người, biến tâm
lý động vật thành ý thức con người.
Lao động: Đem lại dáng đi thẳng bằng hai chân, giải phóng hai tay phát triển khi
quan và não bộ. Làm cho giới tự nhiên bộc lộ những thuộc tính, những kết cấu, những
quy luật vận động. Là cơ sở của sự hình thành và phát triển ngôn ngữ.
Ngôn ngữ: Là hệ thống tín hiệu vật chất chứa đựng thông tin mang nội dung ý
thức.Nó xuất hiện trở thành “vỏ vật chất” của tư duy; là hiện thực trực tiếp của ý thức; là
phương thức để ý thức tồn tại với tư cách là sản phẩm của xã hội-lịch sử; dùng để giao
tiếp, trao đổi thông tin.
Như vậy, chúng ta có thể thấy ý thức được hình thành dựa trên hai nguồn gốc trên. Những
yếu tố trên sẽ tác động mạnh mẽ đến việc hình thành ý thức của con người. Nguồn gốc
trực tiếp quan trọng nhất quyết định sự ra đời và phát triển của ý thức là lao động. Sau lao
động và đồng thời với lao động là ngôn ngữ; đó là hai chất kích thích chủ yếu làm cho bộ
óc vượn dần dần chuyển hóa thành bộ óc người, khiến cho tâm lý động vật dần dần
chuyển hóa thành ý thức.

1.1.2.3. Bản chất của ý thức

Theo chủ nghĩa duy vật biện chứng cho ý thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào bộ
não con người thông qua hoạt động thực tiễn vì vậy mà bản chất của ý thức là hình ảnh
chủ quan của thế giới khách quan:

Thứ nhất, ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.

Thứ hai, sự phản ánh ý thức là sáng tạo, vì nó bao giờ cũng do nhu cầu thực tiễn
cần sử dụng mà bắt buộc phải tạo ra những giá trị, phát minh thiết kế hiện đại và hữu ích
hơn để đáp ứng cho nhu cầu thực tế của xã hội;
Thứ ba, phản ánh ý thức là sự sáng tạo, vì phản ánh đó bao giờ cũng dựa trên hoạt
động thực tiễn và là sản phẩm của các quan hệ xã hội. Là sản phẩm của các quan hệ xã
hội, bản chất ý thức có tính xã hội.

Theo các nhà triết học duy vật đều thừa nhận vật chất tồn tại khách quan và ý thức là sự
phản ánh sự vật đó. Chủ nghĩa duy vật biện chứng dựa trên cơ sở lý luận phản ánh: “Về
bản chất, coi ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc con người một
cách năng động, sáng tạo; ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan”.

Vậy, bản chất của ý thức chính là sự phản ánh chân thật và đầy đủ nhất của ý thức. Hành
vi con người cũng chính là yếu tố thể hiện bản chất của ý thức. Ý thức là một hiện tượng
xã hội và mang bản chất xã hội.

1.1.2.4. Kết cấu của ý thức

Ý thức có kết cấu cực kỳ phức tạp. Có nhiều ngành khoa học, nhiều cách tiếp cận, nghiên
cứu về kết cấu của ý thức. Ở đây chỉ tiếp cận kết cấu của ý thức theo các yếu tố cơ bản
nhất hợp thành nó. Theo cách tiếp cận này, ý thức bao gồm ba yếu tố cơ bản nhất là: tri
thức, tình cảm và ý chí, trong đó tri thức là nhân tố quan trọng nhất. Ngoài ra ý thức còn
có thể bao gồm các yếu tố khác.

Tri thức là toàn bộ những hiểu biết của con người, là kết quả của quá trình nhận thức, là
sự tái tạo lại hình ảnh của đối tượng được nhận thức dưới dạng các loại ngôn ngữ. Tri
thức là phương thức tồn tại của ý thức và là điều kiện để ý thức phát triển. theo Mác:
“phương thức mà theo đó ý thức tồn tại và theo đó một cái gì đó tồn tại đối với ý thức là
tri thức”.
Tình cảm là những rung động biểu hiện thái độ con người trong các quan hệ. Tình cảm là
một hình thái đặc biệt của sự phản ánh hiện thực, được hình thành từ sự khái quát những
cảm xúc cụ thể của con người khi nhận sự tác động của ngoại cảnh. Lênin cho rằng:
“Không có tình cảm thì xưa nay không có và không thể có sự tìm tòi chân lý; không có
tình cảm thì không có một yếu tố thôi thúc những người vô sản và nửa vô sản, những
công nhân và nông dân nghèo đi theo cách mạng.”

Ý chí là khả năng huy động sức mạnh bản thân để vượt qua những cản trở trong quá trình
thực hiện mục đích của con người. Ý chí được coi là mặt năng động của ý thức, một biểu
hiện của ý thức trong thực tiễn mà ở đó con người tự giác được mục đích của hoạt động
nên tự đấu tranh với mình để thực hiện đến cùng mục đích đã lựa chọn. Có thể coi ý chí là
quyền lực của con người đối với mình; nó điều khiển, điều chỉnh hành vi để con người
hướng đến mục đích một cách tự giác; nó cho phép con người tự kiềm chế, tự làm chủ
bản thân và quyết đoán trong hành động theo quan điểm và niềm tin của mình. Lênin cho
rằng: ý chí là một trong những yếu tố tạo nên sự nghiệp cách mạng của hàng triệu người
trong cuộc đấu tranh giai cấp quyết liệt nhằm giải phóng mình, giải phóng nhân loại.

Tất cả các yếu tố tạo thành ý thức có mối quan hệ biện chứng với nhau song tri thức là
yếu tố quan trọng nhất; là phương thức tồn tại của ý thức, đồng thời là nhân tố định hướng
đối với sự phát triển và quyết định mức độ biểu hiện của các yếu tố khác.
1.1.3. Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức
1.1.3.1. Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức qua nhận thức

Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định rằng:Vật chất là cái có trước, ý thức là cái có
sau, vật chất là nguồn gốc của ý thức, quyết định ý thức, bởi vì:
Ý thức là sản phẩm của một dạng vật chất có tổ chức cao, là sự phản ánh của thế giới vật
chất, là hình ảnh mang tính chủ quan của thế giới vật chất. Vì vậy, nội dung của ý thức do
vật chất quyết định. Nên vật chất không chỉ quyết định nội dung mà hình thức biểu hiện
cũng như mọi sự biến đổi của ý thức.
Các yếu tố cấu thành nguồn gốc tự nhiên, nguồn gốc xã hội của ý thức là bản thân thế giới
khách quan hoặc các dạng tồn tại của vật chất đều khẳng định vật chất là nguồn gốc của ý
thức.
Ví dụ 1: Hoạt động của ý thức diễn ra bình thường trên cơ sở hoạt động sinh lý
thần kinh của bộ não người. Nhưng khi bộ não con người bị tổn thương thì hoạt động ý
thức cũng bị rối loạn.
Ví dụ 2: Ở Việt Nam, nhận thức của học sinh tiểu học, cấp hai, cấp ba về công
nghệ thông tin còn rất yếu. Nguyễn nhân là do thiếu máy móc cũng như thiếu đội ngũ
giảng viên. Nhưng nếu đáp ứng được vấn đề hạ tầng thì trình độ tin học của học sinh tiểu
học, cấp hai, cấp ba sẽ tốt hơn rất nhiều. Điều này đã khẳng định điều kiện vật chất như
vậy thì ý thức cũng như vậy.
1.1.3.2. Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức qua thực tiễn

Tri thức mà con người thu nhận được sẽ thông qua chu trình học tập, nghiên cứu từ các
hoạt động quan sát, phân tích để tác động vào đối tượng vật chất và buộc những đối tượng
đó phải thể hiện những thuộc tính, quy luật.
Để cải tạo thế giới khách quan đáp ứng nhu cầu của mình, con người phải căn cứ vào hiện
thực khách quan để có thể đánh giá, xác định phương hướng biện pháp, kế hoạch mới có
thể thành công. Bên cạnh đó cần phải tránh xa những thói quen chỉ căn cứ vào nhu cầu,
niềm tin mà không nghiên cứu đánh giá tình hình đối tượng vật chất.
Con người muốn ngày càng tài năng, xã hội ngày càng phát triển thì phải luôn chủ động,
phát huy khả năng của mình và luôn tìm tòi, sáng tạo cái mới. Bên cạnh đó, con người
phải thường xuyên rèn luyện, tu dưỡng, nâng cao năng lực và không bỏ cuộc giữa chừng.
Con người tuyệt đối không được thụ động, ỷ lại trong mọi trường hợp để tránh việc sa vào
lười suy nghĩ, lười lao động.
Trong mối quan hệ với vật chất, ý thức có thể tác động trở lại đối với vật chất thông qua
các hoạt động thực tiễn của con người. Bởi vì ý thức chính là ý thức của con người nên
nói đến vai trò của ý thức chính là nói đến vai trò của con người. Bản thân ý thức không
trực tiếp làm thay đổi bất cứ điều gì trong hiện thực khách quan.
Mọi hoạt động của con người đều do ý thức chỉ đạo, vì vậy vai trò của ý thức không phải
là trực tiếp tạo ra hay làm thay đổi thế giới vật chất mà nó trang bị cho con người những
hiểu biết về hiện thực khách quan, trên cơ sở đó con người xác định mục tiêu, đề ra
phương hướng, xây dựng kế hoạch, lựa chọn phương pháp, các biện pháp, công cụ,
phương tiện … để thực hiện mục tiêu của mình.
Sự trở lại của ý thức đối với vật chất diễn ra theo hai hướng:

Tích cực: Ý thức có thể trở thành động lực thúc đẩy vật chất phát triển.
Tiêu cực: Ý thức có thể là lực cản phá vỡ sự vận động và phát triển của vật chất
khi ý thức phản ánh không đúng, làm sai lệch các quy luật vận động khách quan của vật
chất.

Như vậy, bằng cách định hướng hoạt động của con người, ý thức có thể quyết định hành
động của con người, hoạt động thực tế của con người đúng hay sai, thành công hay thất
bại.
Ví dụ 1. Việt Nam ta thường có câu ca dao tục ngữ "có thực mới vực được đạo" ý là
vật chất quyết định nhận thức của con người. Khi con người không đủ no, không có sức
khoẻ thì bộ não của con người sẽ khó hoạt động. Bộ não con người sẽ phản ánh những
hiện thực của cuộc sống một cách cụ thể nhất.
Ví dụ 2. Từ nhận thức đúng đắn về thực tế kinh tế đất nước. Từ sau Đại hội VI, đảng
ta chuyển nền kinh tế từ tự cung, quan liêu sang nền kinh tế thị trường, để sau gần 30 năm
bộ mặt nước ta đã thay đổi hẳn.

1.1.3.3. Tác động hai chiều giữa vật chất và ý thức


Trong mối quan hệ với vật chất, ý thức có thể tác động trở lại vật chất thông qua hoạt
động thực tiễn của con người.
Vì ý thức là ý thức của con người nên nói đến vai trò của ý thức là nói đến vai trò của con
người. Bản thân ý thức tự nó không trực tiếp thay đổi được gì trong hiện thực. Muốn thay
đổi hiện thực, con người phải tiến hành những hoạt động vật chất. Song, mọi hoạt động
của con người đều do ý thức chỉ đạo, nên vai trò của ý thức không phải trực tiếp tạo ra
hay thay đổi thế giới vật chất mà nó trang bị cho con người tri thức về thực tại khách
quan, trên cơ sở ấy con người xác định mục tiêu, đề ra phương hướng, xây dựng kế
hoạch, lựa chọn phương pháp, biện pháp, công cụ, phương tiện, v.v. để thực hiện mục tiêu
của mình. Ở đây, ý thức đã thể hiện sự tác động của mình đối với vật chất thông qua hoạt
động thực tiễn của con người.
Sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất diễn ra theo hai hướng: tích cực hoặc tiêu
cực. Nếu con người nhận thức đúng, có tri thức khoa học, có tình cảm cách mạng, có nghị
lực, có ý chí thì hành động của con người phù hợp với các quy luật khách quan, con người
có năng lực vượt qua những thách thức trong quá trình thực hiện mục đích của mình, thế
giới được cải tạo – đó là sự tác động tích cực của ý thức. Còn nếu ý thức của con người
phản ánh không đúng hiện thực khách quan, bản chất, quy luật khách quan thì ngay từ
đầu, hướng hành động của con người đã đi ngược lại các quy luật khách quan, hành động
ấy sẽ có tác dụng tiêu cực đối với hoạt động thực tiễn, đối với hiện thực khách quan.

Như vậy, bằng việc định hướng cho hoạt động của con người, ý thức có thế quyết định
hành động của con người, hoạt động thực tiễn của con người đúng hay sai, thành công
hay thất bại, hiệu quả hay không hiệu quả.
Tìm hiểu về vật chất, về nguồn gốc, bản chất của ý thức, về vai trò của vật chất, của ý
thức có thể thấy: vật chất là nguồn gốc của ý thức, quyết định nội dung và khả năng sáng
tạo ý thức; là điều kiện tiên quyết để thực hiện ý thức; ý thức chỉ có khả năng tác động trở
lại vật chất, sự tác động ấy không phải tự thân mà phải thông qua hoạt động thực tiễn
(hoạt động vật chất) của con người. Sức mạnh của ý thức trong sự tác động này phụ thuộc
vào trình độ phản ánh của ý thức, mức độ thâm nhập của ý thức vào những người hành
động, trình độ tổ chức của con người và những điều kiện vật chất, hoàn cảnh vật chất,
trong đó con người hành động theo định hướng của ý thức.
Ví dụ: Trước khi thực hiện một trận đánh chung ta làm quyết tâm thư; thực hiện tự
phê bình và phê bình; rút ra các nhược điểm để tiến bộ, khắc phục những mặt tiêu cực.
Thực hiện giáo dục nhận thức thông qua các phong trào, thực tiễn tư tưởng cục bộ địa
phương và đạo đức giả.
Hay, giữa vật chất và ý thức chỉ có những mặt đối lập tuyệt đối trong phạm vi nhận thức
luận. Bên ngoài lĩnh vực đó, sự phân biệt là tương đối. Vì vậy một chính sách đúng đắn là
cơ sở để kết hợp hai điều này.

1.2. Ý nghĩa của phương pháp luận

Từ mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong triết học Mác- Lênin rút ra ý nghĩa của
phương pháp luận là:

Tôn trọng tính khách và chống chủ nghĩa chủ quan, bệnh chủ quan duy ý chí, chủ
nghĩa duy vật tầm thường, chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa khách quan. Trong nhận thức
và hoạt động thực tiễn, mọi chủ trương, đường lối, kế hoạch, mục tiêu đều phải xuất phát
từ thực tế khách quan, từ những điều kiện tiền đề vật chất hiện có. Phải tôn trọng và hành
động theo quy luật khách quan, nếu không sẽ gây ra hậu quả tai hại khôn lường. Nhận
thức sự vật, hiện tượng phải chân thực, đúng đắn, tránh tô hồng hoặc bôi đen đối tượng,
không được gán cho đối tượng cái mà nó không có. Nhìn chung, nhận thức, cải tạo sự vật,
hiện tượng, phải xuất phát từ chính bản thân sự vật, hiện tượng đó với những thuộc tính,
mối liên hệ bên trong vốn có của nó. Cần phải tránh chủ nghĩa chủ quan, bệnh chủ quan
duy ý chí, chủ nghĩa duy vật tầm thường, chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa khách quan.

Phải phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức, phải phát huy vai trò của nhân tố
con người, chống tư tưởng, thái độ thụ động, ỷ lại, ngồi chờ, bảo thủ, trì trệ, thiếu tính
sáng tạo, phải coi trọng vai trò của ý thức, coi trọng công tác tư tưởng và giáo dục tư
tưởng, coi trọng giáo dục lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Đồng thời, phải giáo dục và nâng cao trình độ tri thức khoa học, củng cố. bồi dưỡng nhiệt
tình, ý chí cách mạng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân nói chung, nhất là trong điều
kiện nền văn minh trí tuệ, kinh tế tri thức, toàn cầu hóa hiện nay, coi trọng việc giữ gìn,
rèn luyện phẩm chất đạo đức cho cán bộ, đảng viên, đảm bảo sự thống nhất tình cách
mạng và tri thức khoa học.

Để thực hiện tôn trọng tính khách quan kết hợp phát huy tính năng động chủ quan,
còn phải nhận thức và giải quyết đúng đắn các quan hệ lợi ích, phải biết kết hợp hài hòa
lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể, lợi ích xã hội, phải có động cơ trong sáng, thái độ thật sự
khách quan, khoa học, không vụ lợi trong nhận thức và hành động của mình.

Chương 2. Liên hệ mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức theo chủ
nghĩa duy vật biện chứng với vấn đề của thực tiễn

2.1. Mối quan hệ giữa sự phát triển Kinh tế của Việt Nam với văn hóa tinh
thần trong xã hội trong xã hội Việt Nam
2.1.1. Sự tác động của Kinh tế với Văn hóa

Tăng trưởng kinh tế tạo ra nền tảng vật chất để phát triển văn hóa, góp phần hình
thành nên những giá trị mới cho cá nhân và cộng đồng trong quá trình thúc đẩy các quan
hệ kinh tế. Văn hóa trở thành nền tảng tinh thần và tạo ra những động lực mới đóng góp
trực tiếp cho tăng trưởng kinh tế. Vì thế, việc tách biệt một cách rạch ròi hai chiều tác
động qua lại giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa là điều không khả thi. Tuy
nhiên, nhận diện những kênh tác động chính từ tăng trưởng kinh tế đến phát triển văn hóa
và ngược lại để từ đó có những đề xuất chính sách cụ thể hơn nhằm giải quyết hài hòa
mối quan hệ nói trên lại là cần thiết.

Nền kinh tế nước ta đang đứng trước những tác động rất lớn của bối cảnh quốc tế.
Xét về tác động đến văn hóa, có thể thấy toàn cầu hóa và cuộc cách mạng 4.0 sẽ có ảnh
hưởng rõ nét nhất.
Thứ nhất là toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế. Toàn cầu hóa đang tạo ra
nhiều cơ hội và thách thức cho sự phát triển kinh tế ở các quốc gia, trong đó có Việt Nam.
Đến lượt mình, những cơ hội và thách thức này lại tạo ra những tác động hai chiều (tích
cực và tiêu cực) đến phát triển văn hóa ở nước ta.
Toàn cầu hóa có thể giúp các quốc gia đạt mục tiêu phát triển văn hóa nhanh hơn.
Các quốc gia tham gia sớm và sâu vào quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế sẽ có
nhiều cơ hội tranh thủ được nguồn vốn, khoa học - công nghệ, thị trường, hệ thống phân
công lao động quốc tế… từ các quốc gia khác, từ đó thúc đẩy sự phát triển vượt bậc của
lực lượng sản xuất trong nước. Với tốc độ tăng trưởng kinh tế cao hơn, các quốc gia sẽ
nhanh chóng tạo dựng và tích lũy được một cơ sở vật chất lớn mạnh hơn để đầu tư vào
các mục tiêu phát triển văn hóa. Ngoài ra, toàn cầu hóa và xu thế hội nhập mạnh mẽ sẽ
mở ra nhiều cơ hội giao lưu văn hóa giữa các quốc gia. Văn hóa và di sản của Việt Nam
sẽ được giới thiệu đến với đông đảo bạn bè quốc tế hơn và ngược lại, Việt Nam cũng có
thể tiếp thu những thành tựu, tinh hoa văn hóa thế giới một cách nhanh chóng và có chọn
lọc hơn. Chính nhờ sự so sánh, học hỏi từ các nền kinh tế tiên tiến mà chúng ta có thể
hoàn thiện được văn hóa của mình, bảo đảm hội nhập thành công về văn hóa với thế giới
nhưng cũng không làm mất đi bản sắc văn hóa dân tộc đã hun đúc qua hàng nghìn năm
lịch sử.
Thứ hai là Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Cách mạng công nghiệp lần thứ tư
làm thay đổi triệt để cách sống, làm việc và quan hệ giữa các cá nhân trong xã hội loài
người, có nghĩa là sẽ làm thay đổi trực tiếp đến văn hóa. Trong bối cảnh này, tính đổi mới
sáng tạo từ con người và ứng dụng tính đổi mới sáng tạo đó vào đời sống sẽ được đề cao.
Vì thế, về mặt tích cực, Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đòi hỏi mỗi quốc gia phải xây
dựng được một hệ thống đổi mới sáng tạo để chuyển đổi nền công nghiệp hiện hành lên
một vị thế cao hơn, giá trị hơn, cùng với đó là hình thành một nền văn hóa năng động,
sáng tạo và năng suất cao hơn.
Sự phát triển văn hóa được thể hiện ở nhiều phương diện khác nhau, nhưng thể
hiện tập trung nhất ở hệ giá trị phát triển. Đây cũng là bộ phận cốt lõi của “phần mềm”
trong phát triển văn hóa. Mỗi quốc gia đều có hệ giá trị chung do tất cả các chủ thể, tạo
nên đặc trưng của nền văn hóa quốc gia, dân tộc. Nhưng trong đó, mỗi chủ thể xã hội lại
có những giá trị đặc trưng riêng của mình, trong đó có những giá trị phù hợp với hệ giá trị
văn hóa chung của quốc gia, dân tộc, nhưng cũng có những khác biệt, thậm chí là mâu
thuẫn hoặc xung đột. Vai trò của nhà nước chính là xác định hệ giá trị chung của quốc gia
và tôn trọng sự khác biệt, giá trị văn hóa của từng cá nhân, nhóm người nếu những giá trị
đó không đi ngược lại hệ giá trị của quốc gia. Quá trình đổi mới kinh tế ở Việt Nam cũng
là quá trình đổi mới căn bản hệ giá trị phát triển của quốc gia, bao hàm việc tiếp nhận có
chọn lọc, định hình và phát triển các giá trị của mô hình và thể chế phát triển mới của đất
nước theo cơ chế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa.
Gần đây hơn, khi Chính phủ phát động phong trào khởi nghiệp (quốc gia khởi
nghiệp, hệ sinh thái khởi nghiệp….) đã tạo thêm luồng gió mới thúc đẩy tinh thần dấn
thân, đổi mới sáng tạo của thế hệ trẻ. Theo một nghiên cứu về tinh thần khởi nghiệp của
sinh viên ngành công nghệ - thông tin, trong số 430 sinh viên được điều tra bằng hình
thức khảo sát trực tiếp (376 người) và trực tuyến (54 người), có đến gần 80% số sinh viên
có ý định khởi nghiệp. Đây là một kết quả rất đáng khích lệ, phần nào phản ánh niềm tin
và mong muốn tự khẳng định cá nhân của tầng lớp thanh niên ở Việt Nam.
Tăng trưởng kinh tế không chỉ củng cố hệ tư tưởng mà còn góp phần xây dựng lối
sống tích cực, tiến bộ của con người Việt Nam. Những giá trị bền vững, tinh hoa của quốc
gia, như lòng yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức gắn kết cá nhân,
cộng đồng… vẫn tiếp tục được kế thừa và phát huy. Các phong trào từ thiện, tương thân
tương ái, phong trào Mùa hè xanh của sinh viên tình nguyện… nở rộ ở nhiều địa phương,
đơn vị. Tính dân chủ, minh bạch, công khai, vốn là đòi hỏi của thể chế kinh tế thị trường,
đã điều chỉnh hành vi, suy nghĩ của các cá nhân để có ý thức kỷ luật, trách nhiệm giải
trình cao hơn trong công việc và sinh hoạt. Đó là những mảng sáng trong tác động của
tăng trưởng kinh tế đến phát triển văn hóa.
Bên cạnh đó, tăng trưởng kinh tế cũng đang tác động rất mạnh đến văn hóa ở khía
cạnh tiêu cực, mà trong đó sự lệch lạc về hệ giá trị là vấn đề lo ngại nhất. Hệ giá trị hiện
nay đang bị xếp sai một số vị trí thành ngụy giá trị. Thói vụ lợi và thực dụng, qua sự
phóng đại của mặt trái nền kinh tế thị trường, đã làm cho nhiều người coi tiền bạc và địa
vị là những giá trị đỉnh cao của đời sống, và do đó đã không từ thủ đoạn để đạt bằng được
những mục tiêu lệch lạc đó. Biểu hiện bề ngoài của hệ giá trị méo mó chính là hiện tượng
xuống cấp về đạo đức, tha hóa con người, bất cập của ngành giáo dục - đào tạo và y tế với
thói quen chạy theo bằng cấp, thành tích và thị trường hóa quan hệ giáo viên - học sinh,
thầy thuốc - bệnh nhân, sự ấu trĩ, lạc hậu ngay trong các chính sách về văn hóa, chênh
lệch về đời sống văn hóa và xuyên tạc giá trị truyền thống. Đó còn là sự phân hóa về cơ
hội và điều kiện sáng tạo, sản xuất, truyền bá các giá trị văn hóa thông qua phương tiện
chuyển tải của nó. Sự xuất hiện ngày càng nhiều sản phẩm văn hóa, dịch vụ văn hóa chất
lượng thấp tác động tiêu cực đến đời sống tinh thần của xã hội, ảnh hưởng xấu đến thị
hiếu thẩm mỹ của một bộ phận dân chúng, đe dọa việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn
hóa dân tộc, các giá trị đạo đức truyền thống, thẩm mỹ, nghệ thuật của dân tộc.
Nhận thức sâu sắc những mặt tác động tích cực và tiêu cực của kinh tế thị trường đối với
văn hóa, giải quyết tốt quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, thực hiện
tiến bộ và công bằng xã hội là điều kiện tiên quyết để thực hiện phát triển bền vững, vì
con người ở nước ta. Đó là quá trình phát triển văn hóa để tạo ra sức mạnh nội sinh và
môi trường thuận lợi cho phát triển kinh tế và đồng thời kinh tế phát triển là điều kiện cho
sự phát triển văn hóa. Vì vậy, cần phải gắn kết chặt chẽ giữa chính sách văn hóa trong
kinh tế và chính sách kinh tế trong văn hóa để tạo nên sự phát triển hài hòa giữa văn hóa
với kinh tế.
2.1.2. Sự tác động của Văn hóa với Kinh tế
Văn hóa không chỉ là động lực gián tiếp mà văn hóa còn là động lực trực tiếp cho sự phát
triển kinh tế. Sự phát triển của các ngành công nghiệp văn hóa đã và đang mang lại kỳ
vọng vào một hướng phát triển nhanh, bền vững của nhiều quốc gia, trong đó có Việt
Nam. Công nghiệp văn hóa là một tập hợp các ngành phát triển dựa trên sự khai thác tổng
hợp các yếu tố: sáng tạo, khoa học - công nghệ, thị trường và vốn văn hóa. Thay vì khai
thác nguồn tài nguyên thiên nhiên hữu hạn như nhiều ngành nghề khác, ngành công
nghiệp văn hóa khai thác nguồn tài nguyên vô hạn là sức sáng tạo của con người. Công
nghiệp văn hóa chính là một biểu hiện tập trung của sự gắn kết chặt chẽ giữa văn hóa và
kinh tế trong phát triển.
Sự hiện diện và thẩm thấu của văn hóa trong các hoạt động kinh tế ngày càng sâu rộng
hơn. Với tư cách là động lực cho sự phát triển kinh tế, văn hóa đã tham gia điều tiết và
thúc đẩy sự phát triển kinh tế ở nhiều phương diện, tiêu biểu là các phương diện sau:
Thứ nhất, hệ giá trị văn hóa điều tiết các hoạt động kinh tế theo hướng nhân văn.
Hệ giá trị văn hóa của mỗi quốc gia, dân tộc được hình thành trong suốt chiều dài lịch sử,
dưới tác động của các điều kiện tự nhiên, kinh tế, chính trị, xã hội... Hệ giá trị ấy quy định
sự lựa chọn, thế ứng xử của cả cộng đồng và của từng cá nhân thuộc về cộng đồng ấy.
Khi các giá trị văn hóa thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trong đó có hoạt động kinh
tế, nó sẽ có tác dụng định hướng, điều chỉnh các hoạt động của các chủ thể kinh tế theo
hướng nhân văn, vì cái đúng, cái tốt, cái đẹp. Lúc này, các chủ thể kinh tế không chỉ quan
tâm đến lợi nhuận, mà còn quan tâm đến lợi ích của người lao động, trách nhiệm với cộng
đồng, với môi trường, với quốc gia.
Khi văn hóa tham gia điều tiết các hoạt động kinh tế, trách nhiệm xã hội của doanh
nghiệp gia tăng, khi đó, không chỉ doanh nghiệp được lợi mà cộng đồng, xã hội và người
dân cùng được chia sẻ lợi ích. Như vậy, văn hóa là đường dẫn để kết nối giữa tăng trưởng
kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Đây chính là một trong các tiền đề để
phát triển kinh tế - xã hội bền vững.
Thứ hai, khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, tinh thần yêu nước, ý chí tự
cường dân tộc trong phát triển kinh tế.
"Khát vọng và ý chí phát triển là động lực hết sức quan trọng để đưa mọi dân tộc đi tới
thịnh vượng và thành công". Khát vọng về một đất nước độc lập, hòa bình, phồn vinh,
hạnh phúc đã hun đúc nên ý chí, dẫn dắt các thế hệ người Việt Nam vượt thoát khỏi bao
cuộc thử thách hiểm nghèo của lịch sử, giành lại độc lập và chung tay xây dựng đất nước.
Lịch sử đã chứng minh rằng những giá trị văn hóa được khơi dậy đúng mức sẽ biến thành
sức mạnh to lớn.
Có thể nói, cơ đồ dân tộc khát vọng phát triển đất nước đã tạo nên sự chuyển động của
nền kinh tế quốc dân trong cả mục tiêu và phương thức phát triển. Xây dựng nền kinh tế
độc lập, tự chủ kết hợp với đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ kinh tế quốc tế không
chỉ là phương châm phát triển kinh tế quốc gia mà còn thể hiện rõ trong định hướng phát
triển của các doanh nghiệp. Trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, nhiều doanh nghiệp
Việt Nam đã không ngừng đổi mới, sáng tạo, bằng ý chí, nỗ lực, khẳng định được uy tín,
vị thế trên thương trường. Từ các slogan đến các kế hoạch sản xuất, kinh doanh của các
doanh nghiệp này đã thể hiện được khát vọng phát triển, ý chí tự cường, lòng tự hào dân
tộc. Không giới hạn mình trong phạm vi biên giới lãnh thổ, rất nhiều doanh nghiệp đã
vươn ra thị trường quốc tế và khẳng định thương hiệu.
Thứ ba, phát triển các ngành công nghiệp văn hóa. Vai trò của văn hóa trong phát
triển kinh tế không chỉ dừng lại ở vị thế của những nguồn lực tinh thần, tham gia điều tiết,
định hướng, thúc đẩy phát triển kinh tế, mà văn hóa còn là động lực trực tiếp cho sự phát
triển kinh tế. Thực tế đã chứng minh rằng rất nhiều các lĩnh vực văn hóa nếu được khai
thác hợp lý sẽ có khả năng đóng góp trực tiếp cho nền kinh tế quốc dân. Phát triển công
nghiệp văn hóa chính là sự lựa chọn hiệu quả cho hướng phát triển này.

2.2. Liên hệ bản thân với mối quan hệ giữa vật chất và ý thức

Từ mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, ta rút ra những bài học kinh nghiệm quý báu đối
với quá trình học tập và làm việc. Trước hết, trong quá trình hoạt động nhận thức và hoạt
động thực tiễn, chúng ta cần phải coi trọng thực tế khách quan, lấy thực tế khách quan
làm cho căn cứ. Bản thân phải xác định được các yếu tố khách quan ảnh hưởng đến cuộc
sống hàng ngày, vì vật chất quyết định ý thức nên con người cần phải ý thức được những
vật chất của cuộc sống còn thiếu thốn để có hành động phù hợp với thực tế khách quan.
Bên cạnh đó, cần phải phát huy tính năng động chủ quan, tức là phát huy vai trò tích cực
của ý thức, vai trò tích cực của nhân tố con người. Thứ hai, phải phát huy tính năng động,
sáng tạo trong mọi hoạt động hàng ngày. Kết cấu của ý thức thì tri thức là quan trọng nhất
nên mỗi chúng ta cần chú trọng phát triển tri thức của bản thân. Thứ ba, cần phải tiếp thu
có chọn lọc kiến thức mới và không chủ quan trong mọi tình huống.Thứ tư, khi giải thích
một hiện tượng cần phải xét có yếu tố vật chất lẫn tinh thần, cả yếu tố khách quan và điều
kiện khách quan.Như vậy, để đạt được thành công trong mọi lĩnh vực, con người cần
trang bị các tri thức cần thiết và xác định đúng đắn mục tiêu, phương hướng hoạt động và
tổ chức thực hiện. Cùng với nỗ lực và ý chí mạnh mẽ của mình để đạt được mục tiêu đề
ra. Riêng cá nhân tôi thấy được rằng bản thân phải luôn phát huy tính năng động sáng tạo
của ý thức, phát huy nhân tố con người để tác động cải tạo thế giới khách quan. Đặc biệt
cần tránh tình trạng bảo thủ trì trệ, thái độ tiêu cực, thụ động, ỷ lại.Như vậy, bài viết mối
quan hệ giữa vật chất và ý thức liên hệ bản thân đã cho thấy bản chất, nguồn gốc của vật
chất, ý thức và rồi rút ra được kinh nghiệm cho bản thân trong quá trình nhận thức thế
giới xung quanh.
Phần 3. Kết luận
Tóm lại, thông qua việc nghiên cứu đề tài trên, chúng em đã tìm hiểu được một cách sâu
sắc hơn và khái quát hơn về mối quan hệ giữa vật chất với ý thức. Đồng thời cũng khẳng
định được vật chất luôn mang tính thứ nhất, tính quyết định và ý thức luôn mang tính thứ
hai, bị chi phối, bị quyết định. Song bên cạnh đó, ý thức lại có tác động trở lại vô cùng
quan trọng đối với vật chất. Nó có thể làm cho vật chất phát triển và cũng có thể biến đổi
vật chất theo nhu cầu và ý muốn của nó, nhưng đồng thời nó cũng có thể làm cho vật chất
không phát triển và kìm hãm quá trình phát triển của vật chất.
Qua đó, chúng ta có thể vận dụng được những giá trị của mối quan hệ biện chứng giữa vật
chất và ý thức vào trong đời sống thực tiễn. Cũng như thông qua ví dụ liên hệ thực tiễn
mối quan hệ này trong đời sống chính là: “Mối quan hệ giữa sự phát triển Kinh tế của
Việt Nam với nền văn hóa tinh thần trong xã hội Việt Nam.”
Để từ đó, chúng ta có thể rút ra bài học hết sức cần thiết cho sự nghiệp cách mạng lớn lao
của Đảng và nhân dân ta - sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội đó là:
Thứ nhất, chúng ta chỉ có thể tiến lên chủ nghĩa xã hội nếu như: Mọi đường lối,
mọi chính sách, mọi phương hướng, mọi mục tiêu đề ra, mọi hoạch định đã vạch ra phải
được xuất phát từ thực tế , từ điều kiện nước nhà.
Thứ hai, chúng ta phải phát huy cao độ những vai trò tích cực của ý thức hay chính
là những vai trò năng động chủ quan của con người. Đồng thời xây dựng hệ động lực tinh
thần mạnh mẽ cũng như cổ vũ lớn lao cho sự nghiệp cách mạng vĩ đại của toàn Đảng và
nhân dân ta. Đó chính là “xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc”, đó là “khơi dậy lòng yêu
nước, ý chí quật cường, phát huy tài trí của người Việt Nam, quyết tâm đưa nước nhà ra
khỏi nghèo làm lạc hậu”. Đồng thời, chúng ta cũng cần tránh tư tưởng chủ quan duy ý chí,
nóng vội trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Một điều hết sức quan trọng đó là
làm sao để vừa xây dựng nền kinh tế có sự tham gia của các thành phần kinh tư bản lại
vừa tránh được nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa. Đây cũng là một vấn đề cấp thiết
mà Đảng và nhà nước ta cần có phương hướng đi sao cho phù hợp.
Tài liệu tham khảo:
1. V.I.Lênin, Toàn tập, tập 18, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2005, tr.445.
2. Giáo trình Triết học Mác - Lênin (sử dụng trong các trường Đại học - hệ không
chuyên lý luận chính trị) .
3. Giáo trình triết học Mác - Lênin, NXB CTQG, 2021.
4. LOIGIAIHAY.COM:
https://loigiaihay.com/hay-trinh-bay-khai-quat-quan-diem-duy-vat-bien-chung-
ve-nguon-goc-cua-y-thuc-c126a20383.html
5. Thạc sỹ Đinh Thùy Dung, Luật Dương Gia:

https://luatduonggia.vn/y-thuc-la-gi-nguon-goc-ban-chat-va-vai-tro-cua-y-
thuc/#22_Ban_chat_cua_y_thuc

6. “Bản chất và kết cấu của ý thức”, Triết học +:

http://www.triethoc.info/2015/02/ban-chat-va-ket-cau-cua-y-thuc.html

7. “Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức”, Luật Hùng Sơn:
https://luathungson.vn/moi-quan-he-giua-vat-chat-va-y-thuc.html
8. “Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức”, Luật Hoàng Phi:
https://luathoangphi.vn/moi-quan-he-giua-vat-chat-va-y-thuc/#Moi_quan_he_gi
ua_vat_chat_va_y_thuc
9. “Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức”, Luật Hùng Sơn:
https://luathungson.vn/moi-quan-he-giua-vat-chat-va-y-thuc.html
10. “Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức”, Luật Hoàng Phi:
https://luathoangphi.vn/moi-quan-he-giua-vat-chat-va-y-thuc/#Moi_quan_he_gi
ua_vat_chat_va_y_thuc
11. HOCLUAT.VN:
https://hocluat.vn/quan-diem-duy-vat-bien-chung-ve-moi-quan-he-giua-
vatchat-voi-y-thuc/#h_95221220021636636406702

12. LOIGIAIHAY.COM:

https://loigiaihay.com/hay-trinh-bay-khai-quat-quan-diem-duy-vat-bien-chung-
ve-nguon-goc-cua-y-thuc-c126a20383.html

13. “Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức”, HOCLUAT.VN:


https://luathoangphi.vn/moi-quan-he-giua-vat-chat-va-y-thuc/#Moi_quan_he_gi
ua_vat_chat_va_y_thuc
14. Ngô Thắng Lợi, “Tác động của tăng trưởng kinh tế đến phát triển văn hóa ở
Việt Nam hiện nay”, Tạp chí cộng sản:

https://tapchicongsan.org.vn/nghien-cu/-/2018/495217/tac-dong-cua-tang-
truong-kinh-te-den-phat-trien-van-hoa-o-viet-nam-hien-nay.aspx

15. Phát huy vài trò văn hóa là động lực phát triển kinh tế:
https://bvhttdl.gov.vn/phat-huy-vai-tro-van-hoa-la-dong-luc-phat-trien-kinh-te-
20220325071559789.htm#:~:text=Khi%20v%C4%83n%20h%C3%B3a
%20tham%20gia,v%C3%A0%20c%C3%B4ng%20b%E1%BA%B1ng%20x
%C3%A3%20h%E1%BB%99i.

You might also like