You are on page 1of 18

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN


VIỆN NGÂN HÀNG – TÀI CHÍNH
--------

BÀI TẬP LỚN


TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN

ĐỀ TÀI:
“Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về mối quan hệ giữa vật chất và ý
thức. Và sự vận dụng của Đảng ta hiện nay”

Họ và tên: Nguyễn Quế Anh


MSV: 11231036
Học phần: Triết học Mác – Lênin
Lớp học phần: LLNL1105(123)_57
Lớp chuyên ngành Tài chính và đầu tư 65B
Giáo viên Hướng dẫn: TS. Nguyễn Văn Thuân

Hà Nội - 2024
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU..........................................................................................................2
A. VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC
...................................................................................................................................3
I. QUAN NIỆM VỀ VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC....................................................3
1. Vật chất...........................................................................................................3
2. Ý thức..............................................................................................................8
II. MỐI QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC........................................10
III. Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN..............................................................12
B. SỰ VẬN DỤNG MỐI QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC CỦA
ĐẢNG TA HIỆN NAY..........................................................................................13
I. VẬN DỤNG MỐI QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC TRONG
QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA
ĐẢNG TA HIỆN NAY........................................................................................13
II. THÀNH TỰU ĐẠT ĐƯỢC TRONG QUÁ TRÌNH VẬN DỤNG................14
III. HẠN CHẾ VÀ GIẢI PHÁP TRONG QUÁ TRÌNH VẬN DỤNG...............15
C. KẾT LUẬN.......................................................................................................16
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................17

2
LỜI MỞ ĐẦU
Hiện nay, Đảng và Nhà nước ta, xác định việc tiến lên Chủ nghĩa Xã Hội là ưu tiên
hàng đầu, đi theo mong muốn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về một đất nước: “Dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.” Hơn nữa, mỗi công dân
đều có thể đảm bảo cuộc sống với “… ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học
hành”. Đại hội Đảng lần thứ VI đã tuyên bố rằng Học thuyết Mác – Lênin và tư
tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh là những giá trị cốt lõi và la bàn hướng dẫn cho
hành động của Đảng, đặt trong bối cảnh Nhà nước ta tiến triển từ chế độ tư bản chủ
nghĩa sang Chủ nghĩa Xã hội. Với quan điểm này, chúng ta cần phải linh hoạt áp
dụng kiến thức, sự hiểu biết, và lập luận từ Học thuyết Mác – Lênin để phân tích
chính xác tình hình và chọn lựa hướng lãnh đạo phù hợp nhất với nhu cầu của đất
nước hiện tại.

Bài tập lớn của em với đề tài “Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về mối quan
hệ giữa vật chất và ý thức. Và sự vận dụng của Đảng ta hiện nay”, nhằm đưa ra
những đóng góp nhỏ bé của bản thân cho mục tiêu cách mạng lớn của đất nước và
Đảng. Là một sinh viên đại học, em nhận thức rằng, Đảng và Nhà nước chúng ta
đề ra những kế hoạch, chiến lược dựa trên mối quan hệ chặt chẽ giữa vật chất và ý
thức. Kiến thức này là quan trọng để xây dựng những chính sách phù hợp và chính
xác với nhu cầu của nhân dân và đất nước chúng ta ngày nay. Các phân tích, thông
tin chi tiết của đề tài sẽ mang lại cái nhìn sâu sắc hơn về vấn đề này bằng cách làm
sáng tỏ sự tương tác phức tạp giữa vật chất và ý thức.

Ngoài ra, em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến TS. Nguyễn Văn Thuân. Trong
quá trình học tập và tìm hiểu bộ môn Triết học, em đã nhận được sự quan tâm giúp
đỡ, hướng dẫn rất tận tình và tâm huyết của thầy. Thầy đã giúp em tích lũy thêm
nhiều kiến thức để có cái nhìn sâu sắc và hoàn thiện hơn trong cuộc sống, cũng
như hoàn thành bài tiểu luận này.

Do hiểu biết và kiến thức của bản thân còn nhiều hạn chế nên bài làm sẽ không
tránh được những thiếu sót, em kính mong thầy và các bạn có thể đưa ra những lời
góp ý để đề tài được hoàn thiện và chỉn chu hơn.

Em xin chân thành cảm ơn!

3
A. VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC
I. QUAN NIỆM VỀ VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC
1. Vật chất
a. Vật chất là gì?
 Khái niệm: Vật chất (dưới hình thức tồn tại cụ thể của nó) được hiểu là thực thể
có khả năng tạo ra cảm giác ở con người. Con người sử dụng cảm giác để đánh
giá và nhận thức về sự hiện hữu của vật thể. Đồng thời, điều này giúp xác định
và phân biệt rõ ràng giữa vật chất và ý thức. Hai định nghĩa này tách biệt, đồng
thời mang lại những hình thức tồn tại hoàn toàn khác nhau. Khi vật chất ảnh
hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến các giác quan của con người, đó là lúc vật
chất được ý thức phản ảnh thông qua cảm giác, thỏa mãn định nghĩa đã nêu
trên.
 Quan điểm Triết học Mác – Lênin về vật chất
Phạm trù vật chất nảy sinh từ những ngày đầu của Triết học, dưới hệ thống
chiếm hữu nô lệ. Các nhà triết gia duy vật cổ đại thường có xu hướng tìm kiếm
một thứ gốc gác và coi đó là yếu tố chịu trách nhiệm cho tất cả các đối tượng và
mọi sự kiện trên thế giới. Nói cách khác, họ tìm kiếm một thực thể chung, một cơ
sở bất biến của tất cả sự tồn tại, được bảo toàn trong điều kiện và phẩm chất đối
tượng, vừa không đổi qua sự tồn tại vừa thay đổi theo thời gian, được gọi là vật
chất.
Trong thời kỳ cận đại, có thể nói rằng các triết gia duy vật chưa thể đưa ra
những khái quát Triết học chính xác. Trong bối cảnh này, Lênin đã tiếp tục và phát
triển quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về vật chất, khắc phục nhược điểm trực
quan, siêu hình, và cơ sở máy móc trong quan niệm về vật chất của các giai đoạn
trước, từ đó đưa ra một quan niệm khoa học thực sự về vật chất. Theo Lênin, vật
chất là khái niệm rộng nhất và do đó cần phải sử dụng một phương pháp đặc biệt,
tức là định nghĩa nó thông qua khái niệm đối lập với nó trong lĩnh vực nhận thức
luận cơ bản, nghĩa là phải định nghĩa vật chất thông qua ý thức.
V.I. Lênin đã đưa ra bản chất của vật chất như sau: “Vật chất là phạm trù
triết học được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng
ta chép lại, chụp lại, phản ảnh, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”

Định nghĩa vật chất của Lênin đã bao hàm các nội dung cơ bản sau đây:
Thứ nhất, vật chất tồn tại khách quan trong hiện thực, nằm bên ngoài ý thức
và không phụ thuộc vào ý thức con người. “Tồn tại khách quan” là thuộc tính cơ
bản của vật chất, đưa ra tiêu chuẩn để phân biệt cái gì là vật chất, cái gì không phải
vật chất. Mọi sự vật, hiện tượng đều thuộc phạm trù vật chất, là sản phẩm cao nhất
trong thế giới tự nhiên mà chúng ta đã biết. Vật chất và ý thức tồn tại song song
cho đến ngày nay. Tuy nhiên, vật chất phải là cái sinh ra và có trước. Nó xuất hiện
từ khi chưa xuất hiện loài người và chưa có cái gọi là ý thức. Xã hội loài người
4
cũng là một dạng tồn tại đặc biệt của vật chất. Theo V.I. Lênin, trong đời sống xã
hội thì “khách quan không phải theo ý nghĩa là một xã hội những sinh vật có ý
thức, những con người, có thể tồn tại và phát triển không phụ thuộc vào sự tồn tại
của những sinh vật có ý thức (…), mà khách quan theo ý nghĩa là tồn tại xã hội
không phụ thuộc vào ý thức xã hội của con người”.
Thứ hai, vật chất là cái mà khi tác động vào các giác quan của con người thì
đem lại cho con người cảm giác. Trái với quan niệm “khách quan” mang tính chất
duy tâm về sự tồn tại của vật chất, V.I. Lênin khẳng định rằng, vật chất luôn biểu
hiện đặc tính hiện thực khách quan của mình thông qua sự tồn tại không lệ thuộc
vào ý thức của các sự vật, hiện tượng cụ thể, tức là luôn biểu hiện sự tồn tại hiện
thực của mình dưới dạng thực thể. Các thực thể này do những đặc tính bản thể luận
vốn có của nó, nên khi trực tiếp hoặc gián tiếp tác động vào các giác quan sẽ đem
lại cho con người những cảm giác. Mặc dù, không phải mọi sự vật, hiện tượng, quá
trình trong thế giới khi tác động lên giác quan của con người đều được các giác
quan của con người nhận biết, song, nếu nó tồn tại khách quan, hiện thực ở bên
ngoài, độc lập, không phụ thuộc vào ý thức của con người thì nó vẫn là vật chất.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng không bàn đến vật chất một cách chung
chung, mà bàn đến nó trong mối quan hệ với ý thức của con người. Trong đó, xét
trên phương diện nhận thức luận thì vật chất là cái có trước, là tính thứ nhất, là cội
nguồn của cảm giác (ý thức); còn cảm giác (ý thức) là cái có sau, là tính thứ hai, là
cái phụ thuộc vào vật chất. Đó cũng là câu trả lời theo lập trường nhất nguyên duy
vật của V.I. Lênin đối với mặt thứ nhất vấn đề cơ bản của triết học.
Thứ ba, vật chất là cái mà ý thức chẳng qua chỉ là sự phản ánh của nó. Chỉ
có một thế giới duy nhất là thế giới vật chất. Trong thế giới ấy, theo quy luật vốn
có của nó mà đến một thời điểm nhất định sẽ cùng một lúc tồn tại hai hiện tượng –
hiện tượng vật chất và hiện tượng tinh thần. Các hiện tượng vật chất luôn tồn tại
khách quan, không lệ thuộc vào các hiện tượng tinh thần. Còn các hiện tượng tinh
thần (cảm giác, tư duy, ý thức,…) lại luôn luôn có nguồn gốc từ các hiện tượng vật
chất và những gì có được trong các hiện tượng tinh thần ấy (nội dung của chúng)
chẳng qua cũng chỉ là chép lại, chụp lại, là bản sao của các sự vật, hiện tượng đang
tồn tại với tính cách là hiện thực khách quan. Như vậy, cảm giác là cơ sở duy nhất
của mọi sự hiểu biết, song bản thân nó lại không ngừng chép lại, chụp lại, phản ánh
hiện thực khách quan. Trong thế giới vật chất, không có cái gì là không thể biết,
chỉ có những cái đã biết và những cái chưa biết, do hạn chế của con người trong
từng giai đoạn lịch sử nhất định.

5
b. Phương thức tồn tại của vật chất
Phương thức tồn tại của vật chất tức là cách thức tồn tại và hình thức tồn tại
của vật chất. Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: Vận động là cách thức
tồn tại, đồng thời là hình thức tồn tại của vật chất; không gian, thời gian là hình
thức tồn tại của vật chất.

 Vận động
Với tư cách là một khái niệm triết học, vận động theo nghĩa chung nhất là
mọi sự biến đổi nói chung. Ph.Ăngghen viết: “Vận động, hiểu theo nghĩa chung
nhất, - tức được hiểu là một phương thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố
hữu của vật chất, - thì bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra
trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy”

Vận động là phương thức tồn tại của vật chất


Trước hết, vận động là thuộc tính cố hữu của vật chất. Không ở đâu và ở nơi
nào lại có thể có vật chất không vận động. Sự tồn tại của vật chất là tồn tại bằng
cách vận động, tức là vật chất dưới các dạng thức của nó luôn luôn trong quá trình
biến đổi không ngừng. Bất cứ sự vật, hiện tượng nào cũng là một thể thống nhất có
kết cấu nhất định giữa các nhân tố, các khuynh hướng, các bộ phận khác nhau, đối
lập nhau. Trong hệ thống ấy, chúng luôn tác động, ảnh hưởng lẫn nhau và chính sự
ảnh hưởng, tác động qua lại lẫn nhau ấy gây ra sự biến đổi nói chung, tức vận
động. Như thế, vận động của vật chất là tự thân vận động và mang tính phổ biến.
Vật chất chỉ có thể tồn tại bằng cách vận động và thông qua vận động mà
biểu hiện sự tồn tại của nó với các hình dạng phong phú muôn vẻ, vô tận. Do đó,
con người chỉ nhận thức được sâu sắc sự vật, hiện tượng, bằng cách xem xét chúng
trong quá trình vận động. Nhận thức sự vận động của mọi sự vật, một hiện tượng
chính là nhận thức bản thân sự vật, hiện tượng đó. Nhiệm vụ của mọi khoa học,
suy đến cùng, và xét về thực chất là nghiên cứu sự vận động của vật chất trong các
phạm vi, lĩnh vực, trình độ, kết cấu khác nhau. Ph. Ăngghen khẳng định: “Các hình
thức và các dạng khác nhau của vật chất chỉ có thể nhận thức được thông qua sự
vận động; thuộc tính của vật thể chỉ bộc lộ ra qua vận động; về một vật thể không
vận động thì không có gì để nói cả”.
Vận động là thuộc tính cố hữu và là phương thức tồn tại của vật chất; do đó,
nó tồn tại vĩnh viễn, không thể tạo ra và không bị tiêu diệt. Một hình thức vận động
cụ thể thì có thể mất đi để chuyển hóa thành hình thức vận động khác, còn vận
động nói chung thì tồn tại vĩnh viễn gắn liền với bản thân vật chất.

Những hình thức vận động cơ bản của vật chất


Theo Ph. Ăngghen, vận động của vật chất được chia thành năm hình thức cơ
bản: cơ học, vật lý, hóa học, sinh học và xã hội. Cơ sở của sự phân chia đó dựa

6
trên các nguyên tắc: Các hình thức vận động phải tương ứng với trình độ nhất định
của tổ chức vật chất; các hình thức vận động có mối liên hệ phát sinh, nghĩa là hình
thức vận động cao nảy sinh trên cơ sở của những hình thức vận động thấp và bao
hàm hình thức vận động thấp; hình thức vận động cao khác về chất so với hình
thức vận động thấp và không thể quy về hình thức vận động thấp. Vì vậy, vận động
xã hội là hình thức vận động cao nhất bởi nó bao gồm các hình thức vận động còn
lại và là hình thức chỉ có ở con người.
Ngoài ra, sự vận động không ngừng của vật chất còn bao hàm sự đứng im
tương đối. Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, đứng im là trạng
thái ổn định về chất của sự vật, hiện tượng trong những mối quan hệ và điều kiện
cụ thể. Đứng im chỉ có tính tạm thời, chỉ xảy ra trong một mối quan hệ nhất định,
nên nó mang tính tương đối. Hơn nữa, đứng im chỉ là sự biểu hiện của một trạng
thái vận động – vận động trong thăng bằng, trong sự ổn định tương đối. Tóm lại,
đứng im là một trạng thái đặc biệt của vận động.
Mặc dù mang tính chất tương đối tạm thời, nhưng đứng im lại “chứng thực”
cho hình thức tồn tại thực sự của vật chất, là điều kiện cho sự vận động chuyển
hóa của vật chất. Không có đứng im thì không có sự ổn định của sự vật, và con
người cũng không bao giờ nhận thức được chúng. Không có đứng im thì sự vật,
hiện tượng cũng không thể thực hiện được sự vận động chuyển hóa tiếp theo. Vận
động và đứng im tạo nên sự thống nhất biện chứng của các mặt đối lập trong sự
phát sinh, tồn tại và phát triển của mọi sự vật, hiện tượng, nhưng vận động là tuyệt
đối, còn đứng im là tương đối.

 Không gian và thời gian


Không gian và thời gian là hình thức tồn tại của vật chất vận động. Trong
đó, không gian là hình thức tồn tại của vật chất xét về mặt quảng tính, sự cùng tồn
tại, trật tự, kết cấu và sự tác động lẫn nhau. Thời gian là hình thức tồn tại của vật
chất vận động xét về mặt độ dài diễn biến, sự kế tiếp của các quá trình.
Mọi dạng cụ thể của vật chất đều tồn tại ở một vị trí nhất định, có một quảng
tính (chiều cao, chiều rộng, chiều dài) nhất định và tồn tại trong các mối tương
quan nhất định (trước hay sau, trên hay dưới, bên phải hay bên trái,…) với những
dạng vật chất khác. Những hình thức tồn tại như vậy được gọi là không gian. Mặc
khác, sự tồn tại của sự vật còn được thể hiện ở quá trình biến đổi: nhanh hay chậm,
kế tiếp và chuyển hóa,… Những hình thức tồn tại như vậy được gọi là thời gian.
Không gian và thời gian là những hình thức tồn tại của vật chất vận động,
được con người khái quát khi nhận thức thế giới. V.I. Lênin viết: “Trong thế giới
không có gì ngoài vật chất đang vận động và vật chất đang vận động không thể
vận động ở đâu ngoài không gian và thời gian”.
Không gian và thời gian là hai thuộc tính, hai hình thức tồn tại khác nhau
của vật chất vận động, nhưng chúng không tách rời nhau. Không có sự vật, hiện
7
tượng nào tồn tại trong không gian mà lại không có một quá trình diễn biến của nó.
Cũng không thể có sự vật, hiện tượng nào có thời gian tồn tại mà lại không có
quảng tính, kết cấu nhất định. Tính chất của không gian và sự biến đổi của nó bao
giờ cũng gắn liền với tính chất và sự biến đổi của thời gian và ngược lại. Do đó,
không gian và thời gian, về thực chất là một thể thống nhất không – thời gian. Vật
chất có ba chiều không gian và một chiều thời gian.
Không gian và thời gian của vật chất nói chung là vô tận, xét về cả phạm vi
lẫn tính chất. Khoa học hiện đại đã chứng minh rằng trong thế giới không ở đâu có
tận cùng về không gian, cũng như không ở đâu có ngưng đọng, không biến đổi
hoặc không có sự tiếp nối của các quá trình. Không gian và thời gian của một sự
vật, hiện tượng cụ thể là có tận cùng và hữu hạn.

c. Ý nghĩa phương pháp luận của quan niệm về vật chất của Triết học Mác – Lênin
Định nghĩa vật chất của V.I. Lênin đã giải quyết hai mặt vấn đề cơ bản của
triết học trên lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Trong nhận thức và
thực tiễn, đòi hỏi con người phải quán triệt nguyên tắc khách quan – xuất phát từ
hiện thực khách quan, tôn trọng khách quan, nhận thức và vận dụng đúng đắn quy
luật khách quan… Định nghĩa vật chất của V.I. Lênin là cơ sở khoa học cho việc
xác định vật chất trong lĩnh vực xã hội, tạo sự liên kết giữa chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử thành một hệ thống lý luận thống nhất, góp
phần tạo nền tảng lý luận khoa học cho việc phân tích một cách duy vật biện chứng
các vấn đề của chủ nghĩa duy vật lịch sử, ….

2. Ý thức
a. Ý thức là gì?
 Khái niệm của ý thức: Ý thức là sự phản ảnh năng động và biểu hiện sáng tạo
của thế giới đó, là một biểu hiện chủ quan của tâm trí con người về thế giới
khách quan. Tất cả những nỗ lực tinh thần của mỗi người - kiến thức, kinh
nghiệm, cảm xúc, mục tiêu, ý chí, niềm tin, v.v. - đều kết hợp để tạo nên ý thức.
Quá trình phản ánh thế giới khách quan vào tâm trí con người là điều dẫn đến
sự hình thành của ý thức, mà đó là sản phẩm của sự chọn lọc tự nhiên và các
biến số lịch sử - xã hội.
 Theo định nghĩa của triết học Mác – Lênin: Ý thức là một phạm trù được quyết
định với phạm trù vật chất, theo đó, ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất
khách quan vào bộ óc con người và có sự cải biến và sáng tạo. Ý thức có mối
quan hệ biện chứng với vật chất.

b. Nguồn gốc của ý thức


Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, ý thức được xác định là
có nguồn gốc từ tự nhiên và cả nguồn gốc từ xã hội. C. Mác khẳng định “Ý niệm

8
chẳng qua chỉ là vật chất được đem chuyển vào trong đầu óc con người và được cải
biến đi ở trong đó”
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin khẳng định rằng, xét về
nguồn gốc tự nhiên, ý thức chỉ là thuộc tính của vật chất; nhưng không phải của
mọi dạng vật chất, mà là thuộc tính của một dạng vật chất sống có tổ chức cao nhất
là bộ não con người. Bộ óc vật chất của ý thức trong con người là não. Chức năng
của não con người chính là ý thức. Không thể tách rời ý thức khỏi hoạt động bình
thường của não con người. Ý thức con người càng trở nên phong phú và sâu sắc,
não càng trở nên tinh tế và hiệu quả về mặt sinh học. Điều này giải thích tại sao
con người đã phát triển các kỹ năng nhận thức và lý thuyết trong quá trình tiến hóa,
và tại sao việc tổn thương não làm rối loạn tinh thần của con người thông qua sự
không bình thường về sinh lý thần kinh.
Thế giới quan là một nguồn gốc tự nhiên khác của ý thức tồn tại bên ngoài
não người. Kể từ thời điểm bắt đầu lịch sử của loài người, có một liên kết bẩm sinh
giữa thế giới khách quan và con người. Quá trình phản ánh bắt nguồn từ não người
như một kết quả của ảnh hưởng của thế giới khách quan đối với trải nghiệm giác
quan.
Sự xuất hiện con người và hình thành bộ óc con người có năng lực phản ánh
hiện thực khách quan là nguồn gốc tự nhiên của ý thức.
Tuy vậy, sự ra đời của ý thức không phải chỉ có nguồn gốc tự nhiên mà còn
do nguồn gốc xã hội. Sự phát triển của giới tự nhiên mới tạo ra tiền đề vật chất có
năng lực phản ánh, chỉ là nguồn gốc sâu xa của ý thức. Hoạt động thực tiễn của
loài người mới là nguồn gốc trực tiếp quyết định sự ra đời của ý thức. C. Mác và
Ph. Ăngghen khẳng định: “Con người cũng có cả “ý thức” nữa. Song, đó không
phải là một ý thức bẩm sinh sinh ra đã là ý thức “thuần túy”… Do đó, ngay từ đầu,
ý thức đã là một sản phẩm xã hội, và vẫn là như vậy chừng nào con người còn tồn
tại”. Họ đã nhiều lần chỉ rõ rằng, ý thức không những có nguồn gốc tự nhiên mà
còn có nguồn gốc xã hội và là một hiện tượng mang bản chất xã hội. Ý thức là sự
phản ánh của bộ não con người về thế giới, tạo ra sự khác biệt với thế giới của
động vật. Bởi vì đây là một sự phản ánh mang tính xã hội, sự ra đời của ý thức
không thể tách rời khỏi quá trình xây dựng và phát triển của bộ não con người dưới
tác động của lao động, giao tiếp và các mối quan hệ xã hội.
Lao động là quá trình con người tương tác với thế giới tự nhiên bằng cách sử
dụng công cụ để điều chỉnh nó sao cho phù hợp với nhu cầu của họ. Đây cũng là
quá trình thay đổi cấu trúc của cơ thể, như việc đứng thẳng với hai chân, giải
phóng hai tay, phát triển các cơ quan giác quan và nâng cao khả năng của bộ não
con người. Những hành động thực tiễn lâu dài này, từ từ củng cố nhận thức về bản
chất con người, làm cho ý thức trở nên linh hoạt và sáng tạo hơn. Là phương thức
tồn tại cơ bản của con người, lao động mang tính xã hội đã làm nảy sinh nhu cầu

9
giao tiếp, trao đổi kinh nghiệm giữa các thành viên trong xã hội, hình thành ngôn
ngữ.
Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu vật chất chứa đựng thông tin mang nội dung ý
thức. Không có ngôn ngữ, ý thức không thể tồn tại và thể hiện. Nhờ ngôn ngữ con
người đã không chỉ giao tiếp, trao đổi mà còn khái quát, tổng kết đúc kết thực tiễn,
truyền đạt kinh nghiệm, truyền đạt tư tưởng từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Như vậy, lao động là nguyên nhân trực tiếp quan trọng nhất ảnh hưởng đến
sự ra đời và phát triển của ý thức. Ngôn ngữ xảy ra sau lao động và đồng thời với
nó. Hai yếu tố này chủ yếu làm cho bộ óc vượn chuyển đổi dần dần thành bộ óc
người, dẫn đến sự tiến triển ngày càng tiến bộ của tâm lý động vật thành ý thức.
Xem xét nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội của ý thức, chúng ta nhận
thấy rằng nguồn gốc tự nhiên là điều kiện cần cho sự hình thành, tồn tại và phát
triển của ý thức, trong khi nguồn gốc xã hội là điều kiện đủ. Khi chỉ nhấn mạnh
một trong những yếu tố này, có thể dẫn đến sự hiểu lầm và thành kiến. Nghiên cứu
về nguồn gốc của ý thức cũng là một cách tiếp cận để hiểu rõ bản chất của ý thức
và xác nhận khía cạnh xã hội của nó.
c. Bản chất của ý thức
Chủ nghĩa duy vật biện chứng đã một cách khoa học giải thích bản chất của
ý thức, dựa trên sự hiểu biết chính xác về nguồn gốc của ý thức và sự nắm vững
toàn diện về lý thuyết phản ánh. Mặc dù khác biệt về bản chất, vật chất và ý thức là
những hiện tượng chung nhất của thế giới thực, và chúng liên tục duy trì mối quan
hệ biện chứng. Để hiểu rõ bản chất cơ bản của ý thức, người ta cần phân tích nó
trong mối quan hệ qua lại với vật chất, chủ yếu là trong bối cảnh của sự tồn tại con
người.
Bản chất ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, là quá trình
phản ánh tích cực, sáng tạo hiện thực khách quan của não người.

d. Vai trò của ý thức


Vai trò của ý thức có một tầm quan trọng đối với thực tiễn cuộc sống và
khẳng định vật chất là nguồn gốc khách quan, là cơ sở sản sinh ra ý thức, còn ý
thức chỉ là sản phẩm, là sự phản ánh chân thật về thế giới khách quan. Và hành
động của con người chỉ xuất phát từ những yếu tố tác động của thế giới khách
quan.
Vai trò của ý thức chính là vai trò của con người, vì ý thức không thể trực
tiếp tự mình thay đổi điều gì trong thực tế. Do đó, để biến một khái niệm thành
hiện thực, người ta phải sử dụng các lực lượng thực tế. Điều này chỉ ra rằng để mọi
người thực hiện các quy luật khách quan, họ phải hiểu và áp dụng chính xác những
quy luật đó, cũng như phải có ý chí và phương pháp để tổ chức các hoạt động. Ý
thức đóng vai trò trong việc hướng dẫn hành động của con người, xác định liệu con

10
người có hành động đúng hay sai, thành công hay thất bại dựa trên tình hình bên
ngoài.
Do vậy, càng toàn diện và kỹ lưỡng người ta phản ánh thế giới khách quan,
càng thành công họ biến đổi nó. Do đó, việc khai thác khía cạnh sáng tạo và động
lực của ý thức, cùng với yếu tố nhân quả của con người, trở nên quan trọng để ảnh
hưởng và biến đổi thế giới bên ngoài.
II. MỐI QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC
a. Vật chất quyết định ý thức
Vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức được thể hiện trên mấy khịa
cạnh sau:
Thứ nhất, vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức
Vật chất “sinh” ra ý thức, vì ý thức xuất hiện gắn liền với sự xuất hiện của
con người cách đây từ 3 đến 7 triệu năm, mà con người là kết quả của một quá
trình phát triển, tiến hóa lâu dài, phức tạp của giới tự nhiên, của thế giới vật chất.
Con người do giới tự nhiên, vật chất sinh ra, cho nên lẽ tất nhiên, ý thức – một
thuộc tính của bộ phạn con người – cũng do giới tự nhiên, vật chất sinh ra. Vật chất
tồn tại khách quan, độc lập với ý thức và là nguồn gốc sinh ra là ý thức.
Thứ hai, vật chất quyết định nội dung của ý thức.
Cuối cùng, ý thức dưới bất kỳ hình thức nào cũng là một gương của hiện
thực khách quan. Ý thức, về bản chất, là kết quả của trí tuệ con người phản ánh
hiện thực khách quan. Nói cách khác, có một thế giới hiện thực, đang di chuyển và
phát triển theo những quy luật khách quan của nó, và thực tế này được thể hiện
trong nội dung của ý thức.
Ý thức chỉ là hình ảnh của thế giới khách quan. Sự phát triển của hoạt động
thực tiễn cả về bề rộng và chiều sâu là động lực mạnh mẽ nhất quyết định tính
phong phú và độ sâu sắc của nội dung của tư duy, ý thức con người qua các thế hệ,
qua các thời đại từ mông muội tới văn minh, hiện đại.
Thứ ba, vật chất quyết định bản chất của ý thức.
Phản ánh và sáng tạo là hai thuộc tính không tách rời trong bản chất của ý
thức. Nhưng sự phản ánh của con người không phải là “soi gương”. “chụp ảnh”
hoặc là “phán ảnh tâm lý” như con vật mà là phản ánh tích cực, tự giác, sáng tạo
thông qua thực tiễn. Chính thực tiễn là hoạt động vật chất có tính cải biến thế giới
của con người – là cơ sở để hình thành, phát triển ý thức, trong đó ý thức của con
người vừa phản ánh, vừa sáng tạo, phản ánh để sáng tạo và sáng tạo trong phản
ánh.
Thứ tư, vật chất quyết định sự vận động, phát triển của ý thức.
Mọi sự tồn tại, phát triển của ý thức đều gắn liền với quá trình biến đổi của
vật chất; vật chất thay đổi thì sớm hay muộn, ý thức cũng phải thay đổi theo. Con
người – một sinh vật có tính xã hội ngày càng phát triển cả thể chất và tinh thần,

11
thì dĩ nhiên ý thức – một hình thức phản ánh của não người cũng phát triển về nội
dung và hình thức phản ánh của nó.

b. Ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất
Điều này được thể hiện trên những khịa cạnh sau:
Thứ nhất, tính độc lập tương đối của ý thức thể hiện ở chỗ, ý thức là sự phản
ánh thế giới vật chất vào trong đầu óc con người, do vật chất sinh ra, nhưng khi đã
ra đời thì ý thức có “đời sống” riêng, có quy luật vận động, phát triển riêng, không
lệ thuộc vào vật chất. Ý thức và hiện thực tồn tại song song, ý thức có thể đi chậm
hoặc đi nhanh hơn so với sự biến đổi của đối tượng trong thế giới vật chất. Trên
thực tế, con người đã dần áp dụng được những công nghệ, sự sáng tạo để biến
những ý tưởng trở thành hiện thực. Chính sự vượt trước của ý thức đã đem xã hội
loài người chạm mốc thời kì 4.0, tiến tới thời kì 5.0 – thời đại của siêu thông tin
với máy móc, vi máy tính vượt trội. Mặc dù vậy, sự song hành chậm hơn của ý
thức được nhìn thấy ở sự tồn tại của những hủ tục lạc hậu: tảo hôn, bắt vợ, … Và
thông qua những trải nghiệm, nhìn nhận về cuộc sống, ta nhận thấy rằng, ý thức
thường thay đổi chậm hơn so với vật chất.
Thứ hai, sự tác động của ý thúc đối với vật chất phải thông qua hoạt động
thực tiễn của con người. Ý thức có thể biến đổi cài đặt vật chất, tình cảnh, và thậm
chí tạo ra "những sản phẩm tự nhiên khác" để hỗ trợ cuộc sống con người thông
qua các hoạt động thực tế. Con người dựa vào thông tin về thế giới khách quan,
nắm bắt những quy luật khách quan, và tạo ra mục tiêu, đo lường, và ý chí quyết
tâm để đạt được những mục tiêu đã đề ra. Ta có thể thấy, ý thức về cần thiết phải
giảm lượng chất thải có hại đã thúc đẩy nghiên cứu và phát triển các công nghệ xử
lý và tái chế hiệu quả hơn. Những ý chí và quyết tâm của con người trong việc áp
dụng những kiến thức này đã dẫn đến sự thay đổi trong cách chúng ta xử lý và
tương tác với vật chất, có tác động tích cực đến môi trường và cuộc sống hàng
ngày của chúng ta.
Thứ ba, vai trò của ý thức thể hiện ở chỗ nó chỉ đạo hoạt động, hành động
của con người; nó có thể quyết định làm cho hoạt động của con người đúng hay
sai, thành công hay thất bại. Khi ý thức phản ánh hiện thực một cách đúng đắn, nó
có thể dự đoán và tiên đoán hiện thực một cách chính xác. Nó có khả năng phát
triển những ý tưởng được hướng dẫn tốt, và khi những lý luận này được trình bày
cho công chúng, chúng giúp kích thích, truyền cảm hứng và tận dụng mọi tiềm
năng sáng tạo. Kết quả là, sức mạnh vật chất tăng lên đáng kể. Ngược lại, ý thức
cũng có thể có hậu quả tiêu cực khi nó phản ánh những sai lệch hoặc biến t distort
hiện thực.
Thứ tư, xã hội càng phát triển thì vai trò của ý thức ngày càng to lớn, nhất là
trong thời đại ngày nay, thời đại thông tin, kinh tế tri thức, thời đại của cuộc cách
mạng khoa học và công nghệ hiện đại khi mà tri thức khoa học đã trở thành lực

12
lượng sản xuất trực tiếp. Tuy tính năng động, sáng tạo của ý thức mặc dù rất to lớn,
nhưng không thể vượt qua tính quy định của những tiền đề vật chất đã xác định,
phải dựa vào các điều kiện khách quan và năng lực chủ quan của các chủ thể hoạt
động. Sự phát triển của mạng xã hội và truyền thông trong thời đại hiện đại đã
đánh dấu vai trò quan trọng của ý thức, khi mà thông tin được truyền đạt một cách
nhanh chóng và rộng rãi. Công nghệ thông tin và truyền thông đã làm thay đổi
cách chúng ta tương tác, thu thập thông tin, và hiểu biết về thế giới xung quanh.
Tuy nhiên, trong quá trình này, ý thức vẫn phải tuân theo những tiền đề vật chất
như kỹ thuật, cơ sở hạ tầng mạng, và nguồn lực vật chất. Ý thức không thể vượt
qua hoặc thay đổi các điều kiện khách quan và năng lực chủ quan của những người
tham gia sử dụng công nghệ này.

III. Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN


Việc xác định mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là vô cùng quan trọng. Từ
mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong triết học Mác – Lênin, rút ra nguyên tắc
phương pháp luận là tôn trọng khách quan kết hợp phát huy tính năng động chủ
quan. Mọi kế hoạch, mục tiêu, và các hành động thực tế trong nhận thức phải bắt
nguồn từ hiện thực khách quan, đó là nền tảng cho mọi hoạt động nhận thức và
thực tế. Nhận biết tính khách quan cũng bao gồm việc nhận thức về tính chất khách
quan của vật chất, cũng như nhận thức về các quy luật tự nhiên và xã hội. Việc
nhận thức về các đối tượng và sự kiện phải là chân thật và đúng đắn, không nên đặt
cho chúng những đặc điểm mà chúng không có; các mong muốn cá nhân không
nên làm chính sách, cũng như không nên đặt dựa vào cảm xúc khi lập kế hoạch và
chiến lược.
Từ hiện thực khách quan, đồng thời cũng phải phát huy tính năng động chủ
quan, điều này có nghĩa là nhấn mạnh những đặc điểm tích cực của ý thức trong
khi giảm thiểu những khía cạnh tiêu cực. Để tối đa hóa việc đạt được mục tiêu,
việc tận dụng yếu tố nhân quả là rất quan trọng, hiểu và áp dụng những quy luật
khách quan để xây dựng mục tiêu và kế hoạch, cũng như xác định và thực hiện các
chiến lược tổ chức hiệu quả. Đồng thời, trong bối cảnh ngày nay với văn hóa trí
tuệ, kinh tế thông tin và quốc tế hóa, việc chống lại tư tưởng bảo thủ, tiêu cực, tình
trạng không hoạt động và thái độ chờ đợi là rất quan trọng.

13
B. SỰ VẬN DỤNG MỐI QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC CỦA
ĐẢNG TA HIỆN NAY
I. VẬN DỤNG MỐI QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC TRONG QUÁ
TRÌNH XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA ĐẢNG TA
HIỆN NAY
Trong quá khứ, Đảng ta đã mắc những sai lầm chủ quan khi vi phạm quy
luật khách quan, như vội vã trong quá trình chuyển đổi chủ nghĩa xã hội, loại bỏ
một cách đột ngột cơ sở kinh tế nhiều thành phần, đẩy mạnh quá mức xây dựng
công nghiệp nặng, và duy trì một hệ thống quản lý kinh tế tập trung quan liêu và
cứng nhắc. Ngoài ra, có các chính sách sai lầm trong việc định giá, thay đổi đồng
tiền, và lương công, cũng như những khuyết điểm lớn trong công tác tư tưởng và
lãnh đạo tổ chức. Tuy nhiên, dựa trên lý thuyết Mác – Lênin và kinh nghiệm rút ra
từ cả thành công lẫn thất bại trong lãnh đạo cách mạng, Đại hội Đảng lần thứ VI đã
kết luận rằng “Phải luôn xuất phát từ thực tế và hành động theo quy luật khách
quan”. Đảng ta đã tiếp cận một cách tổng hợp, tận dụng những điểm mạnh của chủ
nghĩa tư bản và hạn chế những lỗi lầm của nó, thông qua việc phân tích tình hình ở
các quốc gia tư bản trên thế giới, nhận thức đặc điểm của chủ nghĩa xã hội, và xem
xét thực tế cụ thể của đất nước. Đảng đã đặt hướng cho sự phát triển kinh tế của
Việt Nam hướng tới một nền kinh tế hàng hoá đa ngành với cơ chế thị trường,
được quản lý vĩ mô bởi nhà nước hướng xã hội chủ nghĩa.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một nhiệm vụ khó khăn và phức
tạp, tương đương với một cuộc chiến dài cho Đảng, nhà nước, và nhân dân chúng
ta. Để nhanh chóng thích ứng với thực tế biến động liên tục, những diễn biến phức
tạp trong tình hình thế giới đòi hỏi sự kiên trì, quyết tâm, và một sự nâng cao liên
tục về kiến thức văn hoá và lý luận. Việc đánh giá chính xác vấn đề và xem xét,
cân nhắc kỹ lưỡng về các điều kiện đặc biệt là quan trọng để đưa ra những quyết
định tốt nhất. Đồng thời, cần phải có tầm nhìn rộng lớn, với khả năng giải quyết
một cách khoa học cả những mục tiêu cấp bách và dài hạn.
Trong nhiều năm đổi mới, chúng ta đã nhận thức được rằng không thể chờ
đợi cho đến khi có sự phát triển kinh tế lớn trước khi giải quyết những thách thức
xã hội. Thay vào đó, tăng trưởng kinh tế phải mạnh mẽ liên kết với tiến bộ và công
bằng xã hội ở mọi giai đoạn và suốt quá trình phát triển, điều này có nghĩa là phải
liên tục gắn với thực tế khách quan.
Hiện nay, người dân hiểu và dần tiếp thu những nghiên cứu, đúc kết từ phân
tích của nhà khoa học, nhà triết học vào thực tiễn cuộc sống. Đất nước ta đang
bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Đảng ta chủ trương:
“huy động ngày càng cao mọi nguồn lực cả trong và ngoài nước, đặc biệt là nguồn
lực của dân và công cuộc phát triển đất nước”, muốn vậy phải “nâng cao năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh

14
toàn diện công cuộc đổi mới, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển,
thực hiện “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Hơn nữa, tình hình toàn cầu và khu vực là một vấn đề khách quan có ảnh
hưởng đáng kể đến lợi ích của mọi quốc gia, dân tộc nói chung và Việt Nam nói
riêng. Do đó, việc nắm vững và phân tích kỹ lưỡng bối cảnh quốc tế và khu vực
ảnh hưởng đến Việt Nam là cực kỳ quan trọng để xây dựng các chiến lược, chính
sách chính xác, kịp thời bảo vệ lợi ích quốc gia và đảm bảo phúc lợi cho nhân dân.
Trong bối cảnh căng thẳng giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc, hoặc các xung đột như
giữa Nga và Ukraine, Việt Nam luôn duy trì tư thế trung lập, kêu gọi chấm dứt
xung đột, khôi phục hòa bình, bảo vệ an ninh và an toàn cho nhân dân cũng như cơ
sở hạ tầng quan trọng.
II. THÀNH TỰU ĐẠT ĐƯỢC TRONG QUÁ TRÌNH VẬN DỤNG
Đất nước chúng ta đã tiến hành các cải cách kinh tế và đạt được những thành
tựu lớn nhờ vào những kinh nghiệm có được và việc áp dụng đúng đắn phương
pháp luận duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức. Nạn đói
năm 1945 đã cướp đi sinh mạng của 2 triệu người Việt; tuy nhiên, thông qua việc
áp dụng mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và chính trị trong quá trình đổi mới
để kích thích tăng trưởng kinh tế, Việt Nam đã biến đổi từ một quốc gia phải đối
mặt với thiếu thốn lương thực nghiêm trọng thành quốc gia xuất khẩu gạo lớn thứ
ba trên thế giới, chỉ xếp sau Ấn Độ và Thái Lan. Như đã biết, tốc độ tăng trưởng
GDP trung bình hàng năm trong giai đoạn đổi mới (1986-1990) chỉ là 4,4%. Tuy
nhiên, theo dự đoán của IMF, đến năm 2023, sau 37 năm từ khi bắt đầu quá trình
đổi mới, Việt Nam sẽ là nền kinh tế lớn thứ ba ở Đông Nam Á và thứ 35 trên thế
giới. Theo Trung tâm Phát triển Quốc tế của Đại học Harvard (Mỹ), Việt Nam
cũng nằm trong danh sách mười quốc gia dự kiến có tốc độ tăng trưởng GDP lớn
nhất trong 8 năm tới. Năm 2022, tổng sản phẩm quốc nội tăng vượt mức đề ra cụ
thể xếp thứ 117 trên thế giới, tăng 7 bậc so với năm 2021.
Dựa trên tình hình thực tế, chính phủ đã thực hiện chính sách tiền tệ linh
hoạt và hiệu quả, tuân thủ nguyên tắc thị trường, đóng góp vào việc kiểm soát lạm
phát. Trong năm 2021, mặc dù chịu ảnh hưởng của xung đột Nga - Ukraine và
những gián đoạn chuỗi cung ứng toàn cầu do đại dịch Covid-19 gây ra, Việt Nam
đã duy trì được sự kiểm soát về mức lạm phát với tỷ lệ lạm phát là 1,84%. Hiện
nay, Việt Nam là một trong số ít các quốc gia có mức lạm phát trung bình từ 4-6%.
Bên cạnh đó, nông nghiệp và công nghiệp đã tiến triển khá thành công nhờ
vào các hoạt động thực tế, việc tích lũy nhiều kinh nghiệm khác nhau và việc áp
dụng các phát triển khoa học và công nghệ vào cuộc sống hàng ngày và sản xuất.
Đời sống văn hoá – xã hội của người dân đã có nhiều phát triển tích cực và được
bảo tồn.
Về chính sách đối ngoại, Việt Nam đã áp dụng chiến lược phát triển hợp tác
kinh tế đa phương và đa dạng, cũng như tích cực và tích cực tham gia vào quá trình
15
hội nhập quốc tế toàn diện và sâu rộng. Do đó, khi phải đối mặt với thảm họa từ
đại dịch Covid-19, nhiều quốc gia đã sẵn sàng hỗ trợ Việt Nam với vật tư và
vaccine. Trên trường quốc tế, vị thế và uy tín của Việt Nam tiếp tục cải thiện nhờ
triển khai chính sách đối ngoại chặt chẽ và sự hiểu biết kịp thời về tình hình. Nhờ
vậy, Việt Nam tiếp tục đạt được sự tin tưởng và được bầu vào nhiều tổ chức quốc
tế quan trọng, bao gồm việc tái cử vào Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc nhiệm
kỳ 2023-2025 và đảm nhận vị trí Phó Chủ tịch Đại hội đồng Liên hợp quốc cho kỳ
họp thứ 77.
III. HẠN CHẾ VÀ GIẢI PHÁP TRONG QUÁ TRÌNH VẬN DỤNG
 Hạn chế:
Mặc dù đã đạt được nhiều thành tựu thông qua việc áp dụng mối liên kết
biện chứng giữa vật chất và ý thức, nhưng vẫn có những giới hạn không thể tránh
khỏi. Trước hết, có những giới hạn và yếu điểm trong tầm nhìn lý thuyết của Đảng
cầm quyền, bản chất và phương pháp cầm quyền của Đảng. Mặc dù Đảng Cộng
sản Việt Nam đã cầm quyền gần 75 năm, khái niệm về Đảng cầm quyền, cũng như
nội dung và chiến thuật của sự kiểm soát từ phía Đảng, dường như là những vấn đề
khá mới mẻ. Thậm chí, vấn đề này chưa được nghiên cứu một cách có hệ thống và
đầy đủ trong thời gian dài.
Bên cạnh đó, vẫn tồn tại những hạn chế và thiếu sót trong việc xây dựng
chính sách và nghị quyết của Đảng. Hiện nay chưa có quy định rõ ràng về việc thu
thập ý kiến của công chúng để góp phần vào việc hình thành chính sách và nghị
quyết. Một số chính sách công cộng mới chỉ được đưa ra dựa trên nhận thức chủ
quan và sở thích của các cơ quan quản lý nhà nước, làm khó tránh khỏi các trường
hợp "lợi ích nhóm" và "lợi ích địa phương." Ngoài ra, còn tồn tại nhiều hạn chế
đáng kể trong hoạt động tư duy và lý luận của Đảng, đặc biệt là đối với các quan
chức, công việc cán bộ và đảng viên. Điều này bao gồm việc kiểm tra, giám sát và
thi hành kỷ luật Đảng.
Có thể khẳng định rằng, những hạn chế và thiếu sót trong việc áp dụng mối
quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức của Đảng ta đã tác động đáng kể đến
khả năng lãnh đạo của Đảng và sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Do đó,
việc tìm kiếm và nghiên cứu những giải pháp để khắc phục những vấn đề này là
quan trọng và cấp bách.
 Giải pháp
Trước hết, cần dự báo sát, chủ động nắm bắt tình hình, tư tưởng, kịp thời xử
lý thông tin, dư luận xã hội bảo đảm sự thống nhất tư tưởng trong Đảng, đồng thuận
trong xã hội. Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, kiên quyết và thường
xuyên đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái thù địch, chủ động cung cấp thông
tin kịp thời, chính xác, khách quan, đúng định hướng để phòng chống “diễn biến
hòa bình”, thông tin xấu độc trên internet, mạng xã hội. Khi tiến hành các hoạt độn

16
tư tưởng, cán bộ tư tưởng phải đứng vững trên lập trường giai cấp công nhân, luôn
xuất phát từ thế giới quan Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, từ quan điểm đường
lối của Đảng.
Tiếp theo, cần nâng cao tư duy lý luận của Đảng, tăng cường tổng kết
nghiên cứu lý luận thực tế, và cung cấp cơ sở khoa học cho định hình chiến lược
của Đảng, chính sách và khung pháp luật của Nhà nước trở nên ngày càng quan
trọng.
Điều tiếp theo, cần củng cố nền tảng tư tưởng của Đảng, tạo ra ý chí đoàn
kết mạnh mẽ bên trong Đảng, cùng hợp tác với toàn bộ nhân dân để thực hiện hiệu
quả các quyết định và đường lối của Đảng. Đồng thời, việc xây dựng một Đảng có
tư duy vững mạnh đòi hỏi việc giáo dục và hướng dẫn tất cả các đảng viên thường
xuyên tự hoàn thiện và cải thiện tư duy chính trị cũng như nguyên tắc đạo đức
trong cuộc sống, đồng thời nghiêm túc và tự giác trong việc tự phê bình và phê
bình, đặt mình làm gương mẫu trước công chúng.

C. KẾT LUẬN
Xây dựng Chủ nghĩa Xã hội ở Việt Nam là một nhiệm vụ khó khăn và phức
tạp, đòi hỏi một sự phấn đấu, cố gắng không ngừng nghỉ và đặc biệt của Đảng, Nhà
nước và nhân dân chúng ta. Các diễn biến phức tạp trong tình hình quốc tế, cũng
như sự biến động không ngừng của đất nước ta trong quá trình đổi mới toàn diện
xã hội, đều yêu cầu Đảng và Nhà nước chúng ta phải kiên trì, quyết tâm, duy trì
lòng tin và sẵn sàng vượt qua mọi khó khăn. Đồng thời, họ cũng phải giữ tinh thần
cảnh báo, thông minh và nhạy bén để có thể điều chỉnh nhanh chóng với thực tế
đang thay đổi liên tục từng ngày, từng giờ.
Chắc chắn rằng, bằng cách kiên trì quán triệt phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, thông thạo áp dụng phép duy vật,
duy vật biện chứng vào nghiên cứu và quản lý kinh tế, và tiếp tục thúc đẩy mối
quan hệ biện chứng giữa kinh tế và chính trị trong quá trình đổi mới nhằm thúc đẩy
tăng trưởng của nền kinh tế nước nhà, chúng ta sẽ trở thành những nhà quản lý
kinh tế có năng lực. Điều này sẽ tạo điều kiện cho nền kinh tế Việt Nam phát triển
mạnh mẽ, đồng thời nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế và đóng góp
vào sự ổn định chính trị của đất nước. Đây chính là trách nhiệm và nhiệm vụ của
các nhà lãnh đạo kinh tế và chính trị của chúng ta. Nâng cao vị thế của Việt Nam
trên trường quốc tế và đóng góp vào sự ổn định chính trị của đất nước. Đây chính
là trách nhiệm và nhiệm vụ của các nhà lãnh đạo kinh tế và chính trị của chúng ta.

17
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo, giáo trình Triết học Mác – Lênin (Dành cho bậc đại
học không chuyên lý luận chính trị)
2. Định nghĩa vật chất của Lênin? Ví dụ về định nghĩa vật chất của Lênin (Tô Thị
Phương Dung, Luật Minh Khuê, 2023)
3. Ý thức là gì? Nguồn gốc, bản chất và vai trò của ý thức? (Bùi Tuấn An, Luật
Minh Khuê, 2023)
4. Phân tích mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong triết học (Lê Minh Trường,
Luật Minh Khuê, 2023)
5. IMF dự báo tăng trưởng Việt Nam năm 2023 ở mức 5,8%. (Dong Hai,
Investing.com, 2022)
6. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2022 tăng 8,02% (Hân Nguyễn, Báo
điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, 2022)
7. GÓC NHÌN ĐẠI BIỂU: VIỆC LẤY Ý KIẾN TRONG XÂY DỰNG VĂN
BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT CẦN THỰC CHẤT HƠN (Lê Anh, Cổng thông
tin điện tử Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, 2020)
8. Một số điểm mới về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng theo quy
định số 22-QĐ/TW (Vũ Quang Hưng, Trang thông tin điện tử Công an tỉnh Đồng
Tháp, 2021)
9. MỘT SỐ HẠN CHẾ TRONG TƯ DUY LÝ LUẬN CỦA CÁN BỘ LÃNH
ĐẠO, QUẢN LÝ CƠ SỞ VÀ BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC (Phạm Xuân Thiên)

18

You might also like