You are on page 1of 24

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

KHOA CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH

TIỂU LUẬN GIỮA KỲ


Môn học: Triết học Mác – Lênin
Học kỳ II (2019-2020)

ĐỀ TÀI:
VẬT CHẤT- Ý THỨC.
MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA CHÚNG.
ĐỊNH HƯỚNG VẬN DỤNG QUAN HỆ NÀY VÀO CÔNG CUỘC
PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC.

Họ và tên: NGUYỄN NGỌC THẢO VY

MSSV: 19247038

Lớp: CKH 1

Trường Đại học Khoa học Tự Nhiên

Giảng viên: Thầy Trần Hoàng Hảo


1
MỤC LỤC

MỤC LỤC 2
LỜI GIỚI THIỆU 3
A. VẬT CHẤT – Ý THỨC
5
MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC
1. VẬT CHẤT 5
2. Ý THỨC 8
3. MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG 11
4. Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN 12
B. VẬN DỤNG, QUAN SÁT MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA
VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC TRONG CÔNG CUỘC XÂY DỰNG ĐẤT 12
NƯỚC TA.
1. VẬN DỤNG MỐI QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC
VÀO MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA KINH TẾ VÀ 12
CHÍNH TRỊ.
2. VẬN DỤNG MỐI QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC
TRONG VIỆC XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ MỚI Ở ĐẤT NƯỚC 15
TA HIỆN NAY.
C. TỔNG KẾT 20
TÀI LIỆU THAM KHẢO 22

2
LỜI GIỚI THIỆU

Xuất phát điểm của nước ta trên trường đua phát triển của thế giới nằm ở vị
trị khá thấp, nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một quốc gia non
trẻ tập chuyển mình sau giai đoạn phong kiến, sau chiến tranh tàn khốc.
Được xem là một nước đang phát triển, ta có những ưu tiên từ quan hệ ngoại
giao với nước ngoài, nhưng cũng là những thách thức khi phải cạnh tranh
với các nước láng giềng và các quốc gia phát triển, khi tình hình nước ta
thua thiệt về cả trình độ, công nghệ, thế lực hay tài chính,… Nhưng để dần
thoát ly khỏi sự dựa dẫm vào hỗ trợ từ nước ngoài, tự lực tự cường sánh vai
ngang hàng với các quốc gia mạnh, khẳng định vị thế, uy tín của mình trên
trường quốc tế, đòi hỏi đất nước phải chuyển mình nhanh chóng, phải đổi
mới, vận động hết mình trên đường đua ngày càng khó khăn, khi trình độ
của thế giới ngày càng đi xa đến chóng mặt. Yêu cầu phải đi nhanh, nhưng
quan trọng là phải đi đúng, cách đi cũng phải đúng. Dựa trên nền tảng quan
điểm duy vật biện chứng mà Bác và Đảng ta đã thừa nhận và định hướng
theo, thì mọi hành động, phương hướng phát triển của ta phải phù hợp với
thực tiễn khách quan, phải tôn trọng thực tiễn, không được xa rời, không
được dùng ý chí áp đặt thế giới khách quan, tránh gây ra hậu quả tiêu cực do
khi ý chí không phù hợp với cơ sở vật chất thực tế, ý chí đó sẽ bị dào thải.

Với những yêu cầu cấp thiết như vậy, qua những sai lầm, rút kinh nghiệm
Đảng ta đã thừa nhận mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức trong
tư tưởng triết học Mác- Lênin một cách sâu sắc, đồng thời nhận ra được

3
tương quan này trong quan hệ mật thiết giữa nền kinh tế( cơ sở vật chất) và
nền chính trị (ý thức) vận dụng nó trong công cuộc xây dựng đất nước.

Từ những kiến thức được hướng dẫn trong môn Triết học Mác- Lênin và
những thực hành quan sát mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức
trong đời sống cũng như trong tiến trình phát triển đất nước, em đã có những
đúc kết về vật chất- ý thức, mối quan hệ biện chứn giữa chúng; vận dụng
quan hệ vào công cuộc đổi mới đất nước được trình bày ở bài tiểu luận sau
đây, rất mong nhận được sự đánh giá, nhận xét từ thầy về những phần ưu và
khuyết điểm trong bài luận của em.

Em chân thành cảm ơn sự quan tâm và đánh giá của Thầy.

4
A. Vật chất- Ý thức. Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức
1. Vật chất
a. Phạm trù triết học:
Vật chất với tư cách là một phạm trù triết học đã có lịch sử phát triển trên 2500
năm và luôn có sự đấu tranh xung quanh “phạm trù vật chất” giữa chủ nghĩa duy
vật và chủ nghĩa duy tâm. Hiện nay, Việt Nam chúng ta lựa chọn tiếp thu và phát
triển theo tư tưởng của chủ nghĩa duy vật, thừa nhận vật chất là nguồn gốc, cơ sở
cho mọi diễn tiến trong đời sống con người từ xưa đến nay. Đặc biệt, theo quan
điểm duy vật biện chứng được V.I.Lenin tổng kết dựa trên những thành tựu khoa
học tự nhiên cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX và sự kế thừa tư tưởng K. Marx-
F.Engels đã đưa ra định nghĩa kinh điển về vật chất:
“Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được
đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp
lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác.”
Định nghĩa về vật chất của V.I.Lenin nêu rõ:
Thứ nhất, cần phân biệt khái niệm “vật chất” được sử dụng trong các khoa
học chuyên ngành (khái niệm dùng để chỉ những dạng vật cụ thể, cảm tính) với
“vật chất” ở tư cách phạm trù triết học (phạm trù khái quát thuộc tính cơ bản nhất,
phổ biến nhất mọi dạng tồn tại vật chất, được xác định từ góc độ triết học).
Thứ hai, ở mọi dạng vật chất, thuộc tính cơ bản nhất, phổ biến nhất là thuộc
tính tồn tại khách quan. Là vật chất tồn tại ngoài ý thức, độc lập, không phụ thuộc
vào ý thức của con người, cho dù con người có nhận thức hay không nhận thức
được nó.
Thứ ba, con người có thể bị tác động trực tiếp hay gián tiếp bởi những dạng
tồn tại cụ thể của vật chất lên các giác quan. Ý thức của con người là sự phản ánh
đối với vật chất; đồng thời vật chất là cái được ý thức phản ánh.

5
Ý nghĩa quan trọng về định nghĩa vật chất của V.I.Lenin đối với sự phát
triển của chủ nghĩa duy vật và nhận thức khoa học:
Điều đầu tiên, V.I.Lenin đã phân biệt sự khác nhau cơ bản giữa khái niệm
vật chất với tư cách là phạm trù triết học và vật chất với tư cách là phạm trù của
các khoa học chuyên ngành, khi tìm ra thuộc tính cơ bản nhất của vật chất là thuộc
tính tồn tại khách quan từ đó giúp tạo lập cơ sở lý luận xây dựng quan điểm duy
vật về lịch sử, khắc phục những vay mượn từ chủ nghĩa duy tâm trong quan niệm
về xã hội.
Điều thứ hai, bằng khẳng định vật chất là “thực tại khách quan”, V.I.Lenin
đã chứng minh bằng quan điểm duy vật sự độc lập của vật chất và ý thức, cũng như
tương tác giữa chúng khi con người nhận thức thực tại khách quan bằng “ chép lại,
chụp lại, phản ánh” hay thực tại khách quan “được đem lại cho con người trong
cảm giác”.

b. Phương thức và hình thức tồn tại của vật chất


Theo quan điểm duy vật biện chứng,
- Vận động là phương thức tồn tại của vật chất.

Là thuộc tính cố hữu của vật chất- tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra
trong vũ trụ từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến thay đổi tư duy.

Chỉ thông qua vận động , các dạng cụ thể của vật chất mới biểu hiện được sự tồn
tại của mình. Vận động trở thành phương tồn tại của vật chất, vật chất tồn tại khách
quan nên vận động tồn tại khách quan và vận động của vật chất là tự thân vận
động.

Vận động có nhiều nhiều hình thức với thứ tự sắp xếp theo trình độ tăng dần,
tương ứng với trình độ kết cấu của vật chất. Các hình thức vận động khác nhau về
chất song chúng không tồn tại biệt lập mà có mối quan hệ mật thiết với nhau, trên
cơ sở các hình thức vận động thấp là tiền đề cho hình thức vận động cao, cũng là

6
hình thức vận động cao bao hàm các hình thức vận động thấp hơn nó. Khi tồn tại,
mỗi sự vật có nhiều hình thức vận động, nhưng đặc trưng là hình thức vận động
cao nhất của nó.

Khi nhận định theo quan điểm duy vật biện chứng, là thừa nhận “vận động là tuyệt
đối”, điều này không đồng nghĩa ta phủ nhận đứng im; mà nhận định đứng im là
một trạng thái vận động đặc biệt - vận động trong thế cân bằng, nhưng chỉ tồn tại
tương đối, tạm thời.

- Không gian, thời gian là những hình thức tồn tại của vật chất.
Không gian là hình thức tồn tại của vật chất được xác định ở một vị trí xác định, có
quãng tính nhất định (chiều dài, chiều rộng, chiều sâu,..), trong các mối tương quan
nhất định (trước-sau, trái-phải, trên-dưới,…) khi so với những dạng vật chất khác.

Thời gian là sự tồn tại của sự vật đưuọc xác định ở quá trình biến đổi: nhanh hay
chậm, kế tiếp và chuyển hóa

Vật chất, không gian, thời gian luôn gắn liền nhau, không tách rời tức không cái
nào tồn tại mà không có những cái còn lại. Không gian, thời gian là hình thức tồn
tại của vật chất, cũng có thuộc tính tồn tại khách quan của vật chất; trong đó không
gian có 3 chiều: chiều dài, chiều rộng, chiều cao; thời gian có một chiều: chiều từ
quá khứ đến tương lai.

c. Tính thống nhất vật chất của thế giới


Theo quan điểm duy vật biện chứng: vật chất là bản chất của thế giới, thế giới
thống nhất ở tính vật chất của nó.
Quan điểm đó được củng cố bởi các luận điểm sau:
Thứ nhất, chỉ có một thế giới duy nhất là thế giới vật chất, nó là cái tồn tại khách
quan, có trước nhất, độc lập với ý thức của con người.
Thứ hai, thế giới vật chất tồn tại vĩnh viễn, vô tận, vô hạn, không được sinh ra và
không bị mất đi.

7
Thứ ba, mọi tồn tại của thế giới vật chất đều có mối liên hệ khách quan, thống nhất
với nhau, biểu hiện khi chúng đều là vật chất và ở những dạng xác định, trải biến
đổi và chuyển hóa lẫn nhau, cùng chịu chi phối bởi các quy luật khách quan phổ
biến, liên hệ nhau trong tương quan: nguồn gốc, nguyên nhân- kết quả.

2. Ý thức
a. Nguồn gốc của ý thức
- Nguồn gốc tự nhiên của ý thức

+ Bộ óc người: Là một dạng vật chất có tổ chức cao, là nơi ý thức hình thành
dựa trên hoạt động sinh thần kinh của bộ óc. Với bộ óc càng hoàn thiện, khả
năng nhận thức. ý thức của con người càng phong phú, sâu sắc; ngược lại, khi
bộ óc bị tổn thương khiến hoạt dộng sinh lý thần kinh diễn ra không bình
thường sẽ xuất hiện những rối loạn trong đời sống tinh thần của con người. Trải
qua hàng nghìn năm tiến hóa, não bộ của con người ngày càng cấu trúc tinh vi,
sự phát triển năng lực nhận thức, tư duy của loài người ngày càng mạnh mẽ. Từ
đây khẳng định, ý thức là chức năng cũng là thuộc tính của bộ óc.

+ Mối quan hệ giữa con người và thế giới khách quan tạo ra quá trình phản
ánh năng động, sáng tạo: Đây là mối quan hệ tất yếu hình thành khi con người
sinh ra. Phản ánh năng động, sáng tạo là hình thức phản ánh cao nhất, là kết
quả của hoạt động sinh lý thần kinh của bộ não, sự phản ánh này có tính chủ
động: lựa chọn, xử lý, tái tạo thông tin, phát hiện ý nghĩa thông tin, nó chính là
ý thức.

- Nguồn gốc xã hội của ý thức


+ Lao động là quá trình con người tác động vào giới tự nhiên nhằm tạo ra sản
phẩm phục vụ cho nhu cầu tồn tại và phát triển của mình; vừa làm thay đổi cấu
trúc cơ thể người, vừa thu thập những thuộc tính, kết cấu, quy luật,… của giới
tự nhiên thông qua những gì con người nhận biết được bằng những phản ánh
8
được xây dựng trong não bộ của con người, là cơ sở hình thành và phát triển tri
thức, ý thức.
+ Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu vật chất chứa đựng thông tin mang nội dung ý
thức, là điều kiện bắt buộc để ý thức tồn tại và thể hiện.
Sự xuất hiện của ngôn ngữ gắn liền với lao động. Lao động từ đầu đã mang
tính xã hội, sự tương tác giữa các cá thể trong quá trình lao động làm xuất hiện
nhu cầu giao tiếp, trao đổi, điều này khiến ngôn ngữ được sinh ra. Nhờ ngôn
ngữ, những kinh nghiệm, tri thức, tư tưởng của con người được truyền thừa,
phát huy qua các thế hệ và ngày càng phát triển phong phú, sâu sắc.
Như vậy, căn nguyên cơ bản nhất, trực tiếp, có vai trò quyết định ý thức là lao
động. Cùng với ngôn ngữ, đã tạo nên hai kích thích chủ yếu làm bộ não họ linh
trưởng có nguồn gốc động vật, tiến hoá thành bộ não người, chuyển biến tâm lý
động vật thành ý thức con người.
b. Bản chất và kết cấu của ý thức
- Bản chất của ý thức
Ý thức là sự phản ánh năng động, sáng tạo thế giới khách quan vào bộ óc
người,là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
Tính năng động, sáng tạo của ý thức thể hiện qua kết quả của sự tiếp nhận, xử
lý, tái tạo thông tin của não bộ, cũng như hình thành các kinh nghiệm, tri thức,
tư tưởng trong đời sống xã hội.
Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Ý thức là hình ảnh về thế
giới khách quan đã cải biến thông qua lăng kính quan ( tâm tư, tình cảm,
nguyện vọng, kinh nghiệm, tri thức, nhu cầu,..) của con người; dù cùng bị quy
định bởi thế giới khách quan về nội dung và hình thức biểu hiện nhưng lăng
kính chủ quan khác nhau sẽ hình thành những ý thức khác. Theo K.Mark, ý
thức “chẳng qua chỉ là vật chất được đem chuyển vào trong đầu óc con người
và được cải biến đi trong đó”.

9
Ý thức là một hiện tượng xã hội và mang bản chất xã hội. Ý thức có nguồn gốc
xã hội là lao động, bị quy định bởi nhu cầu giao tiếp và các điều kiện trong
tương tác xã hội. Với tính năng động, ý thức đã sáng tạo lại hiện thực theo nhu
cầu của thực tiễn.
- Kết cấu của ý thức
Ý thức được xây dựng bởi nhiều yếu tố có quan hệ mật thiết với nhau nên kết
cấu rất phức tạp, với chung nhất, đơn giản nhất là yếu tố tình cảm, tri thức và ý
chí.
Tri thức là toàn bộ hiểu biết của con người, kết quả của
quá trình nhận thức, là sự tái tạo lại hình ảnh của đối tượng dưới các dạng ngôn
ngữ, tri thức là cơ sở được bồi đắp dần của ý thức, tạo điều kiện để ý thức phát
triển.
Tình cảm hình thành tự sự khái quát cảm xúc của con người khi nhận sự tác
động của ngoại cảnh, nó biểu hiện và phát triển trong mọi lĩnh vực đời sống của
con người, có tác động mạnh mẽ đến hoạt động nhận thức và thực tiễn cuộc
sống. Ở những đối tượng nhận thức khác nhau, tình cảm về những đối tượng đó
có hình thức khác nhau như tình cảm đạo đức, tình cảm thẩm mỹ, tình cảm tôn
giáo,…
Ý chí biểu hiện sức mạnh tinh thần của mỗi cá nhân, đưa bản thân đến mục đích
mà mình đặt ra. Là quyền lực của mỗi người với bản thân họ, để tự thân, tự giác
hành động, tự quyết định theo quan điểm và niềm tin của mình.
Giá trị chân chính của ý chí không nằm ở cường độ của nó mạnh hay yếu mà ở
mục đích mà ý chí hướng đến. V.I.Leenin cho rằng: ý chí là một trong những
yếu tố quan trọng tạo nên sự nghiệp cách mạng của hàng triệu người trong cuộc
đấu tranh giai cấp quyết liệt nhằm giải phóng mình, giải phóng nhân loại.
Tất cả các yếu tố cấu thành ý thức có mối quan hệ biện chứng với nhau, song tri
thức là yếu tố quan trọng nhất, là nhân tố định hướng ý thức và quyết định mức
độ biểu hiện của ý thức.
10
3. Mối quan hệ biện chứng của vật chất và ý thức
Vật chất và ý thức có mối quan hệ biện chứng, trong đó vật chất có trước và quyết
định ý thức song ý thức không thụ động mà tác động trở lại vật chất thông qua hoạt
động thực tiễn của con người.
a, Vai trò của vật chất đối với ý thức.
Khẳng định theo quan điểm duy vật biện chứng: Vật chất có trước, ý thức có sau,
vật chất là nguồn gốc của ý thức, quyết định ý thức vì:
Ý thức là sản phẩm của bộ óc người- một dạng vật chất có tổ chức cao. Cùng với,
chính con người cũng là sản phẩm của thế giới vật chất khi trải qua quá trình phát
triển lâu dài, điều này đã được nghiên cứu, chứng minh bởi khoa học, là vật chất có
trước, ý thức có sau.
Các yêu tố tạo thành nguồn gốc tự nhiên và xã hội của ý thức đều có xuất phát
điểm là vật chất, vì vật chất mà sinh ra như thế giới hiện thực khách quan, bộ óc
người, hiện tượng phản ánh, lao động, ngôn ngữ, đã chứng minh vật chất là nguồn gốc
của ý thức.
Do ý thức được hình thành trong não bộ, là hình ảnh chủ quan về thế giới vật chất,
nên nội dung và sự biến đổi hay cả hình thức biểu hiện của ý thức đều bị vật chất và
các quy luật của nó quyết định.

b. Vai trò của ý thức đối với vật chất


Ý thức trang bị cho con người tri thức và thực tại khách quan, đồng thời chỉ đạo
mọi hành động của con người, do vậy ý thức có thể tác động trở lại vật chất thông
qua hoạt động thực tiễn của con người.
Sẽ là tác động tích cực nếu con người có ý chí và hành động phù hợp với các quy
luật khách quan, thực hiện được mục đích của mình, giúp thế giới được cải biến.
Ngược lại, sẽ có tác động tiêu cực đối với thực tại khách quan.

11
Khi phân tích sâu về vật chất và ý thức, cùng với mối quan hệ giữa chúng, ta nhận
định được: vật chất là nguồn gốc của ý thức, quyết định nội dung và khả năng sáng
tạo của ý thức, là điều kiện tiên quyết để thực hiện ý thức; đồng thời ý thức có thể tác
động trở lại vật chất, nhưng không phải tự thân nó hành động mà thông qua điều
khiển hoạt động vật chất của con người.

4. Ý nghĩa phương pháp luận


Nguyên tắc phương pháp luận về thực tiễn và nhận thức: Trong hoạt động nhận
thức và thực tiễn phải xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng khách quan, đồng
thời phát huy tính năng động chủ quan.

Nguyên tắc phương pháp luận này được lý giải như sau:

Căn bản của nhận thức đúng đắn là tôn trọng quy luật, nhận thức và hành động
theo quy luật, phải lấy thực tế khách quan làm cơ sở, phương tiện, tổ chức tốt những
nhân tố vật chất thành lực lượng vật chất để hành động.
Đồng thời phát huy tính năng động chủ quan là phát huy vai trò của nhân tố con
người trong việc vật chất hóa khả năng năng động, tích cực, sáng tạo từ ý thức.
Cuối cùng, để thực hiện được nguyên tắc phương pháp luận về nhận thực và thực
tiễn đòi hỏi phải phòng, chống và khắc phục bệnh chủ quan duy ý chí, bài trừ những
hành động lấy ý chí áp đặt cho thực tế, lấy ảo tưởng thay cho hiện thực, lấy ý muốn
chủ quan làm chính sách, lấy tình cảm làm điểm xuất phát cho chiến lược, sách
lược,…Mặt khác, cũng cần chống chủ nghĩa kinh nghiệm, xem thường tri thường tri
thức khoa học, xem thường lý luận, bảo thủ, trì trệ, thụ động,.. trong hoạt động nhận
thức và thực tiễn.

B. Vận dụng, quan sát mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức trong công cuộc
xây dựng đất nước ta.
1. Vận dụng mối quan hệ giữa vật chất và ý thức vào mối quan hệ biện chứng giữa
kinh tế và chính trị.
12
Khi đưa mối quan hệ của kinh tế và chính trị vào những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể ,
ta có thể nhận thấy giữa kinh tế (biểu hiện của vật chất) và chính trị (biểu hiện của
kinh tế) cũng có mối quan hệ ràng buộc với nhau. Nếu đất nước giàu mạnh, đời sống
người dân trở nên ấm no, hạnh phúc thì nhân dân sẽ không bất mãn với chế độ, đồng ý
cũng Nhà nước xây dựng chính trị ổn định. Ngược lại, dù chính trị có ổn định đến đâu,
đạt đến trình độ cao ra sao, nhưng không giúp cải thiện nâng cao đời sống nhân dân,
để dân sống trong thiếu thốn, đói khổ thì tất yếu bất mãn sẽ xảy ra, loại bỏ đi chế độ
chính trị duy ý chí, không phù hợp với khả năng, điều kiện của nhân dân.
Tương tự, trình độ tổ chức quản lí và tính chất hiện đại của nền sản xuất sẽ là nhân tố
qui định trình độ hiện đại và mức sống của xã hội. Sản xuất vật chất còn là nền tảng
hình thành tất cả các quan hệ xã hội và đời sống tinh thần của xã hội. Hiện thực lịch
sử đã chỉ ra rằng, mọi quan hệ của đời sống xã hội bao gồm quan hệ chính trị, nhà
nước pháp quyền, đạo đức, khoa học, nghệ thuật, tôn giáo... đều hình thành và biến
đổi phát triển gắn liền với cơ sở kinh tế và trình độ sản xuất nhất định. Có thể hiểu
mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức trong Trong xã hội ấy, theo Mác quan
hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất (quan hệ kinh tế) là quan hệ cơ bản
nhất quyết định tất cả các quan hệ khác. Một khi sản xuất phát triển, cách thức sản của
con người thay đổi, năng suất lao động tăng, mức sống được nâng cao thì các mối
quan hệ và mọi mặt của đời sống xã hội cũng thay đổi theo. Sản xuất vật chất hay kinh
tế là cơ sở đầu tiên quan trọng nhất tham gia vào quá trình phát huy và hoàn thiện các
chức năng cảu con người, thỏa mãn các nhu cầu của con người và xã hội. Sản xuất vật
chất, môi trường, tự nhiên, điều kiện xã hội...đòi hỏi thế lực, trí tuệ và nhân cách của
con người phải phát triển thích ứng với nó. Yêu cầu khách quan của sự phát triển kinh
tế, phát triển sản xuất là cho khoa học kĩ thuật và điều kiện sinh hoạt xã hội, là nhân tố
quan trọng hàng đầu của Lực lượng sản xuất. Sự phong phú và đa dạng của những
quan hệ vật chất, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kĩ thuật và đời sống tinh thần
trong quá trình sản xuất vật chất là cơ sở làm nảy sinh sự phong phú và đa dạng trong
sự phát triển thể chất, năng lực và tinh thần của con người. Xét đến cùng, thì trong
13
hoạt động của con người, những nhu cầu về vật chất (kinh tế) bao giờ cũng giữ vai trò
quyết định, chi phối và quy định mục đích hoạt động bởi cơ bản phải được no bụng,
phải có nơi ăn, chốn ở thì con người mới có khả năng xây dựng và phát triển thực tại
khách quan. Hoạt động nhận thức của con người trước hết hướng tới mục tiêu cải biến
tự nhiên nhằm thoả mãn nhu cầu sống. Hơn nữa, cuộc sống tinh thần của con người
xét đến cùng bị chi phối và phụ thuộc vào việc thoả mãn nhu cầu vật chất và vào
những điều kiện vật chất hiện có.
Nền kinh tế của mỗi nước là cơ sở để nước đó thực hiện những chủ trương, biện pháp
trong việc quản lí, đề ra những chiến lược phát triển kinh tế, chiến lược phát triển
quân đội để đảm bảo trật tự an ninh và chủ quyền quốc gia. Căn cứ vào thực trạng của
nền kinh tế, các tư tưởng và chính sách đổi mới phát triển kinh tế được đưa ra phù hợp
và hiệu quả nhằm đem lại lợi ích kinh tế cao cho xã hội, cũng đồng thời cho nhân dân.
Tác dụng ngược trở lại, thể chế chính trị (ý thức) của một nước cũng rất quan trọng
trong việc xây dựng đất nước. Chính trị ổn định là điều kiện tốt, tạo không khí yên
ấm, thoải mái và tự do để mọi người, nhà nhà, các công ty, các tổ chức, hoạt động
trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội cống hiến và phát huy khả năng của mình để đem lại
lợi ích cho bản thân mình và lợi cho xã hội.
Có thể hiểu rằng, nền kinh tế như cơ sở vật chất, nền chính trị là cơ sở ý thức được
xây dựng trên nền vật chất sở tại
Nguyên lý triết học Mác - Lênin về mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức
đòi hỏi chúng ta phải xem xét tình hình các sự vật (Ở đây là nền kinh tế ) từ thực tế
khách quan, tránh chủ chủ nghĩa chủ quan, duy ý trí, đồng thời phát huy vai trò năng
động sáng tạo của ý thức, phát huy nỗ lực chủ quan của con người (như hoạt động
kinh tế của nước ta, trong công cuộc đổi mới do Đảng Cộng Sản Việt Nam khởi
xướng đã chú trọng đến việc đề cao yếu tố con người, làm cho ý thức thay đổi mới
thâm nhập vào các cơ sở kinh tế, vào đông đảo quần chúng)

14
2. Vận dụng mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong việc xây dựng nền kinh tế
mới ở đất nước ta hiện nay.
Giai đoạn 1976 – 1986:
Sau khi giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, bên cạnh những nổi đau về con
người, tự nhiên, tình hình kinh tế cũng là một tổn thương của nước ta thời bấy giờ.
Nền kinh tế miền Bắc còn nhiều nhược điểm. Cơ sở vật chất, kỹ thuật yếu kém, cơ cấu
kinh tế nhiều mặt mất cân đối, năng suất lao động thấp, sản xuất chưa đảm bảo nhu
cầu đời sống, sản xuất nông nghiệp chưa cung cấp đủ thực phẩm cho nhân dân,
nguyên liệu cho công nghiệp, hàng hóa cho xuất khẩu.
Ở miền Nam thành phần cơ cấu kinh tế đa dạng, nhiều biến không tương thích với cơ
cấu kinh tế miền Bắc (ở miền Bắc tổ chức theo nền kinh tế bao cấp- tổ chức kinh tế
tập thể, đồng sở hữu, là tài sản của Nhà nước và người dân làm việc cho Nhà nước,
nhận trợ cấp từ Nhà nước), vào thời gian này, thành phần kinh tế tư nhân ở cả hai
miền đều không được thừa nhận, đặc biệt là ở miền Nam, nơi chịu ảnh hưởng của nền
kinh tế tư bản đã 20 năm, cùng với sự rối ren do hậu quả đầu tư quá nhiều vào quân sự
của chế độ trước, sự bất đồng khi người dân tiếp nhận nền cai trị mới khiến cho kinh
tế miền Nam nói riêng bị đảo lộn, suy sụp, nông nghiệp nhiều vùng bị hoang hóa, lạm
phát trầm trọng,… và nền kinh tế cả nước ta nói chung như lao xuống đáy vực.
Mà trong cương lĩnh xây dựng đất nước thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã thừa
nhận, những nhận định, quyết định sai lầm của Đảng ta trong thời gian này: “Trong
cách mạng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta đã có nhiều cố gắng nghiên cứu, tìm tòi, xây
dựng đường lối, xác định đúng mục tiêu và phương hướng xã hội chủ nghĩa. Nhưng
Đảng đã sai phạm sai lầm chủ quan duy ý trí, vi phạm qui luật khách quan: Nóng vội
trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, xoá bỏ ngay nền kinh tế nhiều thành phần; cố ý đẩy
mạnh quá mức việc xây dựng công nghiệp nặng; duy trì quá lâu cơ chế quản lý tập
trung quan liêu bao cấp, có nhiều chủ trương sai trong việc cải cách giá cả, tiền tệ, tiền
lương".

15
Bên cạnh những khuyết điểm do chủ quan nêu trên, ta cũng phải nhìn nhận những
nguyên nhân khách quan đã kéo lùi nền kinh tế - xã hội như hậu quả sau nhiều năm
chiến tranh, bối cảnh quốc tế...song chủ yếu vẫn là sai lầm chủ quan của ta, những sai
lầm đó cùng với trì trệ trong công tác tổ chức cán bộ đã kìm hãm lực lượng sản xuất
và triệt tiêu nhiều động lực phát triển kinh tế - xã hội.
Hậu quả, do ban đầu đề ra những chỉ tiêu kế hoạch năm 1976-1980 quá cao về xây
dựng cơ bản và phát triển sản xuất vượt quá khả năng của nền kinh tế, như năm 1975,
phấn đấu đạt 20 triệu tấn lương thực, 1 triệu tấn cá biển, 1 triệu ha khai hoang, 1 triệu
200 ha rừng mới trồng, 10 triệu tấn than sạch, 2 triệu tấn xi măng... Đặc biệt là việc
xây dựng thêm nhiều cơ sở mới về công nghiệp nặng, chuyên về cơ khí và đặt nhiệm
vụ hoàn thành về cơ bản cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Nam, là những chủ trương
sai lầm. Cùng với cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp đã tác động xấu tới nền
kinh tế, ảnh hưởng không tốt đến đời sống của nhân dân. Đến hết năm 1980, nhiều chỉ
tiêu kinh tế đề ra chỉ đạt khoảng 50%-60% mức đề ra, nền kinh tế tăng trưởng rất
chậm chạp: tổng sản phẩm xã hội tăng bình quân 1,5%, công nghiệp tăng 2,6%, nông
nghiệp giảm 0,15%. Trong năm 1981-1985 chúng ta chưa kiên quyết khắc phục chủ
quan, trì trệ trong bố trí cơ cấu kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa và quản lí kinh tế, lại
phạm những sai lầm mới trong lĩnh vực phân phối lưu thông.
Vì vậy trước tình hình ngày càng nghiêm trọng của cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội ở
nước ta, Đảng và nhà nước ta đã nhận thấy sai lầm, tiến hành đi sâu nghiên cứu, phân
tích tình hình lấy ý kiến rộng rãi của cơ sở, của nhân dân, đặc biệt là đổi mới tư duy về
kinh tế. Băt đầu từ đại hội lần thứ VI của Đảng đã luôn sao sát, chú ý từng biến đổi,
liên tục rút kinh nghiệm và thừa nhận tính khách quan trong triết học của Mác- Lênin:
phải luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo qui luật khách quan. Từ
đây, những đường lối mới, tích cực đã được Đảng đề ra, mở ra bước ngoặt trong sự
nghiệp xây dựng và phát triển đất nước Việt Nam về sau.

16
Giai đoạn 1986 – 2016 : 30 năm đổi mới:
Từ năm 1986, dưới áp lực của thực tiễn khách quan nhằm đưa nước ta khỏi cuộc
khủng hoảng kinh tế - xã hội đang diễn ra nghiêm trọng, Việt Nam ta đã có định
hướng phù hợp hơn và tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện đất nước.
Nền kinh tế dần được chuyển mình sang trạng thái mở cửa giao thương với nước
ngoài, được cải tiến theo hướng thị trường. Bắt đầu từ đại hội Đảng lần VI, những
bước chuyển rõ rệt đã diễn ra, đồng thời Đại hội đã nghiêm khắc tự phê bình những
sai lầm trong công cuộc chỉ đạo của Đảng trong giai đoạn trước, đã phân tích đúng
nguyên nhân của tình hình khủng hoảng kinh tế xã hội, đề ra các định hướng mới đặc
biệt là đổi mới kinh tế, thực hiện mục tiêu của ba chương trình kinh tế: lương thực -
thực phẩm, hàng tiêu dùng, hàng xuất, hình thành nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần, thừa nhận sự tồn tại của kinh tế tiểu tư sản, sản xuất hàng hoá và kinh tế tư bản
tư nhân, đổi mới cơ chế quản lí kinh tế, sử dụng đúng đắn quan hệ hàng hoá- tiền tệ.
Trong quá trình thực hiện đổi mới, nhiều diễn biến phức tạp đã tạo bước ngăn sự phát
triển kinh tế và xã hội của nước ta, nhưng Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã nỗ lực
khắc phục khó khăn, kiên trì tìm tòi, khai phá con đường đổi mới. Dần dần tình hình
chính trị của đất nước trở nên ổn định, nền kinh tế có những chuyển biến tích cực,
hình thành nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có
sự quản lí của nhà nước, nguồn lực sản xuất của xã hội được huy động tốt hơn, tốc độ
lạm phát được kìm chế, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện.
Sau 30 năm thay đổi, thì khủng hoảng đã qua đi và nước ta chuyển biến rõ trên con
đường phát triển, tham gia vào cuộc đua phát triển kinh tế - xã hội với toàn cầu.
Kết quả là về tăng trưởng kinh tế, trong suốt 30 năm tiến hành đổi mới, kinh tế Việt
Nam đã đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn hẳn thời kỳ trước đổi mới. Sau giai đoạn đầu
đổi mới (1986-1990), với mức tăng trưởng GDP bình quân hằng năm chỉ đạt 4,4%,
nền kinh tế Việt Nam đã trải qua gần 20 năm với mức tăng trưởng rất ấn tượng: giai
17
đoạn 1991-1995, GDP bình quân tăng 8,2%/năm, gấp đôi so với 5 năm trước đó; giai
đoạn 5 năm tiếp theo 1996-2000, mặc dù cùng chịu tác động của khủng hoảng tài
chính khu vực (1997-1999), GDP vẫn duy trì bình quân tăng 7,6%/năm; giai đoạn
2001-2005, GDP tăng bình quân 7,34%; giai đoạn 2006-2010, do suy giảm kinh tế thế
giới, Việt Nam vẫn đạt tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 6,32%/năm. Trong các năm
tiếp theo, do chịu tác động từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008 và khủng
hoảng nợ công 2010, tốc độ tăng trưởng GDP giai đoạn 2011-2015 của Việt Nam tuy
đã chậm lại nhưng vẫn đạt 5,9%/năm, là mức cao của khu vực và thế giới.
Quy mô nền kinh tế tăng nhanh. Năm 2003, sau 16 năm đổi mới, GDP bình quân đầu
người ở nước ta mới đạt 471 USD/năm thì đến năm 2015, quy mô nền kinh tế đạt
khoảng 204 tỷ USD, thu nhập bình quân đầu người đạt gần 2.300 USD. Lực lượng sản
xuất có nhiều tiến bộ cả về số lượng và chất lượng. Chất lượng tăng trưởng có mặt
được cải thiện, trình độ công nghệ sản xuất có bước được nâng lên. Đóng góp của yếu
tố năng suất tổng hợp TFP vào tăng trưởng nếu ở giai đoạn 2001-2005 đạt 21,4%, giai
đoạn 2006-2010 đạt 17,2% thì trong giai đoạn 2011-2015 đạt 28,94%. Kinh tế vĩ mô
cơ bản ổn định, lạm phát được kiểm soát.
Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội phát triển, nhất là hạ tầng giao thông, điện, thông tin,
viễn thông, thủy lợi, hạ tầng đô thị, giáo dục, y tế. Việc ứng dụng khoa học công nghệ,
nhất là công nghệ cao, đã tạo những tiền đề để bước đầu chuyển sang xây dựng kinh
tế tri thức, hỗ trợ việc xây dựng đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Lĩnh
vực văn hoá - xã hội có nhiều chuyển biến tích cực, đời sống nhân dân được cải thiện
một bước. Quốc phòng, an ninh được giữ vững.
Để đạt bước qua khủng hoảng và đạt được những thành tựu to lớn đó, chính nhờ vào
sự giác ngộ, khả năng vận dụng và phát triển sáng tạo của Đảng khi kế thừa chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, những thành tựu lý luận phát triển của nhân loại,
bám sát tình hình thực tiễn thế giới và trong nước, từng bước tổng kết thực tiễn nhằm
khái quát lý luận, khắc phục những quan điểm ấu trĩ, giáo điều, rập khuôn máy móc,
phiến diện cực đoan, duy ý chí, hẹp hòi và bảo thủ, Đảng Cộng sản Việt Nam đã mạnh
18
dạn tìm tòi, sáng tạo dựa vào thực tiễn mà hình thành nên ý chí về về chủ nghĩa xã hội
và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Ý chí đó được diễn qua khung lý
luận thể hiện tập trung ở các nội dung:
- Thứ nhất, ngày càng xác định rõ hơn mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân
dân ta xây dựng là: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do
nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện
đại và quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát
triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn
trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ
hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới.
- Thứ hai, xác định và nêu được những phương hướng mang tính quy luật xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bao gồm:
+ Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, gắn với phát triển kinh tế
tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường;
+ Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa;
+ Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con
người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội;
+ Bảo đảm ngày càng vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an
toàn xã hội;
+ Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và
phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế;
+ Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc,
tăng cường và mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất;
+ Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân,
vì nhân dân;

19
+ Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh toàn diện về mọi mặt tư tưởng, chính
trị, tổ chức, đạo đức và nhân cách đảng viên. Những phương hướng cơ bản nêu
trên đã thể hiện tính hệ thống, đồng bộ của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta, vừa đúng xu thế thời đại, vừa phù hợp với thực tiễn Việt Nam.
- Thứ ba, xác định đúng và tập trung giải quyết các mối quan hệ nền móng trong
quá trình đổi mới. Đó là: quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; quan hệ
giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; quan hệ giữa kinh tế thị trường và
định hướng xã hội chủ nghĩa; quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây
dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất phù hợp; quan hệ giữa tăng trưởng
kinh tế với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; quan hệ
giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; quan hệ
giữa độc lập tự chủ và hội nhập quốc tế; quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước
quản lý, nhân dân làm chủ.

C. Tổng kết
Vật chất là nền tảng, căn nguyên của mọi sự vận động. Ý thức, hành động của con người
hoàn toàn bị chi phối bởi vật chất, đồng thời, phần nào ý thức cũng tác động trở lại vật
chất một cách gián tiếp, góp phần thay đổi vật chất theo hướng tích cực, chỉ khi ý thức là
không phù hợp với thực tiễn, không tôn trọng thực tiễn, thì ý thức ấy mới bị đào thải do
những tác động tiêu cực mà nó gây ra cho thực tiễn. Do đó việc tôn trọng quy luật khách
quan, tôn trọng thực tiễn; có ý thức phù hợp thì cở sở vật chất và ý thức con người mới
phát triển tốt lên được, vận dụng tốt những quy luật này trong cuộc sống sẽ là tiền đề giúp
phát triển mạnh mẽ điều kiện sống của con người cũng như bản thân con người.
Nhìn ở phương diện khác, khi vận dụng mối quan hệ giữa vật chất và ý thức vào nền kinh
tế và nền chính trị, ta có thể nhận định đi lên chủ nghĩa xã hội là định hướng phù hợp với
bối cảnh cũng như tinh thần của nhân dân ta, là sự lựa chọn đã qua cân nhắc, suy xét của
Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Với vốn thực tiễn phong phú, những
cải cách đã tạo nên những thành tựu thần kỳ trong 30 năm đổi mới (1986- 2016), thực
20
hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã chứng tỏ
đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo; đi lên chủ nghĩa xã hội là sự lựa
chọn phù hợp với quy luật khách quan và thực tiễn cách mạng Việt Nam. Chủ nghĩa xã
hội là đích đến có thể bảo đảm dân tộc ta độc lập, tự do thật sự, đất nước phát triển phồn
vinh, nhân dân có cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Vận dụng thành thạo phép duy vật duy
vật biện chứng vào việc nghiên cứu và quản lý kinh tế, phát huy mạnh mẽ hơn nữa quan
hệ biện chứng giữa kinh tế và chính trị trong công cuộc đổi mới nhằm tăng trưởng nền
kinh tế quốc dân, để tương lai đất nước được diều dắt bởi lớp thế hệ ngày càng tinh anh,
thấm nhuần, thích hợp vốn tri thức chính trị hiện hành góp phần vào công cuộc đổi mới
kinh tế đất nước, tạo điều kiện cho nền kinh tế Việt Nam cất cánh, từ đó nâng cao hơn
nữa vị thế Việt Nam trên trường quốc tế, góp phần củng cố hơn nữa sự ổn định về chính
trị của đất nước.

21
D. Tài liệu tham khảo
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2017). Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa
Mác- Lênin. Nhà xuất bẩn chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội.
2. PGS.TS Phạm Ngọc Anh (2015). Đánh giá 30 năm đổi mới – nhìn từ lát cắt lý luận.
Báo Nhân dân.
3. Văn kiện Đại hội Đảng lần VI.
4. Vương Đình Huệ.(Uỷ viên Trung ương Đảng, Trưởng ban Kinh tế Trung ương).
Nhìn lại 30 năm đổi mới: Những thành tựu nổi bật trong phát triển kinh tế.
Báo Nhân dân.

22
23

You might also like