You are on page 1of 11

CHƯƠNG I

CHỦ NGHĨA DUY VẬT

I/ Định nghĩa chủ nghĩa duy vật:


Chủ nghĩa duy vật là trường phái triết học cho rằng, trong mối quan hệ giữa
vật chất và ý thức thì vật chất có trước ý thức, vật chất đóng vai trò quyết định ý
thức.
II/ Những giai đoạn phát triển của chủ nghĩa duy vật: ( phần đọc thêm)
Từ khi hình thành với tư cách là một trường phái triết học lớn, cho đến nay,
chủ nghĩa duy vật đã trải qua ba hình thức (ba giai đoạn): chủ nghĩa duy vật chất
phác, ngây thơ (thời cổ đại); chủ nghĩa duy vật máy móc, siêu hình (thế kỷ XVII -
XVIII); chủ nghĩa duy vật biện chứng (nửa cuối thế kỷ XIX cho đến nay). Ba hình
thức này của chủ nghĩa duy vật tuy khác nhau về cách tiếp cận, xem xét thế giới
nhưng đều giống nhau (đều có một điểm chung) ở chỗ khẳng định tính vật chất của
thế giới, hay nói khác đi, khẳng định tính thứ nhất của vật chất trong mối quan hệ
với ý thức, tính thần.
1. Chủ nghĩa duy vật chất phác ngây thơ phát triển mạnh mẽ ở Trung Quốc,
Ấn Độ và Hy Lạp thời cổ đại.
Những quan điểm của chủ nghĩa duy vật thời cổ đại nhìn chung là đúng đắn,
phản ánh một cách trực giác, tự phát thế giới, theo kiểu “thấy gì nói nấy”. Tuy đúng
đắn nhưng vì chỉ dựa vào những quan sát trực tiếp, chưa thành hệ thống, chưa dựa
vào thành tựu của các bộ môn khoa học chuyên ngành nên chưa có cơ sở xác đáng,
mang tính “ngây thơ, chất phác”, chưa có tính khoa học, thuyết phục.
2. Chủ nghĩa duy vật máy móc siêu hình phát triển mạnh mẽ ở Tây Âu thế kỷ
XVII – XVIII. Thời kỳ này khoa học tự nhiên phát triển mạnh mẽ nhờ phương pháp
nghiên cứu đi sâu vào từng yếu tố, bộ phận cấu thành chứ không chỉ dừng lại ở cái
chỉnh thể, cái toàn cục. Đây cũng là thời kỳ phát triển mạnh mẽ, rực rỡ của cơ học
(dựa trên những phát minh lý thuyết của Niu tơn và các nhà vật lý học đương thời).
Những phương pháp nghiên cứu, những quan điểm xem xét thế giới một cách cục
bộ, tách rời, cô lập các yếu tố, bộ phận cấu thành giúp cho các nhà khoa học tự nhiên
đạt được những thành tựu rực rỡ, đã có ảnh hưởng sâu sắc đến các nhà triết học và
được áp dụng vào triết học, hình thành nên những quan điểm siêu hình, máy móc
khi xem xét, nhận thức thế giới.
Với quan điểm máy móc, siêu hình, các nhà triết học thời kỳ này coi con người
cũng như giới tự nhiên đều là những hệ thống máy móc, cơ học, coi các sự vật, hiện
tượng của thế giới đều tồn tại trong trạng thái biệt lập, ngưng đọng, không vận động,
không phát triển. Những quan điểm này hoàn toàn không phản ánh đúng đắn tính
biện chứng vốn có của thế giới chung quanh chúng ta.
3. Chủ nghĩa duy vật biện chứng do Mác và Ăng-ghen xây dựng vào những
năm nửa cuối thế kỷ XIX trên cơ sở kế thừa những thành tựu, những quan điểm đúng
đắn và khắc phục những thiếu sót của các trường phái triết học trước đó: triết học
duy vật siêu hình và triết học duy tâm biện chứng. Chủ nghĩa duy vật biện chứng đã
phản ánh đúng đắn hai thuộc tính vốn có của thế giới là tính vật chất và tính biện
chứng. Những quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng đã được xây dựng thành
một hệ thống khoa học với những khái niệm, phạm trù, nguyên lý, quy luật. Chủ
nghĩa duy vật biện chứng là nội dung cơ bản, chủ yếu của triết học Mác-Lê nin.
III/Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức.
1. Các phạm trù cơ bản.
a) Phạm trù Vật chất:
+ Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được
đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp
lại, phản ánh, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác1.

1
V.I. Lê nin: Toàn tập, Nxb.Tiến bộ, Mát-xcơ-va, 1980, t.18, tr.151.
Theo định nghĩa phạm trù vật chất nói trên, chúng ta có thể nói một cách ngắn
gọn, khái quát rằng, nói đến vật chất chính là nói đến tất cả mọi sự vật, hiện tượng
có thật trên thế giới này, sự tồn tại của vật chất không phụ thuộc vào ý thức con
người, không phụ thuộc vào sự thừa nhận hay không thừa nhận của con người, không
phụ thuộc vào việc con người có biết hay không biết đến nó. Mỗi một sự vật, hiện
tượng tồn tại trên thế giới đều là một dạng cụ thể nào đó của vật chất. không có một
dạng cụ thể, cảm tính nào của vật chất lại có thể đồng nhất hoàn toàn với vật chất.
Vật chất phải được hiểu là một phạm trù biểu đạt tất cả những gì tồn tại khách quan,
bên ngoài ý thức, không phụ thuộc vào ý thức. Nói khác đi, mỗi một sự vật, hiện
tượng cụ thể tồn tại trên thế giới đều là vật chất, đều có tính vật chất, nhưng vật chất
không chỉ là sự vật hay hiện tượng cụ thể đó.
Thuộc tính quan trọng nhất của vật chất đó là thuộc tính khách quan. Khách
quan, theo V.I. Lê nin, nghĩa là “cái đang tồn tại độc lập với loài người và với cảm
giác của con người … không phụ thuộc vào ý thức con người”2.
Về mặt nhận thức luận, phạm trù vật chất không có ý nghĩa gì khác hơn (chỉ
có ý nghĩa là): “thực tại khách quan tồn tại độc lập đối với ý thức con người và được
ý thức con người phản ánh”3.
+ Phương thức tồn tại của vật chất: (phần đọc thêm)
- Vật chất tồn tại bằng cách vận động, nói khác đi vận động “là thuộc tính cố
hữu của vật chất”, “là phương thức tồn tại của vật chất” 4. Trong vận động và bằng
vận động mà các dạng vật chất thể hiện đặc tính của mình, chứng minh sự tồn tại
của mình. “Các hình thức và các dạng khác nhau của vật chất chỉ có thể nhận thức
được thông qua vận động, thuộc tính của vật thể chỉ bộc lộ qua vận động, về một vật
thể không vận động thì không có gì mà nói cả”5. Triết học Mác-Lê nin khẳng định,

2
V.I. Lê nin: Toàn tập, Nxb.Tiến bộ, Mát-xcơ-va, 1980, t.18, tr.374
3
V.I. Lê nin: Toàn tập, Nxb.Tiến bộ, Mát-xcơ-va, 1980, t.18, tr.322
4
C.Mac và Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia , Hà Nội, 1994, t.20, tr.89
5
C.Mac và Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia , Hà Nội, 1994, t.20, tr.743
không thể có vật chất không vận động và cũng không thể có vận động không vật
chất. Nói cách khác, nói đến vật chất là nói vật chất đang vận động và nói đến vận
động là nói đến vận động của vật chất.
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, vận động là mọi biến đổi
nói chung. “Vận động, hiểu theo nghĩa chung nhất (…) bao gồm tất cả mọi sự thay
đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư
duy”6. Với sự tồn tại đa dạng và phong phú của thế giới vật chất, vật chất cũng có
nhiều hình thức vận động phong phú và đa dạng.
Khi nghiên cứu các hình thức vận động của vật chất, người ta có thể phân loại
các hình thức vận động khác nhau theo những tiêu chí khác nhau. Cho tới nay, thông
thường các nhà khoa học chia ra 5 hình thức vận động cơ bản khác nhau của thế giới
vật chất: 1. Hình thức vận động cơ học – sự di chuyển vị trí của các vật thể trong
không gian; 2. Hình thức vận động vật lý – sự vận động của các phân tử, các hạt cơ
bản, vận động của điện tử, các quá trình nhiệt, điện v.v..; 3. Hình thức vận động hóa
học – vận động của các nguyên tử, các quá trình hóa hợp và phân giải các chất; 4.
Hình thức vận động sinh học – sự trao đổi chất giữa cơ thể sống và môi trường bên
ngoài; 5. Hình thức vận động xã hội – sự thay đổi các hình thái kinh tế - xã hội, các
quá trình diễn ra trong đời sống xã hội loài người.
- Trong triết học duy vật biện chứng, cùng với phạm trù vận động thì không
gian và thời gian cũng là những phạm trù đặc trưng cho phương thức tồn tại của
vật chất.
Bất kỳ một vật thể nào đang tồn tại cũng đều chiếm một vị trí nhất định, có
mối quan hệ trước, sau, trên, dưới, bên trong, bên ngoài, về mặt kích thước có mối
quan hệ to hơn, bé hơn v.v., với các vật thể khác. Các hình thức tồn tại như vậy của
các vật thể được gọi là không gian.

6
C.Mác và Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia , Hà Nội, 1994, t.20, tr.519
Bên cạnh các quan hệ không gian nói trên, sự tồn tại của các vật thể còn được
biểu hiện ở mức độ tồn tại lâu dài hay ngắn ngủi của chúng, ở sự ra đời trước hoặc
sau so với các vật thể khác v.v. Những sự khác biệt này về phương thức tồn tại của
các vật thể được thể hiện bằng phạm trù thời gian.
Không gian và thời gian gắn bó chặt chẽ với nhau và cả hai đều là thuộc tính
vốn có của vật chất, là hình thức tồn tại của vật chất.
Có thể nói: “Trong thế giới, không có gì ngoài vật chất đang vận động và vật
chất đang vận động không thể vận động ở đâu ngoài không gian và thời gian”7.
b) Phạm trù ý thức:
+ Định nghĩa: Ý thức là phạm trù triết học dùng để chỉ sự phản ánh thế giới
vật chất, hiện thực khách quan vào trong bộ óc con người.
+ Bản chất của ý thức: Ý thức là sự phản ánh năng động, sáng tạo về thế giới,
phục vụ nhu cầu của con người muốn cải biến thế giới, để tồn tại và phát triển, sự
cải biến này được thực hiện thông qua hoạt động thực tiễn của con người.
+ Thuộc tính phản ánh của vật chất (phần đọc thêm)
Theo quan điểm của Lê nin, phản ánh là một thuộc tính vốn có của vật chất.
Lê nin viết: “Chủ nghĩa duy vật, hoàn toàn nhất trí với khoa học tự nhiên, coi vật
chất là cái có trước, coi ý thức, tư duy, cảm giác là cái có sau, vì cảm giác trong hình
thái rõ rệt của nó, chỉ gắn liền với những hình thái cao của vật chất (vật chất hữu cơ),
và người ta chỉ có thể giả định là trên nền móng của bản thân lâu đài vật chất có sự
tồn tại của một năng lực giống như cảm giác”8 và “…giả định rằng hết thảy mọi vật
chất đều có một đặc tính về bản chất gần giống như cảm giác, (đó là) đặc tính phản
ánh (tôi nhấn mạnh - TNL), thì như vậy lại hợp với logic”9.

7
V.I. Lê nin: Toàn tập, Nxb.Tiến bộ, Mát-xcơ-va, 1980, t.18, tr.209-210
8
V.I. Lê nin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mát-xcơ-va, 1980, t.18, tr.43
9
sđd. tr. 104
Nhìn chung, phản ánh là kết quả của mối liên hệ, tác động qua lại giữa một hệ
thống vật chất với một hay nhiều hệ thống vật chất khác. Nó nói lên khả năng tiếp
nhận thông tin, lưu giữ thông tin, thể hiện thông tin của một hệ thống vật chất trong
quá trình tác động của hệ thống vật chất đó với hệ thống vật chất khác chịu sự tác
động.
Cái phản ánh là hệ thống vật chất tiếp nhận thông tin, lưu giữ thông tin và thể
hiện thông tin của hệ thống vật chất đóng vai trò cái bị phản ánh. Số lượng và chất
lượng thông tin được cái phản ánh tiếp nhận, lưu giữ và thể hiện phụ thuộc vào kết
cấu, trình độ tổ chức của hệ thống vật chất đóng vai trò cái phản ánh, đồng thời cũng
phụ thuộc vào mức độ tác động, điều kiện tác động, cách tác động lẫn nhau giữa hai
hệ thống vật chất. Cái được phản ánh là hệ thống vật chất cung cấp thông tin cho hệ
thống vật chất đóng vai trò cái phản ánh. Số lượng và chất lượng thông tin mà cái
được phản ánh cung cấp cho cái phản ánh chủ yếu phụ thuộc vào mức độ tác động,
điều kiện tác động, cách tác động lẫn nhau giữa hai hệ thống vật chất nói trên.
Việc phân biệt cái phản ánh và cái được phản ánh trong thế giới vật chất chỉ
là tương đối, vì trong thế giới vật chất sự vận động, tác động qua lại giữa các yếu tố
cấu thành nên nó là bình đẳng, tùy theo góc độ, mục đích của người quan sát mà
chúng ta quy ước hệ thống vật chất này là cái phản ánh và hệ thống vật chất khác là
cái được phản ánh. Khi hệ thống vật chất đóng vai trò là cái phản ánh thì đồng thời
nó cũng đóng vai trò chủ thể phản ánh. Khi hệ thống vật chất đóng vai trò là cái được
phản ánh thì đồng thời nó cũng đóng vai trò khách thể phản ánh. Nhìn tổng quát, thế
giới vật chất, về phương diện phản ánh, vừa thể hiện với tư cách là chủ thể phản ánh,
vừa thể hiện với tư cách là khách thể phản ánh.
+ Mối quan hệ giữa phản ánh với sự vận động của vật chất.
Ăngghen viết:"Vận động hiểu theo nghĩa chung nhất, tức được hiểu là một
phương thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất, thì bao gồm
tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí
đơn giản đến tư duy ….”10
Theo quan điểm duy vật biện chứng, vận động của vật chất là tự thân vận
động; bởi vì tất cả các dạng vật chất đều là một kết cấu vật chất bao gồm các yếu tố,
các mặt, các quá trình liên hệ, tác động qua lại với nhau. Chính sự tác động đó đã
dẫn đến sự biến đổi nói chung, tức là vận động. Vận động là hình thức tồn tại của
vật chất nên các dạng vật chất được nhận thức thông qua sự vận động của chúng.
Từ đó, chúng ta có thể chỉ ra mối quan hệ giữa 2 thuộc tính vốn có của vật
chất: thuộc tính phản ánh và thuộc tính vận động. Cả hai thuộc tính này đều là hệ
quả của sự tác động lẫn nhau.
Vận động là kết quả của sự tác động qua lại lẫn nhau giữa các yếu tố, các
mặt, các quá trình cấu thành nên một dạng vật chất, một hệ thống vật chất nào đó.
Sự tác động này tạo nên sự tự thân vận động của vật chất nói chung của một hệ
thống, một dạng vật chất nào đó nói riêng.
Phản ánh là kết quả của sự tác động lẫn nhau giữa hai hệ thống vật chất, dẫn
đến sự trao đổi thông tin giữa hai hệ thống vật chất đó với nhau. Hệ thống cung cấp
thông tin được gọi là hệ thống được phản ánh - cái được phản ánh, còn hệ thống tiếp
nhận, lưu giữ, và thể hiện thông tin được gọi là hệ thống phản ánh - cái phản ánh.
Có thể nói phản ánh là một dạng vận động đặc biệt của vật chất, được thể hiện ở mọi
dạng tồn tại của vật chất, tùy theo trình độ tổ chức, kết cấu mà khác nhau về hình
thái phản ánh.
+ Các hình thái phản ánh và thuộc tính chung của chúng
Từ luận điểm khẳng định rằng phản ánh là thuộc tính chung vốn có của mọi
dạng vật chất, chúng ta có thể suy luận một cách logic về các hình thái (các dạng)
phản ánh tương ứng với các trình độ tổ chức khác nhau từ thấp đến cao của vật chất.

10
C.Mác,Ph.Ăng-ghen:Toàn tập, t.,Nxb.Chính trị quốc gia-Sự thật,Hà Nội, 19.,tr.
Trong quá trình phát triển lâu dài của thế giới vật chất, trình độ tổ chức, kết cấu của
vật chất phát triển từ thấp đến cao và thuộc tính phản ánh của vật chất cũng phát
triển từ thấp đến cao với nhiều hình thái khác nhau. Các hình thái phản ánh cơ bản
có thể được phân loại như sau:
- Hình thái phản ánh vật lý Là hình thái phản ánh đơn giản nhất ở giới vô sinh,
thể hiện qua các quá trình biến đổi cơ, lý của hệ thống phản ánh khi tiếp nhận tác
động, thông tin của hệ thống được phản ánh.
- Hình thái phản ánh hóa học Là hình thái phản ánh được sinh ra nhờ tác động
qua lại giữa các nguyên tử của hệ thống phản ánh và hệ thống được phản ánh. Hình
thái phản ánh hóa học trong quá trình phát triển của thế giới vật chất từ dạng vô cơ
lên dạng hữu cơ cho ta hai hình thái phản ánh hóa học khác nhau: hình thái phản ánh
hóa học vô cơ và hình thái phản ánh hóa học hữu cơ.
- Hình thái phản ánh sinh học Là hình thái phản ánh của các cơ thể sống trong
quá trình tác động lẫn nhau giữa cơ thể sống với môi trường, thể hiện thông qua quá
trình trao đổi chất giữa cơ thể sống và môi trường. Hình thái phản ánh sinh học trong
giới hữu sinh cũng có nhiều hình thức khác nhau ứng với mỗi trình độ phát triển của
thế giới sinh vật:
- Hình thái phản ánh tâm lý Là hình thái phản ánh của các cơ thể sống, ở trình
độ cao hơn trình độ phản ánh sinh học, được hình thành trong quá trình tác động qua
lại lẫn nhau giữa cơ thể sống và môi trường, gắn liền và được thể hiện thông qua các
cảm xúc chủ quan (vui, buồn, đau khổ, sung sướng v.v..) của hệ thống phản ánh dưới
tác động của hệ thống vật chất được phản ánh.
Khác với các động vật bậc thấp, trong quá trình hoạt động sống, các động vật
bậc cao không những biết phản ánh những tác động bên ngoài một cách tích cực,
phân biệt được những tác động có lợi hoặc có hại cho sự tồn tại và phát triển của
chúng, mà còn phản ánh những tác động của môi trường đối với chúng dưới dạng
cảm xúc. Nhờ cảm xúc, động vật có thể xác lập được hành vi ứng xử một cách thích
hợp và có lợi nhất cho chúng.
- Hình thái phản ánh ý thức Là hình thái phản ánh tâm lý cao nhất chỉ riêng
con người mới có, thể hiện thông qua những chức năng quan sát, ghi nhận, cảm
nhận, nhận định, phân định, phẩm định đối với các tác động từ hệ thống được phản
ánh (khách thể phản ánh) đối với chủ thể phản ánh, đồng thời đối với những suy tư,
cảm xúc và hình ảnh bên trong chủ thể phản ánh. Đó là hình thái phản ánh ở trình
độ cao bằng con đường khái quát hóa, hướng sâu vào nhận thức bản chất, quy luật
của cái được phản ánh. Có thể nói hình thái phản ánh ý thức là một hình thái phản
ánh đặc biệt, là hình thái phản ánh của một dạng vật chất sống có tổ chức cao là bộ
óc con người. Chỉ có bộ óc người, một dạng vật chất có tổ chức kết cấu đặc biệt
(khoảng trên dưới 14 tỷ tế bào thần kinh), kết quả của quá trình vận động lâu dài của
thế giới vật chất mới có thuộc tính phản ánh ý thức. Ăng-ghen đã miêu tả một cách
hình ảnh, ví óc người là một đóa hoa rực rỡ nhất của thế giới vật chất.
2. Nội dung mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức:
Trong mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, xét đến cùng thì vật chất có trước,
ý thức có sau, vật chất giữ vai trò quyết định đối với ý thức, ý thức phụ thuộc vào
vật chất.
Tuy nhiên, ý thức không phụ thuộc một cách bị động tuyệt đối vào vật chất,
mà nó có tính độc lập tương đối trong mối quan hệ với vật chất. Một trong những
biểu hiện của tính độc lập tương đối đó là, ý thức sau khi đã hình thành, có tác động
trở lại thế giới vật chất, thông qua hoạt động thực tiễn của con người.
Như vậy, chủ nghĩa duy vật biện chứng không tuyệt đối hóa sự đối lập giữa
vật chất và ý thức, mà chỉ ra sự đối lập giữa vật chất và ý thức vừa có tính tuyệt đối,
vừa có tính tuyệt đối.
Tuyệt đối là ở chỗ: suy đến cùng, vật chất là cái có trước, là cái quyết định đối
với ý thức. Đó là nguyên tắc tuyệt đối của chủ nghĩa duy vật. Tương đối là ở chỗ:
thứ nhất, đây là sự đối lập của vật chất với một thuộc tính của vật chất (thuộc tính
phản ánh), gắn liền với vật chất. Ý thức gắn liền với vật chất, là một thuộc tính của
vật chất; thứ hai, trong những điều kiện nhất định, trong những hoàn cảnh cụ thể, ý
thức, tinh thần có thể đi trước, quyết định sự thay đổi hoàn cảnh khách quan.
Lê nin viết: “Sự đối lập giữa vật chất và ý thức chỉ có ý nghĩa tuyệt đối trong
những phạm vi hết sức hạn chế: trong trường hợp này, chỉ giới hạn trong vấn đề
nhận thức luận cơ bản: thừa nhận cái gì là cái có trước, và cái gì là cái có sau? Ngoài
giới hạn đó ra thì không còn nghi ngờ gì nữa rằng sự đối lập đó là tương đối ”11
- Vai trò của vật chất đối với ý thức: Vật chất có trước ý thức và giữ vai trò
quyết định đối với ý thức. Ý thức chỉ là sự phản ánh thế giới vật chất của một dạng
vật chất có kết cấu đặc biệt, trình độ tổ chức cao (bộ óc con người).
Vật chất quyết định ý thức thể hiện ở chỗ: vật chất là cơ sở, là nguồn gốc của
ý thức; quyết định nội dung của ý thức, quyết định sự biến đổi của ý thức v..v..
- Vai trò của ý thức đối với vật chất: Tác động của ý thức đối với vật chất là
tác động gián tiếp, phải thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Ý thức có tác
động trở lại vật chất theo hai khuynh hướng.
Khuynh hướng thứ nhất: có tác động tích cực, thúc đẩy sự phát triển của thế
giới vật chất. Khi ý thức phản ánh đúng đắn hiện thực khách quan, sẽ có tác động
thúc đẩy hoạt động thực tiễn của con người trong quá trình cải tạo thế giới hiện thực
khách quan. Dựa trên sự phản ánh đúng đắn thế giới hiện thực khách quan (các lý
luận khoa học, những tư tưởng tiến bộ v.v..), con người có thể đề ra được những
mục tiêu, phương hướng đúng đắn của hoạt động thực tiễn, xác định, tìm ra được
các biện pháp, cách thức tổ chức, sử dụng các yếu tố vật chất trong hoạt động thực
tiễn sao cho có hiệu quả nhất. Với một tình yêu sâu sắc, với một nỗ lực ý chí mạnh

11
V.I. Lê nin: Toàn tập, Nxb.Tiến bộ, Mát-xcơ-va, 1980, t.18, tr.173
mẽ, con người sẽ vượt qua được những khó khăn trở ngại để đạt tới được mục tiêu
đã đề ra.
Khuynh hướng thứ hai, là khuynh hướng ngược lại với khuynh hướng thứ
nhất: có tác động tiêu cực, kìm hãm sự phát triển của thế giới vật chất, thậm chí có
thể hủy hoại thế giới vật chất, nếu ý thức phản ánh sai lạc thế giới vật chất (mê tín
dị đoan; những quan điểm sai trái về cuộc sống, về thế giới hiện thực khách quan
v.v..).
3. Ý nghĩa phương pháp luận (Vận dụng nguyên lý về mối quan hệ biện chứng
giữa vật chất và ý thức vào trong cuộc sống): Từ nguyên lý 1 vận dụng vào cuộc
sống, chúng ta rút ra nguyên tắc (quan điểm) khách quan:
Nguyên tắc này đòi hỏi, trong cuộc sống, chúng ta luôn luôn phải xuất phát
từ tình hình thực tế khách quan, phải tôn trọng và làm theo quy luật khách quan;
không bao giờ được xuất phát từ ý muốn, tình cảm, nguyện vọng, ý chí chủ quan để
đề ra một kế hoạch hành động nào đó (trong lĩnh vực nhận thức hoặc trong lĩnh vực
thực tiễn). Đồng thời cần phát huy tính năng động chủ quan trong quá trình tìm ra
kế hoạch hành động, phương tiện và các biện pháp hành động thích hợp, có hiệu quả
cao, đạt được một cách tốt nhất mục tiêu của kế hoạch hành động.

************

You might also like