You are on page 1of 20

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG

KHOA: LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ


=======000=======

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC

QUAN ĐIỂM DUY VẬT BIỆN CHỨNG VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA


VẬT CHẤT VỚI Ý THỨC VÀ VẬN DỤNG VÀO CÔNG CUỘC
ĐỔI MỚI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

Sinh viên thực hiện: Trần Trung Hiếu


Mã sinh viên: 2211650017
Số thứ tự: 26
Lớp tín chỉ : TRIH114K61.4
Giáo viên hướng dẫn: TS. Đào Thị Trang

Hà Nội, 2022
MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU..............................................................................................3

NỘI DUNG...................................................................................................4

I. Quan điểm duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật chất với ý thức
.......................................................................................................................4
1. Vật chất.................................................................................................4
1.1. Định nghĩa vật chất.......................................................................4
1.2. Các phương thức tồn tại của vật chất..........................................5
2. Ý thức....................................................................................................7
2.1. Nguồn gốc của ý thức....................................................................7
2.2. Bản chất của ý thức.......................................................................7
2.3. Kết cấu của ý thức.........................................................................8
3. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức..................................................8
3.1. Vật chất quyết định ý thức...........................................................9
3.2. Ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất...9
3.3. Ý nghĩa phương pháp luận.........................................................10

II. Vận dụng quan điểm duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật chất
với ý thức vào công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay............................11
1. Đổi mới bám sát thực tiễn, xuất phát từ thực tế khách quan........11
2. Phát huy vai trò của tính năng động chủ quan trong công cuộc đổi mới.
.................................................................................................................15
3. Chú tâm mối quan hệ giữa kinh tế và văn hóa...............................16

TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................19

2
LỜI MỞ ĐẦU
Theo quan điểm chủ nghĩa duy vật biện chứng Mác – Lênin, bất cứ sự vật,
hiện tượng nào dù trong tự nhiên hay trong xã hội, dù là vật thể vô cùng lớn như
các hành tinh, thiên hà,… hay vật thể vô cùng nhỏ như các hạt cơ bản cũng đều
chỉ là những dạng biểu hiện cụ thể của vật chất. Vật chất là cái có trước, ý thức
là cái có sau, vật chất quyết định ý thức nhưng cũng đồng thời chịu sự tác động
từ ý thức. Đây là mối quan hệ biện chứng hoàn chỉnh, khoa học nhất, đem lại giá
trị thực tiễn to lớn, được nhiều quốc gia trên thế giới áp dụng để tìm ra phương
hướng phát triển cho mình, trong đó có cả Việt Nam.

Trong thời kỳ hội nhập hiện nay, công cuộc đổi mới toàn diện đất nước
cần tiếp tục được tiến hành và đẩy mạnh, trong đó đổi mới kinh tế đóng vai trò
then chốt, giữ vị trí chủ đạo. Đồng thời đổi mới về văn hóa cũng mang tính cấp
bách bởi giữa đổi mới kinh tế và đổi mới văn hóa có mối liên hệ ràng buộc chặt
chẽ với nhau không thể tách rời nhau. Chính vì vậy, chúng ta cần tìm hiểu sâu
sắc hơn mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức, tạo cơ sở lý luận đúng
đắn cho việc vận dụng vào mối quan hệ giữa kinh tế và văn hóa của đất nước,
xây dựng Việt Nam ngày càng giàu đẹp. Có thể thấy việc nghiên cứu mối quan
hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức có một ý nghĩa tích cực cả về mặt lý luận
lẫn thực tiễn. Nhận thấy được điều này cùng với mong muốn hệ thống hóa
những kiến thức liên quan đến triết học đã tích lũy được, tôi đã chọn nghiên cứu
thêm về đề tài “Quan điểm duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật chất
với ý thức và vận dụng vào công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay.” Khi
nghiên cứu đề tài này, tôi muốn đi sâu phân tích và làm rõ những lý luận chung
nhất về vật chất và ý thức, mối quan hệ biện chứng giữa chúng và sự vận dụng
những lý luận trên vào công cuộc đổi mới ở Việt Nam.

3
NỘI DUNG
I. Quan điểm duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật chất với ý thức
1. Vật chất
1.1. Định nghĩa vật chất

Với sự phát triển của khoa học kĩ thuật vào cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ
XX, các quan điểm siêu hình về vật chất rơi vào khủng hoảng và dần phá sản.
Trong tình hình phức tạp đó, nhằm đấu tranh chống mọi biểu hiện của chủ nghĩa
duy tâm, hoài nghi, đồng thời bảo vệ và phát triển chủ nghĩa duy vật, V.I.Lênin
đã tiến hành tổng kết toàn diện những thành tựu mới nhất của khoa học cùng
những tư tưởng đúng đắn của C.Mác và Ph.Ăngghen để đưa ra định nghĩa hoàn
chỉnh nhất về vật chất trong tác phẩm Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh
nghiệm phê phán như sau: “Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực
tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của
chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác.”

Định nghĩa về vật chất của Lênin bao gồm ba nội dung cơ bản sau:

Thứ nhất, khi nói vật chất là một phạm trù triết học, Lênin muốn nhấn
mạnh việc phải hiểu vật chất theo một cách khái quát nhất, không quy khái niệm
vật chất về vật thể hay những dạng biểu hiện cụ thể của vật chất

Thứ hai, thuộc tính cơ bản nhất, phổ biến nhất của mọi dạng vật chất
trong chủ nghĩa duy vật biện chứng là tồn tại khách quan, nằm ngoài ý thức và
không lệ thuộc vào ý thức, cho dù con người có nhận thức được hay không nhận
thức được nó.

Thứ ba, vật chất khi trực tiếp hoặc gián tiếp tác động vào các giác quan sẽ
đem lại cho con người cảm giác. Như vậy, vật chất là cái có trước, là cội nguồn
của cảm giác (ý thức). Cảm giác không ngừng chép lại, chụp lại, phản ánh hiện
thực khách quan, nên về nguyên tắc, con người có thể nhận thức được thế giới

4
và giới hạn nhận thức có thể bị vượt qua khi con người phát triển, “nối dài” các
giác quan.

Định nghĩa về vật chất của Lênin đã giải quyết đúng đắn và triệt để cả hai
mặt vấn đề cơ bản của triết học, triệt để khắc phục hạn chế của chủ nghĩa duy
vật cũ, bác bỏ chủ nghĩa duy tâm bất khả tri, từ đó khắc phục khủng hoảng, đem
lại niềm tin trong Khoa học Tự nhiên. Đây còn là tiền đề xây dựng quan điểm
duy vật về xã hội, lịch sử loài người và là nền tảng vững chắc cho sự liên minh
ngày càng chặt chẽ giữa triết học duy vật biện chứng với khoa học.

1.2. Các phương thức tồn tại của vật chất


a. Vận động

Theo quan điểm của triết học Mác – Lênin, vận động không chỉ đơn giản
là sự thay đổi vị trí trong không gian mà theo nghĩa chung nhất, vận động là mọi
sự biến đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ. Vật chất chỉ tồn tại bằng cách
vận động và cũng chỉ thông qua vận động mà vật chất biểu hiện sự tồn tại của
mình. Qua việc xem xét những trạng thái vận động của giới vật chất, loài người
mới có thể nhận thức sâu sắc về sự vật.

Ph.Ăngghen cho rằng vận động là một thuộc tính cố hữu của vật chất,
sinh ra cùng với vật chất và chỉ mất đi khi sự vật mất đi (chuyển hoá thành sự
vật hay hình thức vận động khác). Nói cách khác, vật chất là vô cùng, vô tận nên
sự vận động là vĩnh cửu, tuyệt đối.

Vận động có năm hình thức cơ bản: cơ học, vật lý, hoá học, sinh học và
xã hội. Các hình thức vận động này khác nhau về chất, từ vận động cơ học đến
vận động xã hội là sự khác nhau về trình độ của sự vận động. Các hình thức vận
động cao nhất xuất hiện trên cơ sở các hình thức vận động thấp hơn, các hình
thức vận động thấp không có khả năng bao hàm các hình thức vận động ở trình
độ cao hơn nó. Tuy các hình thức vận động có thể chuyển hoá cho nhau, song
quá trình đó phải tuân theo quy luật bảo toàn năng lượng.

5
Dù vật chất luôn trong trạng thái vận động, biến đổi không ngừng nhưng
bản thân sự vận động bao hàm một trạng thái đặc biệt là hiện tượng đứng im
tương đối. Trạng thái này diễn ra khi sự vận động tiếp diễn trong cân bằng, chỉ
biểu hiện khi sự vật vẫn còn là nó, chưa biến thành cái khác. Dù xu hướng
chung của vận động là làm sự vật hiện tượng liên tục biến đổi, đứng im lại là sự
vận động cá biệt có xu hướng hình thành, duy trì tính ổn định của sự vật, hiện
tượng.

b. Không gian và thời gian

Không gian và thời gian là hai thuộc tính, hai hình thức tồn tại khác nhau,
song đồng thời liên hệ chặt chẽ với nhau của vật chất vận động Vật chất có ba
chiều không gian và một chiều thời gian. Trong đó, không gian là hình thức tồn
tại của vật chất xét về mặt quảng tính, sự cùng tiếp diễn, kết cấu và ảnh hưởng
lẫn nhau. Thời gian chỉ hình thức tồn tại của vật chất vận động xét về mặt độ dài
tồn tại, sự nối tiếp nhau của các giai đoạn. Hai hình thức tồn tại trên của vật chất
vận động đều mang tính khách quan, tính vĩnh cửu và vô tận.

V.I.Lênin viết: “Trong thế giới không có gì ngoài vật chất đang vận động
và vật chất đang vận động không thể vận động ở đâu ngoài không gian và thời
gian.” Các đặc tính và sự biến đổi của không gian bao giờ cũng tác động tới tính
chất cùng sự biến đổi của thời gian và ngược lại. Như vậy, không gian và thời
gian thực chất thuộc một thể thống nhất không – thời gian.

c. Tính thống nhất vật chất của thế giới

Các nhà duy vật biện chứng cho rằng chỉ có một thế gới duy nhất và
thống nhất là thế giới vật chất. Nó tồn tại một cách khách quan, độc lập với ý
thức con người và được phản ánh qua ý thức. Mọi bộ phận của thế giới đều là
các dạng tồn tại cụ thể của vật chất, chịu sự chi phối của những quy luật khách
quan, phổ biến. Do đó, chúng có mối quan hệ thống nhất với nhau trong thế giới
vật chất. Thế giới vật chất tồn tại vĩnh cửu, vô tận, không phải do bất kỳ ý niệm

6
siêu hình nào sinh ra và cũng không tự mất đi. Mọi sự vật trong thế giới luôn
biến đổi không ngừng, tác động lẫn nhau trong các quá trình vật chất. Theo
Ph.Ăngghen, tính thống nhất vật chất của thế giới đã được chứng minh bằng sự
phát triển lâu dài và khó khan của triết học và khoa học tự nhiên.

2. Ý thức
2.1. Nguồn gốc của ý thức

Từ quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, Ý thức xuất hiện là kết
quả của quá trình tiến hóa lâu dài của giới tự nhiên, của lịch sử Trái đất, đồng
thời là kết quả trực tiếp của thực tiễn xã hội – lịch sử của con người.

Nguồn gốc tự nhiên hay điều kiện cần của ý thức là sự xuất hiện con
người và hình thành bộ óc của con người có năng lực phản ánh hiện thực khách
quan. Bộ óc con người được hình thành qua quá trình phát triển lâu dài của Trái
đất cũng như quá trình tiến hoá của giới tự nhiên. Cũng theo lịch sử tiến hoá của
thế giới vật chất, các thuộc tính phản ánh của vật chất phát triển dần từ thấp đến
cao. Bộ óc con người và mối quan hệ giữa con người với ý thức khách quan tạo
ra quá trình phản ánh năng động, sáng tạo, là nguồn gốc tự nhiên của ý thức.

Nguồn gốc xã hội hay điều kiện đủ của ý thức theo Ph.Ăngghen là lao
động và ngôn ngữ. Đây là hai sức kích thích chủ yếu đã cải biến tâm lý động
vật, biến nó trở thành ý thức con người. Qua quá trình sử dụng công cụ lao động
tác động vào giới tự nhiên để tạo ra của cải thoả mãn nhu cầu của mình, con
người dần hoàn thiện chức năng bộ óc, bắt đầu nhận thức sự vật có hệ thống.
Trong hoàn cảnh đó, nhu cầu giao tiếp và trao đổi thông tin giữa các cá nhân trở
nên cần thiết hơn, dẫn tới sự ra đời của ngôn ngữ. Đây là công cụ hiệu quả để
truyền tải tư duy, ý thức và cũng nhờ ngôn ngữ, con người đỡ lệ thuộc vào các
đối tượng vật chất cụ thể, thông qua đó làm phát triển tư duy.

2.2. Bản chất của ý thức

7
Ý thức là hình ảnh về hiện thực khách quan trong bộ óc con người. Nội
dung được phản ánh là đối tượng khách quan song hình thức phản ánh là chủ
quan, mang tính chọn lọc do nhiều yếu tố, đặc điểm hay mục đích của chủ thể
phản ánh.

Ý thức là sự phản ánh thế giới khách quan một cách chủ động và sáng tạo
vào trong bộ óc con người. Sự phản ánh ý thức là quá trình trao đổi thông mang
tính hai chiều giữa chủ thể và đối tượng phản ánh. Qua đó, con người mô hình
hoá các đối tượng phản ánh để xây dựng các học thuyết, lý thuyết khoa học và
vận dụng để cải tạo hoạt động trong thực tiễn.

Ý thức mang bản chất lịch sử - xã hội. Con người là một loài động vật xã
hội, tồn tại dựa trên những mối quan hệ xã hội (không gian) nên ý thức bị quyết
định bởi các điều kiện khác nhau trong xã hội. Đồng thời, ý thức thực chất là
thuộc tính phản ánh của bộ óc con người, bị ảnh hưởng, thay đổi theo những
điều kiện lịch sử (thời gian) xảy ra quanh họ.

2.3. Kết cấu của ý thức

Từ góc độ tiếp cận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, ý thức gồm nhiều
lớp cấu trúc là tri thức, tình cảm, niềm tin, ý chí. Trong đó tri thức là yếu tố quan
trọng nhất bởi nó là phương thức tồn tại của ý thức.

Xét theo chiều sâu nội tâm, ý thức được hợp thành từ tự ý thức, tiềm thức,
vô thức và nhiều yếu tố khác.

3. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức

Theo quan điểm triết học Mác – Lênin, vật chất và ý thức có mối quan hệ
biện chứng, trong đó vật chất quyết định ý thức, còn ý thức tác động tích cực trở
lại vật chất.

8
3.1. Vật chất quyết định ý thức

Trước hết, vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức.

Vật chất “sinh ra” ý thức, vì ý thức xuất hiện gắn liền với sự xuất hiện
cách đây 3 tới 7 triệu năm mà con người lại là kết quả của một quá trình phát
triển, tiến hoá lâu dài của giới tự nhiên, của thế giới vật chất.

Thứ hai, vật chất quyết định nội dung của ý thức.

Dưới bất kỳ hình thức nào, ý thức đều là một thuộc tính phản ánh thực tại
khách quan. Nội dung của ý thức chẳng qua chỉ là kết quả của sự phản ánh hiện
thực khách quan vào trong đầu óc con người.

Thứ ba, vật chất quyết định bản chất của ý thức

Tuy nói ý thức phản ánh hiện thực khách quan nhưng sự phản ánh đó
mang tính tích cực, tự giác, sáng tạo thông qua thực tiễn. Chính thực tiễn là hoạt
động vật chất có tính cải biến thế giới của loài người, là cơ sở hình thành, phát
triển ý thức. Nói cách khác, ý thức con người vừa phản ánh, vừa sáng tạo, phản
ánh để sáng tạo và sáng tạo trong phản ánh.

Cuối cùng, vật chất quyết định sự vận động, phát triển và mất đi của ý
thức.

Mọi sự tồn tại và phát triển của ý thức đều gắn liền với sự vận động,
chuyển hoá của vật chất. Vật chất thay đổi thì dù sớm hay muộn, ý thức cũng sẽ
thay đổi theo. Như khi điều kiện về vật chất, kinh tế ngày càng phát triển, đời
sống tinh thần và ý thức con người cũng sẽ có sự chuyển biến rõ rệt.

3.2. Ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất

Thứ nhất, tính độc lập tương đối của ý thức biểu hiện qua tính lạc hậu,
tính vượt trước hay tính kế thừa của ý thức. Những tính chất ấy xuất hiện do sau
khi được vật chất “sinh ra”, ý thức vận động, phát triển theo một quy luật riêng,

9
có thể nhanh, chậm, song hành với hiện thực, không phụ thuộc máy móc vào vật
chất.

Thứ hai, ý thức tác động trở lại vật chất theo hai hướng: tích cực hoặc tiêu
cực. Khi con người có tri thức đúng đắn, có ý chí, nghị lực và tình cảm tích cực
thì khả năng hành động hợp quy luật khách quan sẽ cao hơn. Ngược lại, việc
thiếu tri thức cần thiết, vô cảm, nhụt chí sẽ dẫn đến nhận thức sai lầm và hành
động trái quy luật khách quan.

Thứ ba, sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thông qua hoạt động
thực tiễn của con người. Bản thân ý thức không thể thay đổi vật chất mà nó cung
cấp cho con người tri thức về thế giới khách quan và quy luật vận hành của thế
giới ấy.

Thứ tư, vai trò của ý thức chình là vai trò hoạt động thực tiễn của con
người được điều khiển bởi ý thức. Xã hội càng phát triển thì vai trò của ý thức
ngày càng to lớn, nhất là với những tiến bộ vượt bậc của con người trong mọi
lĩnh vực khoa học. Tính năng động, sáng tạo của ý thức mặc dù rất to lớn, nhưng
nó cũng không thể vượt quá tính quy định của những tiền đề vật chất đã xác
định, nên phải dựa vào các điều kiện khách quan và năng lực chủ quan của các
chủ thể hoạt động.

3.3. Ý nghĩa phương pháp luận

Dựa trên mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức trong triết học
Mác – Lênin, các nhà duy vật biện chứng đã rút ra nguyên tắc phương pháp luận
là tôn trọng tính khách quan kết hợp với phát huy tính năng động chủ quan.

Khi xem xét bất ký sự vật, hiện tượng nào cũng cần đảm bảo tính khách
quan, xem xét như chính nó đang tồn tại trên thực tế. Về cơ bản, con người cần
tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan, lấy nhân tố vật chất làm cơ sở
trong mọi hoạt động thực tiễn của mình.

10
Bên cạnh đó, phải biết phát huy tinh thần năng động, sáng tạo của nhân tố
chủ quan qua việc chủ động nâng cao tri thức, quan tâm phát triển giáo dục.
Tiếp đó cần xây dựng nhân sinh quan tích cực bằng việc tăng cường bồi dưỡng
tình cảm, niềm tin và ý chí. Tính năng động, sáng tạo chỉ có thể phát huy trong
môi trường phù hợp và khi vấn đề lợi ích được giải quyết.

II. Vận dụng quan điểm duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật chất
với ý thức vào công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay.
1. Đổi mới bám sát thực tiễn, xuất phát từ thực tế khách quan

Nhận thức được tầm quan trọng của hiện thực khách quan trong quá trình
lãnh đạo cách mạng và đất nước, những chủ trương của Đảng và nhà nước ta
luôn đề cao và tôn trọng yếu tố này. Từ đó, công cuộc xây dựng và đổi mới đã
ghi nhận nhiều thành tựu to lớn.

Sự sụp đổ của các nhà nước theo mô hình xã hội chủ nghĩa cũ ở Liên Xô
và Đông Âu là bài học quý báu về việc cần đổi mới, cải tiến về mặt lý luận và
thực tiễn để trở nên phù hợp hơn trong thời kỳ mới. Nguyên nhân chủ yếu dẫn
tới quá trình sụp đổ của mô hình xã hội chủ nghĩa cũ là do sự đối đầu cực đoan
giữa xã hội chủ nghĩa với chủ nghĩa tư bản mà tiêu biểu là cuộc chiến tranh
lạnh. Tuy vậy, thực tế sau này đã chứng minh xã hội chủ nghĩa không đối lập
gay gắt mà thực chất kế thừa chủ nghĩa tư bản ở nấc thang cao hơn trong quá
trình phát triển theo vòng xoắn ốc. “Bản thân thực tiễn phát triển cũng chỉ rõ mô
hình kinh tế thị trường không phải là riêng có với chủ nghĩa tư bản , mà kinh tế
thị trường – một phương thức phát triển phù hợp, cho phép phát huy sức mạnh
tổng hợp các nguồn lực - là thành tựu phát triển chung của nền kinh tế thế giới.
Và cũng vì vây xã hội chủ nghĩa không phải đối lâp với kinh tế thị trường, mà
chính thông qua nền kinh tế thị trường là phương thức phù hợp cho phép chúng
ta huy động các nguồn lực xây dựng cơ sở vật chất của xã hội mới - xã hội chủ
nghĩa.”

11
Đặc biệt, ngay trong Đại hội lần thứ VI (năm 1986), về vấn đề “đổi mới”
Đảng đã đề ra một chủ trương áp dụng toàn diện trên mọi lĩnh vực của đời sống
xã hội: “Đảng phải luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy
luật khách quan. Năng lực nhận thức và hành động theo quy luật là điều kiện
bảo đảm sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng”. Mọi đường lối, chính sách, pháp luật
của Đảng và Nhà nước đều phải xuất phát từ thực tiễn và bám sát thực tiễn, coi
trọng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận để điều chỉnh, bổ sung, phát triển
đường lối đổi mới.

Theo đà phát triển tất yếu của xã hội từ góc nhìn triết học Mác - Lênin, có
thể khẳng định chủ nghĩa tư bản rồi nhất định sẽ bị thay thế bởi xã hội chủ nghĩa
giống như việc chủ nghĩa tư bản đã thay thế chế độ phong kiến. Đây là một quy
luật khách quan, không thể tránh khỏi của lịch sử, của thế giới vật chất. Đối với
Việt Nam, con đường đi lên xã hội chủ nghĩa cần xuất phát từ những điều kiện –
hoàn cảnh lịch sử cụ thể của đất nước và con người Việt Nam, của dân tộc và
lịch sử trong bối cảnh khu vực thế giới hiện đại, theo quy luật chung mà chủ
nghĩa Mac – Lênin đã nêu ra. Con đường ấy đã được khẳng định trong Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng: Con đường đi lên của nước ta là sự phát
triển quá độ lên xã hội chủ nghĩa bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là “bỏ qua
việc xác lập hệ thống chính trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư
bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà mà nhân loại đã đạt
được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt là về khoa học và công nghệ để phát
triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại.” Xây dựng xã
hội chủ nghĩa bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo ra sự biến đổi về chất trên tất
cả các lĩnh vực của xã hội là sự nghiệp có vô vàn khó khăn, thử thách nên việc
chuẩn bị với nhiều thời kỳ quá độ dài hạn, nhiều chặng đường, nhiều hình thức
tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ, là một nước đi sáng tạo thể hiện sự
lãnh đạo sáng suốt của Đảng.

12
Như vậy, cơ hội cho các quốc gia từng bước xác lập mô hình xã hội mới
phù hợp đã được mang lại từ các xu hướng phát triển trên quy mô toàn cầu. Đối
với vn đó chính là nền kinh tế thị ̣trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Quá trình
đổi mới của nước ta trong hơn suốt ba thập kỷ qua do Đảng ta khởi xướng và
lãnh đạo đã đạt nhiều thành quả góp phần nâng cao vị thế đất nước và cải thiện
đời sống nhân dân. Qua đó, con đường đi lên xã hội chủ nghĩa, bỏ qua thời kỳ tư
bản chủ nghĩa được củng cố thêm và chứng minh là sự lựa chọn đúng đắn, sáng
suốt.

Mục tiêu của giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
hiện nay là: “Phát triển kinh tế là trọng tâm, xây dựng Đảng là then chốt, phát
triển văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội, củng cố quốc phòng - an ninh là
nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên”. Điều đó giúp cho chúng ta thấy rõ: “Đổi
mới mang tầm vóc và ý nghĩa cách mạng, là quá trình cải biến sâu sắc, toàn
diện, triệt để, là sự nghiệp cách mạng to lớn của toàn Đảng, toàn dân và toàn
quân”. Thực tiễn của hơn 30 năm đổi mới cho thấy, việc vận dụng sáng tạo phép
biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác- Lênin, đặc biệt là mối quan hệ biện
chứng giữa vật chất và ý thức vào giải quyết những vấn đề mâu thuẫn nội tại nảy
sinh trong quá trình đổi mới là hiệu quả. Dựa trên quan điểm duy vật biện
chứng, Đảng ta đã tổng kết, đánh giá để từ đó xác định phương hướng cho chặng
đường tiếp theo của sự nghiệp đổi mới là: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy
vận dụng sáng tạo, phát triển, chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; tăng cường tổng kết
thực tiễn, nghiên cứu lý luận, dự báo chính xác và kịp thời có chủ trương, chính
sách xử lý hiệu quả những vấn đề mới nảy sinh trong thực tiễn, giải quyết tốt các
mối quan hệ lớn phản ánh quy luật đổi mới và phát triển ở nước ta”.

Dù vậy, căn bệnh chủ quan duy ý chí vẫn đang cản trở công cuộc đổi mới,
gây ra nhiều khó khăn. Như đã được nêu trong Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội: “Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa,

13
Đảng ta đã có nhiều cố gắng nghiên cứu, tìm tòi, xây dựng đường lối, xác định
đúng mục tiêu và phương hướng xã hội chủ nghĩa. Nhưng Đảng đã phạm sai
lầm chủ quan, duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan: Nóng vội trong cải tạo
xã hội chủ nghĩa, xóa bỏ ngay nền kinh tế nhiều thành phần, có lúc đẩy mạnh
quá mức việc xây dựng công nghiệp nặng, duy trì quá lâu cơ chế quản lý kinh tế
tập trung quan liêu, bao cấp…”.“Do chủ quan, duy ý chí mà một số bộ, ngành,
địa phương đề ra chỉ tiêu kế hoạch quá xa vời, quá cao, không phù hợp với điều
kiện hoàn cảnh thực tiễn với tham vọng tăng trưởng nhanh chóng để bắt kịp các
nước trong khu vực, dẫn đến không thực hiện được, gây ra sự phát triển mất cân
đối của nền kinh tế.” Nhận định đó cho thấy chủ quan, duy ý chí là một trong
những nhân tố chủ yếu gây nên những sai lầm, khiếm khuyết trong công cuộc
hoạch định đường lối, chính sách, trong hoạt động thực tiễn của Đảng và Nhà
nước ta từ lâu mà đến hiện nay vẫn chưa thể xoá bỏ hoàn toàn, gây thiệt hại
không nhỏ đối với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ
nhà nước xã hội chủ nghĩa. Để khắc phục được khuyết điểm, cải thiện được tình
hình, mỗi cá nhân cần nâng cao nhận thức và quan trọng hơn là “hành động phù
hợp với hệ thống quy luật khách quan, trong đó các quy luật đặc thù của xã hội
chủ nghĩa ngày càng chi phối mạnh mẽ phương hướng phát triển chung của xã
hội.” Trong bối cảnh bình thường hoá sau dịch COVID-19, lý luận này càng
mang tầm vóc quan trọng hơn. Để khắc phục hậu quả đại dịch, khôi phục nền
kinh tế và đời sống nhân dân, đồng thời tiếp tục công việc đổi mới và phát triển
đất nước, Chính phủ đã đưa ra nhiều chỉ đạo quyết liệt, kịp thời, sớm đề ra chiến
lược kinh tế, xã hội phù hợp, đến nay nhiều khu vực ở nước ta đang từng bước
trở lại nhịp sống bình thường, tiếp tục công cuộc sản xuất và xây dựng Tổ quốc.
Từ thực tế tình hình nước ta từ quá khứ đến hiện tại đã khẳng định rằng việc
xuất phát và tôn trọng thực tiễn là quyết định đúng đắn và hiệu quả để có thể
đưa ra những hành động sáng suốt phù hợp với nhịp độ phát triển của đất nước,
giúp công cuộc đổi mới trở nên thuận lợi hơn.

14
2. Phát huy vai trò của tính năng động chủ quan trong công cuộc đổi
mới.

Bản thân sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa là một nhiệm vụ khó khăn,
đặt ra yêu cầu cao về vai trò của nhân tố chủ quan, của tính năng động chủ quan.
Đó trước hết chính là đường lối chính sách đúng đắn có tính chất quyết thắng
của Đảng. Trong công cuộc phát triển đất nước, Đảng ta đã và đang có nhiều
chính sách hiệu quả nhờ phát huy vai trò của ý thức. Trên cơ sở trang bị những
tri thức về bản chất quy luật khách quan của đối tượng, Đảng đã từng bước xác
định đúng đắn mục tiêu và đề ra phương hướng hoạt động phù hợp.

Vai trò của tính năng động chủ quan thể hiện qua chính sách, đường lối
lãnh đạo đúng đắn của Đảng chiếm vị trí quan trọng trong thời kỳ đổi mới của
đất nước. Bên cạnh đó là ý chí, quyết tâm của khối đại đoàn kết toàn dân, tất cả
góp phần thúc đẩy quá trình đi lên, hướng tới xã hội chủ nghĩa của Tổ quốc.

Điều này được thể hiện ngay từ Đại hội VI, khi việc đổi mới kinh tế được
kết hợp với việc đổi mới chính trị ngay từ đầu, đổi mới kinh tế được lấy làm
trọng tâm, đồng thời từng bước thực hiện đổi mới chính trị. “Với đổi mới kinh
tế, phải từng bước đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị, phát huy
ngày càng tốt quyền làm chủ và năng lực sáng tạo của nhân dân trên các lĩnh
vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội.”. Từ góc nhìn mang tính tổng thể, Đảng
ta bắt đầu công cuộc đổi mới về tư duy chính trị trong việc hoạch định đường lối
và các chính sách đối nội, đối ngoại. Sự đổi mới đó là điều kiện tiên quyết cho
mọi sự đổi mới khác sau đó. Đảng ta đã có bước đi đúng đắn khi tập trung trước
hết vào việc thực hiện nhiệm vụ đổi mới kinh tế, khắc phục khủng hoảng kinh tế
- xã hội, tạo tiền đề cần thiết về vật chất lẫn tinh thần để ổn định chính trị, xây
dựng và củng cố niềm tin của nhân dân, tạo thuận lợi cho công cuộc đổi mới các
mặt khác của đời sống xã hội. Hay trong việc phòng chống dịch bệnh COVID-
19, ngay từ khi dịch mới bắt đầu xuất hiện ở nước ta, Đảng và Nhà nước đã đưa
ra những phán đoán đúng đắn về sự nguy hiểm của dịch bệnh, không chủ quan,

15
bị động trong việc chống dịch nên đã có những quyết định và sự lãnh đạo kịp
thời như tuyên truyền về phòng chống dịch trong cộng đồng, kiểm soát ổ dịch và
truy vết nguồn lây trong thời gian ngắn,... Nhờ vậy mà đã có thể hạn chế thiệt
hại do dịch bệnh gây ra, tránh cho tình trạng khủng hoảng xã hội và kinh tế diễn
ra.

Có thể thấy, điều kiện cốt yếu để công cuộc đổi mới giữ được định hướng
xã hội chủ nghĩa và đi đến thành công là trong suốt hành trình đổi mới, Đảng
phải vận dụng Chủ nghĩa Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh một cách sáng tạo,
năng động, kiên trì. Đảng cần liên tục tự đổi mới và chỉnh đốn, không ngừng cải
thiện năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của mình.

Tuy nhiên, chỉ với sự lãnh đạo của Đảng thì con đường cách mạng đổi
mới cũng chưa thể được nắm chắc mà con người mới là nhân tố quyết định sự
thành bại của quá trình này, là nền tảng quan trọng trong công tác xây dựng
Đảng. Trước hết, cần khắc phục bệnh bảo thủ trì trệ, thái độ tiêu cực, thụ động, ỷ
lại trong khâu hành động của nhiều cá nhân lẫn tập thể để từ đó xây dựng tập thể
đủ năng lực và phẩm chất, tích cực học tập, phản ánh đúng đắn thế giới khách
quan. Việc này có ý nghĩa quyết định trực tiếp tới công tác xây dựng Đảng và
đất nước trong sạch, vững mạnh, lãnh đạo thành công sự nghiệp đổi mới.

3. Chú tâm mối quan hệ giữa kinh tế và văn hóa

Đại hội lần thứ IX của Đảng đã nhấn mạnh tư tưởng “phát triển toàn diện
các lĩnh vực văn hóa, xã hội hài hòa với phát triển kinh tế.” Đây là tư tưởng
được đúc kết từ quan niệm về mối liên kết không tách rời giữa kinh tế và văn
hóa, giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần thể hiện trong tư duy Hồ Chí
Minh. Quy rộng hơn, bản chất của mối quan hệ đó là mối quan hệ biện chứng
giữa vật chất và ý thức.

Theo tư tưởng trên, nhiệm vụ thay đổi trình độ người trước hết phải bắt
đầu từ xây dựng và thực hiện đời sống mới bởi trên lý thuyết, vật chất quyết

16
định nội dung của ý thức. Đồng thời, ý thức cũng tác động trở lại vật chất nên
việc tăng cường xây dựng văn hoá chính là để phục vụ nhiệm vụ cơ bản là phát
triển kinh tế. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Trình độ văn hoá của nhân dân
nâng cao sẽ giúp chúng ta đẩy mạnh công cuộc khôi phục kinh tế, phát triển dân
chủ... cần thiết để xây dựng nước ta thành một nước hòa bình, thống nhất, độc
lập, dân chủ và giàu mạnh”. Văn hóa chân chính phải có tác dụng góp phần phát
triển giá trị nhân cách của con người, hướng con người tới chân – thiện – mỹ. Vì
vậy, Người yêu cầu cần phải “xúc tiến công tác văn hóa để đào tạo con người
mới và cán bộ mới cho công cuộc kháng chiến kiến quốc.”

Kinh tế là yếu tố quyết định nội dung, tính chất và sự thay đổi của văn
hóa, kinh tế phát triển sẽ tạo điều kiện để văn hóa phát triển, nhưng phát triển
kinh tế không thể tách rời khỏi sự hỗ trợ của văn hóa hay nói cách khác, văn hóa
có ảnh hưởng tích cực đến sự phát triển kinh tế. Vì thế tăng cường xây dựng văn
hóa là nhiệm vụ cần phải thực hiện song hành, bổ trợ cho một nhiệm vụ khác là
phát triển kinh tế, hướng tới xây dựng một xã hội không chỉ giàu có về vật chất
mà còn văn minh trong ý thức.

Tựu chung lại, nắm rõ và phát huy mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế
và văn hóa có thể giúp giải quyết những vấn đề của thực tiễn đổi mới một cách
có hiệu quả, sáng tạo. Vì thế, nhiệm vụ nghiên cứu một cách hệ thống về việc áp
dụng lý luận về mối quan hệ này vào thực tiễn có vai trò rất quan trọng và cần
được ưu tiên.

17
KẾT LUẬN

Qua tiểu luận “Quan điểm duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật
chất với ý thức và vận dụng vào công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay”, vai trò
quan trọng của việc áp dụng các lý luận vào thực tiễn công cuộc đổi mới ở Việt
Nam đã được làm rõ bằng việc nghiên cứu hệ thống cơ sở lý luận về vật chất- ý
thức và mối quan hệ biện chứng giữa chúng.

Trên chặng đường đổi mới và phát triển của nước nhà, Đảng và Nhà nước
cần nhạy bén, tích cực trong công tác hành động để bắt kịp thực tiễn nhằm đưa
ra những quyết định, đường lối phát triển phù hợp nhất. Đồng thời phải khơi dậy
và phát huy tinh thần yêu nước, ý chí và sự thông minh, sáng tạo của con người
Việt Nam bởi nhân tố con người là yếu tố tiên quyết để công cuộc đổi mới thành
công. Ngoài ra, ta cần quan tâm hơn đến việc phát triển hài hòa giữa kinh tế và
văn hóa, kinh tế phát triển thì văn hóa cũng cần đổi mới để không trở nên lạc
hậu. Quán triệt phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, vận dụng thành
thạo phép duy vật duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
vào việc nghiên cứu và quản lý kinh tế, nâng cao tinh thần sáng tạo của công
dân, phát huy mạnh mẽ hơn nữa quan hệ biện chứng giữa kinh tế và văn hóa
trong công cuộc đổi mới nhằm tăng trưởng nền kinh tế quốc dân, nâng cao thế
Việt Nam trên trường quốc tế là trách nhiệm của mỗi người chúng ta trong công
cuộc đổi mới đất nước. Không chỉ vậy, ta cũng cần biết phát huy tính năng
động, sáng tạo trong mọi hoạt động, cần chú trọng phát triển tri thức của bản
thân, phải tiếp thu có chọn lọc kiến thức mới và không chủ quan trong mọi tình
huống. Trong tiến trình hội nhập quốc tế, cần luôn điều chỉnh, sửa đổi hệ thống
pháp luật trong nước, tuy nhiên, phải có lộ trình, bước đi cẩn trọng, để vừa củng
cố độc lập, tự chủ, vừa hội nhập quốc tế thành công; tăng cường hội nhập, giao
lưu văn hóa nhưng cần phải hòa nhập, không phải “hòa tan”.

18
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, NXB. CTQG, Hà Nội, 1993, tr.35
2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
VI, Nxb CTQG-ST, H.1987, tr.30
3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hôi đại biểu toàn quốc lần thứ IX,
̣ Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.84
4. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
XII, Nxb CTQG, H.2016, tr.16-17, tr.65
5. Đảng Cộng sản Việt Nam, Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận - thực
tiễn qua 30 năm đổi mới, NXB. CTQG, H.2015, tr.183
6. Giáo trình Triết học Mác- Lênin, NXB. CTQG-ST, Hà Nội, năm 2021
7. Tạp chí cộng sản: Quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa: Cơ hội và thách thức, PGS, TS. Vũ Văn Hà, ngày 26/10/2015
8. Tạp chí cộng sản: Quán triệt nguyên tắc khách quan và quan điểm toàn
diện theo tư tưởng Hồ Chí Minh - yêu cầu quan trọng hàng đầu trong
đánh giá, bổ nhiệm đúng cán bộ, PGS, TS. Nguyễn Chí Hiếu, ngày
15/03/2021
9. Tạp chí xây dựng Đảng: Một số bài học qua 30 năm Đảng lãnh đạo đổi
mới đất nước, PGS, TS. Nguyễn Viết Thông, ngày 05/01/2016
10. ThS. Trần Thị Thúy (2021), Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh - nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng Cộng sản
Việt Nam

19
20

You might also like