You are on page 1of 20

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP.

HỒ CHÍ MINH
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ


LÝ LUẬN CỦA TRIẾT HỌC MÁC – LÊ NIN VỀ


MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA NHẬN THỨC
VÀ THỰC TIỄN VÀ SỰ VẬN DỤNGQUAN ĐIỂM
THỰC TIỄN TỰ HỌC CỦA SINH VIÊN HIỆN NAY.

Tiểu luận cuối kỳ


Môn học:TRIẾT HỌC MÁC – LÊ NIN

MÃ SỐ LỚP HP: LLCT130105_23_1_04CLC


GVHD:TS. NGUYỄN THỊ QUYẾT
NHÓM THỰC HIỆN: 7
HỌC KỲ: 1 – NĂM HỌC: 2023-2024

TP.HỒ CHÍ MINH – THÁNG 12/NĂM 2022


-

Họ tên sinh viên thực hiện đề tài:

1.Nguyễn Lê Thị Bảo Linh - 23116070


2.Nguyễn Minh Lương - 23116073
3.Danh Tuấn Thanh - 23119106
4.Trần Ba Minh - 23119083

ĐIỂM:

NHẬN XÉT CỦA GV:

GV ký tên
1

Mục lục

PHẦN MỞ ĐẦU .......................................................................................... 2

1. Lý do chọn đề tài ....................................................................................... 2

2. Mục tiêu và nhiệm vụ đề tài ...................................................................... 3

3. Phương pháp thực hiện đề tài .................................................................... 3

PHẦN NỘI DUNG ...................................................................................... 3

Chương 1: Quan điểm của triết học Mác – Lênin về mối quan biệnchứng
giữa nhận thức và thực tiễn ..................................................................................... 3

1.1. Nhận thức ............................................................................................... 3

1.2. Thực tiễn ................................................................................................ 6

1.3. Mối quan hệ giữa nhận thức và thực tiễn .............................................. 10

1.4. Ý nghĩa phương pháp luận.................................................................... 12

Chương 2: Vận dụng mối quan hệ giữa nhận thức và thực tiễn vào việc tự
học của sinh viên hiện nay..................................................................................... 13

2.1. Khái niệm “tự học”và ý nghĩa của việc tự học trong quá trình học tập
của sinh viên ......................................................................................................... 13

2.2. Yêu cầu của việc tự học ........................................................................ 14

2.3. Một số giải pháp nâng cao ý thức tự học của sinh viên ......................... 16

PHẦN KẾT LUẬN .................................................................................... 17

TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................................... 18


2

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Từthuở khai sơ của nhân loại, khi những nền văn minh bắt đầu hình thành,
Triết học đã là một môn khoa học vĩ đại, con người luôn nghiên cứu, tìm tòi và
khám phá nó để mở mang tri thức của mình. Sự ra đời của triết học Mác - Lênin là
cuộc cách mạng vĩ đại nhất trong lịch sử tư tưởng nhân loại. Trong lịch sử triết học,
nó được coi là tinh hoa nhất của loài người.

Triết học cho ta biết được rằng tuy xung quanh chúng ta có rất nhiều sự vật,
hiện tượng từ đơn giản cho đến phức tạp, nhưng tất cả những điều ấy đều có thể
quy về hai mặt chính là nhận thức và thực tiễn. Theo quá trìnhlịch sử phát triển của
triết học, đã từng có rất nhiều quan điểm khác nhau xoay quanh các vấn đề về mối
quan hệ biện chứng giữa nhận thữ và thực tiễn. Nhưng đến khi triết học Mác -
Lênin ra đời, mối quan hệ đó mới được định nghĩa một cách rõ ràng và bao quát
nhất: Thực tiễn là ho cái ra đời trước, nhận thức là cái có sau, đồng thời thực tiễn
quyết định nhận thức và nhận thức cũng tác động trở lại vật chất.

Hiện nay, khi xã hội ngày càng phát triển, vai trò của nhận thức sẽ ngày càng
lớn hơn vì khi đời sống vật chất của con người ta thay đổi, đời sống tinh thần cũng
sẽ thay đổi theo. Trong môi trường giáo dục, nhận thức đóng vai trò cực kì quan
trọng đối với việc học tập của học sinh, sinh viên đặc biệt là nhận thức tự giác, tự
học. Để có thể có kết quả học tập tốt, sinh viên hiện nay cần trang bị cho mình
những kĩ năng, phương pháp tự học hiệu quả.

Với mong muốn hiểu rõ hơn về mối quan hệ biện chứng giữa thực tiễn và
nhận thức, nhóm em chọn đề tài: "Tìm hiểu quan điểm của triết học Mác – Lê nin
về mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức, liên hệ với vấn đề tự học của
sinh viên hiện nay."
3

2. Mục tiêu và nhiệm vụ đề tài


Mục tiêu của bài tiểu luận này là tìm hiểu quan điểm của triết học Mác –
Lênin về mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức, liên hệ với vấn đề tự học
của sinh viên hiện nay.

Để đạt được mục tiêu này, tiểu luận tập trung và các nhiệm vụ sau:

- Phân tích quan điểm của triết học Mác – Lênin về mối quan hệ biện chứng
giữa vật chất và ý thức.
- Liên hệ với vấn đề tự học của sinh viên hiện nay.

3. Phương pháp thực hiện đề tài


Tiểu luận được hoàn thành dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp với một số phương pháp cụ thể
như: lịch sử - logic, phân tích-tổng hợp, quy nạp- diễn dịch.

PHẦN NỘI DUNG


CHƯƠNG 1:Quan điểm của triết học Mác – Lênin về mối quan hệ
biện chứng giữa vật chất và ý thức
1.1. Vật chất
Định nghĩa

Vật chất là một phạm trù phức tạp, đã xuất hiện rất nhiều quan niệm khác
nhau về định nghĩa của vật chất qua nhiều thời kì lịch sử của loài người.“Vật chất
là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con
người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và
tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác.”– định nghĩa của vật chất được coi là hoàn
chỉnh nhất màLênin đưa ra. Ông đã tổng kết, vận dụng những thành tựu của khoa
học để đấu tranh và bác bỏ những lầm lẫn của của con người về chủ nghĩa duy vật.
4

Ta có thể thấy được rằng đây là một định nghĩa mang đầy đủ thông tin nhất
từ khi xưa đến bây giờ, các nhà khoa học hiện đại coi định nghĩa của Mác - Lênin
như một định nghĩa kinh điển, một số nội dung cơ bản sau:

Vật chất là cái tồn tại hiện thực, bên ngoài của ý thức và không phụ thuộc
vào ý thức, phải nhìn vật chất một cách khách quan. Trong lịch sử, Lênin đã khẳng
định rằng đây là một phạm trù triết học mà trong đó dùng để chỉ cái tính chất duy
nhất của vật chất, đó là “đặc tính tồn tại với tư cách là thực tại khách quan, tồn tại ở
ngoài ý thức của chúng ta”. Cũng theo ông, có một sự đối lập giữa ý thức vàvật
chất mang tính chất tuyệt đối. Như vậy ta có thể hiểu mọi sự vật, hiện tượng từ xưa
đến nay hay từ vi mô đến vĩ mô, đơn giản và phức tạp luôn tồn tạikhách quan, độc
lập với ý thức của con người chúng ta.

Con người khi bị tác động bởi vật chất thì vật chất mang lại cho con người
cảm giác. Lênin khẳng định rằng: “Vật chất biểu hiện đặc tính khách quan trong
hiện thực bằng cách thông qua sự tồn tại không lệ thuộc vào ý thức của các sự vật,
hiện tượng cụ thể.” Vật chất luôn biểu hiện sự tồn tại dưới dạng các thực thể.Các
thực thể này phụ thuộc vào bản thể luận của chúng và mang lại những cảm giác
khác nhau khi tác động trực tiếp hoặc gián tiếp vào các giác quan của con người.
Theo quan điểm của triết học Mác – Lê-nin, ý thức có nguồn gốc từ vật chất, vật
chất là cái được sinh ra trước, khi con người bị tác động bởi vật chất thì mới có
cảm giác nên ý thức (cảm giác) là thứ có sau, phụ thuộc vào vật chất.

Nói một cách khái quát, sẽ có một khoảng thời gian nhất định đồng thời tồn
tại các hiện tượng vật chất và tinh thần, nhưng vật chất tồn tại một cách khách
quan, còn tinh thần thì luôn sinh ra từ vật chất. Trong thế giới vật chất, vì con
người có những giới hạn nhất định, nên chỉ có cái chưa biết và cái đã biết, không có
khái niệm không thể biết được.
5

Các đặc tính của vật chất

*Vận động là phương thức tồn tại và thuộc tính cố hữu của vật chất.

Vận động là thuộc tính cố hữu của vật chất, vật chất tồn tại bằng cách vận
động dưới các dạng thức của nó và không ngừng biến đổi. Mọi sự vật, hiện tượng
đều thống nhất với nhau và có kết cấu nhất định giữa các yếu tố, bộ phận khác
nhau, đối lập nhau.

Ph.Ăngghen khẳng định: “Các hình thức và các dạng khác nhau của vật chất
chỉ có thể thông qua vận động; thuộc tính của vật thể chỉ bộc lộ qua vận động; về
một vật không vận động thì không có gì để mà nói cả”. Vật chất vận động mang
thuộc tính cố hữu, nên nó có thể tồn tại vĩnh viễn, không thể tạo ra và cũng không
bị tiêu diệt như trong lịch sử khoa học có những quy luật bảo toàn năng lượng,
chuyển hóa năng lượng. Hình thức vận động có thể mất đi và chuyển hóa thành một
hình thức vận động khác, còn vận động chung quy lại tồn tại mãi mãi và gắn liền
với vật chất.

*Không gian và thời gian là những hình thức vận động cơ bản của vật chất:

Chủ nghĩa duy vật biện chứng đã đưa ra khẳng định dựa trên cơ sở của khoa
học và thực tiễn rằng: định tính khách quan của cả không gian và thời gian là hình
thức tồn tại của những vật chất động. Trong đó không gian thể hiện sự tồn tại riêng
biệt của các sự vật với nhau, ta có thể thấy rõ qua tính chất và trật tự của các sự vật.
Còn thời gian là về mặt độ dài của diễn biến, sự luân chuyển của các quá trình.
Lênin đã chỉ ra: “Trong thế giới, không có gì ngoài vật chất đang vận động và vật
chất đang vận động không thể vận động ở đâu ngoài không gian và thời gian”.

Trên lý thuyết không gian và thời gian là hình thức tồn tại khác nhau của
những vật chất vận động nhưng chúng có mối liên hệ không thể tách rời
6

nhau.Lênin đã chỉ ra rằng trên thế giới này chỉ có vật chất tồn tại. Không gian và
thời gian là những thứ tồn tại khách quan và tất cả phụ thuộc vào vật chất

*Tính thống nhất của thế giới:

Theo như chủ nghĩa duy tâm, tinh thần, ý thức là cái có trước và quyết định
đến vật chất, còn chủ nghĩa duy vật thì ngược lại. Tuy nhiên, triết học Mác - Lênin
đã khẳng định rằng thế giới chỉ tồn tại duy nhất thế giới vật chất, đồng thời thế giới
là một đại diện cụ thể của vật chất, có mối liên hệ chặt chẽ với vật chất về kết cấu
thế giới, lịch sử phát triển và đều phải tuân theo quy luật khách quan của thế giới
vật chất. Do đó vật chất tồn tại vĩnh cữu, không tự sinh ra và cũng không tự mất đi,
chỉ tồn tại quá trình biến đổi, chuyển hóa của vật chất trong không gian, thời gian.

1.2. Ý thức
Nguồn gốc của ý thức

Ý thức là một trong những phạm trù cơ bản được nghiên cứu lâu dài ở các
trường phái triết học khác nhau, tuy nhiên theo cách hiểu của mỗi trường phái thì
định nghĩa về ý thức rất khác nhau. Ý thức được coi là cơ sở hình thành nên trường
phái triết học trong đó có hai đường lối cơ bản đối lập nhau là chủ nghĩa duy vật và
chủ nghĩa duy tâm. Triết học của chủ nghĩa Mác – Lê-nin đứng trên quan điểm duy
vật biện chứng, kết hợp các thành tựu khoa học và công nghệ để làm rõ nguồn gốc
và định nghĩa của ý thức.

*Nguồn gốc tự nhiên:

Trên cơ sở những thành tựu của khoa học và công nghệ, đặc biệt là sinh lý
học thần kinh, chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: về nguồn gốc tự nhiên, ý
thức là thuộc tính của vật chất, nhưng không phải của tất cả vật chất, mà là dạng vật
chất sống có tổ chức cao nhất là bộ não con người. Không thể tách rời ý thức ra
7

khỏi bộ não vì ý thức là chức năng bộ não, bộ não con người là khí quan vật chất
của ý thức.

Ý thức là sự phản ánh của bộ não con người đối với thế giới, vì vậy sự xuất
hiện của con người và sự hình thành bộ não con người có thể phản ánh hiện thực
khách quan, là nguồn gốc tự nhiên của ý thức.

Sự xuất hiện của ý thức không chỉ có ở tự nhiên mà còn có cả nguồn gốc từ
xã hội. C.Mác và Ph.Ăngghen đã đưa ra: “con người cũng có cả ý thức nữa”. Tuy
nhiên, ý thức không phải khi con người sinh ra đã có mà từ đầu ý thức là một sản
phẩm của xã hội. Ý thức được hình thành nên qua quá trình thống nhất đồng thời
cũng có sự tác động qua lại giữa nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội.

Quá trình hình thành và phát triển của ý thức xuất phát từ các hoạt động
thường ngày của con người trong thế giới khách quan. Ph. Ăngghen đã nói:
“Nhưng cùng với sự phát triển của bàn tay thì từng bước một đầu óc cũng phát
triển, ý thức xuất hiện, trước hết là những điều kiện của các kết quả có ích thực tiễn
và về sau,... là về những quy luật tự nhiên chi phối các kết quả có ích đó”. Đồng
thời sự nhận thức lý tính ngày càng làm cho ý thức trở nên năng động hơn và cũng
là phương thức tồn tại cơ bản của con người.

*Nguồn gốc xã hội:

Sự ra đời, tiền đề và nguồn gốc tự nhiên của ý thức là rất quan trọng và tất
yếu, nhưng chưa đủ để quyết định quá trình ra đời và hình thành bộ não của con
người thông qua lao động, ngôn ngữ và các mối quan hệ xã hội.Ý thức được tạo ra
và phụ thuộc vào sự phát triển của xã hội, vì vậy ý thức từ khi mới hình thành đã
mang trong mình đặc tính xã hội.

Sự hình thành ý thức không phải do sự tác động tự nhiên của thế giới khách
quan vào bộ não con người mà chủ yếu là do hoạt động của con người đã cập nhật
8

thế giới khách quan và làm thay đổi thế giới đó. Ý thức được hình thành qua các
hoạt động thường ngày của con người, ngôn ngữ cũng xuất phát từ nhu cầu lao
động, nhờ lao động và ý thức. Theo quan điểm của Mác, ngôn ngữ là lớp vỏ vật
chất của tư tưởng, là hiện thực tức thời của tư tưởng. Không có ngôn ngữ, con
người không có ý thức.

Qua việc tìm hiểu nguồn gốc tự nhiên và xã hội của ý thức cho thấy rằng ý
thức là kết quả của một quá trình tiến hóa lâu dài tự nhiên. Để ý thức được hình
thành, phát triển, tồn tại theo thời gian, nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội lần
lượt là các điều kiện cần và đủ.Hoạt động thực tiễn trong môi trường vô cùng
phong phú nhờ đó mà ý thức của con người được hình thành.

Bản chất của ý thức

Theo lịch sử triết học, triết học duy tâm coi ý thức là thực thể riêng biệt, là
thực tại duy nhất và coi ý thức là nguồn gốc của vật chất. Ý thức là nguồn gốc của
vạn vật, mọi thực thể có được đều được xây dựng trên cơ sở ý thức, trong đó có bản
chất và sự phát triển của ý thức.

Mặt khác, theo chủ nghĩa duy vật biện chứng, ý thức là sự nhận thức thế giới
khách quan được đưa vào bộ não con người thông qua ý thức nên bản chất của ý
thức là góc nhìn hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan và là sự phản ánh sáng
tạo của thế giới vật chất.

Ý thức có thể được xem là đại diện chủ quan trong thế giới khách quan. Nội
dung của ý thức do thế giới khách quan sáng tạo ra, nhưng ý thức là hình ảnh chủ
quan, hình ảnh tinh thần chứ không phải là hình ảnh vật chất, vật lý như quan niệm
duy vật. Ý thức không thực sự có cấu tạo hay định nghĩa rõ ràng. Ý thức mang đậm
chất tiềm tàng, thức tỉnh trong mỗi sự sống, luôn gắn bó và hiện diện song song với
vật chất, luôn hỗ trợ lẫn nhau để có thể khẳng định được giá trị cho sự tồn tại của
9

chính nó. Ý thức không có giới hạn, mọi thứ chưa và sẽ xảy ra đều có khả năng tồn
tại trong ý thức và góp phần khiến những thứ từ trong ý thức tồn tại dưới dạng vật
chất. Tất cả những phát minh hiện đại con người ngày nay đang sử dụng đều bắt
nguồn từ ý thức.

Ý thức hoàn toàn có thể bắt nguồn từ những việc nhỏ nhặt, vô thức cho tới
những hoạt động lớn mang tính khái quát và chủ động, vì vậy ý thức mang tính
năng động, sáng tạo, gần gũi, bám sát với đời sống, thực tiễn. Đồng thời ý thức
cũng có thể tự triệt tiêu lẫn nhau nếu có xảy ra mâu thuẫn giữa các thế giới quan -
nơi sản sinh ra ý thức, nhưng đồng thời cũng có thể tương trợ phát triển lẫn nhau
nếu có sự thống nhất giữa các mặt đối lập, góp phần xây dựng cho lối tư duy mở,
ham muốn được khám phá, tìm tòi và học hỏi giữa các cá thể.

Kết cấu của ý thức

Ý thức cũng mang nhiều quan niệm giống như vật chất. Và cũng để nắm rõ
về ý nghĩa của ý thức, cần phải xem xét rõ ràng kết cấu của nó một cách khách
quan, nhiều mặt. Khi con người ta muốn tác động đến một sự vật, hiện tượng, ta
cần phải hiểu được bản chất của sự vật, hiện tượng đó. Từ đây rút ra được cơ bản
để ý thức tồn tại chính là tri thức. Nếu trong ý thức ta không có tri thức thì đó là sự
trừu tượng, vô nghĩa, không có tác dụng gì trong cuộc sống hằng ngày của con
người. Tích lũy tri thức là một yêu cầu thường xuyên trong công cuộc xây dựng và
cải tạo thế giới.

Ý thức là một loại tri thức mang đậm tính tâm lý - xã hội cực kì phức tạp mà
các yếu tố trong đó có mối liên hệ mật thiết, bền chặt với nhau. Ý thức có thể chia
ra theo các phương - chiều hoạt động riêng biệt:

- Theo chiều ngang: là các yếu tố cơ bản cũng như là nền tảng để đặt nền
móng cho sự phát triển của ý thức như tri thức, tình cảm, niềm tin, lý trí, ý chí,…
10

những yếu tố này được xây dựng và phát triển bên trong tâm thức của mỗi cá thể
một cách riêng biệt, là cơ sở để mỗi cá thể đưa ra quyết định cho các sự kiện liên
quan đến bản thân. Mọi sự kiện đều mang lại những sự nhận thức riêng trong tâm
trí của cá thể khiến ý thức ngày càng được củng cố hơn trong quá trình tư duy.

- Theo chiều dọc: là những yếu tố được củng cố theo thời gian, mang tính di
truyền cao như tự ý thức, tiềm thức và vô thức. Những yếu tố này tạo nên những
tập tính hoặc thói quen được sử dụng nhiều theo thời gian, từ đó được lặp lại một
cách vô điều kiện và hình thành nên những phản xạ một cách tự động. Tự ý thức
nằm ở nơi sâu nhất và là thứ ảnh hưởng nhiều đến đời sống sinh hoạt của các cá
thể.

Tự ý thức là một thành phần quan trọng trong ý thức. Ý thức hướng về nhận
thức của bản thân con người đối với thế giới. Tự ý thức không chỉ mang tính cá
nhân còn mang tính chất xã hội ví dụ như một tập thể, một dân tộc hay hơn thế nữa
là cả một xã hội. Đây là một mốc đánh dấu trình độ phát triển của ý thức.

Trong khi tự ý thức có được qua quá trình phản ánh thế giới một cách khách
quan thì vô thức lại mang tính bản năng, không phải do lý trí của con người điều
khiển. Những hiện tượng do vô thức nhằm giải tỏa những ức chế trong hoạt động
thần kinh quá sự cho phép; tuy nhiên lại giúp cân bằng trong hoạt động tinh thần
của con người. Hoạt động của con người trong thế giới này thì ý thức vẫn nắm vai
trò mấu chốt, ảnh hưởng sâu sắc đến hành vi của mỗi con người; vô thức là một
mắt xích trong một cuộc sống có ý thức của con người.

1.3. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức


Vật chất quyết định ý thức.
Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là mối quan hệ biện chứng mà trong đó
do vật chất là thứ có trước, vật chất sẽ quyết định ý thức. Ý thức là thứ được sinh ra
11

sau khi đã tiếp xúc với vật chất, là một cách phản ánh vật chất vào tâm trí con
người. Nếu vật chất không tồn tại, ý thức sẽ biến mất theo một lẽ thường tình. Ý
thức được tạo ra và hình thành bên trong bộ não con người dựa trên vật chất mà
con người đã được tiếp xúc, là sản phẩm của những tế bào nơ ron thần kinh trong
não bộ cấu thành. Và mọi sự tác động của vật chất đều sẽ ảnh hưởng, phản ánh tới
não bộ con người qua ý thức. Do đó, mọi yếu tố cấu thành nên ý thức đều do vật
chất quyết định, bao gồm cả bản chất, phương thức và kết cấu. Ý thức sẽ chỉ là
công cụ để phản ánh cho những vật chất tồn tại trong vũ trụ bao la rộng lớn.

Ý thức cũng có một sự tác động nhất định tới vật chất thông qua những sự
kiện, hành động của nhân loại. Ý thức hỗ trợ con người những thông tin, kiến thức
thiết thực về thế giới vật chất, về phương thức cũng như quy tắc của các sự tồn tại
trong vũ trụ, giúp con người có mục tiêu và phương pháp cho những hành động của
bản thân. Mọi hoạt động của con người không ít thì nhiều, dẫu tích cực hay tiêu
cực, đều do tác động của ý thức. Ý thức thôi thúc con người nỗ lực để đạt được
mục tiêu mình đề ra.

Mọi sự thay đổi, phát triển của vật chất đều sẽ dẫn đến sự biến đổi của ý
thức. Trong trường hợp hiện thực được phản ánh bởi một ý thức phù hợp sẽ dẫn
đến sự phát triển các điều kiện của vật chất, tuy nhiên nếu ý thức đó không phù
hợp, vật chất sẽ bị kìm hãm, không thể phát triển. Dẫu vậy, sự kìm hãm cũng sẽ
không được lâu dài do bản chất của sự vật luôn vận động theo các quy tắc khách
quan vốn có, các bản chất nguyên thủy của sự vật sẽ thúc đẩy sự tiến bộ trong quá
trình ý thức để thay thế cho những sự không phù hợp, lạc hậu.

Do đó, vật chất và ý thức luôn tồn tại song song, là nguồn gốc của nhau cũng
như là công cụ hỗ trợ nhauliên tục phát triển. Vật chất là nguồn gốc của ý thức và ý
thức tác động liên tục để phát triển thế giới vật chất. Cả hai đều sẽ không thể tồn tại
cũng như phát triển nếu không có sự tồn tại của nửa còn lại.
12

Ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất

Tuy nhiên, ý thức cũng mang tính chất độc lập một cách tương đối. Dẫu
được vật chất sinh ra nhưng khi đã tồn tại thì ý thức lại mang trong mình những giá
trị độc nhất như những quy luật vận động, quy luật phát triển riêng và dựa trên
những cơ sở đó để tác động ngược lại thế giới vật chất. Ý thức có thể tùy biến mà
thay đổi nhanh hoặc chậm dựa trên cách đời sống vật chất tác động lên nó. Vai trò
của ý thức được thực tiễn hóa qua các chỉ đạo cho những hoạt động, hành động của
con người. Ý thức quyết định cho những hành động của con người, khi phản ánh
chuẩn xác, ý thức xây dựng nên hướng đi đúng đắn và chuẩn mực hỗ trợ cho con
người trên con đường đạt được thành công cho mục tiêu đã được đề ra. Ngược lại,
nếu ý thức chưa được chính xác, nó sẽ hướng con người đi sai lệch đồng thời tạo
thêm trở ngại cho quá trình tư duy đúng của con người.

Với việc xã hội ngày càng phát triển hiện đại, và việc ý thức ngày càng có
sức mạnh lớn ảnh hưởng đến tâm lý của quần thể, trách nhiệm của ý thức càng cao.
Việc thông tin được trao đổi một cách nhanh chóng khiến ý thức có thể phát triển
với tốc độ cao nhưng đồng thời ý thức sai lệch, cổ hủ cũng có thể được tuyên
truyền tràn lan khiến cho cộng đồng có những tư tưởng sai lệch trong cách sống và
lối tư duy. Việc tiếp thu kiến thức có chọn lọc là sự thiết yếu trong quá trình nâng
cao ý thức cũng như phát triển dựa trên những nền tảng, điều kiện khách quan đã
được đề ra sẵn từ các thế hệ trước để tránh việc rơi vào lối mòn mà chủ nghĩa chủ
quan, duy tâm, duy ý chí, phiêu lưu đã từng mắc phải và thất bại trong quá khứ.

1.4. Ý nghĩa phương pháp luận


Qua nghiên cứu quan điểm của triết học Mác - Lênin về mối quan hệ biện
chứng giữa vật chất và ý thức, chúng ta có thể rút ra ý nghĩa của phương pháp luận
là phải vừa tôn trọng khách quan vừa kết hợp sáng kiến chủ quan. Vật chất và
nguồn gốc là thứ quyết định nên ý thức, vì vậy để nhận thức đúng đắn trong sự vật,
13

hiện tượng, trước hết chúng ta phải xem xét nguyên nhân vật chất, tồn tại xã hội, để
giải quyết tận gốc vấn đề, không vội vàng đánh giá, phán xét khi chưa hiểu rõ các
khía cạnh của vấn đề.

Đồng thời, để các việc làm, hành động của con người đạt hiệu quả tốt ưu, ta
cần phải biết tận dụng và phát huy vai trò của các yếu tố tinh thần. Tuy nhiên, cần
phải tránh xa việc chỉ căn cứ vào nhu cầu, niềm tin mà không nghiên cứu hay đánh
giá tình hình đối tượng vật chất. Thay vào đó, chúng ta cần phát huy tính năng
động, sáng tạo, tư duy, lập luận, sức mạnh to lớn của các yếu tố tìm ẩn bên sâu con
người.

Con người muốn ngày càng tài giỏi hơn, xã hội ngày càng phát triển thì điều
bắt buộc là phải luôn chủ động trau dồi kỹ năng và chúng ta cần phải tự động viên
mình không ngừng tìm tòi, sáng tạo để tạo nên thành công bước nhảy vọt, tiến xa
hơn để xã hội càng hoàn hảo, càng nâng cao, tiên tiến, hiện đại.

Chương 2: Vận dụng mối quan hệ giữa vật chất và ý thức vào việc tự
học của sinh viên hiện nay
2.1. Khái niệm “tự học”vàý nghĩa của việc tự học trong quá trình học tập
của sinh viên
Hoạt động tự học là hoạt động tự giác, linh hoạt, chủ động sáng tạo, thông qua sự
hướng dẫn gián tiếp của giáo viên để tiếp thu thêm nhiều kiến thức, thành tựu khoa
học mới; góp phần nâng cao sự hiểu biết, giá trị của bản thân, đạt đượcmục tiêu
mình đặt ra và mang những tri thức đã lĩnh hội cống hiến cho gia đình,xã hội. Tự
học cũng là một quá trình con người có ý thức, biết sử dụng suy nghĩ của bản thân
để chủ động tiếp nhận tri thức, cái mới, kinh nghiệm từ môi trường xung quanh, từ
đó hình thành cấu trúc tâm lý mới để tự cải tạo. ngày càng hoàn thiện hơn. Việc tự
14

học giúp bản thân chúng ta kích thích tư duy suy luận logic,sự nhạy bén của bản
thân được trau dồi hóa theo thời gian.

Việc tự học không chỉ khi còn là học sinh ngồi trên ghế nhà trường mà là công việc
cần làm suốt cả cuộc đời. Khối lượng kiến thức mà chúng ta tiếp thu được từ giáo
viên, từ nhà trường không phải là ít nhưng vô cùng nhỏ bé nếu đem so sánh với
lượng kiến thức từ nhân loại. Để có thể đối mặt và thích nghi với một “xã hội học
tập”- học thường xuyên và suốt đời, chúng ta ai cũng cần phải tự giác học tập, tự
nghiên cứu nhiều hơn nữa thông qua sự hướng dẫn của giáo viên. Ngay lúc này,
việc thay đổi nhận thức, thay đổi tư duy, cải thiện phương pháp học là rất cần thiết.
Việc tự học có ý nghĩa đặc biệt quan trọng không chỉ trong quá trình học tập trên
lớp, trên giảng trường đại học mà còn có ý nghĩa trong suốt cả quá trình làm việc
sau này.

2.2. Yêu cầu của việc tự học


Trong việc tự học, mỗi người đều có quyền được lựa chọn môn học, thời gian, địa
điểm học sao cho phù hợp với điều kiện của mình; mỗi người cần trang bị cho
mình ý thức chủ động lên kế hoạch, xác định biện pháp cụ thể để quá trình tự học
được hiệu quả. Trên thực tế, chúng ta có thể thấy trong các trường cấp ba hay đại
học hiện nay, kỹ năng tự học, tự nghiên cứu của học sinh, sinh viên còn nhiều hạn
chế, bất cập. Việc tự học chưa bao giờ là dễ dàng để có thể thực hiện, muốn tự học
chúng ta cần phải có sự hiểu biết về vấn đề, có cái nhìn sâu sắc trong nhiều mặt của
một tình huống và xử lí nó. Dưới đây là một số yêu cầu của việc tự học.

* Lập kế hoạch để đích đến được cụ thể hóa:

Đầu tiên, chúng ta cần phải xác định được mục tiêu mà mình đang hướng đến; cố
gắng lập thời gian biểu cho riêng mình để hoàn thành việc tự học; không nên “tự trả
giá” với chính bản thân mình; phải lập kế hoạch rõ ràng, cụ thể đến từng chi tiết và
15

làm theo. Bên cạnh đó, kế hoạch được đề ra phải phù hợp với hoàn cảnh sống hiện
tại, phải đủ tiêu chí để có thể áp dụng một cách chính xác, chỉnh chu; cần phải rõ
ràng, rành mạch và không được làm trái kế hoạch đã đề ra.

*Trang bị các phương pháp tự học:

+ Thứ nhất, chúng ta cần có đức tính kiên trì, nhẫn nại, không từ bỏ trước khó
khăn, gian khổ. Ví dụ như khi gặp một bài toán khó, chúng ta nên tìm cách giải,
vận dụng những kiến thức đã học, đọc thêm những kiến thức chưa học từ đó suy
luận từng bước và giải ra kết quả. Có thể kết quả sai, nhưng trải qua nhiều lần như
vậy, chúng ta lại tích lũy thêm nhiều kinh nghiệm, tích lũy nhiều kiến thức từ thực
tiễn; học được nhiều kiến thức mới và nhận ra được lỗi sai của bản thân một cách
rõ ràng. Từ đó có thể hoàn thiện bản thân, không còn cảm giác lo sợ mỗi khi giải
bài tập khó cũng như các khó khăn trong học tập và công việc.

+ Thứ hai, chúng ta nên biết cách chọn lọc thông tin “đúng”. Vậy thế nào là thông
tin đúng ? Thông tin đúng là thông tin được xác nhận bởi những người đi trước, có
nguồn gốc rõ ràng và minh bạch. Từ những thông tin minh bạch đó, chúng ta sẽ
hiểu sâu hơn các vấn đề chúng ta đang tìm hiểu và sẽ tìm hiểu. Hiểu được bản chất
của sự vật chính là chìa khóa để thành công.

+ Thứ ba, chúng ta phải học cách ghi nhớ và thường xuyên ôn lại bài tập cũ, vì sao
phải như vậy? Đơn giản, đó là khi chúng ta học tập nhưng không có cơ hội để vận
dụng những gì đã học thì tất cả nỗ lực cũng thành thừa. Có thể lúc đó, chúng ta thật
sự hiểu rõ nhưng vốn dĩ đầu óc chúng ta không thể nào nhớ hết tất cả những gì đã
trải qua, vì vậy luyện cho mình cách ghi nhớ, ôn lại kiến thức nhiều lần sẽ giúp
chúng ta nhớ lâu hơn.
16

2.3. Một số giải pháp nâng cao ý thức tự học của sinh viên
Để nâng cao hiệu quả của việc tự học ở sinh viên, đầu tiên chúng ta cần nhận
thức kĩ càng về mối quan hệ giữa người dạy học và người đi học, giữa phương
pháp giảng dạy tại trường và việc tự học của bản thân. Sinh viên không biết cách tự
học sao cho đúng cũng một phần do cách truyền đạt và phương pháp dạy của giảng
viên. Người giảng viên cần hướng dẫn sinh viên cách tự học, tự nghiên cứu trước
cũng như sau giờ lên lớp. Điều quan trọng nhất trong phương thức tự học là giảng
viên phải vừa thực hiện công việc giảng dạy của mình, vừa gắn kết, thúc đẩy và
yêu cầu sinh viên tự học, tự nghiên cứu thêm. Để thích ứng với pháp học tập mới
này, đòi hỏi người thầy thật sự tâm huyết và người học trò thực sự có quyết tâm, có
sự thay đổi về mặt ý thức lẫn hành vi trong việc thực hiện nhiệm vụ đề ra.

Đối với người sinh viên hiện nay, ý thức tự học vẫn còn rất kém, đặc biệt là
những tân sinh viên mới vào trường ,vì những người này đã quen với cách giảng
dạy của ngôi trường cấp ba. Ở môi trường đại học, hình thức học tập chủ yếu của
sinh viên là tự học, tự nghiên cứu. Để nhận được sự thành công trong quá trình tự
học, sinh viên cần biết những phương pháp giúp nâng cao ý thức và kỹ năng tự học
sau đây.

Giải pháp 1: Xác định đúng mục tiêu, động cơ học tập

Ngay từ lúc bắt đầu môn học, người sinh viên cần tìm hiểu kĩ càng về môn
học, cần nhận thức chính xác mục đích và nội dung trọng tâm của môn, cũng như
phương pháp học tập của từng môn. Sinh viên khi bắt đầu học tập, làm việc trên
một lĩnh vực nào đó sẽ cần phải xác định cho mình mục đích rõ ràng là học để có
kiến thức, kĩ năng phục vụ cho hoạt động nghề nghiệp của mình sau này, thay vì
học để đối phó, học cho qua. Từ nhận thức đúng đắn đó và những nội dung của
từng môn học sẽ làm sản sinh, nảy nở ở sinh viên sự ham hiểu biết, lòng say mê,
khám phá, nghiên cứu chuyên sâu hơn; tạo động lực để quyết tâm, tiếp tục cố gắng.
17

Giải pháp 2: Xây dựng kế hoạch học tập

Đối với tất cả chúng ta, muốn một công việc nào đó thành công thì phải có
sự chuẩn bị kĩ lưỡng về mục đích, nhiệm vụ và kế hoạch làm việc. Cũng như vậy,
việc tự học phải được chuẩn bị, xây dựng cụ thể, rõ ràng, trong đó kế hoạch đặt ra
phù hợp với điều kiện hiện tại, có tính hướng đến đích cao. Có thể hiểu như sau,
xây dựng kế hoạch dù ngắn hạn hay dài hơi đều cần phải được tạo lập rõ ràng, sắp
xếp thứ tự công việc cần làm, phân bổ thời gian cụ thể cho từng hoạt động.

Giải pháp 3 : Tăng cường năng lực tiếp nhận, xử lý, tổng hợp thông tin

Trong cuộc sống hằng ngày, khi giải quyết một vấn đề trong cuộc sống hoặc
trong công việc, ta cần có cho mình một lượng thông tin cần và đủ về vấn đề đó
hay nói cách khác là sự hiểu biết của ta về vấn đề. V.I.Lênin có câu: “Không có
thông tin thì không có thắng lợi trong bất cứ lĩnh vực nào, cả khoa học, kỹ thuật và
sản xuất”. Nếu chúng ta muốn đưa ra một quyết định đúng đắn, điều đầu tiên cần
đến đó là có đủ thông tin và đặc biệt là thông tin “đúng”.

Đi đôi với những lợi ích từ thông tin “đúng” mang lại, ngày nay có rất nhiều
tin giả, tin rác xuất hiện tràn lan trên Internet, điều này đặt ra cho chúng ta một vấn
đề khác sau khi thu nhận thông tin, đó là phải biết cách xử lý, chọn lọc, phân loại
thông tin. Nếu chúng ta tiếp thu nhầm những thông tin sai sự thật, tin không chính
thống thì khả năng rất cao chúng ta sẽ gặp trở ngại trong quá trình học tập, thậm chí
là thất bại. Vì vậy chúng ta cần tiếp nhận một cách có chọn lọc, xử lý nhanh chóng,
và tổng hợp thông tin từ nhiều nguồn để có thể phục vụ tốt hơn tronghoạt động học
tập hiện nay, cụ thể là việc tự học ở sinh viên.

PHẦN KẾT LUẬN


Ở thời đại công nghệ thông tin tiên tiến như hiện nay, việc học tập, tìm kiếm
tài liệu không còn chỉ diễn ra ở trường học, thư viện, nhà sách mà còn mở rộng ra
18

với rất nhiều phương tiện, cách thức khác nhau. Tuy nhiên dù ở đâu chăng nữa,
việc học tập luôn giữ một vai trò vô cùng quan trọng.Nền giáo dục của một quốc
gia chỉ thành công khi tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng những nhu
cầu của thị trường, đóng góp sức lực của mình vào quá trình phát triển của đất
nước, của xã hội.

Vì vậy, việc nghiên cứu mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức, vận
dụng liên hệ với vấn đề tự học của sinh viên hiện nay mang ý nghĩa to lớn, có tính
thực tiễn cao. Ngày nay, sinh viên cần rèn luyện, trang bị cho mình những phương
pháp học tập hiệu quả, đặc biệt là khả năng tự học của bản thân từ đó góp sức của
mình để xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh, tươi đẹp.

TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. Bộ Giáo dục và Đào tạo : 2021,Giáo trình triết học Mác – Lênin, Nxb. Chính
trị quốc gia sự thật, Hà Nội.
2. Các Mác và Ph. Ăngghentập 18 và tập 20 : (1995)Toàn tập, Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
3. Lê Hồng Hạnh, “Tìm hiểu tầm quan trọng và phương pháp tự học đem lại
hiệu quả”, Việc làm 123, https://vieclam123.vn/tu-hoc-la-gi-b374.html
4. Nguyễn Thị Thu Huyền, “Vai trò của kỹ năng tự học (ngoài lớp học)”, Cổng
thông tin điện tử trường Đại học Sư phạm TP.HCM, http://hcmup.edu.vn/
id=20942%3Avaitrotuhoc&catid=5399%3Avaitrotuhoc&Itemid=9265&lan
g=fr&site=34

You might also like