You are on page 1of 14

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG

KHOA KHOA HỌC CHÍNH TRỊ VÀ NHÂN VĂN


=====000=====

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC

Đề tài: PHÉP BIỆN CHỨNG VỀ MỐI LIÊN HỆ PHỔ BIẾN VÀ VẬN


DỤNG PHÂN TÍCH MỐI LIÊN HỆ GIỮA TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
VỚI BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG SINH THÁI

Sinh viên thực hiện : Nguyễn Xuân Hải


Mã sinh viên : 2312520025
Lớp hành chính : Anh 02 – KDQT theo mô hình
tiên tiến Nhật Bản – Khóa 62
Giảng viên hướng dẫn: ThS. Trần Huy Quang

Hà Nội, tháng 10 năm 2023


MỤC LỤC

Nội dung Trang


Lời mở đầu................................................................................................................3
1. Lí do chọn đề tài...................................................................................................3
2. Mục đích nghiên cứu............................................................................................3
3. Đối tượng nghiên cứu...........................................................................................3
Nội dung chính..........................................................................................................4
1. Phép biện chứng về mối liên hệ phổ biến..........................................................4
a. Khái niệm...........................................................................................................4
b. Tính chất............................................................................................................4
* Tính khách quan.............................................................................................4
* Tính phổ biến..................................................................................................5
* Tính đa dạng...................................................................................................7
2. Ý nghĩa phương pháp luận về mối liên hệ phổ biến..........................................8
3. Vận dụng phân tích mối liên hệ giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi
trường sinh thái........................................................................................................8
a. Tăng trưởng kinh tế là gì?................................................................................8
b. Môi trường sinh thái là gì?..............................................................................9
c. Mối liên hệ giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái.............9
Phần 3 Kết luận.........................................................................................................13
Phần 4 Tài liệu tham khảo.......................................................................................14
Trang 2

2
LỜI MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài
Biện chứng và siêu hình là hai phương pháp tư duy ngược nhau hoàn toàn trong
triết học. Phương pháp siêu hình là phương pháp xem xét sự vật trong trạng thái
đứng im, không vận động, tách biệt và cô lập với nhau. Quan sát kỹ hơn sẽ cho
chúng ta thấy rõ sự tồn tại của sự vật hiện tượng ở trạng thái đứng im tương đối,
nhưng nếu tuyệt đối hoá phương pháp này sẽ dẫn đến sai lầm phủ nhận sự phát
triển, không nhận thấy mối liên hệ giữa các sự vật hiện tượng. Trong khi ngược
lại, phương pháp biện chứng là phương pháp xem xét những sự vật hiện tượng
và những phản ánh của chúng vào tư duy, chủ yếu là trong mối liên hệ qua lại
của chúng, trong sự phát sinh và sự tiêu vong của chúng.
Trong lịch sử triết học có những thời gian, tư duy siêu hình chiếm ưu thế so với
tư duy biện chứng. Nhưng xét trong toàn bộ lịch sử triết học, thì phép biện
chứng luôn chiếm một vị trí đặc biệt trong đời sống tinh thần xã hội. Phép biện
chứng là một khoa học triết học, vì vậy nó cũng phát triển từ thấp tới cao mà
đỉnh cao là phép biện chứng duy vật Mác – xít của triết học Mác – Lênin. Chủ
nghĩa Mác – Lênin luôn đánh giá cao phép biện chứng, nhất là phép biện chứng
duy vật, coi đó là một công cụ tư duy sắc bén để đấu tranh với thuyết không thể
biết, tư duy siêu hình, củng cố niềm tin vào sức mạnh và khả năng của con
người trong nhận thức và cải tạo thế giới.
Việc nghiên cứu phép biện chứng sẽ cho chúng ta thấy rõ hơn bản chất của phép
biện chứng và sự phát triển của tư duy biện chứng của nhân loại. Trong đó, phép
biện chứng về mối liên hệ phổ biến đóng vai trò quan trọng trong đời sống con
người. Đó là lí do tôi chọn đề tài tiểu luận về: Phép biện chứng về mối liên hệ
phổ biến và vận dụng phân tích mối liên hệ giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ
môi trường sinh thái.

2. Mục đích nghiên cứu


Bài tiểu luận chỉ ra khái niệm của phép biện chứng về mối liên hệ phổ biến từ đó
nêu lên mối quan hệ giữa việc tăng trưởng kinh tế đi đôi với bảo vệ môi trường.

3. Đối tượng nghiên cứu


Đối tượng nghiên cứu chủ yếu của bài tiểu luận này là phép biện chứng về mối
liên hệ phổ biến.

3
PHẦN NỘI DUNG
I. Phép biện chứng về mối liên hệ phổ biến
1. Khái niệm
Khi xem xét và phân tích thế giới khách quan (tự nhiên và xã hội), người ta đã
nhận thấy có một đặc điểm nổi bật là: mọi sự vật và hiện tượng trong thế giới
đều liên hệ với nhau, tác động lẫn nhau, hình thành một màng lưới phức tạp, vô
cùng vô tận, tuyệt đối không có một sự vật hiện tượng nào tồn tại một cách biệt
lập, tách rời nhau. Thông qua những mối liên hệ, sự tác động qua lại lẫn nhau
ấy, các sự vật hiện tượng mới có thể biểu hiện sự tồn tại của mình, bộc lộ bản
chất và tính quy luật của chúng trong thế giới. Phép biện chứng duy vật gọi đó là
mối liên hệ phổ biến hợp quy luật của các sự vật và hiện tượng, đồng thời coi
việc nghiên cứu, giải thích mối liên hệ phổ biến ấy một cách khoa học là nhiệm
vụ nghiên cứu đầu tiên của mình. Theo quan điểm của phép biện chứng duy vật,
mối liên hệ là phạm trù triết học dùng để chỉ sự quy định, sự tác động qua lại, sự
chuyển hoá lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt trong cùng
một sự vật, hiện tượng trong thế giới.

2. Tính chất
Các nhà triết học duy vật biện chứng đã chỉ ra các tính chất của mối liên hệ, đó
là: tính khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng, nhiều vẻ.

* Tính khách quan


Thế giới là một thể thống nhất trong đó các sự vật và hiện tượng có sự liên hệ và
tác động qua lại lẫn nhau. Sự liên hệ và tác động qua lại đó là khách 19 quan, là
vốn có của bản thân các sự vật, hiện tượng. Trong các tác phẩm: Tư bản, Biện
chứng của tự nhiên, Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán và
trong nhiều tác phẩm khác, C. Mác, Ph. Ăngghen và V.I. Lênin đã vạch rõ bản
chất biện chứng của thế giới, đã chứng minh rõ biện chứng là cái tồn tại khách
quan vốn có của thế giới. Trong tác phẩm Lút vích Phơ Bách và sự cáo chung
của triết học cổ điển Đức, Ph. Ăngghen khẳng định: ngày nay vấn đề không phải
là tưởng tượng ra những mối liên hệ mà là phát hiện ra những mối liên hệ đó từ
trong những sự thực. Thế giới vật chất rất đa dạng và phong phú. Tuy nhiên, thế
giới vẫn thống nhất ở tính vật chất của nó. Thực tiễn cuộc sống - bằng những
phát minh khoa học - đã chỉ cho chúng ta thấy tính chất phát triển biện chứng
của thế giới, đã chứng tỏ mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới đều có sự tác
động qua lại lẫn nhau, thông qua những mối liên hệ biện chứng. Ph.Ăng ghen
nhấn mạnh: những khoa học hiện đại về tự nhiên đã chứng thực rằng “trong tự
nhiên, rút cục lại, mọi cái đều diễn ra một cách biện chứng chứ không phải siêu
hình” [1, 39]. Điều đó cũng có nghĩa, phép biện chứng với tư cách là học thuyết
về sự liên hệ phổ biến, không phải là sự phỏng đoán trực quan (giống như các
nhà biện chứng thời cổ đại), mà là học thuyết dựa chắc trên cơ sở khoa học. Thế

4
giới là một bức tranh chằng chịt các mối liên hệ và tác động qua lại. Bất cứ một
sự vật, hiện tượng nào cũng có mối quan hệ với tất cả các sự vật, hiện tượng
khác. Nếu như trước kia người ta cho rằng giữa giới vô cơ và giới hữu cơ có một
ranh giới tuyệt đối, thì ngay từ đầu thế kỷ XIX, các nhà hoá học đã chứng minh
từ chất vô cơ có thể tạo ra được các hợp chất hữu cơ. Do đó, lần đầu tiên trong
lịch sử nhận thức của nhân loại, cái “hố sâu” ngăn cách giữa tự nhiên vô cơ và
giới hữu cơ bị lấp kín. Người ta đã nhận thấy bản thân sinh vật chính là kết quả
của vật chất vô cơ, nhưng đồng thời cũng lại là nguyên nhân tác động đến vật
chất vô cơ. Con người chính là sản phẩm cao nhất của giới tự nhiên, là một bộ
phận của tự nhiên, song, dù muốn hay không, con người vẫn luôn phải chịu sự
tác động của các sự vật, hiện tượng khác xung quanh và các yếu tố ngay trong
chính bản thân con người. Đồng thời, cùng với sự vận động và phát triển của
lịch sử nhân loại, để tồn tại, con người cũng có sự tác động trở lại với những sự
vật và hiện tượng đó.

* Tính phổ biến


Khi phân tích thế giới khách quan, phép siêu hình đã tuyệt đối hoá tính độc lập
tương đối của sự vật, hiện tượng, coi chúng không có mối liên hệ gì với nhau.
Nó cô lập sự vật, hiện tượng ra khỏi điều kiện tồn tại của chúng, đồng thời cắt
đứt quá trình lịch sử của sự vật và hiện tượng. Nhìn vào bức tranh chung của thế
giới, phép siêu hình chỉ thấy đươc sự vật cá biệt mà không thấy mối liên hệ giữa
các sự vật ấy, chỉ thấy sự tồn tại của sự vật mà không thấy được sự “sinh thành”
cũng như “tiêu vong” của sự vật, chỉ thấy “cây” mà không thấy “rừng”. Do đó,
phép siêu hình đã không thể giải thích đựơc tại sao giữa các mặt, các bộ phận,
các quá trình của sự vật cũng như giữa sự vật này và sự vật khác lại có những
mối liên hệ như vậy mà không phải là mối liên hệ khác; tại sao các hiện tượng
xảy ra trong thế giới không phải hoàn toàn là ngẫu nhiên mà lại tuân theo những
quy luật nhất định? Đối lập với quan điểm siêu hình, phép biện chứng duy vật đã
chỉ ra rằng: trong thế giới, các sự vật, hiện tượng không tồn tại biệt lập mà ràng
buộc lẫn nhau, phụ thuộc vào nhau, luôn tác động và ảnh hưởng qua lại
lẫn nhau. Sự liên hệ như thế là phổ biến đối với các sự vật, hiện tượng khác nhau
cũng như đối với các mặt, các bộ phận bên trong mỗi sự vật, hiện tượng riêng lẻ.
Và cơ sở của sự liên hệ ấy chính là tính thống nhất vật chất của thế giới. Trái với
phép siêu hình, phép biện chứng coi thế giới tự nhiên không phải là một sự
chồng chất ngẫu nhiên các sự vật và hiện tượng tách rời nhau, cô lập nhau với
nhau, không phụ thuộc vào nhau, mà là một khối thống nhất có liên hệ, trong đó
sự vật và hiện tượng liên hệ hữu cơ với nhau, phụ thuộc vào nhau và ràng buộc
lẫn nhau. Ph. Ăngghen đã chỉ ra rằng giới tự nhiên chính là “hòn đá thử vàng”
của phép biện chứng. Việc phát minh ra tế bào, coi nó là đơn vị cơ sở đã cho
chúng ta thấy toàn bộ cơ thể của thực vật và động vật đều phát triển bằng sự bội
gia và sự phân hoá. Sự ra đời của học thuyết tiến hoá của Đácuyn đã chỉ rõ: tất
cả các giống loài sinh vật (kể cả con người) đều là sản phẩm của một quá trình

5
phát triển lâu dài bằng con đường phân ly tính chất. Và như vậy cũng có nghĩa:
trong thế giới có sự thống nhất và mối liên hệ chặt chẽ giữa khoáng vật, thực
vật, động vật và cả loài người. Đặc biệt, quy luật bảo toàn và chuyển hoá năng
lượng lại thêm một bằng chứng nữa bác bỏ quan điểm siêu hình, chia cắt thế
giới thành từng mảnh biệt lập, vạch rõ sự chuyển hoá lẫn nhau của các hình thức
vận động tạo ra tính nhiều vẻ của thế giới. Thế giới không phải là một khối hỗn
độn, trong đó, sự vật, hiện tượng này đặt cạnh sự vật và hiện tượng khác như
những cái “hộp” đặt trong tủ kính. Thế giới là một khối thống nhất trong sự liên
hệ, tác động qua lại, trong quá trình vận động, phát triển từ thấp đến cao, từ đơn
giản đến phức tạp. Đó là sự liên hệ vô cùng khăng khít không chỉ là giữa các sự
vật và hiện tượng với nhau mà còn là sự chuyển hoá của chúng từ giai đoạn này,
quá trình này sang giai đoạn khác, quá trình khác. Bởi vì, trong bản thân mỗi sự
vật và hiện tượng đã mang sẵn những nhân tố có thể cấu thành sự vật và hiện
tượng khác trong những điều kiện nhất định. Trên thực tế, các nhà kinh điển của
chủ nghĩa Mác – Lênin đã từng gọi phép biện chứng là khoa học về những mối
liên hệ. Bởi vì, bất cứ một sự vật, hiện tượng nào trong thế giới cũng đều có mối
liên hệ với các sự vật, hiện tượng khác, không có sự vật và hiện tượng nào nằm
ngoài mối liên hệ. Người ta nghiên cứu thấy những cánh bướm chập chờn bay ở
rừng Amazôn cũng có sự liên quan đến một cơn bão của Hồng Kông, sự lên
xuống của thuỷ triều cũng có sự liên quan đến mặt trăng, cũng như sự xuất hiện
hiện tượng sao chổi cũng có liên quan đến những sự kiện lớn trên thế giới. Con
người sống và tồn tại nhờ vào việc khai thác giới tự nhiên, tác động vào giới tự
nhiên, song ngược lại, giới tự nhiên với tư cách là môi trường sống của con
người, luôn có sự ảnh hưởng lớn đến con người. Sự tàn phá, khai thác nhiên một
cách bừa bãi của loài người sẽ làm giới tự nhiên trả thù bằng các hiện tượng
“sóng thần”, bằng bão lũ, bằng hạn hán, làm cho trái đất nóng lên, đe doạ tới sự
sống của con người và tuổi thọ của trái đất… Không chỉ có tự nhiên mà cả xã
hội loài người cũng vận động theo “nhịp” biện chứng. Trong lĩnh vực xã hội,
người ta nhận thấy mối quan hệ giữa con người với con người là tất yếu khách
quan. Do nhu cầu sống và tồn tại, con người buộc phải có mối quan hệ qua lại
với nhau, tác động lẫn nhau (mà cơ sở của mối quan hệ ấy là lợi ích). Lịch sử
phát triển của xã hội loài người đã trải qua nhiều hình thái kinh tế - xã hội khác
nhau. Mỗi một hình thái kinh tế - xã hội là một thể thống nhất hữu cơ giữa lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng.
Trong đó, các yếu tố thuộc kiến trúc thượng tầng, các hình thái ý thức xã hội
đồng thời cũng có sự liên hệ với nhau, tác động lẫn nhau. Đặc biệt, giữa các
hình thái kinh tế xã hội khác nhau cũng có mối liên hệ chặt chẽ với nhau trong
quá trình phát triển. Xét trong lĩnh vực tư duy, tư tưởng, người ta cũng nhận
thấy: ý thức con người (vốn là những cái phi vật chất, là thuộc tính của một dạng
vật chất cao nhất là bộ óc người) chính là sự phản ánh sự vận động của hiện thực
khách quan, “di chuyển” và “biến hình” vào trong đầu óc của con người. Ph.
Ăngghen đã chỉ rõ: lịch trình biện chứng của ý tưởng chỉ là phản ánh ý thức của

6
thế giới thực tại. Nói cách khác, biện chứng khách quan quy định biện chứng
chủ quan, tư duy biện chứng phản ánh tính biện chứng vốn có của bản thân cuộc
sống.

* Tính đa dạng
Thừa nhận thế giới là một bức tranh chằng chịt các mối liên hệ và tác động qua
lại, phép biện chứng duy vật đồng thời cũng chỉ ra tính da dạng, nhiều vẻ của
mối liên hệ. Thế giới vật chất là muôn hình muôn vẻ cho nên những mối liên hệ
và sự tác động lẫn nhau của các sự vật và hiện tượng trong thế giới cũng vô
cùng phong phú và đa dạng. Người ta nghiên cứu thấy có các mối liên hệ sau:
mối liên hệ bên trong, mối liên hệ bên ngoài; mối liên hệ chủ yếu, mối liên hệ
thứ yếu; mối liên hệ trực tiếp, mối liên hệ gián tiếp; mối liên hệ bản chất, mối
liên hệ không bản chất; mối liên hệ tất yếu, mối liên hệ ngẫu nhiên. Trong đó,
các loại liên hệ khác nhau có vai trò khác nhau đối với sự vận động và phát triển
của các sự vật và hiện tượng. Tuy nhiên, phép biện chứng mácxít không nghiên
cứu tất cả các mối liên hệ mà chỉ nghiên cứu những mối liên hệ chung nhất, mối
liên hệ vốn có trong cả lĩnh vực vật chất lẫn tinh thần. Mối liên hệ bên trong là
mối liên hệ qua lại, sự tác động lẫn nhau giữa các bộ phận, giữa các yếu tố, các
thuộc tính, các mặt khác nhau của một sự vật. Mối liên hệ bên ngoài là mối liên
hệ
giữa các sự vật và hiện tượng này với các sự vật và hiện tượng khác.Ví dụ như:
xét trong đời sống xã hội thì mối liên hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất (hợp thành phương thức sản xuất) là mối liên hệ bên trong, còn mối liên hệ
giữa xã hội với hoàn cảnh địa lý tự nhiên được coi là mối liên hệ bên ngoài.
Trong đó, mối liên hệ bên trong và mối liên hệ bên ngoài có quan hệ chặt chẽ
với nhau, tác động lẫn nhau song mối liên hệ bên trong là nhân tố chủ yếu. Nó
quyết định bản chất, khả năng biến hoá vốn có của sự vật và hiện tượng, quyết
định mức độ ảnh hưởng của điều kiện bên ngoài đối với sự vật ấy. Mối liên hệ
bên ngoài, nhìn chung, không giữ vai trò quyết định, thường phải thông qua mối
liên hệ bên trong mới có thể tác động đối với sự tồn tại, vận động và phát triển
của sự vật. Tuy nhiên, mối liên hệ bên ngoài cũng giữ một vai trò hết sức quan
trọng. Đặc biệt, trong những điều kiện nhất định, nó có thể giữ vai trò quyết
định. Chẳng hạn như: Ngày nay, sự phát triển của khoa học và công nghệ hiện
đại trên thế giới đang tạo ra thời cơ, đồng thời cũng tạo ra những thách thức to
lớn đối với các nước chậm phát triển – trong đó có Việt Nam. Đất nước ta có
tranh thủ được thời cơ do cuộc cách mạng đó tạo ra hay không, trước hết và chủ
yếu phụ thuộc vào sự “tự lực cách sinh”, vào năng lực của Đảng, của nhà nước
và nhân dân ta. Song, chúng ta cũng khó có thể xây dựng được một đất nước
“dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” nếu không hội
nhập quốc tế, không tận dụng được những thành quả của các cuộc cách mạng
khoa học và công nghệ mà thế giới đã đạt được. Cũng giống như xét quan hệ
giữa mối liên hệ bên trong và mối liên hệ bên ngoài, người ta nhận thấy các cặp

7
mối liên hệ khác cũng có mối quan hệ biện chứng với nhau. Ở mỗi cặp mối liên
hệ lại có những đặc trưng riêng. Và trong các cặp mối liên hệ ấy, nhìn chung,
mối liên hệ bản chất, mối liên hệ tất nhiên, mối liên hệ chủ yếu thường giữ vai
trò quyết định. Tuy nhiên, tùy theo những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể, cũng có
những khi các mối liên hệ tương ứng với chúng lại giữ vai trò quyết định. Nói
cách khác, sự phân chia các mối liên hệ trong từng cặp chỉ mang tính chất tương
đối. Trong từng cặp mối liên hệ, các loại mối liên hệ có thể chuyển hoá lẫn nhau
tuỳ theo phạm vi bao quát của các mối liên hệ hoặc do quá trình vận động và
phát triển của bản thân các sự vật. Ví dụ: Cùng là bốn những lĩnh vực: trí dục,
đức dục, thể dục, mỹ dục, nếu như chúng ta coi chúng là bốn lĩnh vực khác biệt
thì mối liên hệ giữa chúng là mối liên hệ bên ngoài; song, nếu chúng ta coi
chúng là bốn lĩnh vực cơ bản của công tác giáo dục trong nhà trường (nhằm hình
thành và phát triển nhân cách, xây dựng con người mới) thì lúc này mối liên hệ
giữa chúng với nhau lại trở thành mối liên hệ bên trong. Mặc dù sự phân chia
các mối liên hệ chỉ mang tính chất tương đối, nhưng mỗi một loại mối liên hệ lại
có một vai trò, vị trí khác nhau trong sự vận động và phát triển của sự vật cho
nên sự phân chia đó là cần thiết. Trong một sự vật, hiện tượng có thể bao gồm
rất nhiều mối liên hệ chứ không phải chỉ có một cặp mối liên hệ xác định, đồng
thời các mối liên hệ ấy cũng hết sức phức tạp. Vì thế, con người phải biết tìm ra
các mối liên hệ, phân loại được các mối liên hệ, nắm bắt đúng vai trò của từng
mối liên hệ để từ đó có cách tác động phù hợp, mang lại hiệu quả cao nhất trong
hoạt động thực tiễn của mình.

II. Ý nghĩa phương pháp luận về mối liên hệ phổ biến


- Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, phải có quan điểm toàn diện
khi xem xét các sự vật, hiện tượng
- Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, phải có quan điểm lịch sử -
cụ thể

III. Vận dụng phân tích mối liên hệ giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ
môi trường sinh thái
1. Tăng trưởng kinh tế là gì?
Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng của tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hoặc tổng
sản lượng quốc quân (GNP) hoặc quy mô sản lượng quốc gia tính bình quân trên
đầu người (PCI) trong một thời gian nhất định.
Sự tăng trưởng kinh tế phụ thuộc vào 2 quá trình: sự tích lũy tài sản (như vốn,
lao động và đất đai) và đầu tư những tài sản này có năng suất hơn. Tiết kiệm và
đầu tư là trọng tâm, nhưng đầu tư phải hiệu quả thì mới đẩy mạnh tăng trưởng.
Chính sách chính phủ, thể chế, sự ổn định chính trị và kinh tế, đặc điểm địa lý,
nguồn tài nguyên thiên nhiên, và trình độ y tế và giáo dục, tất cả đều đóng vai
trò nhất định ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế.

8
Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng của GDP hoặc GNP hoặc thu nhập bình quân
đầu người trong một thời gian nhất định. Tăng trưởng kinh tế thể hiện sự thay
đổi về lượng của nền kinh tế. Tuy vậy ở một số quốc gia, mức độ bất bình đẳng
kinh tế tương đối cao nên mặc dù thu nhập bình quân đầu người cao nhưng
nhiều người dân vẫn sống trong tình trạng nghèo khổ.
Phát triển kinh tế mang nội hàm rộng hơn tăng trưởng kinh tế. Nó bao gồm tang
trưởng kinh tế cùng với những thay đổi về chất của nền kinh tế (như phúc lợi xã
hội, tuổi thọ, v.v.) và những thay đổi về cơ cấu kinh tế (giảm tỷ trọng của khu
vực sơ khai, tăng tỷ trọng của khu vực thế tạo và phục vụ). Phát triển kinh tế là
một quá trình hoàn thiện về mọi mặt của nền kinh tế bao gồm kinh tế, xã hội,
môi trường, thể chế trong một thời gian nhất định nhằm đảm bảo rằng GDP cao
hơn đồng nghĩa với mức độ hạnh phúc hơn.
Để đo lường tăng trưởng kinh tế có thể dùng mức tăng trưởng tuyệt đối, tốc độ
tăng trưởng kinh tế hoặc tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm trong một giai
đoạn.
Mức tăng trưởng tuyệt đối là mức chênh lệch quy mô kinh tế giữa hai kỳ cần so
sánh.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế được tính bằng cách lấy chênh lệch giữa quy mô
kinh tế kỳ hiện tại so với quy mô kinh tế kỳ trước chia cho quy mô kinh tế kỳ
trước. Tốc độ tăng trưởng kinh tế được thể hiện bằng đơn vị %.

2. Môi trường sinh thái là gì?


Môi trường sinh thái là một mạng lưới chỉnh thể, hữu cơ, có mối liên hệ chặt chẽ
với nhau giữa đất, nước không khí và cơ thể sống trong phạm vi toàn cầu. Sự rối
loạn bất ổn định ở khâu nào đó trong hệ thống sẽ gây ra hệ quả nghiêm trọng.
Con người và xã hội xuất thân từ tự nhiên, là một bộ phận của thiên nhiên.
Thông qua quá trình lao động, con người khai thác, bảo vệ bồi đắp cho thiên
nhiên, nhưng qua quá trình đó, con người xã hội dần dần có sự đối lập, hủy hoại
môi trường sống tự nhiên của mình. Hiện nay, trái đất ngôi nhà chung của chúng
ta hiện nay với gần 8 tỷ người đang sinh sống, đang phải oằn mình gánh chịu
những hậu quả nặng nề gắn với thực trạng hành tinh xanh đang kêu cứu, do tình
trạng ô nhiễm, suy thoái môi trường ngày càng gay gắt.

3. Mối liên hệ giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh
thái
Phát triển kinh tế xã hội là quá trình nâng cao điều kiện sống về vật chất và tinh
thần của con người qua việc sản xuất ra của cải vật chất, cải tiến quan hệ xã hội,
nâng cao chất lượng văn hoá. Phát triển là xu thế chung của từng cá nhân và cả
loài người trong quá trình sống. Giữa môi trường và sự phát triển có mối quan
hệ hết sức chặt chẽ: môi trường là địa bàn và đối tượng của sự phát triển, còn
9
phát triển là nguyên nhân tạo nên các biến đổi của môi trường. Trong nền kinh
tế xã hội, hàng hoá được di chuyển từ nơi sản xuất, lưu thông, phân phối và tiêu
dùng cùng với dòng luân chuyển của nguyên liệu, năng lượng, sản phẩm và phế
thải. Các thành phần đó luôn ở trạng thái tương tác với các thành phần tự nhiên
và xã hội của hệ thống môi trường đang tồn tại trong địa bàn đó. Khu vực giao
nhau giữa hai hệ thống trên là môi trường nhân tạo. Tác động của hoạt động
phát triển đến môi trường thể hiện ở khía cạnh có lợi là cải tạo môi trường tự
nhiên hay tạo ra kinh phí cần thiết cho sự cải tạo đó, từ đó nâng cao ý thức của
con người về việc bảo vệ môi trường sinh thái, nhưng có thể gây ra ô nhiễm môi
trường tự nhiên hoặc nhân tạo từ những rác thải sinh hoạt, rác thải công nghiệp,
làm cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên. Mặt khác, môi trường tự nhiên đồng thời
cũng tác động đến sự phát triển kinh tế xã hội thông qua việc cung cấp nguyên
nhiên liệu cho quá trình sản xuất, nhưng cũng có thể gây ra thảm hoạ, thiên tai
đối với các hoạt động kinh xã hội trong khu vực, hay tạo những cản trở về địa
hình, thổ nhưỡng, điều kiện thời tiết. Mâu thuẫn giữa môi trường và phát triển
trên dẫn đến sự xuất hiện các quan niệm hoặc các lý thuyết khác nhau về phát
triển: Lý thuyết định chỉ phát triển là làm cho sự tăng trưởng kinh tế bằng 0 hoặc
mang giá trị âm để đảm bảo tài nguyên thiên nhiên của Trái đất. Một số nhà
khoa học khác lại đề xuất lấy bảo vệ để ngăn chặn sự nghiên cứu, khai thác tài
nguyên thiên nhiên. Năm 1992 các nhà môi trường đã đưa ra quan niệm phát
triển bền vững, đó là phát triển trong mức độ duy trì chất lượng môi trường, giữ
cân bằng giữa môi trường và phát triển. (Nguồn VACNE)
Điều rất dễ thấy và không thể bác bỏ là hệ thống kinh tế và hệ thống môi trường
sinh thái không dung hoà nhau mà bộc lộ những mâu thuẫn mang tính sinh tồn
ngày càng trở nên rất rỹ nét trong sự phát triển của xã hội hiện đại. Một trong
những nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là để làm kinh tế và đạt bằng được
các mục tiêu kinh tế, các mối liên quan về môi trường sinh thái đã bị bỏ qua,
thiếu sự tôn trọng khi ứng dụng khoa học tự nhiên và khoa học kỹ thuật. Đối với
các nước đang phát triển, nguồn tài nguyên thiên nhiên có vai trò rất to lớn,
đóng góp đáng kể vào tỷ lệ tăng trưởng kinh tế. Song nếu khai thác nguồn tài
nguyên này một cách quá mức, dẫn đến hệ sinh thái bị mất cân đối nghiêm
trọng, ô nhiễm môi trường gia tăng. Đó chính là hậu quả lớn nhất do tăng trưởng
kinh tế mà không quan tâm bảo vệ môi trường. Dẫn đến là ngày càng nhìn thấy
rõ giới hạn của sự tăng trưởng là việc chuyển đổi từ trạng thái con người bị thiên
nhiên đe doạ và phải chống lại nó trước đây, sang trạng thái con người bị thiên
nhiên xâm phạm đến môi trường, trong khi môi trường là yếu tố không thể thiếu
trong sự tồn tại và phát triển của chính con người. Theo dự báo, nếu con người
cứ khai thác như mức hiện nay, trong số các tài nguyên khoáng vật (tài nguyên
không tái tạo được) có thể duy trì: sắt được 173 năm, than được 150 năm, nhôm
được 55 năm, đồng được 48 năm, vàng được 29 năm, các nguồn tài nguyên sinh
vật, rừng rậm trong 170 năm nữa sẽ chỉ đốn hết, trong đó, ma rừng nhiệt đới có
thể hết sẵn sau 40 năm nữa. Các nhà khoa học chỉ ra rằng, hiện nay trên trái đất
10
đã không còn tìm thấy một vùng đất nào hoàn toàn không bị ô nhiễm. Sự ô
nhiễm nghiêm trọng môi trường trái đất không chỉ tạo ra khủng hoảng sinh thái
mà còn tạo ra khủng hoảng sinh tồn con người. Đã có rất nhiều bài học cho các
nước vì quả coi trọng tăng trưởng kinh tế nhanh, tạo được sự bứt phá lớn về kinh
tế, mong vượt lên các nước khác về kinh tế, song đã phải trả giá đắt về việc làm
cạn kiệt và suy thoái môi trường Trung Quốc - quốc gia có sự phát triển thần kỳ
về nền kinh tế đã trở thành gánh năng cho môi trường là một ví dụ. Trung Quốc
hiện có 16 trong số 20 đô thị ô nhiễm nhất trên thế giới, 4 đô thị tệ nhất nằm ở
vùng Đông Bắc giàu than đá (70% nhu cầu về năng lượng của Trung Quốc lấy
từ than đá). Mưa acid chứa sunphur dioxide từ các nhà máy điện than đá thải ra
rơi trên % lãnh thổ Trung Quốc, làm giảm năng xuất nủa màng và xói mòn mọi
công trình xây dựng. Đất đai Trung Quốc cũng tàn lụi vì phát triển. Phá rừng,
song song với khai thác quá mức đồng cỏ để nuôi súc vật và canh tác đã biến
các vùng ở Đông Bắc Trung Quốc thành sa mạc. Sa mạc Gobi đang dần xâm
chiếm miền Tây và Bắc Trung Quốc, nh rộng mỗi năm khoảng nửa triệu hecta.
% lãnh thổ Trung Quốc nay đã thành sa mạc do mất rừng. Cục Lãm vụ Trung
Quốc ước lượng là hiện tượng sa mạc hoa đã biển 400 triệu dân Trung Quốc
thành người tị nạn môi sinh, phải tìm kiếm nơi ở mới. Đất đai bị ô nhiễm cũng
gây lo ngại về an toàn thực phẩm. Sông Dương Tử và sông Hoàng Hà là hai
nguồn cung cấp nước quan trọng nhất cho Trung Quốc bị ô nhiễm nặng Sông
Dương Tử tiếp nhận 40% nước cống, hơn 80% nước thải sinh hoạt chưa qua xử
lý. Sông Hoàng Hà cung cấp nước cho 150 triệu người và nước tới cho 15% đất
nông nghiệp Trung Quốc, nhưng 2/3 nước sông này không an toàn và 10% vào
loại nước cống thải. Báo cáo tiên đoán lượng nước ở lưu vực 3 con sông trong 7
lưu vực chính của Trung Quốc, nghĩa là các vùng xung quanh sông Hoài, sông
Liêu và sông Hải sẽ giảm, làm mất đi 37% sản lượng lúa mì, lúa gạo và bắp vào
năm 2050. Để sản xuất một đơn vị hàng hoá, Trung Quốc phải tiêu thụ tài
nguyên gấp 7 lần so với Nhật Bản, 6 lần so với Hoa Kỳ và 3 lần so với Ấn Độ
Cũng giống như một số nước đang phát triển khác, tình trạng ô nhiễm môi
trường do trăng trưởng kinh tế gây ra ở Việt Nam là điều không thể tránh khỏi,
đang là một trong những vấn đề bức xúc đòi hỏi phải giải quyết hiện nay. Theo
đánh giá của các chuyên gia kinh tế quốc tế, tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong
những năm qua rất ngoạn mục. Tuy nhiên, cảnh báo của nhiều tổ chức quốc tế
dành cho Việt Nam rằng, chúng ta không thể chạy theo các chỉ số tăng trưởng
kinh tế mà bất chấp tình trạng môi trường sống đang bị huỷ diệt quá nhanh. Nói
cách khác, môi trường bị huỷ diệt chính là mặt trái của tăng trưởng ở Việt Nam.
Kết quả nghiên cứu môi trường ở Việt Nam của Ngân hàng thế giới (WB) cho
thấy: thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội là 2 trong 10 tỉnh thành phố được điều
tra có tỷ lệ ô nhiễm môi trường cao nhất, đặc biệt là ở các khu công nghiệp trọng
điểm. WB nhận định: ô nhiễm môi trường chính là thách thức chính đối với tiến
trình đô thị hoá, công nghiệp hoá ở Việt Nam. Chương trình Môi trường Liên
hiệp quốc (UNEP) đã chỉ ra rằng, bây giờ là thời điểm mà Việt Nam cần kiên trì

11
theo đuổi phát triển bền vững. Nếu không giải quyết được vấn đề ô nhiễm môi
trường thì Việt Nam sẽ có thể xoá đi tất cả những thành tựu đã đạt được từ trước
tới nay ... Bộ trưởng Bộ tài nguyên và Môi trường Phạm Khôi Nguyên đã nhấn
mạnh: 20 năm tăng trưởng kinh tế liên tục, nhưng cứ tăng 1 GDP mà không có
chiến lược môi trường thì sẽ mất đi 3 GDP về môi trường. Đảm bảo một sự cân
bằng giữa nhu cầu tăng trưởng kinh tế với đòi hỏi bảo vệ nguồn tài nguyên thiên
nhiên và tái tạo môi trường, vừa đáp ứng được nhu cầu sử dụng của thế hệ hiện
tại trong tăng trưởng và phát triển, vừa không làm hại gì đến nhu cầu và khả
năng ứng dụng các nguồn tài nguyên của các thế hệ tương lai là một yêu cầu bức
thiết của phát triển bền vững. Thực tế cho thấy, trong vòng mười năm kể từ Rio-
92, môi trường toàn cầu tiếp tục bị xuống cấp, tài nguyên thiên nhiên tiếp tục bị
hủy hoại, ô nhiễm gia tăng, nguồn nước sạch ngày càng khan hiếm. Mỗi năm có
từ 11 đến 13 triệu hecta rừng bị xóa số trên bản đồ thế giới, hàng chục triệu
hecta đất bị hoang mạc hóa. Tình trạng đói nghèo trên thế giới ngày càng gia
tăng trầm trọng, với 2,4 tỷ người sống trong nghèo đói, các điều kiện xã hội, y tế
không được cải thiện. Các nước nghèo, các khu vực nghèo ngày càng nghèo
hơn. Các nước giàu, những người giàu ngày càng giàu lên. Khoảng cách Bắc -
Nam ngày càng sâu rộng Các nước phát triển chỉ huy động 0,22% GNP cho
ODA so với 0,7% mà Liên hợp quốc (LHQ) đã kêu gọi và được nhiều nước cam
kết tại Rio-92. Tác động của toàn cầu hóa và tự do hóa thương mại ngày càng
lan rộng, bao gồm cả tác động tích cực lẫn tiêu cực. Nhất là, gần đây đã xảy ra
những diễn biến phức tạp trong đời sống chính trị thế giới, những cuộc khủng bố
lớn, trong đó có sự kiện 11-9- 2001 tại Mỹ, tác động trực tiếp và chứa nhiều
nguy cơ tiềm ẩn đối với quá trình phát triển bền vững của toàn thế giới.

12
KẾT LUẬN
Chúng ta phải đi từ mục tiêu cơ bản nhất của mọi sự phát triển xã hội đó là phát
triển để cải thiện nâng cao chất lượng cuộc sống và vì sự sống trường tồn bền
vững. Đây là vấn đề quan trọng trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước hiện nay cũng như về lâu dài. Tất cả các bài học kinh nghiệm đã rút ra
trong quá trình quy hoạch phát triển trước đây cần phải được vận dụng triệt để
cho quá trình phát triển của tương lai sao cho tránh được những hậu quả có thể
xảy ra và đảm bảo hiệu quả cao nhất cho quá trình phát triển kinh tế. Chúng ta
bảo vệ môi trường không phải nhằm mục đích hạn chế quá trình phát triển kinh
tế mà nhằm mục đích đảm bảo hiệu quả kinh tế cao hơn cho quá trình phát triển
tất yếu này, đồng thời nhằm bảo vệ chất lượng cuộc sống của mỗi con người
chúng ta. Do đó, bảo về môi trường và tăng trưởng kinh tế có sự thống nhất. Có
phát triển mới có kinh phí đầy đủ dành cho việc bảo vệ môi trường và có bảo vệ
môi trường mới đảm bảo sự phát triển lâu dài và ổn định.

13
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Ph. Ăngghen, (2004), Chống Đuyrinh, C. Mác và Ph. Ăngghen toàn
tập, tập 20, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội
- Ph. Ăngghen, (2004), Biện chứng của tự nhiên, C. Mác và Ph.
Ăngghen toàn tập, tập 20, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội
- Ngô Thành Dương, (1986), Một số khía cạnh về phép biện chứng duy
vật, NXB Sách giáo khoa Mác – Lênin
- Hội đồng TW các Bộ môn khoa học Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, (2002), Giáo trình triết học Mác – Lênin, NXB Chính trị Quốc
gia, Hà Nội
- V.I. Lênin, (2006), Các Mác ( Sơ lược tiểu sử, kèm theo sự trình bày
chủ nghĩa Mác), V.I. Lênin toàn tập, tập 26, NXB Chính trị Quốc gia,
Hà Nội
- PGS.TS. Ngô Doãn Vịnh, Những vấn đề chủ yếu về kinh tế phát triển,
NXB CTQG, H, 2006, tr.89-90
- Lâm Minh Triết, Nguyễn Thanh Hùng, Một vài giải pháp môi trường
cho các cơ sở sản xuất vừa và nhỏ, Tạp chí Bảo vệ môi trường, số 7,
2001

14

You might also like