You are on page 1of 46

CHƯƠNG 2: CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG

I. VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC..............................................................................3


1. Vật chất và phương thức tồn tại của vật chất………………………………………3
2. Nguồn gốc, bản chất và kết cấu của ý thức....................................................6
3. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức.............................................................10
II. PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT................................................................11
1. Hai loại hình biện chứng và phép biện chứng duy vật..................................11
2. Nội dung của phép biện chứng duy vật.........................................................13
III. LÝ LUẬN NHẬN THỨC ..........................................................................35
1. Quan niệm về nhận thức trong lịch sử triết học............................................35
2. Lý luận nhận thức duy vật biện chứng .........................................................36

Mục tiêu chương 2


Về kiến thức
- Trình bày và phân tích được: vấn đề cơ bản của triết học, các phạm trù vật
chất, ý thức, vận động, không gian, thời gian.
- Diễn đạt chính xác, cho được các dẫn chứng, ví dụ để làm sáng tỏ nội dung cơ
bản của phép biện chứng duy vật gồm 2 nguyên lý, 6 cặp phạm trù, 3 quy luật cơ
bản.
- Xác định đúng các dạng hoạt động thực tiễn cơ bản và vai trò của mỗi dạng đối
với nhận thức.
- Phân biệt và kết nối được sự liên hệ trong các giai đoạn của quá trình nhận
thức bằng các ví dụ.
Về kỹ năng
- Biết đặt đối tượng nhận thức trong trạng thái vận động, trong các mối liên hệ
vốn có.

1
- Vận dụng các kiến thức đã học để phân tích, giải thích bản chất một số sự vật,
hiện tượng, quá trình cụ thể trong cuộc sống, trong đời sống kinh tế, chính trị và
xã hội.
- Thiết lập và xây dựng các mối quan hệ gia đình, xã hội, công việc một cách
chủ động, tích cực.
Về năng lực tự chủ và trách nhiệm
- Nhìn nhận, đánh giá các sự vật, các vấn đề một cách khách quan trong sự vận
động, biến đổi; trong các mối liên hệ chung – riêng, nhân – quả, bản chất – hiện
tượng, khả năng – hiện thực… của sự vật, vấn đề đó, hạn chế sự suy luận phiến
diện, cảm tính.
- Tự tin vào năng lực nhận thức, năng lực hoạt động của bản thân.

Chủ nghĩa duy vật biện chứng là hạt nhân lý luận triết học của thế giới quan
khoa học Mác - Lênin; là hệ thống lý luận, phương pháp luận được xác lập trên
cơ sở giải quyết theo quan điểm duy vật biện chứng đối với vấn đề cơ bản của
triết học.
Trong chủ nghĩa duy vật biện chứng, các nguyên lý của chủ nghĩa duy vật đã
được giải thích một cách biện chứng trên lập trường duy vật. Theo các nguyên
lý này, chỉ có một thế giới vật chất không ngừng vận động, thế giới vật chất có
vô số mối liên hệ, biến đổi, phát triển không ngừng. Nội dung của nguyên lý về
mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển thể hiện trong ba quy luật và
sáu cặp phạm trù.
Ý thức con người chỉ là hình ảnh chủ quan về thế giới vật chất, tác động trở
lại thế giới đó thông qua hoạt động thực tiễn.
Phép biện chứng duy vật còn bao gồm lý luận nhận thức. Theo lý luận ấy, sự
phản ánh thế giới vật chất bởi con người với hai giai đoạn nhận thức là cảm tính
và lý tính. Cơ sở, động lực, mục đích của nhận thức là thực tiễn. Thực tiễn cũng
đồng thời là tiêu chuẩn của chân lý.
I. VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC
1. Vật chất và các hình thức tồn tại của vật chất
a) Quan niệm của chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật trước Mác về phạm
trù vật chất
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy tâm thì thực thể của thế giới, cơ sở của
mọi tồn tại là một bản nguyên tinh thần. Đó có thể là ý chí thượng đế, “ý niệm
tuyệt đối”, hoặc những quan niệm có tính chất siêu nhiên…
Quan niệm của chủ nghĩa duy vật thì thực thể của thế giới là vật chất. Trong
thời cổ đại đó là các quan niệm của Talét cho rằng bản nguyên thế giới là nước,
Heraclít cho rằng bản nguyên thế giới là lửa, Pitagor cho rằng bản nguyên thế
2
giới là con số, Empeđốclơ cho rằng bản nguyên thế giới là đất, nước, lửa, không
khí.
Bước tiến trên con đường đi tìm một thực thể có khả năng đại diện một cách
phổ quát hơn cho sự tồn tại của thế giới được đánh dấu bởi Anaximander. Ông
cho rằng thực thể của thế giới là một bản nguyên không xác định về mặt chất và
mặt lượng. Bản nguyên này không thể quan sát được và ông gọi là apeirôn. Sự
tương tác các mặt vốn có trong apeirôn tạo nên toàn bộ thế giới.
Đỉnh cao của chủ nghĩa duy vật cổ đại trong quan niệm về vật chất thuộc về
các nhà nguyên tử luận là (của) Lơxíp và Đêmôcrít. Theo hai ông thì thực thể
của thế giới là nguyên tử.
Từ cuối thế kỷ XVI, đặc biệt là trong thế kỷ XVII – XVIII, nền khoa học tự
nhiên – thực nghiệm châu Âu, nhờ ứng dụng được những thành tựu của cơ học
và toán học đã phát triển một cách mạnh mẽ. Tuy vậy, quan điểm siêu hình máy
móc vẫn chi phối những hiểu biết triết học về vật chất. Người ta giải thích mọi
hiện tượng của thế giới tự nhiên bằng sự tác động qua lại giữa lực hấp dẫn và
lực đẩy của các phần tử của vật thể. Theo đó, thì các phân tử của vật trong quá
trình vận động là cái bất biến. Cái thay đổi chỉ là trạng thái không gian và tập
hợp của chúng. Mọi phân biệt về chất giữa các vật thể đều bị quy giản thành sự
phân biệt về lượng; mọi sự vận động đều bị quy về sự dịch chuyển vị trí không
gian. Niềm tin vào các chân lý cơ học của Niutơn, đã khiến các nhà khoa học lúc
ấy đồng nhất vật chất với khối lượng. Vận động của vật chất chỉ là biểu hiện của
vận động cơ học. Nguồn gốc của vận động nằm ở bên ngoài vật chất, từ đó dẫn
đến thừa nhận cái hích của thượng đế.
b). Cuộc cách mạng trong khoa học tự nhiên cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX
và sự phá sản của các quan điểm duy vật siêu hình về vật chất
Đến cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, với những phát minh mới trong khoa
học tự nhiên, con người mới có được những hiểu biết căn bản và sâu sắc hơn về
nguyên tử. Năm 1895, Rơnghen phát hiện tia X, một loại sóng điện từ vô hình
mà mắt thường không thể nhìn thấy được. Năm 1896, Béccơren phát hiện ra
hiện tượng phóng xạ. Quá trình phóng xạ, nguyên tố phóng xạ biến thành
nguyên tố khác. Điều đó chứng tỏ các nguyên tố hóa học không phải là bất biến
mà có thể chuyển hóa lẫn nhau. Năm 1897, Tômxơn phát hiện ra điện tử và
chứng minh điện tử là một trong những thành phần cấu tạo nên nguyên tử,
chứng tỏ nguyên tử không phải là giới hạn cuối cùng. Nhờ phát minh này, lần
đầu tiên trong khoa học, sự tồn tại của nguyên tử được chứng minh bằng thực
nghiệm. Năm 1901, Kaufman đã chứng minh được khối lượng của điện tử
không phải là khối lượng tĩnh mà thay đổi theo tốc độ vận động của nó.

3
Những thành tựu trên của khoa học tự nhiên cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
làm cho các hiểu biết về vật chất đến thời điểm đó không còn chính xác, đúng
đắn. Yêu cầu đặt ra là, các nhà triết học duy vật biện chứng phải phát triển học
thuyết về vật chất dựa trên những thành tựu mới nhất của khoa học tự nhiên.
c) Quan niệm của triết học Mác - Lênin về vật chất
Khắc phục những hạn chế của chủ nghĩa duy vật trước Mác khi quy vật chất
về một hay một vài dạng cụ thể của nó; chủ nghĩa duy vật biện chứng đã phân
biệt tính khái quát của phạm trù vật chất và sự tồn tại vật chất ở những dạng cụ
thể; chỉ ra sự tồn tại khách quan; chỉ ra tính vô tận, vô hạn, tính không thể sáng
tạo ra và không thể tiêu diệt được của vật chất; chỉ ra tính thống nhất của thế
giới là ở tính vật chất của nó; chỉ ra các hình thức tồn tại của vật chất, đó là
không gian, thời gian và phương thức tồn tại của vật chất là vận động.
Định nghĩa vật chất của V.I.Lênin
Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem
lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp
lại, phản ánh, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác1.
Những nội dung rút ra từ định nghĩa vật chất của V.I.Lênin
Vật chất là một phạm trù triết học (khái niệm rộng nhất) để phân biệt nó với
vật chất trong các khoa học cụ thể, vật chất thông thường hàng ngày, có giới
hạn, có sinh ra và có mất đi. Vật thể cụ thể là những biểu hiện của vật chất. Vật
chất là vô tận, vô hạn, không có giới hạn, không được sinh ra và không bị mất
đi.
Thuộc tính quan trọng nhất của vật chất là thực tại khách quan, tức tồn tại
khách quan, ở bên ngoài và độc lập với ý thức con người và loài người.
Vật chất – cái gây nên cảm giác ở con người khi bằng cách nào đó tác động
lên giác quan của con người. Thậm chí, có đối tượng bằng dụng cụ khoa học
nhưng cũng chưa biết; nhưng nếu nó tồn tại khách quan, ở bên ngoài, độc lập,
không phụ thuộc vào ý thức của con người thì nó vẫn là vật chất.
Ý thức của con người có thể phản ánh được vật chất.
*Ý nghĩa của định nghĩa vật chất của V.I.Lênin
Định nghĩa vật chất đã giải quyết được vấn đề cơ bản của triết học trên
quan điểm duy vật; khắc phục được những thiếu sót của chủ nghĩa duy vật trước
Mác về vật chất; xác nhận, chứng minh thêm cho tính triệt để của chủ nghĩa duy
vật Mácxít; có ý nghĩa định hướng đối với các khoa học cụ thể trong việc tìm
kiếm những dạng hoặc các hình thức mới của vật chất.
Hộp 2.1. Vũ trụ vô cùng vô tận

1
Lênin (1980), Toàn tập, Tập 18, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, tr.151.
4
2000 tỉ là số thiên hà trong vũ trụ. Con số này vẫn còn quá nhỏ, bởi chúng ta sẽ
còn phát hiện thêm nhiều thiên hà nữa nếu công nghệ trong tương lai phát triển
hơn. Ước tính có khoảng 100 - 400 tỉ ngôi sao được chứa ở trong 1 thiên hà,
cùng với hơn 100 tỉ hành tinh. Thiên hà Milky Way có khoảng 100 tỷ ngôi sao.
Nếu nhân với con số 2000 tỉ thì sẽ có khoảng 200.000 tỷ tỷ ngôi sao trong toàn
vũ trụ. Ngôi sao như Mặt trời có kích thước không lớn, nhưng có thể chứa được
khoảng 1 triệu Trái Đất bên trong.
Vũ trụ được cho là có đường kính ít nhất 10 tỷ năm ánh sáng. Mỗi giây ánh sáng
có thể đi được 30 vạn km và quãng đường của 1 năm ánh sáng khoảng 1 vạn tỉ
km.
Nguồn: (Nhóm tác giả tổng hợp từ nhiều nguồn)
d) Phương thức tồn tại của vật chất
Các phạm trù vận động, không gian, thời gian trả lời trực tiếp vấn đề vật chất
tồn tại bằng cách nào, tồn tại ở đâu?
Trong sự phân biệt với các khoa học chuyên biệt, triết học không nghiên cứu
những biểu hiện cụ thể của các phương thức tồn tại của vật chất. Triết học chỉ
tập trung làm rõ những đặc trưng phổ quát nhất của vận động của vật chất trong
không gian và thời gian.
* Vận động
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, vận động là mọi sự biến
đổi nói chung. Ăngghen định nghĩa vận động, hiểu theo nghĩa chung nhất, bao
gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay
đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy.
Vận động là thuộc tính vốn có của vật chất, là phương thức tồn tại của vật
chất. Điều này có nghĩa là vật chất tồn tại bằng cách vận động, và thông qua vận
động mà các dạng vật chất thể hiện đặc tính của mình. Với tư cách là thuộc tính
bên trong, vốn có của vật chất, nên vận động là sự tự vận động, được tạo nên do
sự tác động lẫn nhau của chính các thành tố nội tại trong cấu trúc vật chất. Vật
chất không do ai sáng tạo ra và không bị tiêu diệt, cho nên vận động với phương
thức tồn tại tất yếu của vật chất cũng không thể bị mất đi hoặc sáng tạo ra.
*Các hình thức cơ bản của vận động
Vận động cơ học: Là sự dịch chuyển của vật thể trong không gian.
Vận động vật lý: Là vận động của các phân tử, các hạt cơ bản, vận động điện
tử, các quá trình nhiệt điện…
Vận động hóa học: Là vận động của các nguyên tử, các quá trình hóa hợp và
phân giải các chất.
Vận động sinh học: Là sự trao đổi chất giữa cơ thể sống với môi trường.

5
Vận động xã hội: Sự thay đổi, thay thế của các quá trình xã hội, các hình thái
kinh tế xã hội.
Các hình thức vận động trên khác nhau về chất. Từ vận động cơ học đến vận
động xã hội là sự khác nhau về trình độ. Các hình thức vận động cao bao hàm
các hình thức vận động thấp nhưng không có trường hợp ngược lại. Mỗi sự vật
có thể gắn liền với nhiều hình thức vận động nhưng bao giờ cũng được đặc
trưng bằng một hình thức vận động cơ bản nhất.
* Vận động và đứng im
Quá trình vận động không ngừng của thế giới vật chất, bao hàm trong nó hiện
tượng đứng im tương đối. Đứng im là sự vận động ở trạng thái cân bằng. Đó là
trạng thái mà sự vật hiện tượng vẫn còn là nó, chưa chuyển hóa thành cái khác.
Không có hiện tượng đứng im tương đối thì không có sự vật nào tồn tại được.
Ăngghen chỉ ra rằng vận động riêng biệt có xu hướng chuyển thành cân bằng,
vận động toàn bộ lại phá hoại sự cân bằng riêng biệt.
Hộp 2.2. Tự đứng lên
Khi sinh con, hươu cao cổ mẹ trong tư thế đứng. Hươu con chào đời bằng một
cú rơi hơn 3m xuống đất và nằm ngay tại chỗ. Sau vài phút, hươu mẹ đá vào
người con mình cho đến khi nó chịu đứng dậy mới thôi. Mỏi chân, hươu con
nằm, hươu mẹ lại thúc con đứng lên. Cho đến khi thực sự đứng được, hươu mẹ
lại đẩy cho con ngã để nó phải nỗ lực tự đứng dậy trên đôi chân còn non nớt.
Nguồn: (Sưu tầm có biên tập lại)
* Không gian và thời gian
Ngay từ xa xưa người ta đã hiểu rằng, bất kỳ một khách thể vật chất nào cũng
đều chiếm một vị trí nhất định, ở vào một khung cảnh nhất định trong tương
quan về mặt kích thước so với các khách thể khác… các hình thức tồn tại như
vậy của vật thể được gọi là không gian.
Bên cạnh các quan hệ không gian, sự tồn tại của các khách thể vật chất còn
được biểu hiện ở mức độ tồn tại lâu dài hay mau chóng của các hiện tượng; ở sự
kế tiếp trước sau của các giai đoạn vận động… Những thuộc tính này của sự vật
được đặc trưng bằng phạm trù thời gian.
Không gian và thời gian gắn bó chặt chẽ với nhau(Không-thời gian), cả hai
đều là thuộc tính cố hữu của vật chất. Chúng đều là hình thức tồn tại của vật
chất.
Không gian và thời gian có các tính chất: tính khách quan vì vật chất tồn tại
khách quan, tính vĩnh cữu và vô tận, tính ba chiều của không gian và tính một
chiều của thời gian(qúa khứ đến tương lai).
đ) Tính thống nhất vật chất của thế giới
*Tồn tại của thế giới là tiền đề cho sự thống nhất của thế giới
6
Tồn tại là phạm trù dùng để chỉ tính có thực của thế giới xung quanh con
người. Trong quan niệm về sự thống nhất của thế giới phải lấy việc thừa nhận sự
tồn tại của nó làm tiền đề.
*Thế giới thống nhất ở tính vật chất
Chủ nghĩa duy vật biện chứng chứng minh rằng, bản chất của thế giới là vật
chất, thế giới thống nhất ở tính vật chất. Điều đó thể hiện:
Thứ nhất, chỉ có một thế giới duy nhất và thống nhất là thế giới vật chất. Thế
giới vật chất tồn tại khách quan, có trước và độc lập với ý thức con người.
Thứ hai, mọi bộ phận của thế giới vật chất đều có mối liên hệ thống nhất với
nhau. Biểu hiện ở chỗ chúng đều là những dạng cụ thể của vật chất, là những kết
cấu vật chất, hoặc có nguồn gốc vật chất, do vật chất sinh ra và cùng chịu sự chi
phối của những quy luật khách quan, phổ biến của thế giới vật chất.
Thứ ba, thế giới vật chất tồn tại vĩnh viễn, vô hạn và vô tận, không bị sinh ra
và không bị mất đi. Trong thế giới không có gì khác ngoài những quá trình vật
chất đang biến đổi và chuyển hóa lẫn nhau, là nguồn gốc, nguyên nhân và kết
quả của nhau.
2. Nguồn gốc, bản chất và kết cấu của ý thức
a) Nguồn gốc của ý thức
Ý thức là một thuộc tính của vật chất sống đặc biệt có tổ chức cao, đó là bộ
não của con người. Ý thức có hai nguồn gốc: tự nhiên và xã hội.
*Nguồn gốc tự nhiên của ý thức gồm bộ óc của con người; sự tác động của
thế giới bên ngoài, của hoàn cảnh xung quanh lên bộ óc để bộ óc phản ánh. Ý
thức là chức năng của bộ óc. Hoạt động của ý thức diễn ra trên cơ sở hoạt động
sinh lý thần kinh của bộ óc.
Sự tác động của thế giới bên ngoài và bộ óc phản ánh lại sự tác động đó. Phản
ánh là sự lưu giữ và tái tạo những đặc điểm của một sự vật này ở một sự vật
khác trong quá trình tác động qua lại giữa chúng. Chỉ có vật chất phát triển cao
là bộ óc con người thì mới sinh ra ý thức, còn toàn bộ thế giới vật chất chỉ có
năng lực phản ánh.
*Các hình thức phản ánh
Ở giới vô sinh có hình thức phản ánh vật lý, hóa học. Hai loại phản ánh này
mang tính chất thụ động, chưa có sự chọn lọc, định hướng.
Ở giới hữu sinh có hình thức phản ánh sinh học. Loại phản ánh này đã có sự
lựa chọn, định hướng để thích nghi với môi trường. Phản ánh sinh học thể hiện ở
tính kích thích trong cơ thể do tác động của môi trường ở thực vật, các phản xạ ở
động vật có hệ thần kinh. Những động vật cấp cao có bộ não thì thể hiện hình
thức phản ánh tâm lý động vật.

7
Con người thể hiện trình độ phản ánh ý thức (phản ánh sáng tạo). Hình thức
phản ánh này chỉ nảy sinh và xuất hiện cùng với sự xuất hiện của con người.
*Nguồn gốc xã hội
Nguồn gốc xã hội của ý thức gồm lao động, ngôn ngữ (cùng với những quan
hệ xã hội thể hiện trong 2 hình thức đó).
Chính thông qua hoạt động lao động con người mới có thể phản ánh được thế
giới khách quan, mới có ý thức được về thế giới đó. Con người có ý thức chính
nhờ con người chủ động tác động vào thế giới đó. Qua đó, con người khám phá
ra những bí mật của thế giới, ngày càng làm sâu sắc ý thức của mình về thế giới.
Trong quá trình lao động, con người xuất hiện nhu cầu trao đổi kinh nghiệm,
tư tưởng cho nhau. Chính nhu cầu đó đòi hỏi sự xuất hiện của ngôn ngữ. Ngôn
ngữ là hệ thống tín hiệu vật chất mang nội dung ý thức. Ngôn ngữ, nói như
C.Mác, là cái vỏ vật chất của tư duy, là hiện thực trực tiếp của tư tưởng. Không
có ngôn ngữ, con người không thể có ý thức.
Như vậy, nguồn gốc trực tiếp và quan trọng nhất quyết định sự ra đời và phát
triển của ý thức là lao động, là thực tiễn xã hội. Ý thức là sản phẩm xã hội, là
một hiện tượng xã hội.
b) Bản chất của ý thức
Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Hình ảnh đó không còn
nguyên vẹn mà đã cải biến thông qua lăng kính chủ quan (tâm tư, tình cảm,
nguyện vọng, kinh nghiệm, nhu cầu…) của con người.
Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan một cách năng động, sáng tạo.
Con người là một thực thể xã hội năng động và sáng tạo. Sáng tạo của ý thức là
sáng tạo của phản ánh, theo quy luật và trong khuôn khổ của sự phản ánh, mà
kết quả bao giờ cũng là những khách thể tinh thần. Sự sáng tạo của ý thức không
Vì mang tính chủ động, con người sử dụng hệ thống phương pháp, công cụ,
phương tiện,.. để nhận thức, phản ánh thế giới, gắn vs mục đích cụ thể, khoa học
cụ thể
đối lập, loại trừ, tách rời sự phản ánh mà ngược lại thống nhất với phản ánh,
trên cơ sở phản ánh. Phản ánh và sáng tạo là hai mặt thuộc bản chất của ý thức
Quá trình ý thức là quá trình thống nhất của ba mặt sau: a) Sự trao đổi thông
tin giữa chủ thể và đối tượng mang tính hai chiều, có chọn lọc, định hướng; b)
Mô hình hóa đối tượng trong tư duy dưới dạng hình ảnh tinh thần, mã hóa các
đối tượng vật chất thành thành các ý tưởng tinh thần; c) Quá trình hiện thực hóa
mô hình trong tư duy thông qua hoạt động thực tiễn.
c) Kết cấu của ý thức (https://www.youtube.com/watch?v=vgK0OxsCXp4)
Để nhận thức được sâu sắc về ý thức, cần xem xét nắm vững tổ chức kết cấu
của nó; tiếp cận từ các góc độ khác nhau sẽ đem lại những tri thức nhiều mặt về
8
cấu trúc, hoặc cấp độ của ý thức.
*Các lớp cấu trúc của ý thức. Bao gồm các yếu tố cấu thành như tri thức, tình
cảm, niềm tin, lý trí, ý chí… trong đó tri thức là nhân tố cơ bản, cốt lõi. Tri thức
là kết quả của quá trình con người nhận thức thế giới, là sự phản ánh thế giới
khách quan.
Để cải tạo tự nhiên và xã hội, con người phải có hiểu biết về thế giới, nghĩa là
phải có tri thức về sự vật. Do đó, mọi hiện tượng ý thức đều có nội dung tri thức
ở mức độ nhất định. Tuy nhiên, sự tác động của thế giới bên ngoài đến con
người không chỉ đem lại sự hiểu biết về thế giới, mà còn đem lại tình cảm của
con người đối với thế giới. Tình cảm tham gia vào mọi hoạt động của con người
và trở thành một trong những động lực quan trọng của hoạt động con người. Tri
thức có biến thành tình cảm mãnh liệt thì mới sâu sắc, và phải thông qua tình
cảm thì tri thức mới biến thành hành động thực tế, mới phát huy được sức mạnh
của mình.
*Các cấp độ của ý thức. Đó là lát cắt theo chiều sâu của thế giới nội tâm con
người. Nó bao gồm các yếu tố như tự ý thức, tiềm thức và vô thức.
Trong quá trình nhận thức thế giới xung quanh, con người cũng đồng thời tự
nhận thức bản thân mình. Đó chính là tự ý thức. Tự ý thức là ý thức hướng về
bản thân mình thông qua quan hệ với thế giới bên ngoài. Nhờ có tự ý thức con
người tự điều chỉnh bản thân theo các quy tắc, chuẩn mực mà xã hội đề ra.
Tiềm thức là những quyết định, hoạt động tự động diễn ra bên ngoài sự kiểm
soát của lý trí dựa trên những kinh nghiệm, hành động lặp lại nhiều lần.
Vô thức là các quá trình trong tâm trí diễn ra một cách tự động không phải do
lý trí điều khiển. Lĩnh vực vô thức là lĩnh vực của các hiện tượng tâm lý nằm
ngoài phạm vi của lý trí mà ý thức không kiểm soát được trong một lúc nào đó..
* Vấn đề "trí tuệ nhân tạo"
Ý thức và máy tính điện tử là hai quá trình khác nhau về bản chất. "Người
máy thông minh" chỉ là những kết cấu kỹ thuật do con người sáng tạo ra. Còn
con người là một thực thể xã hội năng động, được hình thành trong tiến trình
lịch sử tiến hoá lâu dài của giới tự nhiên và thực tiễn xã hội. Máy móc không thể
sáng tạo lại hiện thực dưới dạng tinh thần trong bản thân nó. Năng lực đó chỉ có
con người có ý thức mới thực hiện được và qua đó lập trình cho máy móc thực
hiện.
Hộp 2.3. Nghĩ về trí tuệ nhân tạo
Anh/ Chị cảm thấy như thế nào khi biết truyện ngắn vô cùng thi vị và đượm
buồn, làm Anh/ Chị rất xúc động, lại được viết bởi trí tuệ nhân tạo?
Nguồn: Nhóm tác giả biên soạn, 2020
3. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
9
a) Quan điểm của chủ nghĩa duy tâm và duy vật siêu hình
Chủ nghĩa duy tâm, coi ý thức là tồn tại duy nhất, tuyệt đối, là tính thứ nhất
từ đó sinh ra tất cả; còn thế giới vật chất chỉ là bản sao, biểu hiện khác của ý
thức tinh thần, là tính thứ hai, do ý thức tinh thần sinh ra.
Chủ nghĩa duy vật siêu hình, tuyệt đối hóa yếu tố vật chất, chỉ nhấn mạnh
một chiều vai trò của vật chất sinh ra ý thức, quyết định ý thức, phủ nhận tính
độc lập tương đối của ý thức, không thấy được tính năng động, sáng tạo, vai trò
to lớn của ý thức trong hoạt động thực tiễn cải tạo hiện thực khách quan.
b) Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng
Theo quan điểm triết học Mác - Lênin, vật chất và ý thức có mối quan hệ
biện chứng, trong đó vật chất quyết định ý thức, còn ý thức tác động trở lại vật
chất.
VC
*Vật chất quyết định ý thức thể hiện:
Thứ nhất, vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức
- Con người do giới tự nhiên, vật chất sinh ra, nên ý thức - một thuộc tính của
bộ phận con người - cũng do giới tự nhiên, vật chất sinh ra.
Vai trò của vật chất đối với ý thức trong đời sống xã hội được biểu hiện ở vai
trò của kinh tế đối với chính trị, đời sống vật chất đối với đời sống tinh thần, tồn
tại xã hội đối với ý thức xã hội.
Thứ hai, vật chất quyết định nội dung của ý thức.
- Ý thức là cái phản ánh thế giới vật chất, là hình ảnh về thế giới vật chất nên
nội dung của nó do vật chất quyết định. Trong xã hội, sự phát triển của kinh tế
xét đến cùng quy định sự phát triển của văn hóa; đời sống vật chất thay đổi thì
sớm muộn đời sống tinh thần cũng thay đổi theo.
Thứ ba, vật chất quyết định bản chất của ý thức.
Phản ánh và sáng tạo là hai thuộc tính không tách rời trong bản chất của ý
thức. Chính thực tiễn là hoạt động vật chất có tính cải biến thế giới của con
người – là cơ sở để hình thành, phát triển ý thức,
Thứ tư, vật chất quyết định sự vận động, phát triển của ý thức.
- Mọi sự tồn tại, phát triển của ý thức đều gắn liền với quá trình biến đổi của
vật chất; vật chất thay đổi thì sớm hay muộn, ý thức cũng phải thay đổi theo.
* Ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất
- Ý thức có thể thay đổi nhanh, chậm, đi song hành so với hiện thực, nhưng
nhìn chung nó thường thay đổi chậm so với sự biến đổi của thế giới vật chất.
- Thông qua hoạt động thực tiễn, ý thức có thể làm biến đổi những điều kiện,
hoàn cảnh vật chất, phục vụ cho cuộc sống của con người.

10
- Vai trò của ý thức thể hiện ở chỗ nó chỉ đạo hoạt động, hành động của con
người; nó có thể quyết định làm cho hoạt động của con người đúng hay sai vì
hành động do tư tưởng chỉ đạo.
- Xã hội càng phát triển thì vai trò của ý thức ngày càng to lớn, nhất là trong
thời đại kinh tế tri thức, khi mà tri thức khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất
trực tiếp.
* Ý nghĩa phương pháp luận (Vận dụng tri thức vào trong nhận thức và
hành động)
Từ mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong triết học Mác - Lênin, rút ra
nguyên tắc phương pháp luận là tôn trọng tính khách quan kết hợp phát huy tính
năng động chủ quan.
- Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn phải tôn trọng và hành động theo
qui luật khách quan. Mọi chủ trương, đường lối, kế hoạch, mục tiêu, phải xuất
phát từ thực tế khách quan, từ những điều kiện, tiền đề vật chất hiện có.
- Nhận thức sự vật hiện tượng phải chân thực, đúng đắn, không được gán cho
đối tượng cái mà nó không có.
- Nhận thức, cải tạo sự vật hiện tượng, nhìn chung, phải xuất từ chính bản
thân sự vật hiện tượng với những thuộc tính, mối liên hệ vốn có của nó, tránh
chủ nghĩa chủ quan, bệnh chủ quan duy ý chí; chủ nghĩa duy vật tầm thường,
chủ nghĩa thực dụng.
- Phải coi trọng vai trò của ý thức, phát huy tính năng động sáng tạo của ý
thức, phát huy vai trò nhân tố con người, chống tư tưởng, thái độ thụ động, ỷ lại,
bảo thủ, trì trệ, thiếu tính sáng tạo.
Hộp 2.4. Nhà vua với đôi chân đau
Ngày xưa, có vị vua nọ cai trị ở một vương quốc phồn vinh. Ngày kia, sau khi
ngao du sơn thủy, lúc trở lại hoàng cung, vị vua phàn nàn chân mình rất đau, bởi
vì đây lần đầu tiên ông phải trải qua một cuộc hành trình dài và chặng đường rất
gồ ghề, lởm chởm đá. Sau đó, vị vua hạ lệnh:
- Cho bọc da tất cả con đường trong vương quốc của ta. Chúng ta cần hàng
ngàn bộ da bò và nhiều công sức để làm. Người nữ hầu nghe vậy, nói:
- Bệ hạ đâu cần tốn kém, vất vả nhiều thế. Chỉ cần dùng một miếng da nhỏ để
bọc hai bàn chân của ngài lại là được thôi mà.
Nhà vua ngạc nhiên, nhưng rồi ông cũng đồng ý làm một đôi giày.
Nguồn: (Sưu tầm có biên tập lại)
II. PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT

11
Triết học Mác - Lênin, định nghĩa Phép biện chứng là học thuyết về các mối
liên hệ phổ biến và về sự phát triển; là khoa học về các quy luật vận động và
phát triển chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy.
1. Hai loại hình phép biện chứng và phép biện chứng duy vật
a) Hai loại hình biện chứng
Biện chứng là quan điểm, phương pháp xem xét sự vật trong mối quan hệ qua
lại, trong sự ràng buộc, vận động, phát sinh và tiêu vong của chúng. Phương
pháp tư duy này không chỉ nhìn thấy sự tồn tại mà còn nhìn thấy cả sự sinh
thành và tiêu vong; không chỉ thấy trạng thái tĩnh mà còn thấy trạng thái động,
không chỉ “thấy cây” mà còn “thấy rừng”.
Biện chứng được chia thành biện chứng khách quan và biện chứng chủ quan.
Biện chứng khách quan là khái niệm dùng để chỉ biện chứng của bản thân thế
giới vật chất. Trong lĩnh vực xã hội, biện chứng khách quan chính là mối quan
hệ qua lại giữa xã hội và tự nhiên, sự tác động qua lại giữa lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất. Mỗi giai đoạn trong quá trình phát triển của xã hội đều mang
tính kế thừa và là một quá trình lịch sử - tự nhiên.
Biện chứng chủ quan là khái niệm dùng để tư duy biện chứng và biện chứng
của chính quá trình phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc con người. Biện
chứng chủ quan một mặt phản ánh thế giới khách quan, mặt khác phản ánh
những quy luật của tư duy biện chứng.
Giữa biện chứng khách quan và biện chứng chủ quan có mối quan hệ thống
nhất với nhau. Trong mối quan hệ này, biện chứng khách quan quy định biện
chứng chủ quan. Bản thân sự vật, hiện tượng trong thế giới tồn tại biện chứng
như thế nào thì tư duy, nhận thức của con người về chúng cũng phải phản ánh
đúng như thế ấy.
Tính độc lập tương đối của biện chứng chủ quan với biện chứng khách quan
được thể hiện ở chỗ quá trình tư duy, nhận thức còn phải tuân theo những quy
luật mang tính mục đích và sáng tạo của con người.
b) Khái niệm phép biện chứng duy vật
Một cách khái quát, phép biện chứng là học thuyết về các mối liên hệ phổ
biến và về sự phát triển; là khoa học về các quy luật vận động và phát triển
chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy.
Phép biện chứng có sự khác nhau với phương pháp biện chứng. Phương pháp
biện chứng là hệ thống các nguyên tắc điều chỉnh hoạt động nhận thức và hoạt
động cải tạo thực tiễn xuất phất từ lý luận biện chứng.
Về đặc điểm, phép biện chứng duy vật hình thành từ sự thống nhất hữu cơ
giữa thế giới quan duy vật và phương pháp luận biện chứng; giữa lý luận nhận
thức và lôgíc biện chứng.
12
Về vai trò, phép biện chứng duy vật đã đưa phép biện chứng từ tự phát đến tự
giác, tạo ra chức năng phương pháp luận chung nhất, giúp định hướng việc đề ra
các nguyên tắc tương ứng trong hoạt động nhận thức và thực tiễn.
Đối tượng nghiên cứu của phép biện chứng duy vật là trạng thái tồn tại có tính
quy luật phổ biến nhất của sự vật, hiện tượng trong thế giới. Vấn đề này thể hiện
trong các câu hỏi: sự vật, hiện tượng quanh ta và cả bản thân ta tồn tại trong
trạng thái liên hệ qua lại, quy định, chuyển hoá lẫn nhau và luôn vận động, phát
triển hay trong trạng thái tách rời, cô lập nhau và đứng im, không vận động, phát
triển?...
Để trả lời các câu hỏi trên, phép biện chứng duy vật đã đưa ra nội dung gồm
hai nguyên lý, sáu cặp phạm trù và ba quy luật cơ bản. Hai nguyên lý khái quát
chung tính biện chứng của thế giới. Các cặp phạm trù phản ánh mối liên hệ, sự
tác động biện chứng phổ biến nhất giữa các mặt của sự vật, hiện tượng có tính
quy luật trong từng cặp. Các quy luật cơ bản nghiên cứu mối liên hệ và khuynh
hướng phát triển của thế giới các sự vật, hiện tượng để chỉ ra nguồn gốc, cách
thức và khuynh hướng của sự vận động, phát triển của thế giới ấy.
2. Nội dung của phép biện chứng duy vật
a) Hai nguyên lý của phép biện chứng duy vật
* Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
- Khái niệm
Thế giới vật chất được tạo thành từ những sự vật, hiện tượng, quá trình khác
nhau. Vậy giữa chúng có mối liên hệ, ảnh hưởng lẫn nhau hay chúng tồn tại biệt
lập, tách rời nhau. Nếu chúng tồn tại trong mối liên hệ qua lại thì nhân tố gì quy
định mối liên hệ ấy?
Trả lời câu hỏi thứ nhất, quan điểm siêu hình cho rằng các sự vật hiện tượng
trong thế giới tồn tại tách rời nhau. Giữa chúng không có sự ràng buộc, phụ
thuộc lẫn nhau. Có chăng chỉ là những liên hệ hời hợt, bên ngoài, ngẫu nhiên;
phủ nhận khả năng chuyển hóa lẫn nhau giữa các hình thức liên hệ khác nhau.
Theo quan điểm này thì xã hội chỉ là tập hợp đơn giản của những cá thể, giới tự
nhiên vô sinh độc lập với giới tự nhiên hữu sinh…
Chủ nghĩa duy vật biện chứng coi thế giới như là một chỉnh thể thống nhất.
Các sự vật hiện tượng và quá trình cấu thành thế giới đó, vừa tách biệt nhau, vừa
có sự liên hệ tác động qua lại, thâm nhập và chuyển hóa lẫn nhau. Chính vì có
sự tác động giữa cá nhân mới cần có hệ thống pháp luật điều chỉnh hành vi. Các
nhân tố sinh thái vô sinh ảnh hưởng tới trạng thái sinh lí của các cá thể như khi
nhiệt độ xuống quá thấp làm chết nhiều động vật biến nhiệt như ếch nhái, bò sát.
Trả lời câu hỏi thứ hai, quan điểm duy tâm cho rằng cơ sở của mối liên hệ, tác
động qua lại giữa các sự vật hiện tượng nằm ở các lực lượng siêu tự nhiên hay ở
13
ý thức, tư tưởng của con người. Quan điểm duy vật biện chứng khẳng định cơ sở
của mối liên hệ giữa các sự vật hiện tượng là tính thống nhất vật chất của thế
giới. Các sự vật, hiện tượng dù có khác nhau thì chúng đều là những dạng tồn tại
của thế giới vật chất. Ngay cả tư tưởng, ý thức thì nội dung của chúng cũng chỉ
là kết quả phản ánh của các quá trình vật chất khách quan.
Mối liên hệ là sự ràng buộc, tác động hỗ trợ, quy định lẫn nhau giữa các yếu
tố trong một sự vật hiện tượng, hoặc giữa các sự vật hiện tượng với nhau. Mối
liên hệ phổ biến là mối liên hệ có ở nhiều sự vật hiện tượng.
- Tính chất của mối liên hệ phổ biến
Tính khách quan: sự tồn tại của mối liên hệ không phụ thuộc vào ý thức, tư
duy của con người. Con người chỉ có thể nhận thức và vận dụng mối liên hệ đó
vào thực tiễn, hoạt động của mình.
Tính phổ biến: bất kỳ sự vật hiện tượng nào cũng có mối liên hệ với sự vật
hiện tượng khác. Tùy theo điều kiện nhất định, mối liên hệ biểu hiện dưới những
hình thức riêng biệt, cụ thể.
Tính đa dạng: vì có các mối liên hệ bên trong- bên ngoài, có mối liên hệ chủ
yếu -thứ yếu, mối liên hệ chung bao quát toàn thế giới - có mối liên hệ bao quát
một số lĩnh vực hoặc một lĩnh vực riêng biệt của thế giới đó; có mối liên hệ trực
triếp - gián tiếp … Sự vật nào cũng vận động phát triển qua nhiều giai đoạn,
giữa các giai đoạn cũng có mối liên hệ với nhau.
- Ý nghĩa phương pháp luận
Nguyên lý về mối liên hệ là cơ sở lý luận của quan điểm toàn diện trong nhận
thức và hoạt động thực tiễn. Quan điểm toàn diện yêu cầu:
Khi nhận thức sự vật phải đặt đối tượng trong chỉnh thể mối liên hệ với các sự
vật, hiện tượng khác; trong mối liên hệ giữa các mặt, các yếu tố của bản thân sự
vật đó, tránh phiến diện.
Phải phân loại đúng các mối liên hệ, rút ra được các mặt, các mối liên hệ bản
chất, tất yếu của đối tượng, trên cơ sở đó tác động đến đối tượng một cách phù
hợp nhằm thúc đẩy sự vật tiến lên.
Để cải tạo sự vật phải sử dụng đồng bộ nhiều giải pháp vì các mối liên hệ
khác nhau thì yêu cầu về giải pháp khác nhau.
Vì các mối liên hệ tồn tại, thể hiện trong những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể,
gắn với không gian, thời gian cụ thể nên trong hoạt động nhận thức và thực tiễn
phải đảm bảo nguyên tắc lịch sử - cụ thể. Khi vận dụng những nguyên lý, lý luận
chung vào thực tiễn phải xuất phát từ những điều kiện thực tiễn lịch sử - cụ thể.
Quan điểm lịch sử - cụ thể đối lập với quan điểm giáo điều, chung chung, phiến
diện, không có trọng tâm, trọng điểm.

14
Thu nhập thấp
Năng suất thấp Tiêu dùng thấp Tích lũy thấp
Trình độ kỹ thuật thấp
Nguồn: <https://chienluocsong.com/kinh-te-phat-trien-p2-vong-luan-quan/>
* Nguyên lý về sự phát triển
- Khái niệm phát triển
Quan điểm biện chứng và quan điểm siêu hình nảy sinh khi trả lời câu hỏi: sự
phát triển diễn ra như thế nào, bằng cách nào. Quan điểm duy vật và quan điểm
duy tâm nảy sinh khi trả lời câu hỏi: cái gì là nguồn gốc của sự phát triển?
Quan điểm siêu hình cho rằng, phát triển của sự vật chỉ là sự tăng lên hay
giảm đi về lượng, không có sự thay đổi về mặt chất; nếu có sự thay đổi về mặt
chất thì sự thay đổi đó cũng chỉ diễn ra theo vòng tròn khép kín, không có sự ra
đời cái mới. Sự phát triển chỉ là một quá trình tiến lên liên tục, không có những
bước quanh co, phức tạp. Trong toàn bộ quá trình tồn tại, các sự vật nhất thành
bất biến.
Khi đề cập tới nguồn gốc phát triển, quan điểm duy tâm thường tìm nguồn
gốc đó ở các lực lượng siêu tự nhiên, hoặc ý thức con người.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng quan niệm: phát triển là một phạm trù triết học
dùng để khái quát những quá trình vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản
đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.
Sự vận động, nếu xem xét từng trường hợp cá biệt thì có những vận động đi
lên, vận động tuần hoàn, thậm chí có vận động đi xuống. Song, nếu xét cả quá
trình với không gian rộng và thời gian dài, thì vận động đi lên là khuynh hướng
chung của mọi sự vật. Theo quan điểm duy vật biện chứng, thì phát triển là một
trường hợp đặc biệt của vận động. Trong quá trình phát triển sẽ nảy sinh những
tính quy định mới cao hơn về chất, nhờ vậy, làm tăng cường tính phức tạp của
mối liên hệ; làm cho cả cơ cấu tổ chức, phương thức tồn tại, vận động của sự
vật, cùng chức năng vốn có của nó (SV)ngày càng hoàn thiện hơn. Cũng chính
vì vậy mà sự phát triển không có tính trực tuyến, nó diễn ra bằng con đường
quanh co, phức tạp, trong đó có thể có bước thụt lùi tương đối.
Nguồn gốc của sự phát triển nằm trong bản thân sự vật, do mâu thuẫn của sự
vật quy định. Quá trình giải quyết liên tục những mâu thuẫn đó quy định sự vận
động, phát triển của sự vật.
- Tính chất của sự phát triển
Tính khách quan: phát triển là thuộc tính vốn có của sự vật, nguồn gốc của
phát triển nằm ngay trong sự vật, do vào mâu thuẫn bên trong sự vật quy định,
không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người.
15
Tính phổ biến: Khuynh hướng phát triển diễn ra ở mọi lúc, mọi nơi, cả trong
tự nhiên, xã hội và tư duy. Trong giới vô cơ, phát triển biểu hiện dưới hình thức
biến đổi các yếu tố làm xuất hiện các hợp chất. Trong sinh vật phát triển thể hiện
ở khả năng thích nghi trước sự biến đổi của môi trường. Trong xã hội phát triển
thể hiện ở sự thay thế các phương thức sản xuất, các nền văn minh. Trong tư
duy, phát triển thể hiện ở chỗ những giới hạn nhận thức của thế hệ trước được
thế hệ sau giải quyết.
Tính đa dạng, phong phú: phát triển là khuynh hướng chung của mọi sự vật,
hiện tượng, song từng sự vật lại có quá trình (PT) không giống nhau. Tồn tại ở
không gian, thời gian khác nhau, sự vật phát triển sẽ không như nhau. Trong quá
trình phát triển, sự vật còn chịu sự tác động của các sự vật, hiện tượng, của
những yếu tố, điều kiện khác. Sự tác động như thế, có thể thúc đẩy hoặc kìm
hãm sự phát triển của sự vật.
Ý nghĩa phương pháp luận
Trong nhận thức và hành động, chủ thể phải tuân thủ nguyên tắc phát triển,
tránh tư tưởng bảo thủ, trì trệ, đặt sự vật ở trạng thái đứng im, không vận động,
không phát triển. Sở dĩ như vậy vì vận động là bản chất khách quan của các quá
trình tự nhiên, xã hội, tư duy.
Nhờ đặt đối tượng trong trạng thái vận động, ta có thể phát hiện ra các xu
hướng biến đổi, chuyển hoá của chúng; phán đoán, nhận định được khuynh
hướng phát triển trong tương lai của sự vật, cả những tính quanh co phức tạp
như một hiện tượng phổ biến của quá trình phát triển. Có như vậy con người
mới chủ động trong hoạt động, tránh được rủi ro, thất bại. Nghĩa là, con người tự
giác trong hoạt động nhận thức và thực tiễn của mình.
Quan điểm phát triển cũng đối lập với quan điểm bảo thủ, trì trệ, ngại khó, dễ
bằng lòng với thực tại, ngại đổi mới. Vì phát triển diễn ra trong tiến trình quanh
co, phức tạp nên trong nhận thức cũng như hoạt động thực tiễn khi gặp khó
khăn, thất bại cần sự kiên định, giữ vững lập trường, vượt qua trở ngại, tin tưởng
vào tương lai phía trước.

Hộp 2.6. Con đường phát triển bản thân

16
Gắn kết mục tiêu Áp dụng:
Hiểu rõ Đưa ra mục tiêu cá nhân với: Kiến thức
bản thân ngắn/ dài hạn - Mục tiêu tổ chức Kỹ năng và
- Hướng phát triển Rèn luyện

Làm việc nhóm, chia sẻ Chịu áp lực, chấp nhận


ý tưởng, có thêm kỷ thử thách. Tự đánh giá: Thử thách với
năng mới, kiến thức mới điểm mạnh, yếu các dự án mới

Được nhìn nhận Cơ hội Đánh giá Đặt các mục


khả năng bản thân thăng tiến thành quả tiêu mới

Nguồn: (Sưu tầm có hiệu chỉnh)

b) Các cặp phạm trù cơ bản của phép biện chứng duy vật
Phạm trù là những khái niệm rộng nhất phản ánh những mặt, những thuộc
tính, những mối liên hệ chung, cơ bản nhất của các sự vật và hiện tượng thuộc
một lĩnh vực nhất định.
Mỗi bộ môn khoa học đều có một hệ thống phạm trù riêng của mình phản ánh
những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ cơ bản và phổ biến thuộc phạm
vi khoa học đó nghiên cứu. Ví dụ, trong toán học có phạm trù số, hình, điểm,
mặt phẳng, v.v… Trong vật lý học có các phạm trù khối lượng, vận tốc, gia tốc,
lực, v.v… Trong kinh tế học có các phạm trù hàng hóa, giá trị, giá cả, tiền tệ, lợi
nhuận, v.v…
Các phạm trù của phép biện chứng duy vật như vật chất, ý thức, vận động,
đứng im, mâu thuẫn, số lượng, chất lượng, nguyên nhân, kết quả, v.v. là những
khái niệm chung nhất phản ánh những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ
cơ bản và phổ biến của toàn bộ thế giới hiện thực, bao gồm cả tự nhiên, xã hội
và tư duy.
Mọi sự vật, hiện tượng đều có nguyên nhân xuất hiện, đều có quá trình vận
động, biến đổi, đều có mâu thuẫn, có nội dung và hình thức.v.v.; tức là đều có
những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ được phản ánh trong các phạm
trù của phép biện chứng duy vật. Do vậy, giữa phạm trù của các khoa học cụ thể
và phạm trù của phép biện chứng có mối quan hệ biện chứng với nhau, đó là
mối quan hệ giữa cái riêng và cái chung.
Với tư cách là khoa học về mối liên hệ phổ biến và sự phát triển, phép biện
chứng khái quát những mối liên hệ phổ biến nhất, bao quát các lĩnh vực tự
nhiên, xã hội và tư duy vào các cặp phạm trù cơ bản như: cái riêng và cái chung,
nguyên nhân và kết quả, tất nhiên và ngẫu nhiên, nội dung và hình thức, bản
chất và hiện tượng, khả năng và hiện thực.
17
* Cái riêng, cái chung
Khái niệm
Cái riêng là phạm trù dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng, một quá trình
nhất định. Chẳng hạn, một hiện tượng kinh tế, một giai đoạn xã hội, một con
người…
Cái chung là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính có ở
nhiều sự vật, hiện tượng. Chẳng hạn, cạnh tranh là thuộc tính chung của các
doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường.
Cái đơn nhất là phạm trù dùng để chỉ các mặt, các đặc điểm chỉ vốn có ở một
sự vật, hiện tượng (một cái riêng) nào đó mà không lặp lại ở sự vật, hiện tượng
nào khác. Như vậy cái đơn nhất là dấu hiệu đặc trưng của cái riêng. Chẳng hạn,
nhãn hiệu của mỗi doanh nghiệp là cái đơn nhất của doanh nghiệp đó.
Mối quan hệ giữa cái riêng và cái chung (Ta với mình tuy 2 mà 1, mình vs ta
tuy 1 mà 2)
Trong lịch sử triết học có hai trường phái trái ngược nhau khi nói về mối quan
hệ giữa cái cái riêng và cái chung. Các nhà duy danh khẳng định rằng chỉ có
những cái cá biệt hay những cái đặc thù mới hiện hữu, và phủ nhận sự thực tồn
của những cái phổ quát. Ngược lại, trường phái duy thực quả quyết những cái
chung, phổ quát mới thực sự tồn tại. Còn những cái riêng, đặc thù vốn là hiện
thân của cái chung.
Về mối quan hệ giữa cái riêng và cái chung, chủ nghĩa duy vật biện chứng
cho rằng:
Thứ nhất, cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng. Nghĩa là
cái chung thực sự tồn tại nhưng chỉ tồn tại trong cái riêng, chứ không tồn tại biệt
lập, bên ngoài cái riêng. Chẳng hạn, trong sản xuất hàng hóa, quy luật cung –
cầu chỉ tồn tại thông qua tổng thể các hoạt động bán (cung) và mua (cầu) trên thị
trường.
Thứ hai, cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ đưa tới cái chung (VD: Sự tồn
tại của cá nhân trong xã hội đưa đến pháp luật quy định.chung). Nghĩa là cái
riêng tồn tại độc lập nhưng không biệt lập với cái khác. Nó luôn tồn tại trong
một môi trường, một hoàn cảnh nhất định, tương tác với môi trường, hoàn cảnh
ấy. Do vậy, nó đều tham gia vào các mối liên hệ qua lại hết sức đa dạng với các
sự vật, hiện tượng khác có liên quan. Chẳng hạn, hiện tượng khủng hoảng kinh
tế tại một quốc gia, người nghiên cứu có thể mô tả những biểu hiện riêng như
tình trạng cụ thể của nền kinh tế, các quan hệ xã hội - chính trị. Song, đằng sau
những cái riêng đó là những cái chung mang tính quy luật gắn với khủng hoảng
kinh tế như tính chu kỳ, hiện tượng thất nghiệp, sự phá sản…

18
Thứ ba, cái riêng phong phú hơn cái chung vì nó là cái chỉnh thể, toàn bộ; cái
chung thì sâu sắc hơn cái riêng vì nó thể hiện những thuộc tính, đặc điểm ổn
định, lặp lại mang tính bản chất của một tập hợp nhiều sự vật hiện tượng. Chẳng
hạn, trong cùng một lĩnh vực, mỗi doanh nghiệp là một cái riêng. Sự biểu hiện
trong hoạt động của chúng hết sức đa dạng, phong phú, nhưng tổng thể hoạt
động của các doanh nghiệp tạo ra những quy luật, đặc trưng của lĩnh vực đó.
Thứ tư, trong quá trình phát triển của sự vật, cái đơn nhất và cái chung có thể
chuyển hóa lẫn nhau. Sự chuyển hóa của cái đơn nhất thành cái chung( nếu) là
biểu hiện của cái mới tích cực, đáp ứng yêu cầu vận động phát triển, thay thế cái
cũ đang lỗi thời, lạc hậu, kìm hãm sự phát triển. Chẳng hạn, các phát minh, sáng
tạo lúc mới xuất hiện luôn là cái đơn nhất. Ngược lại, sự chuyển hóa của chung
thành cái đơn nhất là biểu hiện của cái cái chung đã trở nên lỗi thời nên dần bị
đào thải thành cái đơn nhất. Chẳng hạn, các phong tục tập quán không còn phù
hợp sẽ bị đào thải và dần mất đi.
Ý nghĩa phương pháp luận
Vì cái chung là cái bộ phận, chỉ tồn tại thông qua cái riêng nên khi áp dụng
“cái chung” nào vào từng trường hợp riêng cần phải cá biệt hóa nó cho phù hợp.
Chẳng hạn, lý thuyết về quản lý kinh tế, tùy theo trình độ, điều kiện và đặc thù
của mỗi quốc gia, mỗi lĩnh vực mà sẽ được vận dụng không giống nhau. Ngược
lại, nếu chỉ chú ý, đề cao đến “cái đơn nhất” thì sẽ rời vào cục bộ, bảo thủ.
Khi giải quyết những vấn đề riêng trong thực tiễn, cần phải đặt trên nền tảng
những nguyên tắc chung. Nghĩa là không được bỏ qua các vấn đề, nếu không sẽ
rơi vào tình trạng tuỳ tiện, kinh nghiệm chủ nghĩa. Chẳng hạn, Việt Nam có thể
tham khảo cũng như rút kinh nghiệm từ các mô hình quản lý và giám sát tài sản
nhà nước của một số nước có môi trường, thể chế kinh tế có nhiều điểm tương
đồng với Việt Nam.
Cần nắm vững tính quy luật của quá trình chuyển hóa giữa cái đơn nhất và cái
chung. Việc tạo điều kiện cần thiết để phổ biến những hiện tượng hợp quy luật
hoặc triệt tiêu những nhân tố trì trệ, không phù hợp sẽ có ý nghĩa thúc đẩy sự
phát triển. Chẳng hạn Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh yêu cầu các sở,
ban, ngành và Ủy ban nhân dân quận – huyện tham khảo các mô hình sáng kiến,
cách làm hay trong công tác cải cách hành chính tại một số cơ quan, đơn vị để
áp dụng nhân rộng cho phù hợp với tình hình thực tế tại cơ quan, địa bàn mình.

19
Hộp 2.7. Mô hình các yếu tố cấu thành sản phẩm trong marketing
quốc tế
Bảo hành DỊCH VỤ HỖ TRỢ Hướng dẫn sử
dụng
BAO BÌ SẢN PHẨM
Tên SẢN PHẨM CỐT LÕI Nhãn
Phụ tùng thương [1] Đặc [3] Phong hiệu
thay thế hiệu điểm, chức cách sản thương Thiết bị lắp
năng phẩm mại đặt
[2] Thiết [4] Hình
kế sản thức trình
Chất lượng phẩm bày Giá cả

Dịch vụ sau bán hàng


Nguồn: Nguyễn Thị Phương Dung (2020), Phân tích vai trò của chiến lược marketing sản phẩm
quốc tế trong thời kỳ hội nhập quốc tế tại Việt Nam
<http://tapchicongthuong.vn/bai-viet/phan-tich-vai-tro-cua-chien-luoc-marketing-san-pham-
quoc-te-trong-thoi-ky-hoi-nhap-quoc-te-tai-viet-nam-73243.htm>
* Nguyên nhân và kết quả
Khái niệm
Nguyên nhân là sự tương tác giữa các mặt trong một sự vật, hiện tượng hoặc
giữa các sự vật, hiện tượng với nhau gây nên những biến đổi nhất định. Kết quả
là những biến đổi xuất hiện do sự tương tác giữa các yếu tố mang tính nguyên
nhân gây nên. Vd: Nước chảy đá mòn
Nguyên nhân khác với nguyên cớ và điều kiện. Nguyên cớ chỉ tồn tại trong xã
hội. Vì những lý do nhất định, để giải quyết hoặc thực hiện mục đích của mình,
chủ thể thực hiện đã che đậy nguyên nhân đích thực và sử dụng nguyên cớ làm
nguyên nhân. Do vậy, nguyên cớ không tạo ra kết quả (. Điều kiện cũng không
sinh ra kết quả nhưng nếu thiếu nó thì không xảy ra quan hệ nhân quả. Chẳng
hạn, pháp luật quy định, ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện là ngành,
nghề mà việc thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh trong ngành, nghề đó phải
đáp ứng điều kiện vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội,
đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng.
Một số tính chất của mối liên hệ nguyên nhân – kết quả
Tính khách quan: những mối liên hệ nhân quả là những mối liên hệ vốn có
của thế giới, tồn tại trong quá trình vận động, phát triển của sự vật.

20
Tính phổ biến: mọi sự vật hiện tượng tồn tại đều có nguyên nhân, luôn gắn
liền với quá trình vận động. Song, có nhiều sự vật con người chưa tìm ra hoặc
tìm đúng nguyên nhân của chúng.
Tính tất yếu: mối liên hệ nhân quả bao giờ cũng mang tính quy luật. Tùy vào
tính chất của mối liên hệ mà tính quy luật đó thể hiện dưới nhiều mức độ khác
nhau. Một nguyên nhân nhất định trong những điều kiện hoàn cảnh nhất định chỉ
có thể gây ra kết quả nhất định. Nguyên nhân giống nhau trong những điều kiện
giống nhau thì kết quả về cơ bản giống nhau.
Mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả
- Nguyên nhân sản sinh ra kết quả
Nguyên nhân sinh ra kết quả nên luôn có trước kết quả. Tuy nhiên, không
phải bất cứ sự nối tiếp nào trong thời gian của các hiện tượng cũng đều biểu hiện
mối liên hệ nhân quả. Dấu hiệu phân biệt liên hệ nhân – quả với liên hệ nối tiếp
nhau theo thời gian là ở chỗ nguyên nhân sinh ra kết quả.
Một nguyên nhân có thể gây ra nhiều kết quả khác nhau tùy thuộc vào hoàn
cảnh cụ thể. Ngược lại, một kết quả có thể được tạo nên bởi các nguyên nhân
khác nhau.
Nếu các nguyên nhân khác nhau tác động lên sự vật theo cùng một hướng thì
chúng sẽ gây nên ảnh hưởng cùng chiều với sự hình thành kết quả. Ngược lại,
chúng sẽ làm suy yếu, thậm chí triệt tiêu hoàn toàn tác dụng của nhau.
Phân loại nguyên nhân: do tính chất và vai trò của nguyên nhân đối với sự
hình thành kết quả là không giống nhau nên cần phải phân loại nguyên nhân.
Dựa trên tính chất, vai trò các nguyên nhân được phân thành nguyên nhân chủ
yếu và nguyên nhân thứ yếu, nguyên nhân bên trong và nguyên nhân bên ngoài,
nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan, cơ bản, không cơ bản…
- Sự tác động trở lại của kết quả đối với nguyên nhân (Thất bại là mẹ thành
công)
Sau khi xuất hiện, kết quả ảnh hưởng ngược trở lại đối với nguyên nhân. Sự
tác động đó có thể diễn ra theo hướng tích cực hoặc tiêu cực.
- Sự thay đổi vị trí giữa nguyên nhân và kết quả
Một hiện tượng nào đó, được coi là nguyên nhân hay kết quả bao giờ cũng ở
trong một quan hệ cụ thể, xác định. Vì, hiện tượng đó trong mối quan hệ này là
nguyên nhân, nhưng trong mối liên hệ khác là kết quả và ngược lại.
Ý nghĩa phương pháp luận
Muốn hiểu đúng sự vật hoặc xóa bỏ sự vật thì phải tìm nguyên nhân của nó.
Một kết quả do nhiều nguyên nhân gây ra nên không vội vàng kết luận
nguyên nhân mà phải thực hiện việc phân loại nguyên nhân, đồng thời chú ý đến
sự tác động tổng hợp của các nguyên nhân.
21
Cần đặt đối tượng vào không gian, thời gian cụ thể để nghiên cứu vì nguyên
nhân và kết quả thường thay đổi vị trí cho nhau.

Hộp 2.8. Quan hệ nhân – quả giữa thuốc lá và đói nghèo


Bệnh tật, tử Giảm NSLĐ Giảm thu nhập
vong
THUỐC
Môi trường Tốn phí: y Tăng đói nghèo

Hỏa hoạn tế, xã hội

Giảm ngân Giảm chi tiêu


sách gia đình cho thực phẩm, Suy dinh dưỡng
GD
Nguồn: Ngô Đồng (2017), Những con số gây sốc về thuốc lá
<http://congan.com.vn/doi-song/suc-khoe/nhung-con-so-gay-soc-ve-thuoc-la_36434.html>, 30/3/2017.

* Tất nhiên và ngẫu nhiên


Khái niệm
Tất nhiên là phạm trù chỉ cái do những nguyên nhân cơ bản bên trong của kết
cấu vật chất quyết định và trong những điều kiện nhất định nó phải xảy ra như
thế chứ không thể khác được.
Ngẫu nhiên là phạm trù chỉ cái không do mối liên hệ bản chất, bên trong kết
cấu vật chất, bên trong sự vật quyết định mà do các nhân tố bên ngoài, do sự kết
hợp nhiều hoàn cảnh bên ngoài quyết định. Do đó, nó có thể xuất hiện, có thể
không xuất hiện, có thể xuất hiện như thế này, hoặc có thể xuất hiện khác đi.
Mối quan hệ biện chứng giữa tất nhiên và ngẫu nhiên
Tất nhiên và ngẫu nhiên đều tồn tại khách quan, độc lập với ý thức của con
người và đều có vị trí nhất định đối với sự phát triển của sự vật và giữa chúng có
mối quan hệ biện chứng.
Tất nhiên và ngẫu nhiên đều tồn tại, nhưng chúng không tồn tại biệt lập dưới
dạng thuần túy cũng như không có cái ngẫu nhiên thuần túy.
Tất nhiên và ngẫu nhiên tồn tại trong sự thống nhất hữu cơ với nhau. Sự thống
nhất hữu cơ này thể hiện ở chỗ: cái tất nhiên bao giờ cũng thể hiện sự tồn tại của
mình thông qua vô số cái ngẫu nhiên.
Còn cái ngẫu nhiên là hình thức biểu hiện của cái tất nhiên, đồng thời là cái
bổ sung cho cái tất nhiên, cái tất yếu như là khuynh hướng chung của sự phát
triển. Khuynh hướng đó không tồn tại thuần túy, biệt lập, mà được thể hiện dưới
hình thức cái ngẫu nhiên. Cái ngẫu nhiên cũng không tồn tại thuần túy mà luôn
là hình thức thể hiện của cái tất nhiên. Trong cái ngẫu nhiên ẩn giấu cái tất
nhiên.
22
Tất nhiên và ngẫu nhiên có thể chuyển hóa cho nhau. Thể hiện:
Tất nhiên và ngẫu nhiên không nằm yên ở trạng thái cũ mà thay đổi cùng với
sự thay đổi của sự vật và trong những điều kiện nhất định tất nhiên có thể
chuyển hóa thành ngẫu nhiên và ngược lại. Ví dụ: việc trao đổi vật này lấy vật
khác trong xã hội công xã nguyên thủy lúc đầu chỉ là việc ngẫu nhiên. Nhưng về
sau, sự trao đổi sản phẩm trở nên thường xuyên hơn và biến thành một hiện
tượng tất nhiên của xã hội.
Sự chuyển hóa giữa tất nhiên và ngẫu nhiên còn thể hiện ở chỗ, khi xem xét
trong mối quan hệ này, thông qua mặt này thì sự vật, hiện tượng đó là cái ngẫu
nhiên, nhưng khi xem xét trong mối quan hệ khác, thông qua mặt khác thì sự
vật, hiện tượng đó lại là cái tất yếu. Như vậy ranh giới giữa tất nhiên và ngẫu
nhiên chỉ có ý nghĩa tương đối.
Ý nghĩa phương pháp luận
Trong hoạt động thực tiễn chúng ta phải dựa vào cái tất nhiên nhưng cũng
không được bỏ qua hoàn toàn cái ngẫu nhiên. Vì cái ngẫu nhiên tuy không chi
phối sự phát triển của sự vật, nhưng nó có ảnh hưởng đến sự phát triển của sự
vật. Do vậy, trong hoạt động thực tiễn, ngoài phương án chính, cần có phương
án dự phòng để chủ động đáp ứng những sự biến ngẫu nhiên có thể xảy ra.
Muốn nhận thức được cái tất nhiên phải thông qua việc nghiên cứu, phân tích
so sánh rất nhiều cái ngẫu nhiên. Khi nghiên cứu cái ngẫu nhiên phải tìm ra cái
chung tất yếu.
Cái ngẫu nhiên trong điều kiện nhất định có thể chuyển hóa thành cái tất
nhiên. Do vậy không được xem nhẹ, bỏ qua cái ngẫu nhiên.

Hộp 2.9. Tuần trăng mật có một không hai


Stefan và Erika Svanstrom đã đưa cô con gái nhỏ cùng du ngoạn với bố mẹ trong kỳ
nghỉ trăng mật kéo dài 4 tháng đến nhiều nước. Trong chuyến đi tới Munich (Đức), gia
đình nhỏ ngay lập tức bị mắc kẹt trong một cơn bão tuyết khủng khiếp nhất. Để lánh nạn,
họ đã bay tới Cairns (Australia) nhưng lại phải đối mặt với một cơn lốc xoáy có sự tàn phá
khủng khiếp. Khi họ tới Brisbane, ngập lụt đã nhấn chìm nhiều khu vực của thành phố.
Gia đình Svanstrom cũng may mắn thoát khỏi trận cháy rừng ở Perth (Aus.)
Họ tiếp tục hành trình đến New Zealand. Chỉ vài giờ sau khi đến, một trận động đất 6,3
độ richter đã xảy ra. Hai ngày sau khi họ đến Tokyo, trận động đất mạnh kéo theo sóng
thần đã ập đến.
Cuối cùng, gia đình Svanstrom trở về Stockholm sau một chuyến nghỉ bình yên ở điểm
đến cuối cùng là Trung Quốc.
Nguồn: <https://baodatviet.vn/doi-song/tuan-trang-mat-xui-xeo-co-mot-khong-hai-2263755/ >
* Nội dung và hình thức (Nhóm tác giả có biên tập lại)
Khái niệm
Nội dung là phạm trù chỉ tổng hợp tất cả những mặt, những yếu tố, những quá
trình tạo nên sự vật. Còn hình thức là phạm trù chỉ phương thức tồn tại và phát
23
triển của sự vật, là hệ thống các mối liên hệ tương đối bền vững giữa các yếu tố
của sự vật đó.
Ví dụ, nội dung của một cơ thể động vật là toàn bộ các yếu tố vật chất như tế
bào, các khí quan cảm giác, các hệ thống, các quá trình hoạt động của các hệ
thống... để tạo nên cơ thể đó. Hình thức của một cơ thể động vật là trình tự sắp
xếp, liên kết các tế bào, các hệ thống... tương đối bền vững của cơ thể.
Trong cặp phạm trù nội dung và hình thức, phép biện chứng duy vật chủ yếu
muốn nói đến hình thức bên trong gắn liền với nội dung, là cơ cấu của nội dung
chứ không muốn nói đến hình thức bề ngoài của sự vật.
Mối quan hệ biện chứng giữa nội dung và hình thức
- Sự thống nhất giữa nội dung và hình thức
Nội dung và hình thức luôn gắn bó chặt chẽ với nhau, không có hình thức nào
tồn tại thuần túy không chứa đựng nội dung và ngược lại. Nội dung nào có hình
thức đó.
Một nội dung trong quá trình phát triển có thể có nhiều hình thức thể hiện,
ngược lại, một hình thức có thể thể hiện nhiều nội dung khác nhau.
Ví dụ, quá trình sản xuất ra một sản phẩm có thể bao gồm những yếu tố nội
dung giống nhau như: con người, công cụ, vật liệu... nhưng cách tổ chức, phân
công trong quá trình sản xuất có thể khác nhau. Như vậy, nội dung quá trình sản
xuất được diễn ra dưới những hình thức khác nhau. Hoặc cùng một hình thức tổ
chức sản xuất như nhau nhưng được thực hiện trong những ngành, những khu
vực, với những yếu tố vật chất khác nhau, sản xuất ra những sản phẩm khác
nhau.
Nội dung giữ vai trò quyết định đối với hình thức. Dưới sự tác động lẫn nhau
của những mặt trong sự vật, hoặc giữa các sự vật với nhau trước hết làm cho các
yếu tố của nội dung biến đổi trước; còn những mối liên kết giữa các yếu tố của
nội dung, tức hình thức thì chưa biến đổi ngay, khi ấy, hình thức sẽ trở nên lạc
hậu và sẽ trở thành nhân tố kìm hãm nội dung phát triển.
Ví dụ, lực lượng sản xuất là nội dung của phương thức sản xuất còn quan hệ
sản xuất là hình thức của quá trình sản xuất. Do lực lượng sản xuất biến đổi
nhanh hơn, nên sẽ đến lúc quan hệ sản xuất lạc hậu hơn so với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất và sẽ trở thành yếu tố kìm hãm lực lượng sản xuất phát
triển. Để mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển, con người phải thay đổi
quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp với lực lượng sản xuất.
Như vậy sự biến đổi của nội dung quy định sự biến đổi của hình thức.
- Sự tác động trở lại của hình thức đối với nội dung

24
Sự tác động của hình thức đến nội dung thể hiện ở chỗ: Nếu phù hợp với nội
dung thì hình thức sẽ tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy nội dung phát triển. Ngược
lại, sẽ ngăn cản kìm hãm sự phát triển của nội dung.
Ví dụ: trong cơ chế bao cấp ở nước ta trước đây, do quan hệ sản xuất chưa
phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất nên không kích thích
được tính tích cực của người sản xuất, không phát huy được năng lực sẵn có của
lực lượng sản xuất của chúng ta. Nhưng từ sau đổi mới, quan hệ sản xuất phù
hợp với trình độ của lực lượng sản xuất, do vậy tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy
sản xuất phát triển. Như vậy hình thức có tác động trở lại đối với nội dung.
Ý nghĩa phương pháp luận
Vì nội dung và hình thức luôn gắn bó với nhau trong quá trình vận động, phát
triển của sự vật, do vậy trong nhận thức không được tách rời tuyệt đối hóa giữa
nội dung và hình thức.
Cùng một nội dung trong quá trình phát triển của sự vật có thể có nhiều hình
thức, ngược lại, một hình thức có thể chứa đựng nhiều nội dung. Vì vậy, cần
phải chủ động sử dụng nhiều hình thức khác nhau, đáp ứng với yêu cầu thực tiễn
của hoạt động cách mạng trong những giai đoạn khác nhau.
Để nhận thức và cải tạo được sự vật, trước hết ta phải căn cứ vào nội dung,
nhưng phải thường xuyên đối chiếu giữa nội dung và hình thức và làm cho hình
thức phù hợp với nội dung để thúc đẩy nội dung phát triển.

Hộp 2.10. Trách nhiệm


Một ngày, cậu con trai 3 tuổi của tôi u đầu vì sơ ý đâm vào cái bàn. Nó khóc ầm ĩ một hồi
lâu. Tôi bước tới cạnh chiếc bàn, lớn tiếng hỏi: Này! Bàn, ai làm bạn bị thương và ai đang
khóc nhiều quá vậy?
Con trai ngừng khóc, nhìn tôi với những giọt nước mắt lăn dài. Tôi vuốt ve cái bàn và hỏi: Ai
làm bạn đau thế? Thằng bé bối rối nói:
Ôi, là con đó bố! Tôi nói: Con xin lỗi cái bàn chưa? Nó nói:
Mình xin lỗi! và cúi chào cái bàn.
Kể từ đó, nó đã học được cách chịu trách nhiệm.
Nguồn: <https://kienthuc.net.vn/khoe-dep/5-cau-chuyen-hay-day-con-thanh-nguoi-nhan-duc-tai-gioi-
1066957.html> (Nhóm tác giả có biên tập lại)

* Bản chất và hiện tượng


Khái niệm
Bản chất là phạm trù chỉ sự tổng hợp tất cả những mặt, những mối liên hệ tất
nhiên, tương đối ổn định bên trong sự vật, quy định sự vận động và phát triển
của sự vật, còn hiện tượng là phạm trù chỉ sự biểu hiện ra “bên ngoài” của bản
chất.
Ví dụ: Bản chất của nhà nước là công cụ thống trị giai cấp, bảo vệ lợi ích của
giai cấp thống trị. Nhưng tùy theo tương quan giai cấp và địa vị của giai cấp
trong lịch sử mà sự thống trị đó được thể hiện dưới hình thức khác nhau.
25
Phạm trù bản chất gắn liền với phạm trù cái chung, nhưng không đồng nhất
với cái chung. Có cái chung là bản chất, nhưng có cái chung không phải là bản
chất. Ví dụ: Mọi người đều là sản phẩm tổng hợp của các quan hệ xã hội, đó là
cái chung, đồng thời đó là bản chất của con người. Còn những đặc điểm về cấu
trúc sinh học của con người như đều có đầu, mình, và các chi... đó là cái chung,
nhưng không phải bản chất của con người.
Phạm trù bản chất và phạm trù quy luật là cùng loại (bậc). Tuy nhiên bản chất
và quy luật không đồng nhất với nhau. Mỗi quy luật thường chỉ biểu hiện một
mặt, một khía cạnh nhất định của bản chất. Bản chất là tổng hợp của nhiều quy
luật. Vì vậy phạm trù bản chất rộng hơn và phong phú hơn quy luật.
Mối quan hệ biện chứng giữa bản chất và hiện tượng
Giữa bản chất và hiện tượng có quan hệ biện chứng vừa thống nhất gắn bó
chặt chẽ với nhau, vừa mâu thuẫn đối lập nhau.
- Sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng (Người sao tính vậy)
Sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng trước hết thể hiện ở chỗ bản chất
luôn luôn được bộc lộ ra qua hiện tượng; còn hiện tượng nào cũng là sự biểu
hiện của bản chất ở mức độ nhất định. Không có bản chất nào tồn tại thuần túy
ngoài hiện tượng; đồng thời cũng không có hiện tượng nào hoàn toàn không
biểu hiện bản chất.
Bản chất được bộc lộ ra ở những hiện tượng tương ứng. Bản chất nào thì có
hiện tượng ấy, bản chất khác nhau sẽ bộc lộ ở những hiện tượng khác nhau. Bản
chất thay đổi thì hiện tượng biểu hiện nó cũng thay đổi theo. Khi bản chất biến
mất thì hiện tượng biểu hiện nó cũng mất theo.
- Tính mâu thuẫn của sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng
Mâu thuẫn này thể hiện ở chỗ: bản chất phản ánh cái chung, cái tất yếu, quyết
định sự tồn tại và phát triển của sự vật, còn hiện tượng phản ánh cái riêng, cái cá
biệt. Cùng một bản chất có thể biểu hiện ra ở nhiều hiện tượng khác nhau tùy
theo sự thay đổi của điều kiện và hoàn cảnh. Vì vậy hiện tượng phong phú hơn
bản chất, còn bản chất sâu sắc hơn hiện tượng. Bản chất là cái tương đối ổn
định, ít biến đổi, còn hiện tượng là cái thường xuyên biến đổi
Bản chất là mặt bên trong ẩn giấu sâu xa của hiện thực; không được biểu lộ
hoàn toàn ở một hiện tượng mà biểu hiện ở rất nhiều hiện tượng khác nhau còn
hiện tượng là mặt bên ngoài của hiện thực khách quan đó. Hiện tượng không
biểu hiện hoàn toàn bản chất mà chỉ biểu hiện một khía cạnh của bản chất, biểu
hiện bản chất dưới hình thức đã biến đổi, nhiều khi xuyên tạc bản chất. (Treo
đầu dê bán thịt chó),(Khẩu xà tâm phật)
Ý nghĩa phương pháp luận

26
Muốn nhận thức được bản chất của sự vật phải xuất phát từ những sự vật,
hiện tượng, quá trình thực tế. Phải phân tích, tổng hợp sự biến đổi của nhiều
hiện tượng, nhất là những hiện tượng điển hình mới hiểu rõ được bản chất của
sự vật. Nhận thức bản chất của sự vật là một quá trình phức tạp đi từ hiện tượng
đến bản chất, từ bản chất ít sâu sắc đến bản chất sâu sắc hơn.
Nhận thức không chỉ dừng lại ở hiện tượng mà phải tiến đến nhận thức được
bản chất của sự vật. Phải dựa vào bản chất của sự vật để xác định phương thức
hoạt động cải tạo sự vật, không được dựa vào hiện tượng.
Hộp 2.11. Chọn hoa khôi
Các sinh viên nữ bỏ phiếu bầu chọn hoa khôi của lớp. Tiểu Mai là người có dung mạo bình
thường nhưng cô đã đứng lên nói với các bạn rằng: Nếu như mình được chọn, mai sau, các
bạn ngồi ở đây có thể tự hào mà nói với chồng của mình rằng: “Hồi em học đại học, em
còn xinh đẹp hơn cả hoa khôi trong lớp cơ đấy!”
Kết quả, Tiểu Mai đã được bầu chọn với số phiếu gần như tuyệt đối.
Nguồn: (Sưu tầm có biên tập lại)

* Khả năng và hiện thực


Khái niệm
Khả năng là phạm trù chỉ cái chưa xuất hiện, chưa tồn tại trên thực tế, nhưng
sẽ xuất hiện, sẽ tồn tại thực sự khi có các điều kiện. Hiện thực là phạm trù chỉ
những cái đang tồn tại trên thực tế.
Ví dụ: với các điều kiện hiện có (hiện thực) như: đã đậu đại học; đang theo
học tại trường Đại học Tài chính-Marketing chương trình chất lượng cao; đội
ngũ giảng viên được chọn lựa kỹ càng; chương trình đào tạo được thiết kế khoa
học, tiệm cận với các chương trình đào tạo các ngành tương ứng tại các nền giáo
dục tiên tiến trên thế giới; lòng mong mỏi và ý chí quyết tâm cao của bản thân
sinh viên và gia đình, thì khả năng trở thành một cử nhân có trình độ, kỹ năng
cao trong tương lai.
Mối quan hệ biện chứng giữa khả năng và hiện thực
Khả năng và hiện thực tồn tại trong mối quan hệ chặt chẽ với nhau, không
tách rời nhau, thường xuyên chuyển hóa lẫn nhau trong quá trình phát triển của
sự vật. Điều đó có nghĩa là trong sự vật hiện đang tồn tại chứa đựng khả năng,
sự vận động phát triển của sự vật chính là quá trình biến khả năng thành hiện
thực. Trong hiện thực mới đó lại nảy sinh khả năng mới, khả năng mới này nếu
có những điều kiện lại biến thành hiện thực mới. Quá trình đó được tiếp tục, làm
cho sự vật vận động, phát triển một cách vô tận trong thế giới vật chất.
Ví dụ: khi đã trở thành một cử nhân chất lượng cao (hiện thực) sẽ mở ra một
khả năng mới là nhanh chóng khẳng định được vị trí trong công việc và phát
triển trên con đường học vấn tiếp theo.

27
Quan hệ giữa khả năng và hiện thực có tính phức tạp. Điều đó thể hiện ở chỗ
cùng trong những điều kiện nhất định, ở cùng một sự vật có thể tồn tại nhiều khả
năng chứ không phải chỉ một khả năng.
Ngoài những khả năng vốn sẵn có, trong những điều kiện mới thì sự vật sẽ
xuất hiện thêm những khả năng mới, đồng thời bản thân mỗi khả năng cũng thay
đổi theo sự thay đổi của điều kiện.
Ví dụ: Nước ta vốn là nước kinh tế kém phát triển, mức sống của nhân dân
còn thấp, nhưng lại phải trải qua cuộc cạnh tranh quốc tế ngày càng quyết liệt để
hội nhập. Nếu chúng ta không nhanh chóng vươn lên thì khả năng càng tụt hậu
xa hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới và sự bất lợi về
mở rộng sản xuất kinh doanh, trao đổi buôn bán càng lớn.
Để khả năng biến thành hiện thực, thường cần không phải chỉ một điều kiện
mà là một tập hợp nhiều điều kiện.
Ví dụ: để trở thành một cử nhân chất lượng cao như đã trình bày ở trên, bên
cạnh điều kiện do nhà trường đưa đến, sự quyết tâm của bản thân gia đình và
sinh viên thì cần có các điều kiện như: đất nước ổn định, hòa bình, môi trường
thiên nhiên an lành, môi trường xã hội an toàn…
Ý nghĩa phương pháp luận
Hoạt động thực tiễn cần dựa vào hiện thực để định ra chủ trương, phương
hướng hành động; nếu chỉ dựa vào cái còn ở dạng khả năng thì sẽ dễ rơi vào ảo
tưởng. Tuy không chủ yếu dựa vào khả năng nhưng chúng ta cũng phải tính đến
các khả năng để việc đề ra chủ trương, kế hoạch hành động sát hợp hơn.
Trong xã hội, việc chuyển khả năng thành hiện thực phụ thuộc nhiều vào hoạt
động của con người. Vì vậy, chúng ta phải chú ý đến việc phát huy nguồn lực
con người, tạo ra những điều kiện thuận lợi cho việc phát huy tính năng động
sáng tạo của mỗi con người. Tuy nhiên cần tránh hai thái cực sai lầm là tuyệt đối
hóa vai trò nhân tố chủ quan và hạ thấp vai trò nhân tố chủ quan trong.
Hộp 2.12. Khi mặt trời lên
Ở Phi châu, mỗi sáng thức dậy, con linh dương biết rằng: Nó sẽ bị giết nếu không
chạy nhanh hơn con sư tử nhanh nhất! Mỗi sáng thức dậy, con sư tử biết rằng: Nó sẽ
chết đói nếu không chạy nhanh hơn con linh dương chậm nhất! Dù bạn là sư tử hay linh
c)dương, bạn đều
Các quy luậtphải chạy của
cơ bản khi mặt
phéptrờibiện
ló dạng.
chứngĐó duy
chínhvật
là bản năng sinh tồn.
Nguồn:
*Khái quát(Sưu
về tầm)
quy luật
Với tư cách là phạm trù của lý luận nhận thức, khái niệm "quy luật" là sản
phẩm của tư duy khoa học phản ánh sự liên hệ của các sự vật và tính chỉnh thể
của chúng. Với tư cách là cái tồn tại ngay trong hiện thực, quy luật là mối liên
hệ bản chất, tất nhiên, phổ biến và lặp lại giữa các mặt, các yếu tố, các thuộc
tính bên trong mỗi một sự vật, hay giữa các sự vật, hiện tượng với nhau (Sinh
lão bệnh tử, nước chảy đá mòn).
28
Căn cứ vào mức độ phổ biến, các quy luật được chia thành những quy luật
riêng, những quy luật chung và những quy luật phổ biến.
Những quy luật riêng là những quy luật chỉ tác động trong phạm vi nhất định
của các sự vật, hiện tượng cùng loại. Ví dụ: Những quy luật vận động cơ giới,
vận động hóa học, vận động sinh học, v.v..
Những quy luật chung là những quy luật tác động trong phạm vi rộng hơn quy
luật riêng, tác động trong nhiều loại sự vật, hiện tượng khác nhau. Chẳng hạn:
quy luật bảo toàn khối lượng, bảo toàn năng lượng, v.v..
Những quy luật phổ biến là những quy luật tác động trong tất cả các lĩnh vực:
từ tự nhiên, xã hội cho đến tư duy, đây chính là những quy luật phép biện chứng
duy vật nghiên cứu.
Căn cứ vào lĩnh vực tác động, các quy luật được chia thành ba nhóm lớn: quy
luật tự nhiên, quy luật xã hội và quy luật của tư duy.
Quy luật tự nhiên là những quy luật nảy sinh và tác động trong giới tự nhiên
mà con người nhận biết hay không nhận biết nó vẫn sảy ra.(Quy luật thời tiết,..)
Quy luật xã hội là những quy luật hoạt động của chính con người trong các
quan hệ xã hội, tuy nhiên quy luật xã hội vẫn mang tính khách quan.(Có áp bức
có đấu tranh, qluat cung cầu,..)
Quy luật của tư duy là những quy luật hình thành và tác động trong quá trình
nhận thức của con người.(Nhận thức đi từ dễ đến khó, đơn giản đến phúc tạp, cụ
thể đến trừu tượng)
Với tư cách là một học thuyết khái quát sự biện chứng của thế giới trên lập
trường thế giới quan duy vật, phép biện chứng duy vật nghiên cứu những quy
luật phổ biến tác động trong tất cả các lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy của
con người.
Mọi quy luật đều thể hiện cái phổ biến vốn có ở các giai đoạn vận động, thể
hiện sự thống nhất các đối tượng đa dạng. Các quy luật cũng có mức độ phổ
biến khác nhau, một cách tương đối, có thể chia tất cả các quy luật thành ba
nhóm: quy luật riêng, quy luật chung, và quy luật phổ biến.
Việc nhận thức các quy luật khách quan, nhất là các quy luật phổ biến, có ý
nghĩa thực tiễn to lớn, tạo điều kiện cho con người làm chủ tốt hơn tự nhiên và
xã hội. Những quy luật phổ biến của phép biện chứng duy vật khái quát cách
thức, nguyên nhân và khuynh hướng vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng.
* Quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về
chất và ngược lại (QL lượng – chất) Triết họ c khô ng nghiên cứ u chấ t liệu
Vị trí, vai trò của quy luật: Quy luật từ những thay đổi về lượng dẫn đến
những thay đổi về chất và ngược lại chỉ rõ cách thức của sự phát triển của sự
vật, hiện tượng.
29
Các khái niệm
Chất là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự
vật, là sự thống nhất hữu cơ của những thuộc tính làm cho sự vật là nó, phân biệt
nó với cái khác. Sự vật hiện tượng có nhiều chất khác nhau tùy theo mối quan
hệ.
Chất của sự vật được biểu hiện qua những thuộc tính. Thuộc tính của sự vật là
một khía cạnh nào đó về chất, biểu hiện trong mối quan hệ với sự vật, hiện
tượng khác.
Mỗi sự vật hiện tượng đều có những thuộc tính cơ bản và không cơ bản. Chỉ
những thuộc tính cơ bản mới hợp thành chất của sự vật hiện tượng. Khi những
thuộc tính cơ bản thay đổi thì chất của nó thay đổi. Việc phân biệt thuộc tính cơ
bản và không cơ bản tùy theo mối quan hệ.
Lượng là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định vốn có của sự vật về
mặt số lượng, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển cũng
như các thuộc tính của sự vật. Nếu chất cho biết sự vật là gì thì lượng cho biết
sự vật như thế nào.
Lượng của sự vật biểu thị kích thước dài hay ngắn, số lượng nhiều hay ít, quy
mô lớn hay nhỏ, trình độ cao hay thấp, nhịp điệu nhanh hay chậm,... Trong thực
tế, lượng của sự vật có thể được xác định bởi những đơn vị, phương pháp(Khác
nhau) đo lường cụ thể như vận tốc của ánh sáng là 300.000 km trong một giây,
một phân tử nước bao gồm hai nguyên tử hyđrô liên kết với một nguyên tử
ôxy,... Bên cạnh đó, có những lượng chỉ có thể biểu thị dưới dạng trừu tượng và
khái quát như tri thức khoa học của một người, ý thức trách nhiệm của một công
dân...
Sự phân biệt chất và lượng của sự vật chỉ mang tính tương đối. Có những tính
quy định trong mối quan hệ này là chất, song trong mối quan hệ khác lại biểu thị
lượng của sự vật và ngược lại. Chẳng hạn, số lượng sinh viên học giỏi nhất định
của một lớp sẽ nói lên chất của lớp đó. Điều này cũng có nghĩa là dù số lượng cụ
thể quy định thuần túy về lượng, song số lượng ấy cũng có tính quy định về chất
Lượ ng đổ i vượ t giớ i hạ n củ a điểm nú t  chấ t
của sự vật. (thô ng qa bướ c nhả y)
Mối quan hệ giữa chất và lượng (thể hiện qua độ, điểm nút, bước nhảy)
Mọi sự vật đều là sự thống nhất giữa lượng và chất. Sự thay đổi dần dần về
lượng vượt quá giới hạn về độ sẽ dẫn tới thay đổi căn bản về chất của sự vật
thông qua bước nhảy. Chất mới ra đời sẽ tác động tới sự thay đổi của lượng mới.
Lượng của sự vật có thể thay đổi trong một giới hạn nhất định mà không làm
thay đổi căn bản chất của sự vật đó. Vượt quá giới hạn đó sẽ làm cho sự vật
không còn là nó, chất cũ mất đi chất mới ra đời. Vậy, “độ” là khuôn khổ mà
trong đó sự thay đổi về lượng chưa làm thay đổi về chất của sự vật.
30
Điểm nút là giới hạn mà tại đó sự thay đổi về lượng làm thay đổi chất của sự
vật.
Bước nhảy là giai đoạn chuyển hoá về chất của sự vật do những thay đổi về
lượng trước đó gây ra. (chuyển hóa từ chất này sang chất khác)
Bước nhảy có nhiều hình thức khác nhau. Căn cứ vào thời gian và tính chất
của sự thay đổi về chất ta phân chia ra bước nhảy dần dần và bước nhảy đột
biến. Căn cứ vào quy mô, ta có bước nhảy toàn bộ và bước nhảy cục bộ.
- Các hình thức cơ bản của bước nhảy
Những hình thức bước nhảy được quyết định bởi bản thân sự vật, bởi những
điều kiện cụ thể trong đó sự vật thực hiện bước nhảy.
Dựa trên nhịp điệu thực hiện bước nhảy của bản thân sự vật có thể phân chia
thành bước nhảy đột biến và bước nhảy dần dần.
Bước nhảy đột biến là bước nhảy được thực hiện trong một thời gian rất ngắn
làm thay đổi chất của toàn bộ kết cấu cơ bản của sự vật.
Bước nhảy dần dần là bước nhảy được thực hiện từ từ, từng bước bằng cách
tích luỹ dần dần những nhân tố của chất mới và những nhân tố của chất cũ dần
dần mất đi. Quá trình thực hiện bước nhảy dần dần của sự vật là một quá trình
phức tạp, trong đó có cả sự tuần tự lẫn những bước nhảy diễn ra ở từng bộ phận
của sự vật ấy.
Căn cứ vào quy mô thực hiện bước nhảy của sự vật có bước nhảy toàn bộ và
bước nhảy cục bộ. Bước nhảy toàn bộ là bước nhảy làm thay đổi chất của toàn
bộ các mặt, các yếu tố cấu thành sự vật. Bước nhảy cục bộ là bước nhảy làm
thay đổi chất của những mặt, những yếu tố riêng lẻ của sự vật.
Khi xem xét sự thay đổi về chất của xã hội người ta còn phân chia sự thay đổi
đó thành thay đổi có tính chất cách mạng và thay đổi có tính tiến hóa.
Cách mạng là sự thay đổi trong đó chất của sự vật biến đổi căn bản, không
phụ thuộc vào hình thức biến đổi của nó. Tiến hóa là sự thay đổi về lượng với
những biến đổi nhất định về chất không cơ bản của sự vật.
Ý nghĩa phương pháp luận
Trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn, con người phải biết từng
bước tích lũy về lượng để làm biến đổi về chất theo quy luật. Phương pháp này
giúp cho chúng ta tránh được tư tưởng chủ quan, duy ý chí, nôn nóng, "đốt cháy
giai đoạn" muốn thực hiện những bước nhảy liên tục.
Khi đã tích luỹ đủ về số lượng phải có quyết tâm để tiến hành bước nhảy,
phải kịp thời chuyển những sự thay đổi về lượng thành những thay đổi về chất,
từ những thay đổi mang tính chất tiến hóa sang những thay đổi mang tính chất
cách mạng. Chỉ có như vậy mới khắc phục được tư tưởng bảo thủ, trì trệ, "hữu

31
khuynh" thường được biểu hiện ở chỗ coi sự phát triển chỉ là sự thay đổi đơn
thuần về lượng.
Sự thay đổi về chất của sự vật còn phụ thuộc vào sự thay đổi phương thức liên
kết giữa các yếu tố tạo thành sự vật. Do đó, trong hoạt động phải biết cách tác
động vào phương thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành sự vật trên cơ sở hiểu
rõ bản chất, kết cấu của sự vật đó.

Hộp 2.13. Thêm một


Thêm một chiếc lá rụng Thêm một người thứ ba
Thế là thành mùa thu Chuyện tình đâm dang dở
Thêm một tiếng chim gù Cứ thêm một lời hứa
Thành ban mai tinh khiết... Lại một lần khả nghi!
Dĩ nhiên là tôi biết Nhận thêm một thiếp cưới
Thêm một - phiền toái thay! Thấy mình lẻ loi hơn
Nhưng mà tôi cũng biết Thêm một đêm trăng tròn
Thêm một - lắm điều hay. Lại thấy mình đang khuyết...
Thêm một lời dại dột Dĩ nhiên là tôi biết
* Tức thì em bỏ đi Thêm một - lắm điều hay... Quy
luật Nhưng thêm chút lầm lì Nguồn: thơ Trần Hòa Bình thống
nhất Thế nào em cũng khóc! và đấu
tranh của
các mặt đối lập (QL ><)
Vị trí, vai trò của quy luật: Quy luật(này) thống nhất và đấu tranh của các mặt
đối lập chỉ ra nguồn gốc, động lực của mọi sự vận động và phát triển.
Mọi sự vật hiện tượng đều chứa đựng những mặt, những khuynh hướng đối
lập tạo thành những mâu thuẫn trong bản thân mình. Sự thống nhất và đấu tranh
giữa các mặt đối lập tạo thành xung lực nội tại của sự vận động và phát triển,
dẫn tới sự mất đi của cái cũ và sự ra đời của cái mới.
Khái niệm
Mâu thuẫn là một chỉnh thể trong đó có 2 mặt đối lập vừa thống nhất với
nhau, vừa đấu tranh chuyển hoá lẫn nhau. Nói cách khác, mâu thuẫn là sự thống
nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập.
Mặt đối lập là sự khái quát những mặt, những thuộc tính, khuynh hướng trái
ngược nhau trong một chỉnh thể tạo nên sự vật. Hai mặt đối lập tuy có thuộc tính
bài trừ phủ định nhau, nhưng gắn bó chặc chẽ với nhau, đồng thời cùng tồn tại.
Sự thống nhất của 2 mặt đối lập là tính không thể tách rời của hai mặt đó.
Đấu tranh giữa hai mặt đối lập là sự tác động qua lại theo xu hướng bài trừ và
phủ định lẫn nhau. Mâu thuẫn biện chứng là mâu thuẫn trong đó bao hàm sự
32
thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập. Chúng liên hệ ràng buộc lẫn nhau,
tác động qua lại, thâm nhập và chuyển hóa lẫn nhau, làm tiền đề tồn tại cho
nhau, nhưng lại bài trừ phủ định lẫn nhau.
Sự vận động và phát triển luôn là sự thống nhất giữa tính ổn định và tính thay
đổi do sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập quy định tính ổn định và
thay đổi của sự vật. Do vậy mâu thuẫn chính là nguồn gốc của sự vận động và
phát triển.
Tính chất của mâu thuẫn
Các mâu thuẫn mang tính khách quan và tính phổ biến. Khách quan vì mâu
thuẫn là cái vốn có trong các sự vật, hiện tượng và tồn tại trong tất cả các lĩnh
vực; mâu thuẫn có tính phổ biến vì thế giới sự vật hiện tượng rất đa dạng về nội
dung cũng như hình thức, do đó mâu thuẫn cũng rất đa dạng và phức tạp. Mỗi sự
vật, mỗi lĩnh vực khác nhau thì có những mâu thuẫn khác nhau và ngay bản thân
mỗi sự vật, hiện tượng cũng lại bao hàm nhiều mâu thuẫn.
Phân loại mâu thuẫn
Căn cứ vào quan hệ đối với sự vật được xem xét, người ta phân biệt các mâu
thuẫn thành mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài. Căn cứ vào ý nghĩa
đối với sự tồn tại và phát triển của toàn bộ sự vật, mâu thuẫn được chia thành
mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản. Căn cứ vào vai trò của mâu thuẫn
đối với sự tồn tại và phát triển của sự vật trong một giai đoạn nhất định, mâu
thuẫn được chia thành mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn thứ yếu. Căn cứ vào
tính chất của các quan hệ lợi ích, các mâu thuẫn trong xã hội được chia thành
mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng.
Ý nghĩa phương pháp luận
Trong nhận thức và thực tiễn cần phải tôn trọng mâu thuẫn, phát hiện mâu
thuẫn, phân tích đầy đủ các mặt đối lập để nắm được bản chất, nguồn gốc,
khuynh hướng của sự vận động và phát triển.
Vì mâu thuẫn có tính đa dạng, phong phú, do vậy trong việc nhận thức và giải
quyết mâu thuẫn cần phải có quan điểm lịch sử, cụ thể tức là biết phân tích cụ
thể từng loại mâu thuẫn và phương pháp giải quyết phù hợp.
Cần phân biệt đúng vai trò, vị trí của các loại mâu thuẫn trong từng hoàn
cảnh, điều kiện nhất định; những đặc điểm của mâu thuẫn đó để tìm ra phương
pháp giải quyết từng loại mâu thuẫn một cách đúng đắn nhất.

Hộp 2.14. Yêu – Ghét Yêu thì xấu cũng khen xinh
Yêu thì chín bỏ làm mười Ghét thì tỏ vẻ…ta khinh chả cần.
Ghét thì ghét cả nụ cười ghét đi. Yêu thì chẳng tính chẳng cân
Yêu thì cái gỉ gì gi Ghét thì chê cả ân cần…lôi thôi.
33
Cũng cho qua hết …cười khì là xong. Yêu từ dáng đứng kiểu ngồi
Yêu thì đêm nhớ ngày mong Ghét thì đối đãi thật tồi cho hay.
Ghét thì ghét cả tổ tông họ hàng. Yêu thì duyên nợ gặp may
Yêu thì son sắt đá vàng Ghét thì cảm thấy đắng cay cuộc đời.
Ghét thì quay mặt…ngày càng tránh Yêu thì ngon ngọt bao lời
xa.
Yêu thì mọi lúc ngợi ca Ghét thì ghét cả bầu trời của nhau.
Ghét thì thấy mặt người ta bực mình. Ai ơi đừng biến nỗi đau
Nguồn: thơ Mạc Phương Thành ra ghét bỏ… nghĩa sâu tình
nồng.

* Quy luật phủ định của phủ định


Vị trí, vai trò của quy luật: Quy luật (này) phủ định của phủ định chỉ rõ
khuynh hướng của sự vận động, phát triển và sự liên hệ, sự kế thừa giữa cái mới
và cái cũ (cái bị phủ định và cái phủ định).
Khái niệm phủ định và phủ định biện chứng
“Phủ định” là khái niệm dùng để chỉ sự ra đời, tồn tại, phát triển, mất đi của
một sự vật hiện tượng này, thay thế bằng sự vật hiện tượng khác. Phủ định được
xem là nhân tố của sự phát triển.
Phủ định biện chứng là quá trình tự thân phủ định, tự thân phát triển, là mắt
khâu trên con đường dẫn đến sự ra đời của cái mới tích cực và tiến bộ hơn so
với cái bị phủ định.
Hai đặc trưng cơ bản của phủ định biện chứng
Thứ nhất, phủ định biện chứng mang tính khách quan, vì nguyên nhân của sự
phủ định nằm ngay trong bản thân sự vật. Đó chính là kết quả giải quyết những
mâu thuẫn bên trong sự vật.
Thứ hai, nó mang tính kế thừa, cho thấy đó là nhân tố liên hệ giữa cái cũ và
cái mới. Giá trị của cái cũ thể hiện trong sự ra đời của cái mới. Cái mới chỉ có
thể ra đời trên nền tảng của cái cũ, là sự phát triển tiếp tục của cái cũ trên cơ sở
gạt bỏ những mặt tiêu cực, lỗi thời, lạc hậu của cái cũ và chọn lọc, giữ lại, cải
tạo những mặt còn thích hợp, những mặt tích cực, bổ sung những mặt mới phù
hợp với hiện thực. Sự phát triển chẳng qua chỉ là sự biến đổi trong đó giai đoạn
sau bảo tồn tất cả những mặt tích cực được tạo ra ở giai đoạn trước và bổ sung
thêm những mặt mới phù hợp với hiện thực. Do đó, phủ định đồng thời cũng là
khẳng định.
Để cái mới tích cực, phù hợp với yêu cầu của sự vận động, phát triển, sự vật
phải trải qua nhiều lần phủ định gọi là phủ định của phủ định. Chỉ có thông qua

34
phủ định của phủ định mới dẫn tới sự ra đời một sự vật, trong đó có lặp lại một
số đặc trưng cơ bản của cái xuất phát nhưng trên cơ sở mới cao hơn.
Quy luật phủ định của phủ định khái quát tính chất tiến lên của sự phát triển.
Sự phát triển đó không phải diễn ra theo đường thẳng, đường tròn mà theo
đường xoáy ốc. Đường xoáy ốc biểu đạt được rõ ràng các đặc trưng của quá
trình phát triển biện chứng: tính kế thừa, quanh co phức tạp và tính chất tiến lên
của sự phát triển.
Ý nghĩa phương pháp luận
Cái mới ra đời từ cái cũ, nó kế thừa tất cả những cái tích cực của cái cũ. Do
vậy cần chống thái độ phủ định sạch trơn.
Phải biết phát hiện và quý trọng cái mới. Tin tưởng vào tương lai phát triển
của cái mới. Mặc dù lúc đầu cái mới còn yếu, ít ỏi nhưng phải bồi dưỡng phát
huy cái mới, tạo điều kiện cho cái mới chiến thắng cái cũ.
Kế thừa cái tích cực của cái cũ nhưng không phải là thái độ bảo thủ, khư khư
giữ lại tất cả những cái lỗi thời, cản trở sự phát triển của lịch sử.
Hộp 2.15. Sự tái sinh của chim ưng
Chim ưng có đời sống dài nhất trong chủng loại của mình. Nó có thể sống tới 70 năm.
Nhưng để đạt tới tuổi ấy, chim ưng phải thực hiện một quyết định khó khăn.
Vào những năm của tuổi 40, các móng vuốt dài, dẻo của nó không còn có thể quắp lấy
con mồi được nữa. Chiếc mỏ dài, sắc đã bị cong lại. Đôi cánh già nua, nặng nề, do bộ lông
dày dính vào ngực, khiến nó bay vất vả. Chim ưng bị bỏ mặc với hai chọn lựa: chịu chết
hoặc đi qua một tiến trình thay đổi đau đớn kéo dài 150 ngày.
Tiến trình thay đổi buộc chim ưng bay lên một đỉnh núi nơi có tổ của mình. Tại đó, nó
gõ mỏ vào một tảng đá cho tới khi làm gãy mỏ ra. Khi chiếc mỏ mới mọc ra, nó gắng sức
bẻ gãy các móng vuốt. Khi các móng vuốt mới đã mọc, chim ưng bắt đầu nhổ bỏ các lông
già.
Sau 5 tháng, chim ưng bay lượn thưởng thức sự tái sinh và sống thêm 30 năm nữa.
Nguồn: (Sưu tầm có biên tập lại)

III. LÝ LUẬN NHẬN THỨC


1. Quan niệm về nhận thức trong lịch sử triết học
Khái niệm lý luận nhận thức
Lý luận nhận thức là một bộ phận của triết học, nghiên cứu bản chất của
nhận thức, những hình thức, các giai đoạn của nhận thức; con đường để đạt
chân lý, tiêu chuẩn của chân lý …
Trong lịch sử triết học, xuất phát từ lập trường thế giới quan khác nhau, các
trào lưu triết học khác nhau đã đưa ra các quan điểm khác nhau về vấn đề lý
luận nhận thức.
* Quan điểm của chủ nghĩa duy tâm về nhận thức
Chủ nghĩa duy tâm chủ quan cho chân lý là sự phù hợp giữa suy diễn về sự vật
với chính bản thân sự vật trên thực tế. Sự vật chỉ là kết quả của sự phức hợp các
cảm giác. Nhận thức không phải là sự phản ánh thế giới khách quan bởi con
35
người mà chỉ là sự phản ánh trạng thái chủ quan của con người.
Chủ nghĩa duy tâm khách quan giải thích một cách duy tâm, thần bí khả
năng nhận thức của con người. Plato cho rằng, khả năng đó là khả năng của linh
hồn vũ trụ. Hegel coi khả năng đó chính là khả năng của tinh thần thế giới.
* Quan điểm của chủ nghĩa hoài nghi
Các đại biểu của thuyết hoài nghi đã nghi ngờ khả năng nhận thức của con
người, Về thực chất, các nhà hoài nghi chủ nghĩa đã không hiểu được trên thực
tế biện chứng của quá trình nhận thức.
Quan điểm của thuyết không thể biết
Những người theo thuyết không thể biết, điển hình là Cantơ cho rằng, về
nguyên tắc con người, không thể nhận thức được bản chất thế giới. Chúng ta có
hình ảnh về sự vật, nhưng đó chỉ là những biểu hiện bên ngoài của chúng chứ
không phải là chính bản thân sự vật.
* Quan điểm của chủ nghĩa duy vật trước C. Mác
Các đại biểu của chủ nghĩa duy vật trước C. Mác nhìn chung đều công nhận
khả năng nhận thức thế giới của con người. Tuy nhiên, do tính chất siêu hình, chủ
nghĩa duy vật trước C. Mác hiểu phản ánh chỉ là sự sao chép giản đơn. Vì thế, lý
luận nhận thức của chủ nghĩa duy vật trước C. Mác, còn mang tính siêu hình,
máy móc. Phản ánh chỉ là sự tiếp nhận thụ động một chiều những tác động trực
tiếp của sự vật lên giác quan của con người.
* Các nguyên tắc xây dựng lý luận nhận thức của chủ nghĩa duy vật biện
chứng
Thứ nhất, thừa nhận thế giới vật chất tồn tại khách quan, ở bên ngoài, độc lập
với cảm giác, tư duy và ý thức của con người. Nguyên tắc này thừa nhận điều
kiện tiền đề của quá trình nhận thức và thế giới vật chất và con người.
Thứ hai, thừa nhận ý thức nói chung là hình ảnh chủ quan của thế giới khách
quan. Nguyên tắc này thừa nhận mối quan hệ giữa chủ thể nhận thức và đối
tượng nhận thức.
Thứ ba, thừa nhận thực tiễn là cơ sở chủ yếu và trực tiếp nhất của nhận thức,
là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý. Nguyên tắc này thừa nhận mục đích nhận thức
của con người phải quay về phục vụ thực tiễn.
Hộp 2.16. Con đường hình thành các khái niệm

Sự hình thành khái niệm cụ thể Sự hình thành khái niệm trừu tượng
1. Xác định nhiệm vụ, đối tượng nhận thức

36
2a. Quan sát trực tiếp, sử dụng các 2b. Hình thành khái niệm mới từ các
phương tiện trực quan khái niệm đã biết
Phân tích dấu hiệu bản chất
Định nghĩa khái niệm

3a. Phân tích dấu hiệu bản chất


3b. Cụ thể hóa khái niệm
Định nghĩa khái niệm

4. Hệ thống hóa khái niệm

5. Vận dụng khái niệm


Nguồn: Phạm Thị Phương Anh
<https://ppdhsinhhoc12.weebly.com/ph432417ng-phaacutep-d7841y-h7885c-caacutec-lo7841i-
2. Lý luận nhận thức duy vật biện chứng
ki7871n-th7913c-sinh-h7885c.html>
a) Nguồn gốc, bản chất của nhận thức
Nhận thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc người. Bản chất
của nhận thức là sự phản ánh tích cực, sáng tạo thế giới vật chất vào bộ óc con
người. Đây là một quá trình phức tạp, quá trình nảy sinh và giải quyết mâu thuẫn
chứ không phải quá trình máy móc giản đơn, thụ động và nhất thời.
Nhận thức là một quá trình biện chứng có vận động và phát triển, là quá
trình đi từ chưa biết đến biết, từ biết ít tới biết nhiều hơn, từ biết chưa đầy đủ
đến đầy đủ hơn. Đây là một quá trình có phát triển, bổ sung và hoàn thiện. Trong
quá trình nhận thức của con người luôn luôn nảy sinh quan hệ biện chứng giữa
nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận; nhận thức thông thường và nhận
thức khoa học.
Nhận thức kinh nghiệm là nhận thức dựa trên sự quan sát trực tiếp các sự
vật, hiện tượng hay các thí nghiệm, thực nghiệm khoa học. Kết quả của nhận
thức kinh nghiệm là những tri thức kinh nghiệm thông thường hoặc tri thức thực
nghiệm khoa học.
Nhận thức lý luận là nhận thức sự vật, hiện tượng một cách gián tiếp dựa
trên các hình thức tư duy trừu tượng như khái niệm, phán đoán, suy luận để khái
quát tính bản chất, quy luật, tính tất yếu của các sự vật, hiện tượng.
Nhận thức thông thường là nhận thức được hình thành một cách tự phát, trực
tiếp trong hoạt động hằng ngày của con người.
Nhận thức khoa học là nhận thức được hình thành chủ động, tự giác của chủ
thể nhằm phản ánh những mối liên hệ bản chất, tất nhiên, mang tính quy luật của
đối tượng nghiên cứu.
Nhận thức là quá trình tác động biện chứng giữa chủ thể và khách thể thông
qua hoạt động thực tiễn của con người. Chủ thể nhận thức trả lời câu hỏi: Ai nhận

37
thức? còn khách thể nhận thức trả lời câu hỏi: Cái gì được nhận thức? Khách thể
nhận thức cũng có tính lịch sử - xã hội, cũng bị chế ước bởi điều kiện lịch sử -
xã hội cụ thể. Khách thể nhận thức luôn luôn thay đổi trong lịch sử cùng với sự
phát triển của hoạt động thực tiễn cũng như sự mở rộng năng lực nhận thức của
con người. Khách thể nhận thức cũng không đồng nhất với đối tượng nhận thức.
Khách thể nhận thức rộng hơn đối tượng nhận thức.
Hoạt động thực tiễn của con người là cơ sở, động lực, mục đích của nhận
thức và là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý. Nhận thức là quá trình phản ánh hiện
thực khách quan một cách tích cực, chủ động, sáng tạo bởi con người trên cơ sở
thực tiễn mang tính lịch sử cụ thể.

Hộp 2.17. Quy trình phòng ngừa ứng phó thiên tai

Đánh giá rủi


Đánh giá thực
ro thiên tai
hiện kế hoạch
Lập kế hoạch

Khi thiên
tai xảy ra Diễn tập
Hoàn thiện
Tập huấn kế hoạch

Nguồn: <http://ungphothientai.com/ecourse/quy-trinh-lap-ke-hoach-phong-
ngua-ung-pho-thien-tai/>
b) Thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức
* Phạm trù thực tiễn
Theo quan điểm của triết học Mác - Lênin, thực tiễn là toàn bộ những hoạt
động vật chất - cảm tính, có tính lịch sử - xã hội của con người nhằm cải tạo tự
nhiên và xã hội phục vụ nhân loại tiến bộ.
Theo chủ nghĩa duy vật biện chứng thực tiễn gồm những đặc trưng sau:
Thứ nhất, thực tiễn không phải là toàn bộ hoạt động của con người mà chỉ là
những hoạt động vật chất - cảm tính. Đó là những hoạt động mà con người phải
sử dụng lực lượng vật chất, công cụ vật chất tác động vào các đối tượng vật chất
để làm biến đổi chúng.
Thứ hai, hoạt động thực tiễn là những hoạt động mang tính lịch sử - xã hội
của con người; nghĩa là, thực tiễn là hoạt động chỉ diễn ra trong xã hội, với sự
tham gia của đông đảo người trong xã hội. Trong hoạt động thực tiễn, con người
truyền lại cho nhau những kinh nghiệm từ thế hệ này qua thế hệ khác. Cũng vì
vậy, hoạt động thực tiễn luôn bị giới hạn bởi những điều kiện lịch sử - xã hội cụ
38
thể.
Thứ ba, thực tiễn là hoạt động có tính mục đích nhằm cải tạo tự nhiên và xã
hội phục vụ con người.
Nếu cắt theo chiều dọc, thực tiễn bao gồm mục đích, phương tiện và kết
quả. Mục đích được nảy sinh từ nhu cầu và lợi ích. Lợi ích chính là cái thỏa
mãn nhu cầu. Để đạt mục đích, con người phải lựa chọn phương tiện (công cụ)
để thực hiện. Kết quả của hoạt động thực tiễn phụ thuộc vào nhiều nhân tố
nhưng trước kết là phụ thuộc vào mục đích đặt ra và phương tiện mà con người
sử dụng.
Hoạt động thực tiễn là hoạt động cơ bản, phổ biến của con người và xã hội
loài người, là phương thức cơ bản của mối quan hệ giữa con người với thế
giới; nghĩa là con người quan hệ với thế giới bằng và thông qua hoạt động thực
tiễn.
Thực tiễn gồm những hình thức cơ bản sau: hoạt động sản xuất vật chất; hoạt
động chính trị - xã hội và hoạt động thực nghiệm khoa học; trong đó, hoạt động
sản xuất vật chất là hình thức thực tiễn có sớm nhất, cơ bản nhất, quan trọng nhất.
Hoạt động chính trị - xã hội nhằm biến đổi, cải tạo xã hội, phát triển các
thiết chế xã hội, các quan hệ xã hội như đấu tranh giai cấp; đấu tranh giải
phóng dân tộc; đấu tranh cho hòa bình, dân chủ, tiến bộ xã hội; đấu tranh cải
tạo các quan hệ chính trị - xã hội.
Hoạt động thực nghiệm khoa học là hình thức con người chủ động tạo ra
những điều kiện không có sẵn trong tự nhiên để tiến hành thực nghiệm khoa học
theo mục đích mà mình đã đề ra.
Ba hình thức thực tiễn này có quan hệ biện chứng, tác động, ảnh hưởng qua
lại lẫn nhau; trong đó, sản xuất vật chất đóng vai trò quan trọng, quyết định hai
hình thức thực tiễn kia.
* Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức
- Thực tiễn là cơ sở, động lực của nhận thức
Thực tiễn cung cấp những tài liệu, vật liệu cho nhận thức của con người. Tri
thức của con người xét đến cùng là được nảy sinh từ thực tiễn.
Thực tiễn luôn đề ra nhu cầu, nhiệm vụ và phương hướng phát triển của nhận
thức, vì thế nó luôn thúc đẩy cho sự ra đời của các ngành khoa học. Thực tiễn
chính là nền tảng, cơ sở để nhận thức của con người nảy sinh, tồn tại, phát triển.
Không những vậy, thực tiễn còn là động lực thúc đẩy nhận thức phát triển.
- Thực tiễn là mục đích của nhận thức
Chính nhu cầu sản xuất vật chất và cải tạo xã hội buộc con người phải nhận
thức thế giới xung quanh. Nhận thức của con người là nhằm phục vụ thực tiễn,
soi đường, dẫn dắt, chỉ đạo thực tiễn. Mọi tri thức khoa học chỉ có ý nghĩa khi
39
được áp dụng vào đời sống thực tiễn.
- Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý
Dựa vào thực tiễn, ta có thể chứng minh, kiểm nghiệm chân lý bởi chỉ có
thực tiễn mới có thể vật chất hóa được tri thức, hiện thực hóa được tư tưởng, qua
đó mới khẳng định được chân lý hoặc phủ định một sai lầm nào đó.
Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý vừa có tính chất tuyệt đối, vừa có tính
chất tương đối. Tính tuyệt đối thể hiện ở chỗ, thực tiễn là tiêu chuẩn khách
quan duy nhất để kiểm tra chân lý. Tính tương đối thể hiện ở chỗ, thực tiễn có
quá trình vận động, biến đổi, phát triển. Vì vậy, nếu xem xét thực tiễn trong
không gian càng rộng, trong thời gian càng dài, trong chỉnh thể thì càng rõ đâu
là chân lý, đâu là sai lầm.
Từ vai trò của thực tiễn đối với nhận thức, cần phải quán triệt quan điểm
thực tiễn trong nhận thức và hoạt động. Quan điểm thực tiễn yêu cầu nhận thức
sự vật phải gắn với nhu cầu thực tiễn; phải lấy thực tiễn làm tiêu chuẩn kiểm tra
sự đúng sai của kết quả nhận thức; tăng cường tổng kết thực tiễn để rút ra những
kết luận góp phần bổ sung, hoàn thiện, phát triển nhận thức, lý luận.

Hộp 2.18. Sơ đồ chu trình chính sách


Xác định vấn đề Hoạch định Thực thi
chính sách chính sách chính sách

Phát hiện mâu Phân tích Duy trì


thuẫn chính sách chính sách

Đánh giá
chính sách
Nguồn:(Sưu tầm)

c. Các giai đoạn cơ bản của quá trình nhận thức


Lênin đã khắc họa một cách cô đọng bản chất của nhận thức. Ông cho rằng,
con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý, của sự nhận thức thực tại khách
quan đi “Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, và từ tư duy trừu tượng
đến thực tiễn”. Nhận thức là một quá trình biện chứng, diễn ra qua hai giai đoạn:
nhận thức cảm tính (trực quan sinh động) và nhận thức lý tính (tư duy trừu
tượng).
* Nhận thức cảm tính (cảm giác, tri giác, biểu tượng)
Nhận thức cảm tính có được nhờ sự hoạt động của các giác quan của con
người. Nó được tiến hành thông qua ba hình thức nhận biết quan trọng là cảm
giác, tri giác, biểu tượng.
40
Cảm giác (tri thức đến từ các giác quan) là hình thức đầu tiên của sự phản ánh
hiện thực khách quan và là nguồn gốc của tri thức. Cảm giác là mối liên hệ trực
tiếp của ý thức với thế giới bên ngoài, là sự biến thể, chuyển hoá của năng lượng
tác động bên ngoài thành yếu tố của ý thức. Tri giác nảy sinh trên cơ sở phối
hợp, bổ sung lẫn nhau của nhiều cảm giác, đưa lại cho chủ thể nhận thức sự hiểu
biết tương đối đầy đủ hơn về đối tượng phản ánh. Biểu tượng là hình ảnh của
đối tượng nhận thức với những thuộc tính, mối liên hệ nổi bật của nó được lưu
giữ và tái hiện lại trong đầu óc chủ thể.
Nhận thức cảm tính cung cấp những hiểu biết ban đầu về đối tượng nhận
thức, nhưng chỉ dừng lại ở những nét bề ngoài của đối tượng.
Nhiệm vụ của nhận thức là phải nắm bắt bản chất của đối tượng trong tính tất
yếu và tính quy luật của nó. Để làm được như vậy, nhận thức phải chuyển lên
một giai đoạn, trình độ cao hơn - nhận thức lý tính.
* Nhận thức lý tính (khái niệm, phán đoán, suy luận)
Nhận thức lý tính có được nhờ sự hoạt động của tư duy trừu tượng, nó được
thể hiện qua ba hình thức: khái niệm, phán đoán, suy luận (lý).
Khái niệm phản ánh những mối liên hệ và thuộc tính bản chất, phổ biến của
một lớp các sự vật, hiện tượng nào đó. Phán đoán là sự liên kết các khái niệm
tạo thành một mệnh đề có cấu trúc ngôn ngữ chặt chẽ nhằm khẳng định hay phủ
định một thuộc tính, mối liên hệ nào đó của hiện thực khách quan. Suy luận
phản ánh quá trình vận động của tư duy đi từ những cái đã biết đến việc nhận
thức những cái chưa biết một cách gián tiếp, dựa trên cơ sở sử dụng những tri
thức đã có.
Nhận thức lý tính mang lại cho chủ thể nhận thức những hình ảnh (tri thức) về
bản chất của đối tượng nhận thức, thể hiện qua các khái niệm, phạm trù, quy
luật. Các khái niệm, phạm trù chính là sản phẩm của bộ óc con người, chúng
đồng thời là hình thức phản ánh giới tự nhiên một cách khái quát, trừu tượng.
* Sự thống nhất giữa trực quan sinh động, tư duy trừu tượng và thực tiễn
Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực
tiễn là một vòng khâu của quá trình nhận thức. Nhận thức trở về với thực tiễn vì:
Thứ nhất, mục đích của nhận thức là phục vụ thực tiễn. Vì vậy, nó phải trở về
để chỉ đạo hoạt động thực tiễn.
Thứ hai, đến giai đoạn tư duy trừu tượng vẫn có khả năng phản ánh sai lạc
hiện thực. Vì vậy, nhận thức phải quay trở về thực tiễn để kiểm tra kết quả nhận
thức, phân biệt đâu là nhận thức đúng, đâu là nhận thức sai.
Thứ ba, thực tiễn luôn vận động, phát triển. Vì vậy, nhận thức phải trở về thực
tiễn để trên cơ sở thực tiễn mới tiếp tục bổ sung, phát triển nhận thức.

Hộp 2.19. Các giai đoạn của một quá trình tư duy
41
giải quyết vấn đề
Xuất hiện các
Nhận thức
liên tưởng
vấn đề

Sàng lọc liên tưởng và hình thành các giả thuyết

Kiểm tra giả thuyết

Chính xác hóa Khẳng định Phủ định

Giải quyết vấn đề Hành động tư duy mới

Nguồn: <https://hoc247.net/tam-ly-hoc-dai-cuong/bai-2-nhan-thuc-li-tinh-l7846.html>

d) Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về chân lý
* Quan niệm về chân lý
Trong phạm vi lý luận nhận thức của chủ nghĩa Mác - Lênin, khái niệm chân
lý được dùng để chỉ những tri thức phù hợp với hiện thực khách quan mà con
người phản ánh và đã được thực tiễn kiểm nghiệm. Chân lý phải được hiểu như
một quá trình, bởi lẽ bản thân sự vật có quá trình vận động, biến đổi, phát triển
và sự nhận thức về nó cũng phải được vận động, biến đổi, phát triển.
* Các tính chất của chân lý
- Tính tương đối và tính tuyệt đối
Tính tương đối của chân lý thể hiện ở chỗ những tri thức của chân lý đúng
nhưng chưa hoàn toàn đầy đủ, mới phản ánh đúng một mặt, một bộ phận nào
đó của hiện thực khách quan trong những điều kiện giới hạn xác định. Tính
tuyệt đối của chân lý thể hiện ở chỗ những tri thức của chân lý phản ánh đầy đủ,
toàn diện hiện thực khách quan ở một giai đoạn lịch sử cụ thể xác định.
- Tính cụ thể của chân lý
Chân lý luôn phản ánh sự vật, hiện tượng ở trong một điều kiện cụ thể với
những hoàn cảnh lịch sử cụ thể trong một không gian, thời gian xác định. Vì vậy
cho nên nhận thức sự vật phải gắn với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể. Chân lý là cụ
thể nên chủ thể nhận thức phải sáng tạo trong hoạt động thực tiễn.
Hộp 2.20. Sáu bước xử lý một vấn đề của tỷ phú công nghệ Elon Musk
Theo tạp chí Entrepreuner của Mỹ, thì Elon Musk sẽ giải quyết một vấn đề như sau:
Bước 1: Đặt câu hỏi. Trước một vấn đề chưa rõ, Musk không vội đưa ra câu trả lời. Ông ta đặt
ra câu hỏi. Câu hỏi này sẽ nhắm vào việc làm sao để ông có thể làm được tốt nhất, chứ không
phải chỉ tốt hơn người khác.
Bước 2: Thu thập dữ kiện càng nhiều càng tốt. Bước này không phát triển các giả thuyết,
thay vào đó là thực hiện các nghiên cứu. Với nhà khoa học, là thực hiện các thí nghiệm. Với
doanh nhân, là phỏng vấn các chuyên gia am tường nhất về lĩnh vực mình đang quan tâm.
42
Bước 3: Xây dựng các giả thuyết dựa trên bằng chứng và tính toán xác suất chúng có thể
VĂN BẢN VÀ CÂU HỎI KẾT CHƯƠNG
BỨC THƯ CỦA THỦ LĨNH DA ĐỎ JEFE SEATTLE
Tổng thống Mỹ gửi lời: Ông ấy muốn mua đất của chúng tôi.
Nhưng sao ông ấy có thể mua bán được bầu trời xanh, rồi cả đất mẹ thiêng
liêng này? Điều này thật lạ lùng. Nếu chúng tôi chẳng sở hữu khí trời tươi mới
và dòng nước long lanh, làm sao các ông có thể mua được?
Mỗi tấc đất đều thiêng liêng với đồng bào tôi, từng lá thông óng ánh, từng bờ
cát vàng, mỗi hạt sương sớm trong những khu rừng rậm rạp, những đồng cỏ
xanh và tiếng ve kêu rào rạc. Tất thảy đều chảy trong huyết mạch, lưu truyền
trong kí ức của mỗi chúng tôi.
Chúng tôi biết từng dòng nhựa sống trong hàng cây ấy như biết rõ dòng máu
chảy trong huyết quản. Chúng tôi, là một phần của đất mẹ và đất mẹ cũng là một
phần của chúng tôi. Những bông hoa ngát hương là chị em của chúng tôi. Từng
con gấu, con hươu và đại bàng vĩ đại đều là anh em của chúng tôi. Từng mỏm
đá, từng giọt sương trên bãi cỏ, từng sinh linh nhỏ bé và cả con người, cùng
thuộc một gia đình.
Dòng nước êm ả chảy qua con suối bờ sông không chỉ là nước, nó là máu của
tổ tiên chúng tôi. Nếu chúng tôi phải bán đi đất đai của mình, các ông hãy nhớ
rằng nó là thiêng liêng. Từng tia sáng chói chang từ mặt hồ này vẫn đang kể
những câu chuyện về cuộc đời của đồng bào tôi. Dòng nước, vẫn đang róc rách
tiếng thì thầm của cha ông.
Những dòng sông là người anh em của chúng tôi, giúp chúng tôi nguôi đi cơn
khát. Những dòng sông đã đưa thuyền chúng tôi đi xa và nuôi lớn bao thế hệ.
Các ông phải nhớ đối xử tử tế với dòng sông như anh em của mình.
Nếu chúng tôi bán đất đi, hãy nhớ trân trọng bầu không khí quý báu ấy, thứ đã
thổi linh hồn cho những gì mà nó kề bên che chở. Cũng chính bầu không khí
này, cha ông tôi đã hít hơi thở đầu tiên và trút hơi thở cuối cùng. Chính ngọn gió
này đã cho lũ trẻ của chúng tôi sức sống mãnh liệt. Nên nếu chúng tôi bán đất,
người da trắng phải gìn giữ nó và biến đây thành nơi liêng thiêng, nơi mà ai – dù
43
trắng hay đen, cũng có thể đến để hít một hơi thở ngọt bùi, vị của hương hoa
đồng cỏ.
Các ông sẽ dạy lũ trẻ điều mà chúng tôi dạy những đứa trẻ của mình chứ?
Rằng Trái Đất là mẹ thiêng liêng? Và điều gì xảy đến với Trái Đất, rồi sẽ xảy
đến với những người con này.
Chúng tôi biết rằng: Trái Đất không thuộc về con người, con người mới thuộc
về Trái Đất. Tất cả mọi thứ đều kết nối như dòng máu cùng chảy trong huyết
quản kết nối con người chúng ta với nhau. Con người không kiến tạo nên chiếc
tổ sống này, con người chỉ là sợi tơ trong đó mà thôi. Điều gì con người làm với
chiếc tổ này, cũng là đang ảnh hưởng tới chính bản thân.
Chúng tôi chắc chắn: Chúa của các ông cũng là Chúa của chúng tôi. Trái Đất
là điều quý giá với Chúa và làm tổn hại đến nó chính là sự khinh rẻ với bậc kiến
tạo này.
Dẫu định mệnh của các ông vẫn là một bí ẩn với chúng tôi. Nhưng điều gì sẽ
xảy ra khi những đàn trâu cứ thế bị tàn sát? Từng đàn ngựa hoang kiêu hãnh bị
thuần hóa? Điều gì sẽ xảy ra khi mà những góc rừng kín đáo nặng mùi con
người và những gò đồi chín vàng thơ mộng lại bị vấy bẩn bởi đường dây vô
tuyến? Những cánh rừng sẽ ở đâu? Biến mất! Cánh chim đại bàng sẽ ở đâu?
Biến mất!
Và việc nói lời tạm biệt với những đàn, những đồng ấy bằng cách tận diệt như
một thú vui có nghĩa gì? Là sự kết thúc của việc “sống”, sự bắt đầu của những
ngày tháng “sinh tồn”.
Và rồi khi mà người da đỏ cuối cùng đã biến mất cùng với sự hoang dã này,
với những kí ức cuối cùng của anh ấy về bóng mây trôi qua đồng cỏ, liệu những
bờ cát và vạt rừng này có còn ở đây không? Liệu tinh thần ấy còn đọng lại chút
nào ở nơi này?
Chúng tôi yêu Trái Đất này như cách mà đứa bé sơ sinh yêu từng nhịp đập
con tim của người mẹ. Vậy nên, nếu chúng tôi bán đất, hãy yêu thương nó như
cách mà chúng tôi đang coi nó như mẹ của mình. Hãy quan tâm nó, như cách mà
chúng tôi vẫn đang quan tâm. Và hãy luôn ghi nhớ kí ức về mảnh đất này vẹn
nguyên như khi các ông nhận nó từ chúng tôi. Hãy gìn giữ mảnh đất này, cho
con cháu của tất cả chúng ta và yêu nó như cách mà Thượng Đế yêu thương ta.
Chúng tôi là một phần của đất mẹ và các ông cũng vậy. Trái Đất này rất quý
giá với chúng tôi và cũng quý giá với các ông.
Cuối cùng, chúng tôi biết rằng chỉ có một Thượng Đế. Không một ai, dù là da
đỏ hay da trắng bị tách rời. Chúng ta, vẫn luôn mãi là anh em.” 2

2
<https://sachgiai.com/Tho-van/buc-thu-cua-thu-linh-nguoi-da-do-chief-seattle-xi-at-ton-7698.html>, 02/5/2017.
44
Câu hỏi
Văn bản cho thấy:
1. Tính thống nhất vật chất của thế giới thể hiện như thế nào?
2. Vật chất quyết định ý thức thể hiện như thế nào?
3. Nguyên lý nào của Triết học Mác – Lênin được thể hiện rõ nhất? Vì sao?
4. Phạm trù nào của Triết học Mác - Lênin được thể hiện rõ nhất? Vì sao?
5. Quy luật nào của Triết học Mác - Lênin được thể hiện rõ nhất? Vì sao?
6. Những nhận định nào mang tính chân lý?
7. Những vấn đề nào mang tính toàn cầu, tính nhân loại được đặt ra?
8. Rút ra ý nghĩa phương pháp luận từ nội dung văn bản.
CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Vì sao nói mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là vấn đề cơ bản của triết
học.
2. Trình bày phương thức và hình thức tồn tại của vật chất và tính thống nhất
vật chất của thế giới.
3. Phân tích nguồn gốc bản chất và kết cấu của ý thức.
4. Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức được thể hiện như thế nào?
Cho biết ý nghĩa phương pháp luận của mối quan hệ này.
5. Phân tích nội dung hai nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy vật? Ý
nghĩa phương pháp luận?
6. Trình bày nội dung từng cặp phạm trù cơ bản của phép biện chứng duy vật
và rút ra các ý nghĩa phương pháp luận.
7. Chứng minh quy luật lượng – chất vạch ra cách thức của sự vận động, phát
triển? Cho biết y nghĩa phương pháp luận của quy luật này?
8. Chứng minh quy luật mâu thuẫn cho biết nguồn gốc của sự vận động, phát
triển? Cho biết ý nghĩa phương pháp luận của quy luật này?
9. Chứng minh quy luật phủ định của phủ định cho biết khuynh hướng của sự
vận động, phát triển? Cho biết ý nghĩa phương pháp luận của quy luật này?
10. Thực tiễn có vai trò như thế nào đối với nhận thức? Cho ví dụ để làm sáng
tỏ các vai trò đó.
11. Hãy làm sáng tỏ các giai đoạn của quá trình nhận thức.
CÂU HỎI THẢO LUẬN
1. Điểm giống và khác nhau giữa duy tâm chủ quan và duy tâm khách quan.
Kể những câu chuyện biểu hiện chủ nghĩa duy tâm trong đời sống.
2. Tìm những câu ca dao, tục ngữ phản ánh mối quan hệ giữa vật chất và ý
thức.
3. Trí tuệ nhân tạo có thể thay thế được con người hay không? Tại sao?
4. Phân biệt sự giống và khác nhau giữa quy luật và mối liên hệ.
45
5. Hiện tượng tham nhũng có phải là quy luật hay không? Vì sao?
6. Để có một bức ảnh đẹp, người nghệ sĩ đã sử dụng quan điểm toàn diện,
phiến diện hay cả hai? Vì sao?
7. Khi nào thì vấn đề dân số:
a. Trở thành nhân tố thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội?
b. Trở thành nhân tố kìm hãm sự phát triển kinh tế - xã hội?
8. Câu: Ta với mình tuy hai mà một/ Mình với ta tuy một mà hai phản ánh rõ
nhất phạm trù nào của phép biện chứng duy vật? Vì sao?
9. Câu ca dao sau phản ánh rõ nhất phạm trù nào của phép biện chứng duy
vật? Vì sao?
Mấy ai là kẻ không thầy/ Thế gian thường nói đố mầy làm nên
10. Thành ngữ Thấy vậy nhưng không phải vậy, phản ánh rõ nhất phạm trù
nào của phép biện chứng duy vật? Hãy chứng minh tính đúng đắn của thành ngữ
này.

46

You might also like