You are on page 1of 10

II. NHỮNG CẶP PHẠM TRÙ CƠ BẢN CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT.

1. Khái niệm và phạm trù


1.1. Khái niệm và các bộ phận cấu thành của khái niệm
Khái niệm: là những kí hiệu ngôn ngữ được tổ chức, sắp xếp theo một cách
thức nhất định, được con người sử dụng như những công cụ, phương tiện để biểu đạt
nhận thức trừu tượng hay nhận thức lý tính về thế giới, về các sự vật, hiện tượng.
Các bộ phận cấu thành của khái niệm:
Nội hàm: là tri thức hàm chứa bên trong khái niệm, tri thức làm thành nội
dung của khái niệm. Đó là tri thức biểu đạt, khái quát những thuộc tính, đặc điểm
cơ bản của sự vật, hiện tượng.
(Nội hàm trả lời câu hỏi: Khái niệm đang phản ánh đối tượng nào?)
Ngoại diên: Là phạm vi biểu đạt, khái quát của khái niệm, là miền xác định
hay biên giới của khái niệm trong đó tập hợp, chứa đựng các sự vật hiện tượng có
cùng thuộc tính, đặc điểm được nội hàm biểu đạt khái quát.
(Ngoại diên trả lời câu hỏi: Khái niệm phản ánh bao nhiêu đối tượng?)

1.2. Phạm trù và sự phân loại của phạm trù


Phạm trù: là những khái niệm biểu đạt nhận thức trừu tượng hay nhận thức lý
tính của con người về một phạm vi, lĩnh vực nào đó của thế giới
Xét về mặt nguồn gốc: Phạm trù cũng như khái niệm là kết quả của quá trình
nhận thức thế giới, nhận thức các sự vật hiện tượng của con người, là sự trừu xuất
từ thế giới bên ngoài, từ vật chất tồn tại bên trong con người.
Xét về mặt trình độ khái quát, phản ánh: Phạm trù và khái niệm khác nhau ở
trình độ, cấp độ khái quát phản ánh. Phạm trù khái quát, phản ánh những thuộc tính,
những đặc điểm, những mối liên hệ cơ bản nhất của một lớp sự vật hiện tượng
trong khi khái niệm chỉ khái quát phản ánh những thuộc tính, đặc điểm cơ bản của
một sự vật, hiện tượng, quá trình cụ thể.
Xét về vai trò: Cả phạm trù và khái niệm đều là phương thức biểu đạt, nhận
thức, hiểu biết của con người về thế giới, về các sự vật hiện tượng, chúng đều là
những nấc thang biểu đạt chất lượng nhận thức, trình độ nhận thức của con người
về thế giới.
Sự phân loại của phạm trù:
Phạm trù của các khoa học: Phạm trù khoa học hay phạm trù của các khoa học
là những khái niệm biểu đạt nhận thức, hiểu biết của con người về những thuộc
tính, đặc điểm cơ bản nhất của một lớp sự vật hiện tượng thuộc một phạm vi, lĩnh
vực cụ thể của thế giới vật chất nói chung. Đó là các phạm trù của các khoa học
như vật lý học, hóa học, sinh vật học, kinh tế học,…
Trong vật lý có các phạm trù như: khối lượng, năng lượng, gia tốc, vận tốc,…
Trong hóa học có các phạm trù như: đơn chất, hợp chất, liên kết hóa học, phản ứng
hóa học,…Trong sinh vật học có các phạm trù như: thực vật, động vật, di truyền,
biến dị, giống, loài, họ,…Trong kinh tế học có các phạm trù như: hàng hóa, giá trị,
giá trị sử dụng, giá trị trao đổi, tái sản xuất, tuần hoàn tư bản, …
Phạm trù triết học: Là những khái niệm biểu đạt nhận thức, hiểu biết của con
người về những thuộc tính, đặc điểm cơ bản nhất, những mối liên hệ cơ bản nhất
của toàn bộ, tổng thể thế giới.
Trong triết học có các phạm trù như: vật chất, ý thức, vận động, không gian, thời
gian, lý luận, thực tiễn, chân lý, nguyên nhân, kết quả, cái riêng, cái chung, mâu
thuẫn, chất lượng, độ, phủ định, tồn tại xã hội, ý thức xã hội, cá nhân, con người,…
Các phạm trù của triết học là những khái niệm chung nhất, phản ánh những mặt,
những thuộc tính, những mối liên hệ cơ bản và phổ biến nhất không phải của một
phạm vi, một lĩnh vực, một miền nhất định nào đó của hiện thực như những phạm
trù của các khoa học chuyên nghành mà của toàn bộ thế giới hiện thực nói chung
(bao gồm cả tự nhiên, xã hội, tư duy). Thật vậy bất kỳ sự vật nào dù sự vật đó thuộc
tự nhiên hay xã hội, thuộc vật lý học hay hóa học hay sinh học và dù do các khoa
học nào đó nghiên cứu cũng đều ở trong trạng thái vận động, biến đổi, chuyển hóa,
đều có nguyên nhân xuất hiện của mình, đều có sự thống nhất của cái riêng và cái
chung, số lượng và chất lượng, nội dung và hình thức, bản chất và hiện tượng, đều
chứa các khả năng phát triển thành cái khác. Nghĩa là đều chứa những mặt, những
thuộc tính, những mối liên hệ…. được phản ánh trong các phạm trù của phép biện
chứng duy vật. Vì vậy không một ai, một khoa học nào có thể tránh được việc vận
dụng các phạm trù triết học vào trong nhận thức và hoạt động của họ. Việc nắm
vững, thấm nhuần các khái niệm, phạm trù triết học có ý nghĩa hết sức quan trọng
trong việc nâng cao hiệu quả của hoạt động trong bất cứ lĩnh vực công tác nào.

2. “Vật chất – Ý thức”


2.1. Phạm trù “vật chất”
2.1.1. Định nghĩa vật chất của V.I.Lênin
* Hoàn cảnh ra đời định nghĩa vật chất của V.I.Lênin
Vật chất với tư cách là một phạm trù triết học đã xuất hiện cùng với sự ra đời
của triết học và nó cũng có quá trình phát sinh, phát triển gắn liền với hoạt động
nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người. Ngay từ khi mới ra đời, xung
quanh phạm trù vật chất đó diễn ra cuộc đấu tranh không khoan nhượng giữa chủ
nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm.
+ Các nhà duy tâm, dù duy tâm chủ quan hay duy tâm khách quan đều cho vật
chất là sản phẩm của ý thức, tinh thần hay của những lực lượng siêu nhiên.
+ Ngay từ thời cổ đại, các nhà triết học duy vật đó cố gắng giải thích vật chất
trên tinh thần duy vật. Các nhà triết học duy vật thời cổ đại, nhìn chung đã đồng
nhất vật chất nói chung với những dạng tồn tại cụ thể của nó, tức là những vật thể
hữu hình, cảm tính đang tồn tại ở thế giới bên ngoài.
- Ở Ấn Độ cổ đại:
Trường phái triết học Sàmkhya sơ kỳ quan niệm rằng thế giới là vật
chất, thế giới có nguyên nhân vật chất, vật chất đầu tiên là Pràkriti.
2 phái Nyàya – Vai’sesika cho rằng bản nguyên duy nhất, đầu tiên của
thế giới là những hạt nhỏ vật chất không đồng nhất, bất biến, vĩnh hằng, được
phân biệt ở chất lượng, khối lượng và hình dạng, tồn tại trong một môi trường
đặc biệt, trong không gian và thời gian, được gọi là Anu (nguyên tử).
Theo quan niệm của những nhà triết học Lokàyata, thế giới được tạo ra
từ 4 yếu tố vật chất: đất, nước, lửa, không khí.
Trong quan niệm về thế giới, khi đưa ra tư tưởng “vô ngã”, “vô
thường”, Phật giáo cũng nêu ra quan niệm về vật chất. Theo lý thuyết của đạo
Phật, “thế giới, nhất là thế giới hữu tình (con người) được tạo thành do sự
hợp lại của các yếu tố vật chất (Sắc) và các yếu tố tinh thần (Danh) bao gồm:
thụ (cảm giác), tưởng (ấn tượng), hành (tư duy nói chung), thức (ý thức).
- Trong triết học Trung Quốc thời cổ đại:
Thuyết Âm Dương cho rằng khởi thuỷ của mọi vật là Thái cực, từ đó
sinh ra mọi vật (tự nhiên và xã hội), phân tán thì muôn phần khác nhau, thống
nhất thì muôn phần là một.
Thuyết Ngũ hành coi năm yếu tố Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ là những
yếu tố khởi nguyên tạo nên mọi vật.
- Trong triết học Hy Lạp cổ đại:
Thales (Talét) cho rằng vật chất là nước,
Anaximenes (Anaximen) cho rằng vật chất là không khí,
Heraclitus (Hêraclít) cho vật chất là lửa;
Empedocles (Ămpêđoclơ) đã coi thực thể của thế giới là bốn yếu tố: đất,
nước, lửa và không khí;
Anaximander (Anaximăngđrơ) cho rằng cơ sở đầu tiên của mọi vật
trong vũ trụ là một dạng vật chất đơn nhất, vô định, vô hạn và tồn tại vĩnh
viễn, đó là Apeiron (Apâyrôn).
Bước tiến quan trọng nhất của sự phát triển phạm trù vật chất là định
nghĩa vật chất của Leucippus (Lơxíp) and Democritus (Đêmôcrít). Hai ông
định nghĩa vật chất là nguyên tử, căn nguyên của mọi vật là nguyên tử.
Nguyên tử là những hạt vật chất nhỏ nhất, không thể phân chia, không khác
nhau về chất, mà chỉ khác nhau về hình dạng, tư thế và trật tự sắp xếp.
Nguyên tử tồn tại vĩnh viễn, không do ai sáng tạo ra và cũng không thể bị huỷ
diệt. Mọi sự vật, hiện tượng của thế giới là do sự kết hợp và phân giải của các
nguyên tử mà thành.
Tuy còn hạn chế như quy vật chất về một dạng cụ thể của vật chất, nhưng học
thuyết nguyên tử là một bước phát triển mới trên con đường hình thành phạm trù
vật chất trong triết học, tạo cơ sở triết học mới cho nhận thức khoa học về vật chất
sau này.

+ Từ cuối thế kỷ XVI và đặc biệt là trong thế kỷ XVII – XVIII: Niềm tin
vào các chân lý cơ học trong cơ học Newton (Niutơn) đã khiến các nhà khoa học
lúc đó đồng nhất vật chất với khối lượng, coi vận động của vật chất chỉ là biểu
hiện của vận động cơ học, nguồn gốc của vận động được coi là nằm ở bên ngoài
vật chất, từ đó dẫn tới thừa nhận “cái hích của Thượng đế”. Đồng thời, kế thừa
quan điểm nguyên tử luận cổ đại, các nhà triết học duy vật cận đại vẫn tiếp tục coi
nguyên tử là những phần tử vật chất nhỏ nhất, không phân chia được, vẫn tách rời
chúng một cách siêu hình với vận động, không gian và thời gian.
Như vậy, họ vẫn đồng nhất vật chất với các vật thể cụ thể, cảm tính; họ không
coi vật chất có sinh ra, mất đi. Hạn chế này chứa đựng cuộc khủng hoảng tiềm tàng
với những mâu thuẫn to lớn trong quan niệm về vật chất trong tương lai khi những
phát minh mới trong khoa học tự nhiên xuất hiện vào khoảng những năm cuối thế
kỷ XIX đầu thế kỷ XX.

+ Khủng hoảng trong quan niệm về vật chất vào cuối thế kỷ XIX đầu thế
kỷ XX:
Vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX khoa học tự nhiên mà chủ yếu là vật lý
học đã có một loạt phát minh rất quan trọng đem lại cho con người những hiểu biết
mới về cấu trúc và tính chất của vật chất trong lĩnh vực vi mô, đã làm thay đổi căn
bản quan niệm cổ truyền về vật chất:
- Năm 1895, Wilhelm Röntgen (Rơnghen) đã phát hiện ra tia X.
- Năm 1896, Henri Becquerel (Beccơren) phát hiện được hiện tượng phóng xạ
của nguyên tố Uranium; rằng, do quá trình phóng xạ, sau khi bức xạ ra hạt anpha
(), nguyên tố phóng xạ biến thành nguyên tố khác.
- Năm 1897, Joseph John Thomson (Tômxơn) phát hiện ra điện tử (electron)
và chứng minh rằng, điện tử là một trong những thành phần cấu tạo nên nguyên tử.
- Năm 1901, Walter Kaufmann đã chứng minh được khối lượng của điện tử
không phải là bất biến mà nó biến đổi theo vận tốc của điện tử rằng, trong quá
trình vận động: khối lượng của điện tử tăng khi vận tốc của nó tăng.
Tất cả những phát minh ấy đưa lại cho con người những hiểu biết mới sâu sắc
về nguyên tử rằng, nguyên tử có cấu trúc phức tạp, nó không phải là đơn vị nhỏ
nhất, mà nó có thể bị phân ra và chuyển hoá. Điều đó đã gây ra một cuộc khủng
hoảng về thế giới quan trong các nhà triết học và khoa học tự nhiên, khiến cho
những nhà khoa học "giỏi khoa học nhưng kém cái về triết học" đã trượt từ chủ
nghĩa duy vật siêu hình, máy móc đến chủ nghĩa tương đối, hoài nghi và cuối cùng
rơi vào quan điểm của chủ nghĩa duy tâm rằng, "vật chất tiêu tan". Lợi dụng cơ hội
này, các nhà triết học duy tâm, một mặt đã biện hộ cho những quan điểm sai lầm
của mình; mặt khác, họ đẩy mạnh cuộc tấn công trực diện vào khái niệm vật chất.
Họ la lối lên rằng, nếu nguyên tử bị phá vì tức là "vật chất tiêu tan" và chủ nghĩa
duy vật dựa trên nền tảng khái niệm vật chất đó cũng phải bị biến mất theo.
Bác bỏ sự giải thích duy tâm chủ nghĩa đối với phạm trù vật chất, V.I. Lênin
chỉ ra rằng, không phải là vật chất tiêu tan mà chỉ có giới hạn hiểu biết của con
người về vật chất là tiêu tan, nghĩa là cái mất đi không phải là vật chất mà là giới
hạn của sự nhận thức về vật chất. Trên cơ sở phân tích một cách sâu sắc và khái
quát những thành tựu mới nhất của khoa học tự nhiên; kế thừa những tư tưởng của
Mác và Ăngghen về sự đối lập giữa vật chất và ý thức, về bản chất và tính thống
nhất vật chất của thế giới, về tính khái quát của phạm trù vật chất và sự tồn tại của
vật chất dưới các dạng cụ thể, ... vào năm 1908, trong tác phẩm “Chủ nghĩa duy vật
và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán”, Lênin đã đưa ra một định nghĩa hoàn chỉnh
về phạm trù vật chất, một định nghĩa mà cho tới nay các khoa học hiện đại vẫn thừa
nhận.

* Định nghĩa vật chất của V.I.Lênin:


Vào năm 1908, trong tác phẩm “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm
phê phán”, Lênin đã đưa ra một định nghĩa hoàn chỉnh về phạm trù vật chất:
"Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được
đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp
lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác"

* Nội dung khoa học của định nghĩa vật chất của Lênin
+ “Vật chất là phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan”:
Phạm trù vật chất là một trong nhiều phạm trù của triết học. Phạm trù “vật
chất” được dùng như một công cụ, phương tiện ngôn ngữ để biểu đạt thực tại khách
quan. Vì vậy phạm trù “vật chất” là cái biểu đạt và thực tại khách quan là cái được
biểu đạt, hay đối tượng được biểu đạt.
- Cái biểu đạt (Phạm trù “vật chất”) là cái thuộc về chủ thể nhận thức, là tư
duy con người, thuộc về cái tinh thần bên trong con người.
- Cái được biểu đạt (Thực tại khách quan) là cái thuộc về khách thể nhận thức,
là cái tồn tại bên ngoài chủ thể nhận thức, bên ngoài con người.
Phạm trù “vật chất” biểu hiện trình độ nhận thức, trình độ khái quát sáng tạo
của tư duy con người về thực tại khách quan tồn tại bên ngoài con người.
Theo Ph.Ăngghen: “Vật chất với tư cách như vậy (với tư cách là khái niệm, là
phạm trù) là sự sáng tạo thuần túy của tư duy con người, là một điều thuần túy của
tư duy trừu tượng. Chúng ta bỏ qua những sự khác nhau về chất của những sự vật
khi chúng ta tập trung với tư cách là những vật tồn tại hữu hình vào khái niệm vật
chất”.
+ “Thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác…”:
Thực tại khách quan (cái tồn tại bên ngoài con người) là nguồn gốc đưa đến
những cảm giác ở con người, thực tại khách quan đó khi đi vào các giác quan của
con người làm hình thành nên những cảm giác ở con người vì vậy thực tại khách
quan là nguyên nhân của những cảm giác có ở con người.
Thực tại khách quan là cái vật chất bên ngoài con người vì vậy là cái có trước,
cái sinh ra và quyết định cái cảm giác của con người. Cái cảm giác của con người là
cái có sau, cái do thực tại khách quan sinh ra và quyết định. Vì vậy, vật chất có
trước, ý thức có sau, vật chất quyết định ý thức.
Theo V.I.Lênin: “Thực tại khách quan là nguồn gốc của các cảm giác của con
người”.
+ “Thực tại khách quan ... được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại,
phản ánh”:
Thực tại khách quan là cái được phản ánh hay cái được cảm giác của con
người phản ánh, vì vậy thực tại khách quan là cái được phản ánh hay đối tượng
được phản ánh và cái cảm giác của con người là cái phản ánh.
Thực tại khách quan (cái được phản ánh) là cái nguyên bản, là bản gốc của cái
cảm giác, cái cảm giác (cái phản ánh) là phiên bản, là bản sao của cái thực tại khách
quan (cái được phản ánh)
Theo V.I.Lênin: “Không có cái bị phản ánh thì không thể có cái phản ánh
nhưng cái bị phản ánh tồn tại một cách độc lập đối với cái phản ánh”. “Thế giới bên
ngoài được phản ánh vào trong ý thức của chúng ta”.
+ “Thực tại khách quan ... tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”:
Thực tại khách quan là cái tồn tại bên ngoài con người, bên ngoài cảm giác
của con người, không phụ thuộc vào cảm giác của con người. Thực tại khách quan
tồn tại tự nó, do nó, bởi nó và vì nó; thực tại khách quan tồn tại không do, không vì,
không bởi các cảm giác của con người, không bị điều kiện hóa, bị ràng buộc bởi
các cảm giác của con người. Thực tại khách quan tồn tại kể cả khi không có con
người, không có cảm giác của con người.
Theo V.I.Lênin: “Sự tồn tại của vật chất không phụ thuộc vào cảm giác”; “thế
giới bên ngoài được phản ánh vào ý thức của chúng ta, vẫn tồn tại độc lập với ý
thức của chúng ta”.

* Giá trị khoa học của định nghĩa vật chất của Lênin:
Giá trị đối với triết học:
Định nghĩa vật chất của V.I Lênin đã giải quyết một cách triệt để hai mặt của
vấn đề cơ bản của triết học trên lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Về mặt bản thể luận: Vật chất là tồn tại đầu tiên, thứ nhất, tồn tại có trước; ý
thức là tồn tại thứ hai, tồn tại có sau. Tồn tại vật chất sinh ra và quyết định tồn tại ý
thức, tồn tại tư duy; tồn tại ý thức, tư duy phụ thuộc vào tồn tại vật chất.
Về mặt nhận thức luận: Tồn tại vật chất là nguồn gốc, đưa đến quá trình nhận
thức, tìm hiểu, nắm bắt của con người. Con người hoàn toàn có thể hiểu biết, nhận
thức được thế giới; thế giới là nhận thức được, là hiểu biết được.
Giá trị đối với lịch sử triết học: Định nghĩa vật chất đã khắc phục được
những hạn chế cơ bản của các quan điểm, quan niệm duy vật trước đây về vật chất,
đặc biệt là chủ nghĩa duy vật siêu hình, máy móc
Định nghĩa vật chất của Lênin đã khẳng định vật chất không phải là một vật
thể cụ thể, cảm tính nào đó, cũng không phải là một thuộc tính cụ thể của một vật
thể cụ thể nào đó. Vật chất là tất cả những gì tồn tại khách quan bên ngoài con
người, độc lập với ý thức của con người; không phụ thuộc vào cảm giác, ý thức của
con người.
Giá trị đối với các khoa học: Định nghĩa vật chất của V.I. Lênin đã chỉ ra
sự khác nhau giữa phạm trù “vật chất” trong triết học với phạm trù “vật chất” trong
các khoa học cụ thể.
Phạm trù “vật chất” trong triết học khái quát đặc tính chung nhất của mọi vật
thể, vật chất. Đặc tính chung nhất này là đặc tính tồn tại độc lập khách quan với
cảm giác, ý thức của con người; không phụ thuộc vào cảm giác, ý thức của con
người.
Phạm trù “vật chất” trong các khoa học cụ thể dùng để chỉ các vật thể, vật
chất cụ thể, các kết cấu vật chất cụ thể, các thuộc tính đặc điểm riêng lẻ cụ thể.
Với sự phân biệt như vậy, định nghĩa vật chất của V.I.Lênin giúp các nhà
khoa học an tâm, vững bước đi sâu nghiên cứu vật chất trong các phạm vi lĩnh vực
riêng lẻ cụ thể. Những khám phá, phát hiện mới của các khoa học về một thuộc
tính, đặc điểm nào đó của các vật thể, vật chất không làm thay đổi một sự thật được
triết học chỉ ra là: tất cả các vật thể, vật chất cùng với các thuộc tính, đặc điểm riêng
lẻ cụ thể của chúng đều tồn tại độc lập khách quan với cảm giác, ý thức của con
người.

You might also like