You are on page 1of 136

CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG

I. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG VỀ VẬT CHẤT,
Ý THỨC VÀ MỐI QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC
1. Vật chất
a. Phạm trù “vật chất”
Triết học trước Mác luôn có xu hướng đi tìm cơ sở đầu tiên, nguyên nhân đầu
tiên của thế giới. Tuy nhiên do hạn chế về mặt nhận thức nên các trường phái triết
học trước Mác chưa tìm ra bản nguyên của thế giới.
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy tâm thì thực thể của thế giới, cơ sở của
mọi tồn tại là một bản nguyên tinh thần nào đó, có thể là “ý chí của Thượng đế” là
“ý niệm tuyệt đối”. Chẳng hạn, Platôn nhà triết học duy tâm khách quan lớn nhất
thời kỳ cổ đại cho rằng, vật chất bắt nguồn từ “ý niệm”, sự vật cảm tính là cái bóng
của “ý niệm”. Mặt khác, ông tỏ ra căm thù chủ nghĩa duy vật, kết tội các nhà duy
vật, nhất là môn đồ của Đêmôcrít là vô thần - một tội kết án tử hình theo luật của
Aten thời bấy giờ và đã đốt hết các tác phẩm của Đêmôcrít.
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật thì thực thể của thế giới là vật chất, vật
chất là cơ sở tồn tại của mọi sự vật, vật chất là cái tồn tại vĩnh viễn tạo nên mọi sự
vật hiện tượng cùng với những thuộc tính của chúng.
Vào thời kỳ cổ đại các nhà triết học duy vật đã đồng nhất vật chất nói chung
với những dạng cụ thể của nó, tức là những vật thể hữu hình, cảm tính đang tồn tại
ở thế giới bên ngoài.
Ở phương Đông, trường phái triết học không chính thống Lôkayata cho rằng,
bốn nguyên tố tồn tại vĩnh viễn, không tự sinh ra và cũng không mất đi là đất,
nước, lửa và không khí sinh ra mọi vật bằng con đường kết hợp cả bốn nguyên tố
và mọi vật mất đi khi bốn nguyên tố đó tách biệt nhau ra. Thuyết Âm Dương cho
rằng khởi thuỷ của mọi sự vật là Âm, Dương có trong Thái cực. Lưỡng nghi sinh
Tứ tượng. Tứ tượng sinh Bát quái tượng trưng cho tám yếu tố cơ bản của thế giới
(Trời, Đất, Sấm, Gió, Nước, Lửa, Núi, Đầm). Thuyết Ngũ hành cho rằng, năm yếu
1
tố kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ là những yếu tố khởi nguyên cấu thành mọi vật, chúng
sinh nhau và triệt tiêu nhau theo luật tương sinh, tương khắc.
Ở phương Tây, Talét (624-546 tr.CN, Hy Lạp) cho rằng bản nguyên đầu tiên
là nước. Mọi vật đều sinh ra từ nước, khi phân hủy lại biến thành nước. Mọi vật
sinh ra và mất đi, biến đổi không ngừng, chỉ có nước là tồn tại vĩnh viễn.
Anaximen (585-524 tr.CN, Hy Lạp) cho rằng, bản nguyên đầu tiên là không khí.
Không khí sinh ra mọi vật bằng cách tản ra hoặc ngưng tụ lại, vạn vật bắt nguồn từ
vật chất đầu tiên là không khí và khi phân huỷ lại quay về không khí. Không khí là
vĩnh viễn, biến động. Không khí đọng lại, lúc đầu là mây, sau thành nước và sau
cùng thành đất, đá, khi loãng ra thành lửa. Hêraclít (540- 480 tr.CN, Hy Lạp) cho
rằng, bản nguyên đầu tiên là lửa. Lửa là nguồn gốc của vật chất và linh hồn.
Đi sâu hơn trong việc tìm kiếm một khối bản nguyên vật chất chung hơn các
bản nguyên vật chất hữu hình, đơn lẻ, các nhà triết học duy vật cổ đại Hy Lạp mà
điển hình là Anaximanđơrơ (610-540 tr.CN), ông cho rằng cơ sở đầu tiên và vĩnh
viễn của các hiện tượng tự nhiên là một dạng vật chất vô định, vô tận và tồn tại
vĩnh viễn, là cái duy nhất cấu thành mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới đó là
Apâyrôn. Apâyrôn vận động không ngừng, tạo ra các mặt đối lập như nóng - lạnh,
khô - ướt, sinh ra - chết đi.
Thành quả vĩ đại nhất của chủ nghĩa duy vật thời cổ đại trong học thuyết về
vật chất là thuyết nguyên tử của các triết gia Hy Lạp như Lơxíp (500-440 tr.CN) và
Đêmôcrít (460-370 tr.CN). Các ông cho rằng nguyên tử là những hạt vật chất nhỏ
nhất không thể phân chia, là cái tạo thành mọi vật.
Từ thời kỳ phục hưng, đặc biệt là thời kỳ cận đại thế kỷ XVII-XVIII, khoa
học tự nhiên - thực nghiệm ở châu Âu phát triển mạnh. Chủ nghĩa duy vật nói
chung và phạm trù vật chất nói riêng đã có bước phát triển mới, chứa đựng nhiều
yếu tố biện chứng. Tuy vậy, khoa học thời kỳ này chỉ có cơ học cổ điển phát triển
nhất, còn các ngành khoa học khác như vật lý học, hóa học, sinh học, địa chất học
còn ở trình độ thấp. Khoa học lúc này chủ yếu dừng lại ở trình độ sưu tập, mô tả.
Tương ứng với trình độ trên của khoa học thì quan điểm thống trị trong triết học và
khoa học tự nhiên thời bấy giờ là quan điểm siêu hình - máy móc. Người ta giải
2
thích mọi hiện tượng của tự nhiên bằng sự tác động qua lại của lực hấp dẫn và lực
đẩy các phân tử của vật thể, theo đó, các phần tử trong quá trình vận động là bất
biến, còn trạng thái thay đổi là không gian và tập hợp của chúng. Mọi phân biệt về
chất giữa các vật thể đều bị quy giản về sự phân biệt về lượng, mọi sự vận động
đều bị quy về sự dịch chuyển vị trí trong không gian, mọi hiện tượng phức tạp bị
quy về cái giản đơn mà từ đó chúng được tạo thành. Niềm tin vào các chân lý trong
cơ học Niutơn đã khiến các nhà khoa học đồng nhất vật chất với khối lượng, coi
vận động của vật chất chỉ là biểu hiện của vận động cơ học, nguồn gốc của vận
động nằm ngoài vật chất.
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, khi xuất hiện những phát minh mới trong
khoa học tự nhiên, con người mới có những hiểu biết sâu sắc về nguyên tử. Năm
1895, Rơngen phát hiện ra tia X. Tia X là những sóng điện từ có bước sóng rất
ngắn, khoảng từ 0,01A0 đến 100 A0 (1A0 = 10-3 cm). Điều đó chứng tỏ rằng,
nguyên tử không phải là cái gì hoàn toàn đơn giản. Năm 1896, Béccơren phát hiện
được hiện tượng phóng xạ. Năm 1897, Tômxơn phát hiện ra điện tử và chứng minh
được rằng điện tử là một trong những thành phần tạo nên nguyên tử. Năm 1901,
Kaufman phát hiện ra khối lượng của điện tử biến động và kết quả các thực
nghiệm khoa học cho thấy rằng khối lượng của các điện tử tăng lên khi vận tốc của
điện tử tăng. Những phát hiện đó là bước tiến của loài người trong việc nhận thức
và cải tạo giới tự nhiên, nó bác bỏ quan điểm siêu hình về vật chất. Những quan
niệm đương thời về giới hạn tột cùng của vật chất là nguyên tử hoặc khối lượng đã
sụp đổ trước khoa học. Vấn đề là ở chỗ, trong nhận thức lúc đó, các hạt điện tích
và trường điện từ coi là cái gì đó phi vật chất. Lợi dụng tình hình đó, chủ nghĩa duy
tâm đã biện hộ cho những quan điểm sai lầm của mình và giải thích sai lệch những
phát minh lớn của ngành vật lý. Họ cho rằng “vật chất tiêu tan”, nghĩa là nền móng
của các quan niệm duy vật tiêu tan và từ đó suy ra rằng chủ nghĩa duy vật cũng
phải tiêu tan theo “vật chất”.
Trong bối cảnh lịch sử đó, để chống sự xuyên tạc của các nhà triết học duy
tâm, bảo vệ phát triển thế giới quan duy vật V.I.Lênin đã khái quát những thành
tựu của khoa học tự nhiên và chỉ rõ rằng vật chất không bị tiêu tan, chủ nghĩa duy
3
vật không bị bác bỏ. Cái bị tiêu tan, bị bác bỏ chính là giới hạn hiểu biết trước đây
về vật chất, là quan điểm siêu hình - máy móc trong nhận thức khoa học cho rằng
giới tự nhiên là có tận cùng về cấu trúc; rằng giới hạn cuối cùng, bất biến của giới
tự nhiên là nguyên tử hoặc khối lượng. Từ đó V.I.Lênin kết luận: điện tử cũng vô
cùng tận như nguyên tử; tự nhiên là vô tận. Đồng thời cũng chỉ rõ rằng, sự thay thế
một số khái niệm này bằng một số khái niệm khác trong nhận thức về thế giới chỉ
chứng tỏ khoa học, sự phản ánh hiện thực khách quan cứ hoàn thiện mãi lên,
chứng tỏ sự hiểu biết của con người ngày càng thêm sâu sắc. Trên cơ sở phân tích
ấy V.I.Lênin đưa ra định nghĩa về phạm trù vật chất.
Theo V.I.Lênin phạm trù vật chất là một phạm trù rộng đến cùng cực, rộng
nhất, mà cho đến nay, thực ra nhận thức luận vẫn chưa vượt quá được. Khi định
nghĩa phạm trù này, không thể quy nó về vật thể hoặc một thuộc tính cụ thể nào
đó, cũng không thể quy về phạm trù rộng hơn phạm trù vật chất. Do vậy, chỉ có thể
định nghĩa phạm trù vật chất trong quan hệ với ý thức, phạm trù đối lập với nó và
trong quan hệ ấy, vật chất là tính thứ nhất, ý thức là tính thứ hai. Bằng phương
pháp như vậy, định nghĩa phạm trù vật chất của V.I.Lênin được diễn đạt như sau :
“Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được
đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp
lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”1.
Ở định nghĩa này, V.I.Lênin phân biệt hai vấn đề quan trọng:
Trước hết, phân biệt vật chất với tư cách là phạm trù triết học với các quan
niệm của khoa học tự nhiên về cấu tạo và những thuộc tính cụ thể của các đối
tượng các dạng vật chất khác nhau. Vật chất với tư cách là phạm trù triết học dùng
để chỉ vật chất nói chung, vô hạn, vô tận, không sinh ra, không mất đi; còn các đối
tượng, các dạng vật chất khoa học cụ thể nghiên cứu đều có giới hạn, có sinh ra và
mất đi để chuyển hóa thành cái khác.
Thứ hai, trong nhận thức luận đặc trưng quan trọng nhất để nhận biết vật chất
chính là thuộc tính tồn tại khách quan.
Định nghĩa vật chất của V.I.Lênin bao hàm các nội dung sau:
1
Sđd, tr.151.
4
Một là, vật chất là thực tại khách quan tồn tại độc lập với ý thức; không phụ
thuộc vào ý thức, bất kể sự tồn tại ấy đã được con người nhận thức hay chưa nhận
thức, vật chất vừa có tính trừu tượng vừa có tính cụ thể.
Khi nói đến vật chất với tư cách là một phạm trù triết học thì nó là một sự
trừu tượng. Vì vậy, “chúng ta không biết, vì chưa có ai nhìn được và cảm thấy vật
chất với tính cách vật chất,… bằng con đường cảm tính nào khác” 2. Song, sự trừu
tượng này chỉ cái đặc tính chung nhất, bản chất nhất mà mọi sự vật, hiện tượng cụ
thể nào của vật chất cũng có, đó là đặc tính tồn tại khách quan và độc lập với ý
thức của con người. Đặc tính này là tiêu chuẩn cơ bản duy nhất để phân biệt cái gì
là vật chất, cái gì không phải là vật chất.
Hai là, vật chất là cái gây nên cảm giác ở con người khi gián tiếp hoặc trực
tiếp tác động lên giác quan. Với nội dung này, Lênin làm rõ mối quan hệ giữa thực
tại khách quan và cảm giác, rằng thực tại khách quan là cái có trước ý thức, không
phụ thuộc vào ý thức, độc lập với ý thức; còn cảm giác của con người là cái có sau
vật chất, phụ thuộc vào vật chất. Vật chất là nội dung, là nguồn gốc khách quan
của tri thức, là nguyên nhân phát sinh ra ý thức.
Ba là, cảm giác, tư duy, ý thức chỉ là sự phản ánh của vật chất. Với nội dung
này, Lênin chứng minh vật chất tồn tại khách quan, nhưng không phải tồn tại một
cách vô hình, thần bí mà tồn tại một cách hiện thực dưới dạng các sự vật, hiện
tượng cụ thể, mà con người bằng các giác quan có thể trực tiếp hay gián tiếp nhận
biết được.
Như vậy, định nghĩa vật chất của Lênin đã bác bỏ thuyết không thể biết, khắc
phục được những khiếm khuyết trong các quan điểm siêu hình, máy móc về vật
chất. Đồng thời định nghĩa vật chất của Lênin còn có ý nghĩa định hướng đối với
các khoa học cụ thể trong việc tìm kiếm các hình thức mới của vật thể trong thế
giới.
Là kết quả của sự khái quát những thành tựu của khoa học và hoạt động thực
tiễn của con người, định nghĩa vật chất của Lênin đã giải đáp một cách đúng đắn,

2
C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1994, t. 20,
tr.726.
5
sâu sắc cả hai mặt nội dung vấn đề cơ bản của triết học. Vì vật chất có trước, tồn
tại khách quan không phụ thuộc vào ý thức, ý thức có sau; vật chất quyết định ý
thức, cho nên trong nhận thức và hoạt động thực tiễn phải xuất phát từ điều kiện
vật chất khách quan đã và đang có làm cơ sở cho mọi hành động của mình; không
được lấy ý muốn, nguyện vọng chủ quan làm điểm xuất phát. Ngược lại, cần chống
thái độ chủ quan, duy ý chí, nóng vội, bất chấp quy luật khách quan, lấy ý muốn,
nguyện vọng, cảm tính làm xuất phát điểm cho chủ trương, chính sách.
b. Phương thức và hình thức tồn tại của vật chất
Tìm hiểu những phương thức tồn tại của vật chất nhằm trả lời cho câu hỏi:
những dạng cụ thể của vật chất biểu hiện sự tồn tại của mình bằng cách nào. Theo
quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, vận động là phương thức tồn tại của
vật chất, không gian, thời gian là hình thức tồn tại của vật chất.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng: vận động không chỉ là sự thay đổi vị
trí trong không gian. Ph.Ăngghen định nghĩa: “Vận động, hiểu theo nghĩa chung
nhất - tức được hiểu là phương thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu
của vật chất, thì bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ
trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy” 3. Khi định nghĩa vận động là
sự biến đổi nói chung, thì vận động là thuộc tính cố hữu của vật chất, là phương
thức tồn tại của vật chất. Điều này có nghĩa vật chất tồn tại bằng vận động. Trong
vận động và thông qua vận động mà các dạng vật chất biểu hiện sự tồn tại của
mình.
Với tính cách “là thuộc tính cố hữu của vật chất” theo quan điểm của triết học
Mác - Lênin, vận động là sự tự thân vận động của vật chất, được tạo nên từ sự tác
động lẫn nhau của chính các thành tố nội tại trong cấu trúc vật chất. Những người
theo quan điểm duy tâm hoặc siêu hình không đi tìm nguồn gốc của vận động ở
bên trong bản thân sự vật, mà đi tìm nguồn gốc ở bên ngoài sự vật. Quan điểm về
sự tự thân vận động của vật chất đã được chứng minh bởi những thành tựu của

3
C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1994, t.20, tr.519.

6
khoa học tự nhiên và càng ngày những phát kiến mới của khoa học tự nhiên hiện
đại càng khẳng định quan điểm đó.
Vật chất là vô hạn, vô tận, không sinh ra, không mất đi và vận động là một
thuộc tính không thể tách rời vật chất nên bản thân sự vận động cũng không thể bị
mất đi hay sáng tạo ra. Kết luận này của triết học Mác - Lênin đã được khẳng định
bởi định luật bảo toàn chuyển hóa năng lượng. Theo định luật này, vận động của
vật chất được bảo toàn cả về mặt lượng và chất. Nếu một hình thức vận động nào
đó của sự vật mất đi thì tất yếu nảy sinh một hình thức vận động khác thay thế nó.
Các hình thức vận động chuyển hóa lẫn nhau, còn vận động của vật chất thì vĩnh
viễn tồn tại cùng với sự tồn tại vĩnh viễn của vật chất.
Thế giới vật chất biểu hiện ở tính hiện thực khách quan thông qua các dạng cụ
thể của sự vật, hiện tượng, quá trình muôn màu, muôn vẻ. Do đó, các hình thức
vận động cụ thể của các đối tượng vật chất cũng vô cùng phong phú. Dựa trên
những thành tựu khoa học của thời đại mình Ph.Ăngghen đã phân chia vận động
thành năm hình thức vận động cơ bản:
Vận động cơ học (sự di chuyển của các vật thể trong không gian)
Vận động vật lý (vận động của các phân tử, các hạt cơ bản, vận động điện tử,
các quá trình nhiệt điện)
Vận động hóa học (vận động của các nguyên tử, các quá trình hóa hợp và
phân giải các chất)
Vận động sinh học (trao đổi chất giữa cơ thể sống và môi trường)
Vận động xã hội (sự thay đổi, thay thế các quá trình xã hội của các hình thái
kinh tế - xã hội)
Từ sự phân loại vận động, Ph.Ăngghen nêu ra những nguyên tắc sau:
Các hình thức vận động vừa độc lập tương đối vừa có quan hệ với nhau, vừa
chuyển hóa cho nhau trong những điều kiện nhất định.
Trong sự tồn tại của mình, mỗi sự vật có thể gắn liền với nhiều hình thức tồn
tại khác nhau. Tuy nhiên, bản thân sự tồn tại của sự vật đó bao giờ cũng đặc trưng
bằng một hình thức vận động cơ bản.

7
Khi khẳng định vận động là phương thức tồn tại của vật chất, là thuộc tính cố
hữu của vật chất, chủ nghĩa duy vật biện chứng cũng đã khẳng định vận động là
tuyệt đối, là vĩnh viễn. Điều này không có nghĩa chủ nghĩa duy vật biện chứng phủ
nhận tính đứng im của thế giới vật chất. Trái lại, chủ nghĩa Mác - Lênin thừa nhận
rằng quá trình vận động không ngừng của thế giới vật chất chẳng những không loại
trừ mà còn bao hàm trong nó hiện tượng đứng im tương đối; không có hiện tượng
đứng im tương đối thì không có sự vật nào tồn tại được.
Quan niệm về đứng im của vật chất là một vấn đề khó và đây cũng là vấn đề
có nhiều tranh cãi trong lịch sử triết học. Tuy nhiên triết học Mác quan niệm đứng
im là trạng thái vận động, vận động trong trạng thái cân bằng. Trong quan hệ với
vận động đứng im được xác định như sau:
Thứ nhất, hiện tượng đứng im tương đối chỉ xảy ra trong một mối quan hệ
nhất định chứ không phải trong mọi quan hệ cùng một lúc.
Thứ hai, đứng im chỉ xảy ra với một hình thái vận động trong một lúc nào đó,
chứ không phải với mọi hình thức vận động trong cùng một lúc.
Thứ ba, đứng im chỉ biểu hiện của một trạng thái vận động, đó là vận động
trong thăng bằng, trong sự ổn định tương đối. Chính nhờ sự ổn định đó mà sự vật
thực hiện được sự chuyển hóa tiếp theo. Không có đứng im tương đối thì không có
sự vật nào cả. Do đó đứng im còn được biểu hiện như một quá trình vận động
trong phạm vi chất của sự vật ổn định, chưa thay đổi.
Thứ tư, vận động cá biệt có xu hướng hình thành sự vật, hiện tượng ổn định
nào đó, còn vận động nói chung, tức là sự tác động qua lại lẫn nhau giữa sự vật và
hiện tượng làm cho tất cả không ngừng biến đổi. Vì thế đứng im chỉ là một hiện
tượng tạm thời.
Không gian, thời gian là những hình thức tồn tại của vật chất
Trước Mác có nhiều quan niệm khác nhau về không gian và thời gian. Chủ
nghĩa duy tâm cho không gian và thời gian là những phạm trù tiên thiên được con
người sử dụng như là công cụ để nhận thức thế giới. Chủ nghĩa duy vật siêu hình
quan niệm rằng, không gian như “cái thùng” chứa vật chất. Những quan niệm này

8
dẫn đến việc tách rời giữa vật chất với không gian, thời gian và vật chất không tồn
tại trong không gian và thời gian.
Triết học Mác khẳng định, không gian và thời gian là những hình thức tồn tại
của vật chất, là thuộc tính cố hữu của vật chất. Không gian là hình thức tồn tại của
vật chất xét về mặt quảng tính, thời gian là thuộc tính của vật chất xét về mặt độ
dài diễn biến, sự kế tiếp của các quá trình. Vật chất với không gian và thời gian
không thể tách rời nhau, không có trạng thái vật chất vận động ngoài không gian
và thời gian, và cũng không có không gian thuần túy phi vật chất.
Với tính cách là hình thức tồn tại, là thuộc tính của vật chất thì không gian và
thời gian có những tính chất cơ bản sau đây:
Tính khách quan, không gian và thời gian là một thuộc tính của vật chất, tồn
tại gắn liền với vật chất, vận động. Vật chất tồn tại khách quan do đó không gian
và thời gian cũng tồn tại khách quan.
Tính vĩnh cửu của thời gian và tính vô tận của không gian. Những thành tựu
của vật lý học hiện đại về lĩnh vực vi mô cũng như vũ trụ học ngày càng xác nhận
tính chất này.
Không gian luôn có ba chiều (chiều dài, chiều rộng, chiều cao) còn thời gian
chỉ có một chiều (từ quá khứ tới tương lai).
c. Tính thống nhất vật chất của thế giới
Những sự vật, hiện tượng, quá trình trong thế giới xung quanh chúng ta có
biểu hiện vô cùng phức tạp và đa dạng. Những biểu hiện đó có thể là vật chất, cũng
có thể là tinh thần, nhưng xét đến cùng thì bản nguyên của thế giới đó là gì? Quan
niệm đó gọi là tính thống nhất của thế giới.
Trong lịch sử triết học, các trường phái duy vật có khuynh hướng chung là
tìm nguồn gốc, bản chất của thế giới vật chất ngay trong bản thân nó. Nhưng do
ảnh hưởng của quan điểm siêu hình - máy móc nên chưa giải quyết được một cách
khoa học của khuynh hướng trên. Họ cho rằng mọi hiện tượng của thế giới đều
được cấu tạo từ những vật thể ban đầu giống nhau, thống nhất với nhau, cùng bị
chi phối bằng những quy luật nhất định. Các nhà triết học duy tâm đi tìm nguồn
gốc, bản chất của thế giới ở “ý niệm tuyệt đối” hoặc ở ý thức con người và khẳng
9
định rằng sở dĩ thế giới thống nhất vì nó được người ta nghĩ về nó như cái thống
nhất.
Căn cứ vào sự phát triển của hoạt động thực tiễn và sự phát triển của khoa
học, chủ nghĩa duy vật biện chứng chứng minh rằng, bản chất của thế giới là vật
chất và thế giới thống nhất ở tính vật chất. Điều này được thể hiện trong những
điểm sau:
Một là, chỉ có một thế giới duy nhất và thống nhất là thế giới vật chất. Thế
giới vật chất tồn tại khách quan, có trước và độc lập với ý thức của con người.
Hai là, mọi bộ phận của thế giới vật chất đều có mối liên hệ thống nhất với
nhau, biểu hiện ở chỗ chúng đều là những dạng cụ thể của vật chất, là những kết
cấu vật chất, hoặc có nguồn gốc vật chất, do vật chất sinh ra và cùng chịu sự chi
phối của những quy luật khách quan phổ biến của thế giới vật chất.
Ba là, thế giới vật chất tồn tại vĩnh viễn, vô hạn và vô tận, không được sinh ra
và không bị mất đi. Trong thế giới vật chất không gì khác ngoài quá trình vật chất
đang biến đổi và chuyển hóa lẫn nhau, là nguồn gốc, nguyên nhân và kết quả của
nhau.
Tính vật chất của thế giới được biểu hiện cụ thể trong đời sống hiện thực của
con người. Đó là con người không bao giờ bằng ý thức của mình mà sản sinh ra
được các đối tượng vật chất mà chỉ có thể cải biến thế giới vật chất theo những quy
luật vốn có của nó.
Khoa học hiện đại đã tiếp tục chứng minh nguyên lý về sự thống nhất vật chất
của thế giới bằng những thành tựu mới trong lĩnh vực vật lý học, hóa học, trong
khoa học vũ trụ và khoa học sự sống. Những thành tựu của các ngành khoa học ấy
đã làm sâu sắc thêm nhận thức của chúng ta về thành phần, về kết cấu của thế giới
vật chất, về đặc điểm hoạt động và phát triển của nó trên các trình độ tổ chức khác
nhau của vật chất.
Những thành tựu của khoa học tự nhiên đã giúp cho chủ nghĩa duy vật biện
chứng cơ sở khẳng định rằng các sự vật, hiện tượng đều có cùng bản chất vật chất,
thế giới thống nhất ở tính vật chất và thông qua tính vật chất.

10
Như vậy, thế giới về bản chất là vật chất, thống nhất ở tính vật chất của nó.
Thế giới vật chất có nguyên nhân tự nó, vĩnh hằng và vô tận với vô số những biểu
hiện muôn hình muôn vẻ.
2. Ý thức
a. Nguồn gốc của ý thức
* Nguồn gốc tự nhiên của ý thức
Vấn đề nguồn gốc, bản chất và vai trò của ý thức là vấn đề phức tạp của triết
học, là trung tâm cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật với chủ nghĩa duy tâm
trong lịch sử triết học cũng như ở giai đoạn hiện nay.
Chủ nghĩa duy tâm cho rằng ý thức có trước, vật chất có sau, ý thức sinh ra
vật chất, chi phối sự tồn tại và vận động của thế giới vật chất. Học thuyết triết học
duy tâm khách quan và triết học duy tâm chủ quan có quan niệm khác nhau nhất
định về ý thức, song về thực chất họ giống nhau ở chỗ tách ý thức ra khỏi vật chất,
lấy ý thức làm điểm xuất phát để suy ra giới tự nhiên.
Khác với chủ nghĩa duy tâm, chủ nghĩa duy vật, từ triết học duy vật cổ đại
đến triết học duy vật cận đại của Phoiơbắc đều khẳng định rằng: giữa vật chất và ý
thức thì vật chất là cái có trước, ý thức là cái có sau và do vật chất sinh ra. Nhưng
do hạn chế về nhận thức và khoa học chưa phát triển, cho nên chủ nghĩa duy vật
trước Mác đã giải thích sai lầm về nguồn gốc và bản chất của ý thức.
Dựa trên cơ sở những thành tựu của khoa học tự nhiên, nhất là sinh lý học
thần kinh, chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng, ý thức không phải có những
nguồn gốc siêu tự nhiên, không phải ý thức sản sinh ra vật chất như các nhà thần
học và chủ nghĩa duy tâm đã khẳng định mà ý thức là một thuộc tính của vật chất,
nhưng không phải của mọi dạng vật chất, mà chỉ là thuộc tính của một dạng vật
chất có tổ chức cao là bộ óc con người. Bộ óc người là cơ quan vật chất của ý thức.
Ý thức là chức năng của bộ óc con người. Ý thức phụ thuộc vào hoạt động của bộ
óc người, do đó khi bộ óc bị tổn thương thì hoạt động của ý thức sẽ không bình
thường. Vì vậy, không thể tách rời ý thức ra khỏi hoạt động của bộ óc, ý thức
không thể diễn ra hay tách rời hoạt động sinh lý thần kinh của bộ óc người.

11
Khoa học đã xác định, con người là sản phẩm cao nhất của quá trình phát
triển từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp của vật chất vận động, đồng thời đã
xác định bộ óc con người là một tổ chức sống đặc biệt có cấu trúc tinh vi phức tạp
bao gồm 14 - 15 tỷ tế bào thần kinh. Các tế bào này có liên hệ với nhau và với các
giác quan, tạo thành vô số những mối liên hệ thu nhận, điều khiển hoạt động của
cơ thể trong quan hệ với thế giới bên ngoài qua các phản xạ không điều kiện và có
điều kiện.
Bộ óc người - một tổ chức vật chất cao lại có thể sinh ra được ý thức? Để trả
lời câu hỏi này chúng ta phải nghiên cứu mối liên hệ giữa vật chất giữa bộ óc
người với thế giới khách quan. Chính mối liên hệ vật chất ấy hình thành nên quá
trình phản ánh thế giới vật chất vào óc người.
Phản ánh là thuộc tính chung, phổ biến của mọi đối tượng vật chất. Phản ánh
là sự tái tạo những đặc điểm của một hệ thống vật chất này ở một hệ thống vật chất
khác trong quá trình tác động qua lại của chúng. Kết quả của sự phản ánh phụ
thuộc vào cả hai vật (vật tác động và vật nhận tác động). Trong quá trình ấy, vật
nhận tác động bao giờ cũng mang thông tin của vật tác động. Đây là điều quan
trọng để làm sáng tỏ nguồn gốc tự nhiên của ý thức.
Thuộc tính phản ánh trải qua một quá trình tiến hóa tương ứng từ vô sinh đến
hữu sinh và đến xã hội, cuối cùng nảy sinh ra ý thức. Hình thức phản ánh đơn giản
nhất, đặc trưng cho giới tự nhiên vô sinh là những phản ánh vật lý, hóa học. Những
phản ánh này có tính chất thụ động, chưa có sự định hướng, sự lựa chọn. Hình thức
phản ánh sinh học đặc trưng cho giới tự nhiên sống là bước phát triển mới về chất
trong sự tiến hóa của các hình thức phản ánh. Hình thức phản ánh của các cơ thể
sống đơn giản nhất là biểu hiện ở tính kích thích do tác động của môi trường. Tính
kích thích đặc trưng cho thế giới thực vật và các động vật bậc thấp chưa có hệ thần
kinh. Đó là sự phản ánh ít nhiều có có tính định hướng, có sự “lựa chọn” của cơ
thể đối với những tác động bên ngoài có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động sống
của chúng. Nhờ vậy, sinh vật có thể định hướng và thích nghi được với môi trường
xung quanh.

12
Quá trình tiến hóa tiếp theo của các cơ thể sống dẫn đến sự ra đời của các cơ
thể động vật có hệ thần kinh. Một cách tương ứng, giai đoạn tiếp theo trong sự tiến
hóa các thuộc tính phản ánh gắn liền với hình thức phản ánh mới, cao hơn, hình
thành trên cơ sở kích thích, đó là tính cảm ứng. So với tính kích thích, thì tính cảm
ứng hoàn thiện hơn nhiều và đã có sự khác biệt cơ bản: hình thức phản ánh này
được thực hiện ở ngay trong quá trình hệ thần kinh điều khiển mối liên hệ giữa cơ
thể với môi trường, thông qua các phản xạ bẩm sinh, tự nhiên, bản năng vốn có của
loài vật - các phản xạ không điều kiện.
Quá trình tiến hóa của sinh vật dẫn đến sự xuất hiện của hệ thần kinh trung
ương ở động vật bậc cao và gắn liền với nó là phản xạ có điều kiện. Mối liên hệ
của cơ thể với môi trường xung quanh bây giờ được thực hiện dưới sự điều khiển
của hệ thần kinh trung ương bằng các phản xạ có điều kiện. Điều đó có nghĩa là
động vật có hệ thần kinh trung ương đã phản ứng với cả những hiện tượng vốn
không liên quan trực tiếp đến hoạt động sống còn của chúng. Hình thức phản ánh ở
động vật bậc cao khi có hệ thần kinh trung ương xuất hiện là tâm lý. Phản ánh sinh
học được thực hiện thông qua các hình thức kích thích ở thực vật, các phản xạ ở
động vật có hệ thần kinh và tâm lý động vật cấp cao. Tâm lý động vật chưa phải là
ý thức, nó mới là sự phản ánh có tính chất bản năng do nhu cầu trực tiếp của sinh
lý cơ thể và do quy luật sinh học chi phối.
Ý thức là hình thức cao nhất của sự phản ánh thế giới hiện thực. Ý thức chỉ
nảy sinh ở giai đoạn phát triển cao của thế giới vật chất cùng với sự xuất hiện của
con người. Ý thức là ý thức của con người, nằm trong con người, không thể tách
rời con người. Ý thức bắt nguồn từ một thuộc tính của vật chất - thuộc tính phản
ánh phát triển thành. Ý thức ra đời là kết quả của sự phát triển lâu dài của thuộc
tính phản ánh của vật chất. Phản ánh ý thức là phản ánh đặc trưng của con người
đối với hiện thực khách quan. Sự xuất hiện của con người được đánh dấu bằng
hoạt động có ý thức. Hình thành trên cơ sở phản ánh tâm lý, ý thức khác hẳn về
chất so với tâm lý. Sự khác biệt đó là ảnh hưởng trực tiếp của lao động và giao tiếp
ngôn ngữ.

13
Như vậy, sự phát triển của các hình thức phản ánh gắn liền với các dạng vật
chất có tổ chức khác nhau. Ý thức là đặc trưng riêng của con người và là hình thức
phản ánh cao nhất về thế giới xung quanh. Ý thức là sự phản ánh thế giới bên
ngoài vào bộ óc người, nội dung của nó là thông tin về thế giới bên ngoài, thông
tin về sự vật được phản ánh. Bộ óc người - cơ quan vật chất có tổ chức cao là sản
phẩm phát triển cao của thế giới vật chất. Bộ óc người là cơ quan phản ánh cùng
với thế giới bên ngoài tác động lên bộ óc - đó là nguồn gốc tự nhiên của ý thức.
* Nguồn gốc xã hội của ý thức
Điều kiện quyết định cho sự ra đời của ý thức là những tiền đề, nguồn gốc xã
hội. Ý thức ra đời cùng với quá trình hình thành bộ não người nhờ lao động, ngôn
ngữ và các quan hệ xã hội. Ý thức là sản phẩm của sự phát triển xã hội, nó phụ
thuộc vào xã hội, ngay từ đầu đã mang tính chất xã hội.
Là hoạt động đặc trưng, bản chất của con người. Loài vật tồn tại thông qua
những vật phẩm có sẵn trong tự nhiên. Con người tồn tại chủ yếu dựa trên những
vật phẩm được tạo ra thông qua lao động, cải tạo thế giới khách quan. Theo
C.Mác, là một quá trình diễn biến giữa con người với tự nhiên, một quá trình trong
đó bản thân con người đóng góp vai trò môi giới, điều tiết và giám sát trong sự trao
đổi vật chất giữa người và tự nhiên. Lao động là điều kiện đầu tiên và chủ yếu để
con người tồn tại. Lao động cung cấp cho con người những phương tiện cần thiết
để sống, đồng thời lao động sáng tạo ra cả bản thân con người. Nhờ có lao động,
con người tách ra khỏi giới động vật. Một trong những sự khác nhau căn bản giữa
con người với động vật là ở chỗ động vật sử dụng các sản phẩm có sẵn trong giới
tự nhiên, còn con người thì nhờ lao động mà bắt giới tự nhiên phục vụ mục đích
của mình. Chính thông qua hoạt động lao động nhằm cải tạo thế giới khách quan
mà con người mới có thể phản ánh được thế giới khách quan, mới có ý thức về thế
giới đó.
Nhờ có lao động, con người tác động vào thế giới khách quan, bắt thế giới
khách quan bộc lộ những thuộc tính, những kết cấu, những quy luật vận động của
mình thành những hiện tượng nhất định, và các hiện tượng ấy tác động vào bộ óc
người, hình thành dần những tri thức về tự nhiên và xã hội. Như vậy, ý thức hình
14
thành chủ yếu do hoạt động cải tạo thế giới khách quan của con người, làm biến
đổi thế giới. Ý thức với tư cách là hoạt động phản ánh sáng tạo không thể có ở bên
ngoài quá trình con người lao động làm biến đổi thế giới xung quanh.
Ngôn ngữ ra đời và trở thành cái vỏ vật chất của tư duy, thành phương tiện
thể hiện ý thức. Ngôn ngữ là sản phẩm của lao động, nhưng đến lượt nó, ngôn ngữ
thúc đẩy lao động phát triển về chất lượng. Thông qua hoạt động thực tiễn cải tạo
thế giới khách quan, con người nhận thức được bản chất của thế giới, nhờ ngôn
ngữ ghi lại tri thức về đối tượng, đồng thời thông qua hoạt động của con người và
giữa các thế hệ người với nhau trong lịch sử. Nếu ở động vật, kinh nghiệm sống
được trao đổi chủ yếu qua di truyền, bản năng, thì ở loài người chủ yếu qua kỹ
thuật và ngôn ngữ, kinh nghiệm hiểu biết của người này được truyền cho người
kia, thế hệ này truyền cho thế hệ khác. Như vậy, ý thức không phải là hiện tượng
thuần túy cá nhân, mà là một hiện có tính chất xã hội; do đó, không có phương tiện
trao đổi xã hội về mặt ngôn ngữ thì ý thức không thể hình thành và phát triển được.
Ngôn ngữ vừa là phương tiện giao tiếp, đồng thời là công cụ của tư duy. Nhờ
ngôn ngữ, con người mới có thể khái quát hoá, trừu tượng hoá, tách khỏi sự vật
cảm tính. Ý thức không phải là một hiện tượng thuần tuý cá nhân mà là một hiện
tượng có tính xã hội.
Vậy, nguồn gốc trực tiếp quan trọng nhất quyết định sự ra đời và phát triển
của ý thức là lao động, là thực tiễn xã hội. Ý thức phản ánh hiện thực khách quan
vào bộ óc con người thông qua lao động, ngôn ngữ và các quan hệ xã hội, là một
hiện tượng xã hội.
b. Bản chất và kết cấu của ý thức
* Bản chất của ý thức
Ý thức là phạm trù triết học chỉ toàn bộ hoạt động tinh thần phản ánh thế giới
vật chất, diễn ra trong bộ óc người, được hình thành trong quá trình lao động và
ngôn ngữ. Tuy nhiên trong lịch sử triết học, triết học duy tâm quan niệm ý thức là
một thực thể độc lập, là thực tại duy nhất, từ đó cường điệu tính năng động của ý
thức đến mức coi ý thức sinh ra vật chất chứ không phải là sự phản ánh của vật
chất.
15
Trái với quan điểm của các nhà triết học duy tâm, các nhà triết học duy vật
đều thừa nhận vật chất tồn tại khách quan và ý thức là sự phản ánh thế giới vật
chất. Tuy nhiên do ảnh hưởng của quan niệm siêu hình - máy móc nên họ đã coi ý
thức là sự phản ánh một cách thụ động, giản đơn, máy móc, mà không thấy được
tính năng động sáng tạo của ý thức, tính biện chứng của quá trình phản ánh.
Khác với quan điểm trên, chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng ý thức là sự
phản ánh thế giới khách quan vào bộ óc người. Thuộc tính phản ánh là cái chung
của mọi dạng vật chất, đó là sự tương tác giữa hệ thống vật chất này với bộ hệ
thống vật chất khác và có ghi “dấu ấn” lên nhau. Trình độ phản ánh là do trình độ
phát triển của kết cấu vật chất quy định.
Kết cấu vật chất có nhiều cấp độ như từ vô sinh đến hữu sinh, từ động vật đơn
bào đến đa bào, tuy nhiên những trình độ phản ánh này là của thế giới vật chất nói
chung trong đó chưa có dạng nào là phản ánh của ý thức. Sự phản ánh của ý thức
là phản ánh của bộ óc người về thế giới bên ngoài. Ý thức là sự phản ánh, là cái
phản ánh; còn vật chất là cái được phản ánh. Cái được phản ánh - tức vật chất tồn
tại khách quan, ở ngoài và độc lập với cái phản ánh - tức ý thức. Cái phản ánh - tức
ý thức là hiện thực chủ quan, là hình ảnh chủ quan hay hình ảnh tinh thần của sự
vật khách quan, lấy cái khách quan làm tiền đề, bị cái khách quan quy định, không
có tính vật chất. Vì vậy không thể đồng nhất hoặc tách rời cái được phản ánh - tức
vật chất, với cái phản ánh - tức ý thức. Nếu coi cái phản ánh - tức ý thức là hiện
tượng vật chất thì sẽ lẫn lộn giữa cái được phản ánh và cái phản ánh - tức lẫn lộn
giữa vật chất với ý thức.
Khi nói cái phản ánh - tức ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách
quan, thì đó không phải là hình ảnh vật lý hay hình ảnh tâm lý động vật về sự vật.
Ý thức là của con người, mà con người là một thực thể xã hội năng động sáng tạo.
Ý thức ra đời trong quá trình hoạt động cải tạo thế giới, cho nên ý thức con người
mang tính năng động, sáng tạo lại hiện thực theo nhu cầu thực tiễn xã hội. Theo
C.Mác, ý thức “chẳng qua chỉ là vật chất được đem chuyển vào đầu óc con người
và được cải biến đi trong đó”4.
4
C.Mác và Ph.Ăngnghen: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1993,
16
Tính sáng tạo của ý thức thể hiện ra rất phong phú. Nếu như tâm lý động vật
phản ánh nguyên xi thế giới bên ngoài theo nghĩa chúng chỉ lợi dụng những cái đã
có sẵn trong tự nhiên thì ý thức của con người không chỉ phản ánh thế giới khách
quan, mà còn tạo ra thế giới khách quan. Tuy nhiên phản ánh sáng tạo bao giờ
cũng xuất phát từ hiện thực, trên cơ sở của hiện thực, sáng tạo trong khuôn khổ và
theo tính vật chất, quy luật của sự phản ánh. Phản ánh sáng tạo là đặc tính chỉ xuất
hiện ở con người nhờ khả năng tư duy trừu tượng. Từ hiện thực vật chất đã có, con
người sáng tạo ra những vật phẩm mới đáp ứng nhu cầu của mình. Từ những cái đã
có trước, ý thức có khả năng tạo ra những tri thức mới về sự vật, có thể tưởng
tượng ra những cái không có trong thực tế, có thể tiên đoán, dự báo tương lai, có
thể tạo ra những ảo tưởng, những huyền thoại, những giả thuyết lý thuyết khoa học
hết sức trừu tượng và khái quát cao. Những khả năng ấy càng nói lên tính chất
phức tạp và phong phú của đời sống tâm lý.
Ý thức ra đời trong quá trình con người hoạt động cải tạo thế giới, cho nên
quá trình phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc người là quá trình năng động
sáng tạo thống nhất ba mặt sau:
Một là, trao đổi thông tin giữa chủ thể và đối tượng phản ánh. Sự trao đổi này
mang tính chất hai chiều, có định hướng, có chọn lọc thông tin cần thiết.
Hai là, mô hình hóa đối tượng trong tư duy dưới dạng hình ảnh tinh thần.
Thực chất, đây là quá trình “sáng tạo lại” hiện thực của ý thức theo nghĩa mã hóa
các đối tượng vật chất thành các ý tưởng tinh thần phi vật chất.
Ba là, chuyển mô hình tư duy ra hiện thực khách quan, tức quá trình hiện thực
hóa tư tưởng, thông qua hoạt động thực tiễn, biến cái quan niệm thành cái hiện
thực, biến cái ý tưởng phi vật chất trong tư duy thành các dạng vật chất ngoài hiện
thực. Trong giai đoạn này, con người lựa chọn những phương pháp, phương tiện,
công cụ để tác động vào hiện thực khách quan nhằm thực hiện mục đích của mình.
Ý thức ra đời, tồn tại và phát triển trên cơ sở hoạt động thực tiễn của xã hội,
do thực tiễn xã hội cùng các quy luật xã hội chi phối, quyết định, cho nên ý thức

t.23, tr.35.
17
mang bản chất xã hội. Đây là sự khác biệt cơ bản của ý thức con người với tâm lý
động vật.
* Kết cấu của ý thức
Ý thức là một hiện tượng tâm lý - xã hội có kết cấu rất phức tạp bao gồm
nhiều thành tố khác nhau có quan hệ với nhau. Tùy theo cách tiếp cận mà có nhiều
cách phân chia khác nhau.
Theo chiều ngang, ý thức bao gồm các yếu tố cấu thành như tri thức, tình
cảm, niềm tin, lý trí, ý chí, trong đó tri thức là yếu tố cơ bản, cốt lõi.
Tri thức là kết quả của quá trình nhận thức của con người về thế giới hiện
thực, làm tái hiện trong tư tưởng những thuộc tính, những quy luật của thế giới ấy
và diễn đạt chúng dưới hình thức ngôn ngữ hoặc các hệ thống ký hiệu khác. Tri
thức có nhiều cấp độ khác nhau như: tri thức thông thường; tri thức khoa học.
Ngày nay, vai trò động lực của tri thức đối với sự phát triển kinh tế - xã hội trở nên
rõ ràng, nổi bật.
Tình cảm là sự tác động của con người trong quan hệ của mình với thực tại
xung quanh và đối với bản thân mình. Tình cảm là một hình thái đặc biệt của sự
phản ánh thực tại; nó phản ánh quan hệ của con người đối với nhau, cũng như đối
với thế giới khách quan. Tình cảm tham gia vào mọi hoạt động của con người và
giữ một vị trí quan trọng trong việc điều chỉnh hoạt động của con người. Tình cảm
có thể mang tính chủ động, chứa đựng sắc thái cảm xúc tích cực, cũng như trở
thành thụ động, chứa đựng sắc thái cảm xúc tiêu cực. Tình cảm tích cực là một
trong những động lực nâng cao năng lực sống của con người. Tri thức kết hợp với
cảm xúc, tình cảm hình thành niềm tin, nâng cao ý chí tích cực biến thành hành
động thực tế, phát huy được sức mạnh của mình.
Theo chiều dọc, người ta chia thành các yếu tố như tự ý thức, tiềm thức, vô
thức.
Tự ý thức là một yếu tố quan trọng của ý thức, xuất hiện đồng thời với ý thức,
cũng có ý kiến cho rằng tự ý thức cũng chính là ý thức. Khi phản ánh thế giới
khách quan, con người đã tự tách mình, tự phân biệt mình, đối lập mình với thế
giới đó để tự nhận thức bản thân mình.v.v. con người ý thức về bản thân mình như
18
là một cá thể đang tồn tại, đang hoạt động và có tư duy, có các hành vi đạo đức và
có vị trí trong xã hội - đó là tự ý thức. Tự ý thức không phải chỉ là tự ý thức của cá
nhân mà còn là tự ý thức của cả một xã hội, của một giai cấp, của một tầng lớp xã
hội về vị trí của mình trong hệ thống quan hệ sản xuất xác định, về lý tưởng và lợi
ích của cá nhân, của giai cấp và của xã hội.
Những nhận thức của con người về cơ thể mình, về những trạng thái, sự vận
động và hoạt động của cơ thể đó giữ vai trò cơ bản trong việc hình thành tự ý thức.
Nhưng con người chỉ tự ý thức được bản thân mình thông qua quan hệ với những
người khác, trong quá trình thực tiễn. Chính trong sự giao tiếp và hoạt động thực
tiễn xã hội đòi hỏi con người phải tự ý thức về mình để hiểu rõ bản thân và tự điều
chỉnh mình hoạt động theo những quy tắc, những tiêu chuẩn mà xã hội đề ra.
Tự ý thức không chỉ được hình thành thông qua các mối quan hệ xã hội, mà
còn thông qua những giá trị của văn hoá vật chất và văn hoá tinh thần do chính con
người tạo ra.
Tiềm thức là những tri thức mà chủ thể đã có được từ trước nhưng đã gần như
trở thành bản năng, thành kỹ năng nằm trong tầng sâu của ý thức, là ý thức dưới
dạng tiềm tàng. Tiềm thức có thể chủ động gây ra các hoạt động tâm lý và nhận
thức mà chủ thể không cần kiểm soát chúng một cách trực tiếp. Tiềm thức có vai
trò quan trọng trong cả hoạt động tâm lý hàng ngày của con người và cả trong tư
duy khoa học.
Vô thức là một hiện tượng tâm lý liên quan đến những hoạt động xảy ra ở
ngoài phạm vi kiểm soát của ý thức hoặc chưa được con người ý thức đến. Con
người là một thực thể xã hội có ý thức, nhưng không phải mọi hành vi của con
người đều ý thức được. Có những hoạt động của con người không được ý thức chỉ
đạo: đó là những hành vi bản năng, vốn có và những động tác thành thạo được lặp
đi lặp lại nhiều lần và trở thành thói quen tự động xảy ra cả khi không có sự chỉ
đạo trực tiếp của ý thức. Đó là những hoạt động vô thức, chúng do vô thức điều
khiển.
Như vậy, vô thức là hiện tượng tâm lý điều khiển những hoạt động xảy ra ở
bên ngoài phạm vi của ý thức hoặc không có sự chỉ đạo trực tiếp của ý thức. Cho
19
nên việc tăng cường rèn luyện để biến những hành vi, hành động tích cực trở thành
thói quen diễn ra một cách tự động có vai trò rất quan trọng trong đời sống của con
người. Vấn đề vô thức đang là một vấn đề phức tạp đòi hỏi sự tập trung nghiên cứu
của các ngành khoa học. Trong khi chờ những kết quả nghiên cứu đó thì chúng ta
không thể coi vô thức là một hiện tượng tâm lý, thần bí, tách rời khỏi hiện thực
khách quan, đối lập vô thức với ý thức, biến vô thức thành yếu tố chủ đạo chi phối
hoạt động của con người như chủ nghĩa Phơrớt quan niệm, bởi vì, giữ vai trò chỉ
đạo mọi hoạt động của con người là ý thức chứ không phải là vô thức, vô thức chỉ
là vô thức của con người có ý thức mà thôi.
3. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
a. Vai trò của vật chất đối với ý thức
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định vật chất có trước, ý thức có sau, vật
chất là nguồn gốc của ý thức, quyết định ý thức vì ý thức là sản phẩm của mọi
dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc người nên chỉ khi có con người mới có ý
thức. Trong mối quan hệ giữa con người với thế giới vật chất thì con người là kết
quả của quá trình phát triển lâu dài của thế giới vật chất, là sản phẩm của thế giới
vật chất. Điều này được chứng minh bởi sự phát triển lâu dài của khoa học về giới
tự nhiên. Đây là một bằng chứng chứng minh quan điểm vật chất có trước, ý thức
có sau.
Các yếu tố cấu tạo thành nguồn gốc tự nhiên, nguồn gốc xã hội của ý thức
hoặc chính là bản thân thế giới vật chất hoặc những dạng tồn tại của vật chất đã
khẳng định vật chất là nguồn gốc của ý thức.
Ý thức là sự phản ánh của thế giới vật chất, là hình ảnh chủ quan của thế giới
vật chất nên nội dung của ý thức được quyết định bởi vật chất. Sự vận động và
phát triển của ý thức, hình thức biểu hiện của ý thức bị các quy luật sinh học, các
quy luật xã hội và sự tác động của môi trường sống quyết định. Những yếu tố này
thuộc lĩnh vực vật chất nên vật chất không chỉ quyết định nội dung mà còn quyết
định cả hình thức biểu hiện cũng như mọi sự biến đổi của ý thức.
b. Vai trò của ý thức đối với vật chất

20
Nói đến vai trò của ý thức là nói tới vai trò của con người. Bản thân ý thức tự
nó không trực tiếp thay đổi được gì trong hiện thực. Ý thức muốn tác động trở lại
đời sống hiện thực phải bằng lực lượng vật chất, nghĩa là phải được con người thực
hiện trong thực tiễn. Điều ấy có nghĩa là sự tác động của ý thức đối với vật chất
phải thông qua hoạt động của con người bắt đầu từ khâu nhận thức cho được quy
luật khách quan, biết vận dụng đúng đắn quy luật khách quan, phải có ý chí, có
phương pháp để tổ chức hành động. Vai trò của ý thức là trang bị cho con người
những tri thức về bản chất quy luật khách quan của đối tượng, trên cơ sở ấy, con
người xác định đúng đắn mục tiêu và đề ra phương hướng hoạt động phù hợp.
Ý thức, tư tưởng làm cho con người hoạt động đúng và thành công khi phản
ánh đúng đắn sâu sắc thế giới khách quan, vì đó là cơ sở quan trọng cho việc xác
định mục tiêu, phương hướng và biện pháp chính xác. Ngược lại, ý thức, tư tưởng
có thể làm cho con người hoạt động sai và thất bại khi con người phản ánh sai lệch
thế giới khách quan. Vì vậy, phải phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức,
phát huy vai trò nhân tố con người để tác động cải tạo thế giới khách quan; đồng
thời khắc phục bệnh bảo thủ trì trệ, thái độ tiêu cực, thụ động, ỷ lại.
4. Ý nghĩa phương pháp luận
Nếu như thế giới vật chất với những thuộc tính và quy luật của nó tồn tại
khách quan, không phụ thuộc vào ý thức của con người thì trong nhận thức và hoạt
động thực tiễn phải xuất phát từ thực tế khách quan, lấy thực tế khách quan làm
căn cứ cho hoạt động của mình. V.I.Lênin đã nhiều lần nhấn mạnh không được lấy
ý muốn chủ quan của mình làm chính sách, không được lấy tình cảm làm điểm
xuất phát cho chiến lược và sách lược cách mạng. Nếu chỉ xuất phát từ ý muốn chủ
quan, nếu lấy ý chí áp đặt cho thực tế, lấy ảo tưởng thay cho hiện thực thì sẽ mắc
phải bệnh duy ý chí.
Phát huy tính năng động chủ quan tức là phát huy vai trò tích cực của ý thức,
vai trò tích cực của nhân tố con người. Bản thân ý thức không trực tiếp thay đổi
được gì trong hiện thực. Ý thức muốn tác động trở lại đời sống hiện thực phải bằng
lực lượng vật chất, nghĩa là phải được con người thực hiện bằng lực lượng vật chất,
nghĩa là phải được con người thực hiện trong thực tiễn. Phát huy tính năng động
21
chủ quan tức là phát huy vai trò tích cực sáng tạo của ý thức và phát huy vai trò
nhân tố con người trong việc vật chất hóa tính tích cực, năng động, sáng tạo ấy.
Điều này đòi hỏi con người phải tôn trọng tri thức khoa học; tích cực học tập
nghiên cứu để làm chủ tri thức khoa học và truyền bá vào quần chúng để nó trở
thành tri thức, niềm tin của quần chúng, hướng dẫn quần chúng hành động.
Thực hiện nguyên tắc tôn trọng khách quan, phát huy tính năng động chủ
quan trong nhận thức và thực tiễn đòi hỏi phải chống lại bệnh chủ quan duy ý chí;
đó là những hành động lấy ý chí áp đặt cho thực tế, lấy ảo tưởng thay cho hiện
thực, lấy ý muốn chủ quan làm chính sách, lấy tình cảm làm xuất phát điểm cho
chiến lược, sách lược. Mặt khác, cũng cần chống lại chủ nghĩa kinh nghiệm, xem
thường tri thức khoa học, xem thường lý luận, bảo thủ, trì trệ trong nhận thức và
hoạt động thực tiễn.

PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT

I. PHÉP BIỆN CHỨNG VÀ PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT


1. Phép biện chứng và các hình thức cơ bản của phép biện chứng
a. Khái niệm biện chứng, phép biện chứng
Thuật ngữ “biện chứng” xuất hiện từ thời cổ đại. Trong triết học Hy Lạp lúc
bấy giờ, thuật ngữ này được hiểu là nghệ thuật tranh luận, đàm thoại, thông qua sự
tranh luận mà người ta tìm ra chân lý. Do đó, thuật ngữ “biện chứng” được coi là
nghệ thuật phát hiện và tìm ra chân lý. Về sau, thuật ngữ “biện chứng” bao quát
một phạm vi rộng lớn hơn và được sử dụng để chỉ một phương pháp nhìn nhận,
xem xét thế giới - phương pháp biện chứng.
Ngày nay, khái niệm biện chứng dùng để chỉ những mối liên hệ, tương tác,
chuyển hóa và vận động, phát triển theo quy luật của các sự vật, hiện tượng, quá
trình trong tự nhiên, xã hội và tư duy.
Biện chứng bao gồm biện chứng khách quan và biện chứng chủ quan. Biện
chứng khách quan là phạm trù triết học chỉ biện chứng của bản thân các sự vật,
hiện tượng, quá trình tồn tại ở bên ngoài ý thức của con người. Còn biện chứng chủ

22
quan là phạm trù triết học chỉ tư duy biện chứng và quá trình phản ánh cái biện
chứng khách quan ý thức của con người.
Theo Ph.Ăngghen: “Biện chứng gọi là khách quan thì chi phối trong toàn bộ
giới tự nhiên, còn biện chứng gọi là chủ quan, tức là tư duy biện chứng, thì chỉ là
phản ánh sự chi phối, trong toàn bộ giới tự nhiên, của sự vận động thông qua
những mặt đối lập, tức là những mặt, thông qua sự đấu tranh thường xuyên của
chúng và sự chuyển hóa cuối cùng của chúng từ mặt đối lập này thành mặt đối lập
kia”5.
Phép biện chứng là khoa học về những quy luật phổ biến của sự vận động và
sự phát triển của tự nhiên, của xã hội loài người và của tư duy. Như vậy, phép biện
chứng là học thuyết nghiên cứu, khái quát biện chứng của thế giới thành hệ thống
các nguyên lý, quy luật khoa học nhằm xây dựng hệ thống các nguyên tắc phương
pháp luận của nhận thức và thực tiễn. Với nghĩa như vậy, phép biện chứng thuộc
về biện chứng chủ quan, đồng thời nó cũng đối lập với phép siêu hình phương
pháp tư duy về sự vật, hiện tượng của thế giới trong trạng thái cô lập và bất biến.
b. Các hình thức cơ bản của phép biện chứng
Cho đến nay có nhiều quan niệm khác nhau về những hình thức tồn tại của
phép biện chứng. Dựa vào ý kiến của Ph.Ăngghen trong tác phẩm Biện chứng của
tự nhiên, chúng ta có thể khái quát những hình thức cơ bản của phép biện chứng,
đó là phép biện chứng chất phác thời cổ đại, phép biện chứng duy tâm cổ điển Đức
và phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác-Lênin.
Hình thức thứ nhất của phép biện chứng là phép biện chứng chất phác thời cổ
đại, tư duy biện chứng xuất hiện với tính chất thuần phác tự nhiên của thế giới.
Phép biện chứng chất phác thể hiện rõ rệt trong triết học Trung Hoa cổ đại:
“Thuyết Âm - dương”, “Thuyết Ngũ hành”, triết lý của Lão Tử đã đề cập nhiều tới
sự tương tác của các mặt đối lập. Sự giao hòa của âm dương, sự kết hợp giữa
chúng theo các phương thức khác nhau đã tạo nên những sự tiến hóa trong vũ trụ.
Mối quan hệ “tương sinh”, “tương khắc” giữa các yếu tố kim, mộc, thủy, hỏa, thổ

5
C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004, t.20,
tr.694.
23
đã tạo nên những sự biến đổi có tính tuần hoàn vĩnh viễn trong thế giới khách
quan. Tư tưởng biện chứng cũng là một trong các nội dung nổi bật trong hệ thống
triết học của các nhà triết học Hy Lạp cổ đại. Tư tưởng biện chứng của Hêraclít,
Xôcrát, Platôn, Aritxtốt là những tư tưởng nổi bật. Tư tưởng biện chứng trong triết
học Ấn Độ thể hiện trước hết ở việc thừa nhận quan hệ nhân quả như một quy luật
của thế giới khách quan. Luật nhân quả chi phối toàn bộ vũ trụ và đặc biệt chi phối
toàn bộ đời sống của con người. Phật thích ca cho rằng, dù ở trong núi thẳm hang
sâu hay giữa đại dương mênh mông, không nơi nào con người có thể tránh được
luật nhân quả. Song, phép biện chứng này thiếu những căn cứ khoa học, vì vậy nó
đã bị phép siêu hình, xuất hiện từ nửa cuối thế kỷ XV thay thế.
Hình thức thứ hai của phép biện chứng là phép biện chứng duy tâm cổ điển
Đức. Gọi là phép biện chứng duy tâm, vì nó chỉ nói đến sự vận động, phát triển của
các khái niệm, ý niệm tuyệt đối, được đồng nhất với bản thân các sự vật, hiện
tượng. Phép biện chứng duy tâm xuất hiện trong triết học Cantơ và hoàn thiện
trong triết học của Hêghen - một đại biểu xuất sắc của triết học cổ điển Đức ở cuối
thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX. “Công lao lớn nhất của Cantơ là chỗ, ông đã nêu lên
hai giả thuyết thiên tài, mà nếu không có hai giả thuyết này thì lý luận của khoa
học tự nhiên ngày nay không thể tiến lên được - thuyết về nguồn gốc của hệ thống
mặt trời và thuyết thủy triều làm giảm tốc độ quay của quả đất, từ ngày đó các nhà
khoa học tự nhiên lại hoan nghênh Cantơ”6. Với một hệ thống khái niệm, phạm trù
và quy luật cơ bản, Hêghen đã là người đầu tiên xây dựng hoàn chỉnh phép biện
chứng duy tâm. Tính chất duy tâm trong phép biện chứng của Hêghen thể hiện ở
chỗ: Ông coi “ý niệm tuyệt đối” có trước và trong quá trình vận động phát triển, “ý
niệm tuyệt đối” tha hóa thành giới tự nhiên và xã hội, cuối cùng lại trở về với
chính mình trong tinh thần. Thực chất phép biện chứng duy tâm khách quan của
Hêghen là biện chứng của ý niệm sản sinh ra biện chứng của sự vật.
Hình thức thứ ba của phép biện chứng duy vật do C.Mác và Ph.Ăngghen sáng
lập. Kế thừa có chọn lọc những thành tựu của các nhà triết học trước đó, dựa trên

6
C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004, t.20,
tr.466 - 492.
24
cơ sở khái quát những thành tựu mới nhất của khoa học thời ấy và thực tiễn lịch sử
loài người cũng như thực tiễn xã hội vào giữa thế kỷ XIX. C.Mác và Ph.Ăngghen
đã sáng lập chủ nghĩa duy vật biện chứng và phép biện chứng duy vật, về sau được
V.I.Lênin phát triển. Công lao của C.Mác đối với sự phát triển của phép biện
chứng chính là ở chỗ, “ông là người đầu tiên đã phục hồi lại phương pháp biện
chứng đã bị bỏ quên, nêu rõ những mối quan hệ và sự khác nhau của phương pháp
đó với phép biện chứng của Hêghen, và đồng thời, trong bộ Tư bản, ông đã áp
dụng phương pháp đó vào những sự kiện của một khoa học thực nghiệm xác định,
khoa kinh tế chính trị”7.
Thế giới quan duy vật biện chứng và phương pháp luận biện chứng duy vật
thống nhất hữu cơ với nhau trong phép biện chứng ấy. Chính vì vậy nó đã khắc
phục được những hạn chế của phép biện chứng chất phác thời cổ đại và những
thiếu sót của phép biện chứng duy tâm khách quan thời cận đại. Nó đã khái quát
đúng đắn những quy luật cơ bản chung nhất của sự vận động và phát triển của thế
giới. Phép biện chứng duy vật trở thành một khoa học.
Phép biện chứng duy vật được xây dựng trên cơ sở một hệ thống những
nguyên lý, những phạm trù cơ bản, những quy luật phổ biến phản ánh đúng đắn
hiện thực. Trong hệ thống đó nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự
phát triển là hai nguyên lý khái quát nhất.

2. Phép biện chứng duy vật


a. Khái niệm phép biện chứng duy vật
Phép biện chứng duy vật đã xuất hiện với tư cách là một bộ phận cấu thành
của triết học Mác. Phép biện chứng duy vật ra đời như một tất yếu lịch sử trong
quá trình phát triển của tư duy con người trên nền tảng phát triển kinh tế - xã hội.
Định nghĩa khái quát về phép biện chứng duy vật, Ph.Ăngghen cho rằng:
“Phép biện chứng chẳng qua chỉ là môn khoa học về những quy luật phổ biến của
sự vận động và sự phát triển của tự nhiên, của xã hội loài người và của tư duy” 8.

7
Sđd, tr.493 - 494.
8
Sđd, tr.201.
25
Khi nhấn mạnh vai trò của nguyên lý về mối liên hệ phổ biến, Ph.Ăngghen đã định
nghĩa: “Phép biện chứng là khoa học về sự liên hệ phổ biến” 9; còn khi nhấn mạnh
về vai trò của nguyên lý về sự phát triển (trong đó có bao hàm học thuyết về sự
phát triển của nhận thức) trong phép biện chứng mà C.Mác đã kế thừa từ triết học
của Hêghen,V.I.Lênin đã khẳng định: “Trong số những thành quả đó thì thành quả
chủ yếu là phép biện chứng, tức là học thuyết về sự phát triển, dưới hình thức hoàn
bị nhất, sâu sắc nhất và không phiến diện, học thuyết về tính tương đối của nhận
thức của con người, nhận thức này phản ánh vật chất luôn luôn phát triển không
ngừng”10.
Tư tưởng biện chứng của C.Mác và Ph.Ăngghen đã được V.I.Lênin phát triển
làm cho nó ngày càng trở nên hoàn thiện như một lý luận khoa học phản ánh chân
thực hiện thực khách quan có vai trò hết sức to lớn đối với việc hình thành phương
pháp luận chung nhất để nhận thức và cải tạo thế giới.
b. Những đặc trưng cơ bản và vai trò của phép biện chứng duy vật
Phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin có hai đặc trưng cơ bản
sau đây:
Một là, phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin là phép biện
chứng được xác lập trên nền tảng của thế giới quan duy vật khoa học. Đây là sự
khác biệt về trình độ phát triển so với các tư tưởng biện chứng đã từng có trong
lịch sử triết học. Thể hiện ở chỗ, phép biện chứng duy vật chẳng những có sự khác
biệt căn bản với phép biện chứng duy tâm cổ điển Đức, đặc biệt là với phép biện
chứng của Hêghen là phép biện chứng được xác lập trên nền tảng thế giới quan
duy tâm mà còn có sự khác biệt về trình độ phát triển so với nhiều tư tưởng biện
chứng đã từng có trong lịch sử triết học từ thời cổ đại (là phép biện chứng về căn
bản được xây dựng trên lập trường của chủ nghĩa duy vật nhưng đó là chủ nghĩa
duy vật còn ở trình độ trực quan, ngây thơ và chất phác).
Hai là, trong phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin có sự thống
nhất giữa nội dung thế giới quan (duy vật biện chứng) và phương pháp luận (biện

9
Sđd, tr.445.
10
V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva,1980, t.23, tr.53.
26
chứng duy vật), do đó nó không dừng lại ở sự giải thích thế giới mà còn là công cụ
để nhận thức thế giới và cải tạo thế giới. Mỗi nguyên lý, quy luật trong phép biện
chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin không chỉ là sự giải thích đúng đắn về
tính biện chứng của thế giới mà còn là phương pháp luận khoa học của việc nhận
thức và cải tạo thế giới. Trên cơ sở khái quát các mối liên hệ phổ biến và sự phát
triển, những quy luật phổ biến của các quá trình vận động, phát triển của tất thảy
mọi sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy, phép biện chứng duy vật
của chủ nghĩa Mác - Lênin cung cấp những nguyên tắc phương pháp luận chung
nhất cho quá trình nhận thức thế giới và cải tạo thế giới, đó không chỉ là nguyên
tắc phương pháp luận khách quan mà còn là phương pháp luận toàn diện, phát
triển, lịch sử - cụ thể, phương pháp luận phân tích mâu thuẫn nhằm tìm ra nguồn
gốc, động lực cơ bản của các quá trình vận động, phát triển. Với tư cách đó, phép
biện chứng duy vật chính là công cụ khoa học vĩ đại để giai cấp cách mạng nhận
thức và cải tạo thế giới.
Với những đặc trưng cơ bản đó mà phép biện chứng duy vật giữ vai trò là một
nội dung đặc biệt quan trọng trong thế giới quan và phương pháp luận triết học của
chủ nghĩa Mác - Lênin, tạo nên tính khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác -
Lênin, đồng thời nó cũng là thế giới quan và phương pháp luận chung nhất của
hoạt động sáng tạo trong các lĩnh vực nghiên cứu khoa học.
II. HAI NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
1. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
a. Khái niệm mối liên hệ, mối liên hệ phổ biến
Các sự vật, các hiện tượng và các quá trình khác nhau của thế giới có mối liên
hệ qua lại, tác động, ảnh hưởng lẫn nhau hay chúng tồn tại biệt lập, tách rời nhau?
Nếu chúng có mối liên hệ qua lại thì cái gì quy định mối liên hệ qua lại đó?
Những người theo quan điểm siêu hình cho rằng các sự vật, hiện tượng tồn tại
biệt lập, tách rời nhau, cái này tồn tại bên cạnh cái kia. Chúng không có sự phụ
thuộc, không có sự ràng buộc và quy định lẫn nhau. Nếu giữa chúng có sự quy
định lẫn nhau thì cũng chỉ là những quy định bề ngoài, mang tính ngẫu nhiên.
Trong số những người theo quan điểm siêu hình cũng có một số người cho rằng,
27
các sự vật, hiện tượng có mối liên hệ với nhau và mối liên hệ rất đa dạng, phong
phú, song các hình thức liên hệ khác nhau không có khả năng chuyển hóa cho
nhau.
Ngược lại, những người theo quan điểm biện chứng coi thế giới như một
chỉnh thể thống nhất. Các sự vật, hiện tượng, các quá trình khác nhau vừa tồn tại
độc lập, vừa quy định, tác động qua lại, chuyển hóa lẫn nhau.
Mối liên hệ theo quan điểm biện chứng là sự phụ thuộc, ràng buộc, quy định
lẫn nhau và tác động qua lại với nhau của các sự vật, hiện tượng, hoặc giữa các mặt
trong cùng một sự vật, hiện tượng. Đây là sự liên hệ đặc biệt, trong đó, các sự vật,
hiện tượng là đối tượng biến đổi của nhau một cách trực tiếp, hoặc gián tiếp, nhờ
đó mà sự vận động, biến đổi của thế giới được thực hiện thường xuyên và liên tục.
Ví dụ, sự quy định, tác động và ảnh hưởng lẫn nhau giữa cơ thể sống và môi
trường.
Mối liên hệ phổ biến là khái niệm dùng để chỉ mọi sự vật, hiện tượng trong
thế giới (cả tự nhiên, xã hội và tư duy) dù đa dạng, phong phú, nhưng đều nằm
trong mối liên hệ với các sự vật, hiện tượng khác; đều chịu sự chi phối, tác động
ảnh hưởng của các sự vật, hiện tượng khác. Trong đó những mối liên hệ phổ biến
nhất là những mối liên hệ tồn tại ở mọi sự vật hiện tượng của thế giới, nó thuộc đối
tượng nghiên cứu của phép biện chứng. Đó là các mối liên hệ giữa các mặt đối lập,
lượng và chất, khẳng định và phủ định, cái chung và cái riêng, bản chất và hiện
tượng,...
Nếu như những người theo chủ nghĩa duy tâm khách quan và chủ nghĩa duy
tâm chủ quan đi tìm cơ sở của mối liên hệ, sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật,
hiện tượng là một lực lượng siêu tự nhiên (như trời) hay ở ý thức, cảm giác của con
người. Đứng trên quan điểm duy tâm chủ quan, Béccơli cho rằng cảm giác là nền
tảng của mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng. Hêghen, xuất phát từ lập trường
duy tâm khách quan lại vạch ra rằng “ý niệm tuyệt đối” là nền tảng của mối liên hệ
giữa các sự vật, hiện tượng thì ngược lại những người theo quan điểm duy vật biện
chứng khẳng định tính thống nhất vật chất của thế giới là cơ sở của mối liên hệ
giữa các sự vật, hiện tượng. Các sự vật, hiện tượng tạo thành thế giới, dù có đa
28
dạng, phong phú, có khác nhau bao nhiêu, song chúng đều chỉ là những dạng khác
nhau của một thế giới duy nhất - thế giới vật chất. Ngay cả tư tưởng, ý thức của
con người vốn là những cái phi vật chất, cũng chỉ là thuộc tính của một dạng vật
chất có tổ chức cao là bộ óc con người, nội dung của chúng cũng chỉ là kết quả
phản ánh của các quá trình vật chất khách quan. Nhờ có tính thống nhất đó, chúng
không thể tồn tại biệt lập, tách rời nhau, mà tồn tại trong sự tác động qua lại,
chuyển hóa lẫn nhau theo những quan hệ xác định.
Các sự vật hiện tượng trong thế giới chỉ biểu hiện sự tồn tại của mình thông
qua sự vận động, sự tác động qua lại lẫn nhau. Bản chất, tính quy luật của sự vật,
hiện tượng cũng chỉ bộc lộ thông qua sự tác động qua lại giữa các mặt của bản thân
chúng hay sự tác động của chúng với sự vật hiện tượng khác. Chúng ta chỉ có thể
đánh giá sự tồn tại cũng như bản chất của một con người cụ thể thông qua mối liên
hệ, sự tác động của con người đó đối với người khác, đối với xã hội, tự nhiên,
thông qua hoạt động của chính người ấy. Ngay tri thức của con người cũng chỉ có
giá trị khi chúng được con người vận dụng vào hoạt động cải biến tự nhiên, cải
biến xã hội và cải biến chính con người.
b. Các tính chất của mối liên hệ
Mối liên hệ mang tính khách quan: tất cả các sự vật, hiện tượng trong thế giới
đều là những dạng cụ thể của vật chất, chúng tồn tại một cách khách quan, ở bên
ngoài và độc lập với ý thức của con người. Vì vậy, mối liên hệ của chúng cũng tồn
tại khách quan. Ngay cả những vật vô tri, vô giác cũng đang hàng ngày, hàng giờ
chịu sự tác động của các sự vật, hiện tượng khác (như ánh sáng, nhiệt độ, độ ẩm,
áp suất, không khí,... đôi khi cũng chịu sự tác động của con người). Con người -
một sinh vật phát triển cao nhất trong tự nhiên, dù muốn hay không, cũng luôn
luôn bị tác động bởi các sự vật, hiện tượng khác và các yếu tố ngay trong chính
bản thân con người. Chính con người và chỉ có con người mới tiếp nhận vô vàn
mối quan hệ, mối liên hệ chằng chịt. Vấn đề là con người phải hiểu biết các mối
liên hệ, vận dụng chúng vào hoạt động của mình giải quyết các mối liên hệ phù
hợp nhằm phục vụ nhu cầu, lợi ích của xã hội và bản thân con người.

29
Mối liên hệ mang tính phổ biến: tính phổ biến của mối liên hệ thể hiện một
cách sinh động trong hiện thực.
Thứ nhất, không những các sự vật, hiện tượng nào cũng liên hệ với nhau, mà
các mặt, yếu tố, bộ phận, cấu thành sự vật, hiện tượng cũng liên hệ gắn bó với
nhau. Không có sự vật, hiện tượng nào nằm ngoài mối liên hệ. Trong thời đại ngày
nay không một quốc gia nào không có quan hệ, không có liên hệ với các quốc gia
khác về mọi mặt của đời sống xã hội. Chính vì thế hiện nay trên thế giới đã và
đang xuất hiện xu hướng toàn cầu hóa, khu vực hóa mọi mặt đời sống xã hội.
Nhiều vấn đề đã và đang trở thành vấn đề toàn cầu như: đói nghèo, bệnh hiểm
nghèo, môi trường sinh thái, dân số và kế hoạch hóa gia đình, chiến tranh và hòa
bình.
Thứ hai, mối liên hệ bao quát và biểu hiện ở mọi lĩnh vực của thế giới tự
nhiên, xã hội và tư duy. Trong giới tự nhiên, các loài thực vật, động vật luôn liên
hệ gắn bó với nhau và liên hệ với môi trường. Trong xã hội, có muôn vàn các mối
liên hệ, trước hết là mối liên hệ giữa con người với tự nhiên và mối liên hệ giữa
con người với con người trong quá trình sản xuất. Trong tư duy, có mối liên hệ thể
hiện sự phản ánh thế giới khách quan vào đầu óc người. Có thể nói, trong thế giới
không có và không thể có bất kỳ một sự vật, hiện tượng nào tồn tại một cách hoàn
toàn riêng rẽ và biệt lập cả. Mối liên hệ thường được thể hiện dưới những hình
thức cụ thể, riêng biệt. Song, dù được thể hiện dưới bất cứ hình thức cụ thể, riêng
biệt nào thì chúng cũng chỉ là sự thể hiện sinh động của mối liên hệ phổ biến.
Mối liên hệ mang tính đa dạng, phong phú: mối liên hệ của các sự vật, hiện
tượng trong thế giới còn cho thấy rõ tính đa dạng, nhiều vẻ của nó.
Dựa vào tính đa dạng đó có thể phân chia ra các mối liên hệ khác nhau theo
từng cặp: mối liên hệ bên trong và mối liên hệ bên ngoài, mối liên hệ chủ yếu và
mối liên hệ thứ yếu, mối liên hệ bản chất và mối liên hệ không bản chất, mối liên
hệ tất nhiên và mối liên hệ ngẫu nhiên, mối liên hệ chung bao quát toàn bộ thế giới
và mối liên hệ riêng bao quát một lĩnh vực hoặc một số lĩnh vực của thế giới, mối
liên hệ trực tiếp và mối liên hệ gián tiếp, trong đó sự tác động qua lại phải thông
qua trung gian mới thực hiện được, mối liên hệ giữa các sự vật và mối liên hệ giữa
30
các mặt hay giữa các giai đoạn phát triển của một sự vật để tạo thành lịch sử phát
triển của sự vật. Chính tính đa dạng trong quá trình tồn tại, vận động và phát triển
của bản thân sự vật và hiện tượng quy định tính đa dạng của mối liên hệ. Vì vậy,
trong một sự vật có thể bao gồm rất nhiều loại mối liên hệ, chứ không phải chỉ có
một cặp mối liên hệ xác định. Chẳng hạn, mỗi cá nhân trong một tập thể nhất định
vừa có mối liên hệ bên trong, vừa có mối liên hệ bên ngoài, vừa có mối liên hệ bản
chất, vừa có mối liên hệ không bản chất, vừa có mối liên hệ trực tiếp, vừa có mối
liên hệ gián tiếp.
Mỗi loại mối liên hệ nêu ra trên đây có vai trò khác nhau đối với sự vận động
và phát triển của sự vật. Chẳng hạn, sự vật, hiện tượng nào cũng có mối liên hệ bên
trong và mối liên hệ bên ngoài nhưng vai trò của chúng đối với sự vận động và
phát triển của sự vật, hiện tượng là khác nhau. Mối liên hệ bên trong là sự tác động
qua lại, sự quy định, sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các yếu tố, các thuộc tính, các
mặt của một sự vật. Mối liên hệ này giữ vai trò quyết định đối với sự tồn tại, sự
vận động và sự phát triển của sự vật. Nó thường phải thông qua mối liên hệ bên
trong mới có thể tác động đối với sự tồn tại, sự vận động và sự phát triển của sự
vật. Nói cách khác, mối liên hệ bên ngoài cũng giữ vai trò hết sức quan trọng và
trong những điều kiện nhất định có thể giữ vai trò quyết định.
Các cặp mối liên hệ khác cũng có quan hệ biện chứng giống như mối quan hệ
biện chứng của các cặp mối liên hệ đã nêu trên. Đương nhiên, mỗi cặp mối liên hệ
có những đặc trưng riêng. Trong các cặp mối quan hệ đó, nói chung, mối liên hệ
bản chất, mối liên hệ tất nhiên, mối liên hệ chủ yếu,… giữ vai trò quyết định.
Song, tùy theo những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể các liên hệ tương ứng với chúng
có thể giữ vai trò quyết định. Nói cách khác, vai trò quyết định của các mối liên hệ
trong từng cặp một phụ thuộc vào quan hệ hiện thực xác định.
Sự phân chia từng cặp mối liên hệ chỉ mang tính tương đối, vì mỗi loại mối
liên hệ chỉ là một hình thức, một bộ phận, một mắt xích của mối liên hệ phổ biến.
Mỗi loại mối liên hệ trong từng cặp có thể chuyển hóa lẫn nhau tùy theo phạm vi
bao quát của mối liên hệ hoặc do kết quả vận động và phát triển của chính các sự
vật. Nếu xem xét các doanh nghiệp tồn tại với tư cách là các đơn vị độc lập thì mối
31
liên hệ giữa chúng là mối liên hệ bên ngoài. Trong quá trình vận động và phát triển
của mình các doanh nghiệp kết hợp với nhau thành công ty, thành tổng công ty thì
mối liên hệ giữa các doanh nghiệp lại trở thành mối liên hệ bên trong.
Như vậy, sự liên hệ tác động qua lại của sự vật, hiện tượng trên thế giới
không những là vô cùng, vô tận mà còn rất phong phú, đa dạng và phức tạp. Đặc
biệt trong lĩnh vực đời sống xã hội, tính phức tạp của sự liên hệ được nhân lên do
sự đan xen, chồng chéo, chằng chịt của vô vàn các hoạt động có mục đích, có ý
thức của con người. Chính vì vậy, con người phải nắm bắt đúng các mối liên hệ đó
để có cách tác động phù hợp nhằm đưa lại hiệu quả cao nhất trong hoạt động của
mình.
c. Ý nghĩa phương pháp luận
Nghiên cứu nguyên lý về mối liên hệ phổ biến có thể rút ra ý nghĩa về phương
pháp luận sau:
Vì các mối liên hệ là sự tác động qua lại, chuyển hóa, quy định lẫn nhau giữa
các sự vật, hiện tượng và các mối liên hệ mang tính khách quan, mang tính phổ
biến nên trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn con người phải tôn
trọng quan điểm toàn diện, phải tránh cách xem xét phiến diện.
Quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta nhận thức về sự vật trong mối liên hệ
qua lại giữa các bộ phận, giữa các yếu tố, giữa các mặt của chính sự vật và trong sự
tác động qua lại giữa sự vật đó với các sự vật khác, kể cả mối liên hệ trực tiếp và
mối liên hệ gián tiếp. Chỉ trên cơ sở đó mới có thể nhận thức đúng về sự vật. Về
vấn đề này, V.I.Lênin có viết như sau: “Muốn thực sự hiểu được sự vật, cần phải
nhìn bao quát và nghiên cứu tất cả các mặt, tất cả các mối liên hệ và “quan hệ gián
tiếp” của sự vật đó”11.
Đồng thời, quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta phải biết phân biệt từng mối
liên hệ, phải biết chú ý tới mối liên hệ bên trong, mối liên hệ bản chất, mối liên hệ
chủ yếu, mối liên hệ tất nhiên và lưu ý đến sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các mối
liên hệ, để hiểu rõ bản chất của sự vật và có phương pháp tác động phù hợp nhằm
đem lại hiệu quả cao nhất trong hoạt động của bản thân.
11
V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1977, t.42, tr.364.
32
Trong hoạt động thực tế, theo quan điểm toàn diện, khi tác động vào sự vật,
chúng ta không những phải chú ý tới những mối liên hệ nội tại của nó mà còn phải
chú ý tới những mối liên hệ của sự vật ấy với các sự vật khác. Vì các mối liên hệ
có tính đa dạng, phong phú - sự vật, hiện tượng khác nhau, không gian, thời gian
khác nhau nên trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn con người phải
tôn trọng quan điểm lịch sử - cụ thể.
Quan điểm lịch sử - cụ thể đòi hỏi chúng ta khi nhận thức về sự vật và tác
động vào sự vật phải chú ý điều kiện, hoàn cảnh lịch sử - cụ thể, môi trường cụ thể
trong đó sự vật sinh ra, tồn tại và phát triển. Thực tế cho thấy rằng, một luận điểm
nào đó là luận điểm khoa học trong điều kiện này, nhưng sẽ không là luận điểm
khoa học trong điều kiện khác. Vì vậy, để xác định đúng đường lối, chủ trương của
từng giai đoạn cách mạng, của từng thời kỳ xây dựng đất nước, bao giờ Đảng
Cộng sản Việt Nam cũng phân tích tình hình cụ thể của đất nước ta cũng như bối
cảnh lịch sử quốc tế diễn ra trong từng giai đoạn và từng thời kỳ đó và trong khi
thực hiện đường lối, chủ trương, Đảng ta cũng bổ sung và điều chỉnh cho phù hợp
với diễn biến của hoàn cảnh cụ thể.
2. Nguyên lý về sự phát triển.
a. Khái niệm phát triển
Trong lịch sử triết học đã tồn tại các quan điểm khác nhau, thậm chí đối lập
nhau về sự phát triển. Quan điểm siêu hình xem xét sự phát triển chỉ là sự tăng lên
hay sự giảm đi đơn thuần về mặt lượng, không có sự thay đổi gì về mặt chất của sự
vật. Những người theo quan điểm siêu hình coi tất cả chất của sự vật không có sự
thay đổi gì trong quá trình tồn tại của chúng. Sự vật ra đời với những chất như thế
nào thì toàn bộ quá trình tồn tại của nó vẫn được giữ nguyên hoặc nếu có sự thay
đổi nhất định về chất thì sự thay đổi ấy cũng chỉ diễn ra theo một vòng tròn khép
kín. Họ cũng coi sự phát triển chỉ là sự thay đổi về mặt lượng của từng loại mà sự
vật đang có, chứ không có sự sinh thành ra cái mới với những chất mới. Những
người theo quan điểm siêu hình xem sự phát triển như là một quá trình tiến lên liên
tục, không có những bước quanh co, thăng trầm, phức tạp.

33
Đối lập với quan điểm siêu hình, quan điểm biện chứng cho rằng phát triển là
một phạm trù triết học chỉ quá trình vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản
đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn của các sự vật, hiện tượng
trong thế giới. Như vậy, phạm trù “vận động” và phạm trù “phát triển” là không
đồng nhất. Vận động là mọi sự biến đổi nói chung và theo chiều hướng khác nhau
(có sự vận động đi lên, vận động đi xuống, vận động trong thăng bằng, vận động
dẫn đến sự thoái hóa, tan rã). Còn phát triển chỉ là một dạng đặc biệt của vận động.
Trong đó, cái mới ra đời làm cho sự vật đi từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức
tạp, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện. Ví dụ, sự phát triển của lực lượng sản xuất,
của khoa học công nghệ, của các giống loài sinh vật, đều là những quá trình như
vậy.
Theo quan điểm biện chứng, xem xét sự phát triển là một quá trình tiến lên
từ thấp đến cao. Quá trình đó diễn ra vừa dần dần, vừa nhảy vọt, đưa tới sự ra đời
của cái mới thay thế cái cũ. Dù trong hiện thực khách quan hay trong tư duy, sự
phát triển diễn ra không phải lúc nào cũng theo đường thẳng, mà rất quanh co,
phức tạp, thậm chí có thể có những bước lùi tạm thời. V.I.Lênin chỉ rõ: “Sự phát
triển hình như diễn lại những giai đoạn đã qua, nhưng dưới một hình thức khác, ở
một trình độ cao hơn (phủ định của phủ định); sự phát triển có thể nói là theo
đường trôn ốc chứ không theo đường thẳng”12.
Như vậy, sự phát triển là kết quả của quá trình thay đổi dần dần về lượng dẫn
đến sự thay đổi về chất, là quá trình diễn ra theo đường xoáy ốc. Điều đó có nghĩa
là quá trình phát triển, dường như sự vật ấy quay trở về điểm khởi đầu, song trên
cơ sở mới cao hơn. Phát triển là khuynh hướng chung tất yếu của mọi sự vật, hiện
tượng trong thế giới.
Quan điểm duy vật biện chứng đối lập với quan điểm duy tâm và tôn giáo về
nguồn gốc của sự phát triển. Quan điểm duy vật biện chứng khẳng định nguồn gốc
của sự phát triển nằm trong bản thân sự vật. Đó là do mâu thuẫn trong chính sự vật
quy định. Nói cách khác đó là quá trình liên tục giải quyết mâu thuẫn trong bản
thân sự vật, do đó, cũng là quá trình tự thân của mọi sự vật. Trái lại, những người
12
V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1981, t.26, tr.65.
34
theo quan điểm duy tâm hay quan điểm tôn giáo lại thường tìm nguồn gốc của sự
phát triển ở thần linh, thượng đế, ở các lực lượng siêu nhiên hay ở ý thức của con
người.
b. Tính chất của sự phát triển
Sự phát triển bao giờ cũng mang tính khách quan. Bởi vì, như trên đã phân
tích theo quan điểm duy vật biện chứng, nguồn gốc của sự phát triển nằm ngay
trong bản thân sự vật. Đó là quá trình giải quyết liên tục những mâu thuẫn nảy sinh
trong sự tồn tại và vận động của sự vật, nhờ đó sự vật luôn luôn phát triển. Vì thế
sự phát triển là tiến trình khách quan, không phụ thuộc vào ý muốn, nguyện vọng,
ý chí, ý thức của con người. Dù con người có muốn hay không muốn, sự vật vẫn
luôn phát triển theo khuynh hướng chung của thế giới vật chất.
Sự phát triển mang tính phổ biến. Tính phổ biến của sự phát triển được hiểu là
nó diễn ra ở mọi lĩnh vực: tự nhiên, xã hội và tư duy; ở bất cứ sự vật, hiện tượng
nào của thế giới khách quan. Sự phát triển thể hiện rất khác nhau trong hiện thực,
tùy theo hình thức tồn tại cụ thể của các dạng vật chất. Sự phát triển ở giới vô cơ
biểu hiện dưới dạng biến đổi các yếu tố và hệ thống vật chất, sự tác động qua lại
giữa chúng và trong những điều kiện nhất định sẽ làm nảy sinh các hợp chất phức
tạp. Từ đó cũng làm xuất hiện các hợp chất hữu cơ ban đầu - tiền đề của sự sống.
Trong giới hữu cơ, sự phát triển thể hiện ở khả năng thích nghi của sinh vật với sự
biến đổi phức tạp của môi trường, ở sự hoàn thiện thường xuyên quá trình trao đổi
chất giữa cơ thể và môi trường, ở khả năng tự sản sinh ra chính mình với trình độ
ngày càng cao hơn và từ đó làm xuất hiện ngày càng nhiều các giống loài mới phù
hợp với môi trường sống. Sự phát triển của xã hội biểu hiện ở năng lực chinh phục
tự nhiên và cải biến xã hội cũng như bản thân con người. Sự phát triển của tư duy
thể hiện ở khả năng nhận thức ngày càng sâu sắc, đầy đủ, chính xác hơn hiện thực.
Sự phát triển của mỗi con người biểu hiện ở khả năng tự hoàn thiện mình cả về thể
chất và tinh thần phù hợp với sự vận động và phát triển của môi trường trong đó
con người sinh sống.
Ngay cả các khái niệm, các phạm trù phản ánh hiện thực cũng nằm trong quá
trình vận động và phát triển, hoặc đúng hơn, mọi hình thức của tư duy cũng luôn
35
phát triển. Chỉ trên cơ sở của sự phát triển, mọi hình thức của tư duy, nhất là các
khái niệm và các phạm trù, mới có thể phản ánh đúng đắn hiện thực luôn vận động
và phát triển.
Sự phát triển của các sự vật, hiện tượng trong thế giới còn là hết sức đa dạng
và phong phú. Bởi vì, phát triển là khuynh hướng chung của mọi sự vật, mọi hiện
tượng. Song, mỗi sự vật, mỗi hiện tượng lại có quá trình phát triển không giống
nhau. Tồn tại ở không gian khác nhau, ở thời gian khác nhau và do vậy sẽ có hình
thức, nhịp điệu, sắc thái phát triển sẽ khác nhau. Đồng thời trong quá trình phát
triển của mình, sự vật còn chịu sự tác động của các sự vật, hiện tượng khác, của rất
nhiều yếu tố, điều kiện. Sự tác động đó có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển
của sự vật, đôi khi có thể làm thay đổi chiều hướng phát triển của sự vật, thậm chí
làm cho sự vật thụt lùi. Tính đa dạng và phong phú trong phát triển của các sự vật,
hiện tượng còn được quy định và chi phối bởi tính đa dạng, phong phú của mối
liên hệ giữa chúng. Những điều kiện nêu ra ở trên cho thấy, dù sự vật, hiện tượng
có thể có những giai đoạn vận động đi lên như thế này hoặc như thế khác, nhưng
xem xét toàn bộ quá trình thì chúng vẫn tuân theo khuynh hướng chung.
Như vậy, học thuyết về sự phát triển chỉ rõ rằng, mọi sự vật, hiện tượng trong
thế giới đều vận động, biến đổi và phát triển. Sự phát triển của các sự vật hiện
tượng không chỉ tăng lên (hay giảm đi) về mặt số lượng, mà điều quan trọng là
chúng luôn biến đổi, chuyển hóa lẫn nhau, cái cũ mất đi cái mới ra đời kế tiếp cái
cũ. Đó là quá trình phát triển tiến lên không ngừng.
c. Ý nghĩa phương pháp luận
Mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới đều luôn trong trạng thái vận động, biến
đổi và phát triển. Bản chất khách quan của quá trình đó đòi hỏi tư duy con người
phải nhận thức, phản ánh đúng hiện thực khách quan. Và để làm được điều đó,
chúng ta phải quán triệt sâu sắc và vận dụng sáng tạo quan điểm phát triển.
Quan điểm phát triển yêu cầu khi nhận thức, khi giải quyết một vấn đề nào đó
con người phải đặt chúng ở trạng thái động, nằm trong khuynh hướng chung là
phát triển.

36
Quan điểm phát triển đòi hỏi không chỉ nắm bắt những cái đang tồn tại ở sự
vật, mà còn phải thấy rõ khuynh hướng phát triển chung trong tương lai của chúng,
phải thấy được những biến đổi đi lên cũng như những biến đổi có tính chất thụt lùi.
Song, điều cơ bản là phải khái quát những biến đổi để vạch ra khuynh hướng biến
đổi chính của sự vật. Chẳng hạn, khi nghiên cứu vấn đề phát triển nguồn nhân lực
ở Việt Nam hiện nay cần phải đặt con người Việt Nam (công nhân, nông dân, trí
thức, doanh nhân, lãnh đạo, quản lý) hoạt động trong bối cảnh tác động của kinh tế
thị trường, toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, cần chú ý đến những yếu tố truyền
thống và hiện đại (cả mặt tích cực và tiêu cực của chúng), yếu tố định hướng xã hội
chủ nghĩa, những yêu cầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tỷ lệ dân số, tăng lực
lượng lao động, thực trạng của giáo dục. Trên cơ sở đó, dự báo sự biến đổi và xu
hướng phát triển nguồn nhân lực cả về số lượng và chất lượng và nâng cao hiệu
quả sử dụng chúng.
Như vậy, với tư cách là những nguyên tắc phương pháp luận, quan điểm toàn
diện, quan điểm lịch sử cụ thể, quan điểm phát triển góp phần định hướng, chỉ đạo
hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn cải tạo hiện thực, cải tạo chính bản
thân con người. Nắm chắc cơ sở lý luận của chúng - nguyên lý về mối liên hệ phổ
biến và nguyên lý về sự phát triển, biết vận dụng chúng một cách sáng tạo là điều
kiện tiên quyết cho mọi hoạt động tự do sáng tạo và phát triển toàn diện con người.

III. CÁC CẶP PHẠM TRÙ CƠ BẢN CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
1. Cái chung và cái riêng
a. Khái niệm cái riêng, cái chung và cái đơn nhất
Cái riêng là phạm trù triết học dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng, một
quá trình riêng lẻ nhất định.
Ví dụ: cái bàn, cái cây, con người cụ thể,...
Cái chung là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính
chung không những có ở một kết cấu vật chất nhất định, mà còn được lặp lại trong
nhiều sự vật, hiện tượng hay quá trình riêng lẻ khác.
Ví dụ: mặt giống nhau của những cái bàn là chất liệu gỗ, hình dạng,...
37
Cái đơn nhất là phạm trù chỉ những thuộc tính, những mặt,... chỉ có ở một sự
vật, một kết cấu vật chất, mà không lặp lại ở sự vật, hiện tượng, kết cấu vật chất
khác.
Ví dụ: thủ đô Hà Nội là một “cái riêng”, ngoài đặc điểm chung giống các
thành phố khác, còn có nét riêng mà chỉ Hà Nội mới có như có Hồ Gươm, Chùa
Một cột,... đó là cái đơn nhất.
b. Mối quan hệ giữa cái riêng, cái chung và cái đơn nhất
Phái duy thực cho rằng, cái riêng chỉ tồn tại tạm thời, thoáng qua, không phải
là cái tồn tại vĩnh viễn, chỉ có cái chung mới tồn tại vĩnh viễn, thật sự độc lập với ý
thức con người. Cái chung không phụ thuộc vào cái riêng, mà còn sinh ra cái riêng.
Ví dụ: theo Platon, bên cạnh cái cái riêng lẻ, có ý niệm cái cây nói chung; bên
cạnh cái nhà riêng lẻ, có ý niệm cái nhà nói chung,... Cái cây, cái nhà riêng lẻ có ra
đời, tồn tại tạm thời và mất đi, nhưng ý niệm cái cây, cái nhà nói chung thì tồn tại
mãi mãi. Từ đó, Platon cho rằng, cái cây, cái nhà riêng lẻ là do ý niệm cái cây, cái
nhà nói chung sinh ra. Như vậy, cái riêng là do cái chung sinh ra. Sai lầm của phái
duy thực là ở chỗ, họ đã tách rời cái chung ra khỏi cái riêng, đã tuyệt đối hoá cái
chung, phủ nhận cái riêng.
Phái duy danh cho rằng, chỉ có cái riêng tồn tại thực sự, còn cái chung chỉ là
những tên gọi trống rỗng, do tư tưởng của con người bịa đặt ra, chúng không phản
ánh cái gì trong hiện thực. Những người duy thực không thừa nhận nội dung khách
quan của các khái niệm. Sai lầm của họ là ở chỗ đã tách rời cái riêng khỏi cái
chung và tuyệt đối hoá cái riêng, phủ nhận cái chung.
Trái với phái duy thực và phái duy danh, phép biện chứng duy vật cho rằng,
cái riêng, cái chung và cái đơn nhất đều tồn tại khách quan, giữa chúng có mối liên
hệ hữu cơ với nhau. Cụ thể:
Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng mà biểu hiện sự tồn
tại của mình. Nghĩa là không có cái chung thuần tuý tồn tại bên ngoài cái riêng. Ví
dụ: không có cái cây nói chung tồn tại bên ngoài cây cam, cây đào,... cụ thể.
Nhưng bản thân cây cam, cây đào cụ thể,... đều có nét chung như có rễ, thân, lá,

38
quá trình đồng hoá, dị hoá. Đó là cái chung của những cái cây cụ thể, nó tồn tại
thực sự, nhưng không ở ngoài cái riêng mà phải thông qua cái riêng.
Cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ với cái chung. Nghĩa là không có cái
riêng nào tồn tại độc lập tuyệt đối, không có liên hệ với cái chung.
Ví dụ: mỗi con người là một cái riêng, nhưng mỗi con người lại không thể tồn
tại ngoài mối liên hệ với cái chung. Đó là mối liên hệ với với tự nhiên, xã hội, chịu
sự tác động của các quy luật sinh học và quy luật xã hội.
Cái riêng là cái toàn bộ, phong phú hơn cái chung, cái chung là cái bộ phận,
nhưng sâu sắc hơn cái riêng. Cái riêng phong phú hơn vì ngoài cái chung, cái riêng
còn có cái đơn nhất.
Ví dụ: người nông dân Việt Nam bên cạnh cái chung giống với nông dân các
nước trên thế giới, như tư hữu nhỏ, sản xuất ra các sản phẩm nông nghiệp, sống ở
nông thôn,... còn có đặc điểm riêng như, chịu ảnh hưởng lâu đời của văn hoá làng
xã, các phong tục tập quán truyền thống của người Việt,...
Cái chung sâu sắc hơn cái riêng, vì cái chung phản ánh những thuộc tính,
những mối liên hệ ổn định, tất nhiên, lặp lại ở nhiều cái riêng cùng loại. Do đó, cái
chung gắn liền với cái bản chất, quy định phương hướng tồn tại và phát triển của
cái riêng.
Cái đơn nhất và cái chung có thể chuyển hoá lẫn nhau trong quá trình phát
triển của sự vật. Trong hiện thực, cái mới không bao giờ xuất hiện đầy đủ ngay, mà
lúc đầu xuất hiện dưới dạng cái đơn nhất. Sau đó, theo quy luật, cái mới hoàn thiện
dần và thay thế cái cũ trở thành cái chung, cái phổ biến. Ngược lại cái cũ lúc đầu là
cái chung, cái phổ biến nhưng về sau do không phù hợp với điều kiện mới, nên dần
mất đi và trở thành cái đơn nhất.
c. Ý nghĩa phương pháp luận
Chỉ có thể tìm cái chung trong cái riêng, xuất phát từ cái riêng, từ những sự
vật hiện tượng riêng lẻ, không được xuất phát từ ý muốn chủ quan bên ngoài cái
riêng.
Cái chung sâu sắc, cái bản chất chi phối cái riêng, nên nhận thức phải nhằm
tìm ra cái chung và trong hoạt động thực tiễn phải dựa vào cái chung để cải tạo cái
39
riêng. Do đó, trong hoạt động thực tiễn nếu không hiểu biết những nguyên lý
chung (được phản ánh bằng lý luận) thì sẽ không tránh khỏi việc rơi vào tình trạng
hoạt động một cách mò mẫm, mù quáng. Do cái chung biểu hiện thông qua cái
riêng, nên khi áp dụng cái chung phải tuỳ theo từng cái riêng cụ thể để vận dụng
cho thích hợp.
Ví dụ: Đảng Cộng sản ra đời là sản phẩm kết hợp của chủ nghĩa Mác - Lênin
và phong trào công nhân (Đảng Bônsêvích Nga, Đảng Cộng sản Trung Quốc,...).
Nhưng Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác
- Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước.
Khi nghiên cứu phạm trù cái chung và cái riêng, tránh tuyệt đối hóa cái
chung, cái riêng. Nếu tuyệt đối hóa cái chung rơi vào chủ nghĩa duy tâm, nếu tuyệt
đối hóa cái riêng rơi vào siêu hình, máy móc.
Trong quá trình phát triển của sự vật, trong những điều kiện nhất định cái đơn
nhất có thể biến thành cái chung và ngược lại, cho nên trong hoạt động thực tiễn có
thể và cần phải tạo điều kiện thuận lợi để cái đơn nhất có lợi cho con người trở
thành cái chung, còn cái chung bất lợi trở thành cái đơn nhất.
Ví dụ: đầu tư của Người Việt ở nước ngoài lúc đầu là cái đơn nhất, dần dần
chúng ta đã thu hút được rất nhiều người về nước bỏ vốn làm ăn. Theo Nghị quyết
Đại hội Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, nhiều điều kiện ưu đãi mới được đề
ra như việc xác định thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài để thích hợp với
nhiều người có vốn nhưng không phải là tư bản (do thừa kế, tích luỹ, giải
thưởng,...).
2. Bản chất và hiện tượng
a. Khái niệm bản chất và hiện tượng
Bản chất là tổng hợp tất cả những mặt, những mối liên hệ tất nhiên, tương đối
ổn định bên trong sự vật, quy định sự vận động và phát triển của sự vật. Hiện
tượng là biểu hiện ra bên ngoài của bản chất.
Bản chất và hiện tượng tồn tại khách quan, là cái vốn có của sự vật, không do
ai sáng tạo ra. Bản chất và hiện tượng có quan hệ biện chứng vừa thống nhất gắn
bó chặt chẽ với nhau, vừa mâu thuẫn đối lập nhau.
40
b. Mối quan hệ giữa bản chất và hiện tượng
Sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng: Bản chất luôn luôn được bộc lộ
qua hiện tượng, còn hiện tượng nào cũng là sự biểu hiện của bản chất ở mức độ
nhất định. Không có bản chất nào tồn tại thuần tuý ngoài hiện tượng; đồng thời
cũng không có hiện tượng nào hoàn toàn không biểu hiện bản chất.
Bản chất và hiện tượng về căn bản là phù hợp nhau. Bản chất thay đổi thì hiện
tượng biểu hiện nó cũng thay đổi theo. Khi bản chất biến mất thì hiện tượng biểu
hiện nó cũng mất theo.
Tính chất mâu thuẫn của sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng.
Sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng là sự thống nhất của hai mặt đối
lập bao hàm cả sự mâu thuẫn. Mâu thuẫn này thể hiện ở chỗ: bản chất phản ánh cái
chung, cái tất yếu, quyết định sự tồn tại và phát triển của sự vật, còn hiện tượng
phản ánh cái riêng, cái cá biệt. Cùng một bản chất có thể biểu hiện ra ở nhiều hiện
tượng khác nhau tuỳ theo sự thay đổi của điều kiện và hoàn cảnh. Vì vậy, hiện
tượng phong phú hơn bản chất, còn bản chất sâu sắc hơn hiện tượng. Bản chất là
cái tương đối ổn định, ít biến đổi, còn hiện tượng là cái thường xuyên biến đổi.
Bản chất không được biểu lộ hoàn toàn ở một hiện tượng mà biểu hiện ở rất
nhiều hiện tượng. Hiện tượng không biểu hiện hoàn toàn bản chất mà chỉ biểu hiện
một khía cạnh của bản chất, biểu hiện bản chất dưới hình thức đã biến đổi, nhiều
khi xuyên tạc bản chất.
c. Ý nghĩa phương pháp luận
Muốn nhận thức bản chất của sự vật thì phải xuất phát từ những sự vật, hiện
tượng, quá trình thực tế.
Phải phân tích, tổng hợp sự biến đổi của nhiều hiện tượng, nhất là những hiện
tượng điển hình mới hiểu rõ được bản chất của sự vật.
Nhận thức không chỉ dừng lại ở hiện tượng, mà phải tiến đến nhận thức được
bản chất của sự vật. Trong hoạt động thực tiễn phải dựa vào bản chất của sự vật để
xác định phương hướng hoạt động cải tạo sự vật, không được dựa vào hiện tượng.
3. Tất nhiên và ngẫu nhiên
a. Khái niệm tất nhiên và ngẫu nhiên
41
Tất nhiên là cái do những nguyên nhân cơ bản bên trong của kết cấu vật chất
quyết định và trong những điều kiện nhất định nó phải xảy ra như thế chứ không
thể khác được.
Ngẫu nhiên là cái không do mối liên hệ bản chất bên trong kết cấu vật chất,
bên trong sự vật quyết định mà do các nhân tố bên ngoài, do sự ngẫu hợp nhiều
hoàn cảnh bên ngoài quyết định. Do đó, nó có thể xuất hiện, có thể không xuất
hiện, có thể xuất hiện như thế này, hoặc xuất hiện như thế khác.
b. Mối quan hệ giữa tất nhiên và ngẫu nhiên
Tất nhiên và ngẫu nhiên đều tồn tại khách quan, độc lập với ý thức của con
người và đều có vị trí nhất định đối với sự phát triển của sự vật. Cái tất nhiên có
tác dụng chi phối sự phát triển của sự vật thì cái ngẫu nhiên có tác dụng làm cho sự
phát triển của sự vật diễn ra nhanh hay chậm.
Tất nhiên và ngẫu nhiên đều tồn tại, nhưng chúng không tồn tại biệt lập dưới
dạng thuần tuý cũng như không có cái ngẫu nhiên thuần tuý. Cái tất nhiên bao giờ
cũng thể hiện sự tồn tại của mình thông qua vô số cái ngẫu nhiên. Còn cái ngẫu
nhiên là hình thức biểu hiện của cái tất nhiên, đồng thời là cái bổ sung cho cái tất
nhiên.
Ví dụ: vấn đề tác giả thuyết tương đối hẹp.
Tất nhiên và ngẫu nhiên có thể chuyển hoá cho nhau. Tất nhiên và ngẫu nhiên
không nằm yên ở trạng thái cũ mà thay đổi cùng với sự thay đổi của sự vật và
trong những điều kiện nhất định tất nhiên có thể chuyển hoá thành ngẫu nhiên và
ngược lại. Mặt khác, trong mối quan hệ này, thông qua mặt này thì sự vật hiện
tượng nào đó là ngẫu nhiên, nhưng trong mối quan hệ khác, thông qua mặt khác thì
sự vật hiện tượng đó lại là cái tất yếu.
c. Ý nghĩa phương pháp luận
Trong hoạt động thực tiễn phải dựa vào cái tất nhiên, không thể dựa vào cái
ngẫu nhiên. Nhưng cũng không được bỏ qua hoàn toàn cái ngẫu nhiên. Vì cái ngẫu
nhiên tuy không chi phối sự phát triển của sự vật hiện tượng, nhưng nó có ảnh
hưởng đến sự phát triển của sự vật, đôi khi rất sâu sắc. Do đó, trong hoạt động thực

42
tiễn, ngoài phương án chính, cần phải có phương án dự phòng để chủ động đáp
ứng những sự biến ngẫu nhiên có thể xảy ra.
Muốn nhận thức được cái tất nhiên phải thông qua việc nghiên cứu, phân tích
so sánh rất nhiều cái ngẫu nhiên.
Cái ngẫu nhiên trong điều kiện nhất định có thể chuyển hoá thành cái tất
nhiên. Do vậy, trong nhận thức cũng như trong hoạt động thực tiễn, chúng ta
không được xem nhẹ, bỏ qua cái ngẫu nhiên.

4. Nguyên nhân và kết quả


a. Khái niệm nguyên nhân và kết quả
Nguyên nhân là phạm trù chỉ sự tác động lẫn nhau giữa các mặt trong một sự
vật hoặc giữa các sự vật với nhau, gây ra một biến đổi nhất định nào đó.
Kết quả là những biến đổi xuất hiện do tác động lẫn nhau giữa các mặt trong
một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau gây ra. Ví dụ: tương tác giữa dòng điện
với dây tóc bóng đèn là nguyên nhân làm bóng đèn phát sáng. Cuộc đấu tranh giai
cấp là nguyên nhân dẫn đến cách mạng xã hội,...
Không nên hiểu nguyên nhân và kết quả nằm ở hai sự vật hoàn toàn khác
nhau. Nguyên cớ và điều kiện khác với nguyên nhân, mặc dù chúng xuất hiện cùng
với nguyên nhân, nhưng chúng không sinh ra kết quả.
Ví dụ: sự kiện Vịnh Bắc Bộ năm 1964.
Mối liên hệ nhân quả có tính khách quan, phổ biến và tất yếu.
b. Mối quan hệ giữa nguyên nhân và kết quả
Nguyên nhân là cái sinh ra kết quả, nên nguyên nhân có trước kết quả, còn kết
quả bao giờ cũng xuất hiện sau khi nguyên nhân đã xuất hiện. Tuy nhiên, không
phải bất cứ hai hiện tượng nào nối tiếp nhau về mặt thời gian cũng là quan hệ nhân
quả. Căn cứ để xác định mối quan hệ nhân quả là quan hệ sản sinh.
Một kết quả có thể do nhiều nguyên nhân, mặt khác, một nguyên nhân trong
những điều kiện khác nhau cũng có thể gây ra nhiều kết quả khác nhau. Do đó,
trong hoạt động thực tiễn, chúng ta cần phải phân tích vai trò của từng loại nguyên

43
nhân, để có thể chủ động tạo ra điều kiện thuận lợi cho những nguyên nhân quy
định sự xuất hiện của kết quả mà con người mong muốn phát huy tác dụng.
Ví dụ: trong nền kinh tế nhiều thành phần, muốn phát triển lành mạnh đúng
hướng, thì phải tìm những nguyên nhân tiêu cực để có biện pháp khắc phục, hạn
chế, đồng thời phải thấy rõ nguyên nhân tích cực thúc đẩy để có biện pháp tạo điều
kiện.
Sau khi xuất hiện, kết quả có ảnh hưởng trở lại đối với nguyên nhân theo hai
hướng: tích cực thì sẽ thúc đẩy sự hoạt động của nguyên nhân, hoặc tiêu cực thì sẽ
cản trở sự hoạt động của nguyên nhân
Nguyên nhân và kết quả có thể thay đổi vị trí cho nhau. Một hiện tượng nào
đó được coi là nguyên nhân hay kết quả bao giờ cũng ở trong một quan hệ xác
định. Một sự vật hiện tượng nào đó trong mối quan hệ này là nguyên nhân, nhưng
trong mối quan hệ khác lại là kết quả và ngược lại.
c. Ý nghĩa phương pháp luận
Muốn tìm nguyên nhân thì chúng ta phải tìm trong thế giới hiện thực, trong
bản thân các sự vật hiện tượng tồn tại trong thế giới vật chất chứ không được tưởng
tượng ra từ trong đầu óc con người, tách rời thế giới hiện thực.
Vì nguyên nhân có trước kết quả, nên tìm nguyên nhân một hiện tượng nào đó
thì phải tìm trong những sự kiện, những mối liên hệ xảy ra trước khi hiện tượng đó
xuất hiện.
Một kết quả có thể do nhiều nguyên nhân sinh ra. Những nguyên nhân này có
vai trò khác nhau đối với việc hình thành kết quả. Vì vậy, trong hoạt động thực tiễn
phải phân loại nguyên nhân, tìm ra nguyên nhân cơ bản, chủ yếu, bên trong,... phải
nắm được chiều hướng tác động của các nguyên nhân, từ đó có biện pháp thích
hợp tạo điều kiện cho nguyên nhân có tác động tích cực và hạn chế tác động của
nguyên nhân có tác động tiêu cực.
Kết quả có tác động trở lại nguyên nhân, cho nên trong hoạt động thực tiễn
phải khai thác, tận dụng các kết quả đã đạt được để tạo điều kiện thúc đẩy nguyên
nhân phát huy tác dụng, nhằm đạt được mục đích.
5. Nội dung và hình thức
44
a. Khái niệm nội dung và hình thức
Nội dung là tổng hợp tất cả những mặt, những yếu tố, những quá trình tạo nên
sự vật.
Hình thức là phương thức tồn tại và phát triển của sự vật, là hệ thống các mối
liên hệ tương đối bền vững giữa các yếu tố của sự vật đó.
Ví dụ: nội dung của kim loại là các ion, các điện tử,... còn hình thức là sự sắp
xếp các ion theo cấu trúc mạng tinh thể.
Phép biện chứng duy vật chủ yếu xem xét hình thức bên trong, cơ cấu bên
trong của nội dung, xem xét hình thức gắn liền với nội dung, cơ cấu của nội dung
chứ không phải là hình thức bề ngoài của sự vật.
b. Mối quan hệ giữa nội dung và hình thức
Sự thống nhất giữa nội dung và hình thức: do nội dung là những mặt, những
yếu tố, những quá trình tạo nên sự vật, còn hình thức là hệ thống các mối liên hệ
tương đối bền vững giữa các yếu tố của nội dung. Cho nên nội dung và hình thức
luôn gắn bó chặt chẽ với nhau trong một thể thống nhất. Không có hình thức nào
tồn tại thuần túy không chứa nội dung, ngược lại cũng không có nội dung nào lại
không tồn tại trong một hình thức xác định. Nội dung và hình thức không tồn tại
tách rời, nhưng không phải vì thế mà lúc nào nội dung và hình thức cũng phù hợp
nhau. Không phải một nội dung bao giờ cũng chỉ được thể hiện ra trong một hình
thức nhất định và một hình thức luôn chỉ chứa một nội dung, mà một nội dung
trong quá trình phát triển có thể có nhiều hình thức thể hiện, ngược lại một hình
thức có thể thể hiện nhiều nội dung khác nhau.
Nội dung giữ vai trò quyết định đối với hình thức trong quá trình vận động
phát triển của sự vật. Khuynh hướng chủ đạo của nội dung là biến đổi, còn hình
thức tương đối bền vững, chậm biến đổi hơn so với nội dung. Dưới sự tác động lẫn
nhau của những mặt trong sự vật, hoặc giữa các sự vật với nhau, trước hết làm cho
các yếu tố của nội dung biến đổi trước; còn những mối liên hệ giữa các yếu tố của
nội dung, tức hình thức thì chưa biến đổi ngay, vì vậy hình thức sẽ trở nên lạc hậu
hơn so với nội dung và sẽ trở thành nhân tố kìm hãm nội dung phát triển. Do xu
hướng chung của sự phát triển của sự vật, hình thức không thể kìm hãm mãi sự
45
phát triển của nội dung mà sẽ phải thay đổi cho phù hợp với nội dung mới. Như
vậy sự biến đổi của nội dung quy định sự biến đổi của hình thức.
Sự tác động trở lại của hình thức đối với nội dung: hình thức có tính độc lập
tương đối và tác động trở lại nội dung. Nếu tác động đó phù hợp với nội dung thì
sẽ tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy nội dung phát triển, nếu không phù hợp thì hình
thức sẽ ngăn cản, kìm hãm sự phát triển của nội dung.
c. Ý nghĩa phương pháp luận
Trong nhận thức không được tách rời tuyệt đối hoá giữa nội dung và hình
thức. Cần chống chủ nghĩa hình thức.
Trong hoạt động thực tiễn cần phải sử dụng nhiều hình thức khác nhau. Nội
dung quyết định hình thức, do vậy để nhận thức và cải tạo sự vật phải căn cứ vào
nội dung. Mặt khác, do hình thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại nội
dung do vậy trong hoạt động thực tiễn phải thường xuyên đối chiếu giữa nội dung
và hình thức và làm cho hình thức phù hợp với nội dung để thúc đẩy nội dung phát
triển.
6. Khả năng và hiện thực
a. Khái niệm khả năng và hiện thực
Phạm trù hiện thực và khả năng dùng để phản ánh mối quan hệ biện chứng
giữa những gì hiện có, hiện đang tồn tại thực sự (hiện thực) với những gì hiện
chưa có, nhưng sẽ có, sẽ tới khi có các điều kiện tương ứng (khả năng).
Khả năng là một sự tồn tại đặc biệt. Cái sự vật được nói tới trong khả năng
chưa tồn tại, song bản thân khả năng thì tồn tại.
Hiện thực bao gồm cả những sự vật, hiện tượng vật chất đang tồn tại một cách
khách quan trong thực tế và cả những gì đang tồn tại một cách chủ quan trong ý
thức con người,...
Khả năng gồm khả năng tất nhiên và khả năng ngẫu nhiên. Khả năng tất nhiên
được hình thành do quy luật vận động nội tại của sự vật quy định. Khả năng được
hình thành do các tương tác ngẫu nhiên quy định được gọi là khả năng ngẫu nhiên.
Trong khả năng tất nhiên có khả năng gần, nghĩa là đã có đủ hoặc gần đủ
những điều kiện cần thiết để biến thành hiện thực và khả năng xa, nghĩa là chưa đủ
46
điều kiện cần thiết để biến thành hiện thực, còn phải trải qua nhiều giai đoạn quá
độ nữa.
b. Mối quan hệ giữa khả năng và hiện thực
Khả năng và hiện thực tồn tại trong mối quan hệ chặt chẽ với nhau, không
tách rời nhau, thường xuyên chuyển hoá lẫn nhau trong quá trình phát triển của sự
vật. Trong sự vật đang tồn tại chứa đựng khả năng. Sự vận động phát triển của sự
vật chính là quá trình biến khả năng thành hiện thực. Trong hiện thực mới đó lại
nảy sinh khả năng mới, khả năng mới này nếu có điều kiện lại biến thành hiện thực
mới. Quá trình đó được tiếp tục, làm cho sự vật vận động, phát triển một cách vô
cùng tận trong thế giới vật chất.
Trong những điều kiện nhất định, ở cùng một sự vật có thể tồn tại nhiều khả
năng chứ không phải chỉ một khả năng. Ngoài khả năng vốn có, trong những điều
kiện mới thì sự vật sẽ xuất hiện thêm những khả năng mới, đồng thời bản thân mỗi
khả năng cũng thay đổi theo sự thay đổi của điều kiện.
c. Ý nghĩa phương pháp luận
Trong hoạt động thực tiễn cần dựa vào hiện thực, không được dựa vào khả
năng để định ra chủ trương, phương hướng hành động. Mặt khác tuy khả năng là
cái chưa tồn tại thực sự nhưng nó biểu hiện khuynh hướng phát triển của sự vật
trong tương lai. Do đó, chúng ta phải tính đến các khả năng để việc đề ra chủ
trương, kế hoạch sát hợp hơn.
Trong xã hội, việc chuyển khả năng thành hiện thực phụ thuộc nhiều vào hoạt
động của con người. Vì vậy, chúng ta phải chú ý đến việc phát huy nguồn lực con
người, tạo ra những điều kiện thuận lợi cho việc phát huy tính năng động sáng tạo
của mỗi con người để biến khả năng thành hiện thực thúc đẩy xã hội phát triển.
IV. CÁC QUY LUẬT CƠ BẢN CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
1. Quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự
thay đổi về chất và ngược lại
Vị trí trong phép biện chứng duy vật: vạch ra cách thức của sự vận động, phát
triển của sự vật trong thế giới khách quan.
a. Các khái niệm “chất”, “ lượng”
47
Chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có
của các sự vật, hiện tượng; là sự thống nhất hữu cơ các thuộc tính làm cho sự vật là
nó chứ không phải là cái khác.
Thuộc tính của sự vật là những tính chất, những trạng thái, những yếu tố cấu
thành sự vật. Đó là những cái vốn có của sự vật từ khi sự vật được sinh ra hoặc
được hình thành trong sự vận động và phát triển của nó.
Mỗi sự vật có rất nhiều thuộc tính; mỗi thuộc tính lại biểu hiện một chất của
sự vật. Do vậy, mỗi sự vật có nhiều chất. Chất của sự vật được biểu hiện qua
những thuộc tính của nó. Nhưng không phải bất kỳ thuộc tính nào cũng biểu hiện
chất của sự vật. Bởi vì thuộc tính của sự vật bao gồm thuộc tính cơ bản và thuộc
tính không cơ bản. Chỉ những thuộc tính cơ bản được tổng hợp lại thành chất của
sự vật. Tuy nhiên, sự phân chia thuộc tính thành thuộc tính cơ bản và thuộc tính
không cơ bản cũng chỉ mang tính tương đối.
Chất của sự vật không những được quy định bởi chất của những yếu tố tạo
thành mà còn bởi phương thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành, bởi kết cấu của
sự vật. Do đó, sự thay đổi về chất của sự vật phụ thuộc vào cả sự thay đổi các yếu
tố cấu thành sự vật lẫn sự thay đổi phương thức liên kết giữa các yếu tố ấy.
Ví dụ: để chuyển biến về chất nền kinh tế nước ta phải chuyển đổi được cơ
cấu kinh tế,…
Lượng là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của
sự vật về mặt số lượng, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển
cũng như các thuộc tính của sự vật.
Lượng của sự vật biểu thị kích thước dài hay ngắn, số lượng nhiều hay ít, quy
mô lớn hay nhỏ, trình độ cao hay thấp, nhịp điệu nhanh hay chậm,...
Chất và lượng là cái vốn có của sự vật, có tính khách quan. Sự phân biệt chất
và lượng của sự vật chỉ mang tính tương đối. Có những tính quy định trong mối
quan hệ này là chất của sự vật, song trong mối quan hệ khác lại biểu thị lượng của
sự vật và ngược lại.
Ví dụ: số lượng sinh viên giỏi nhất định của một lớp sẽ nói lên chất lượng học
tập của lớp đó.
48
b. Mối quan hệ giữa sự thay đổi về lượng và sự thay đổi về chất
Bất kỳ một sự vật hay hiện tượng nào cũng là sự thống nhất giữa mặt chất và
lượng. Chúng tác động qua lại lẫn nhau.
Sự thay đổi về lượng và về chất của sự vật có quan hệ chặt chẽ với nhau và
diễn ra cùng với sự vận động và phát triển của sự vật.
Sự thay đổi về lượng của sự vật có ảnh hưởng tới sự thay đổi về chất của nó
và ngược lại, sự thay đổi về chất của sự vật tương ứng với thay đổi về lượng của
nó. Sự thay đổi về lượng có thể làm thay đổi ngay lập tức sự thay đổi về chất của
sự vật. Nhưng khi ở một giới hạn nhất định khi lượng của sự vật thay đổi, nhưng
chất của sự vật chưa thay đổi cơ bản. Ví dụ: Nước chưa sôi ngay khi được đun
nóng. Khi lượng của sự vật được tích luỹ vượt quá giới hạn nhất định gọi là độ, thì
chất cũ sẽ mất đi, chất mới thay thế chất cũ. Chất mới ấy tương ứng với lượng mới
tích luỹ được.
Độ là một phạm trù triết học dùng để chỉ khoảng giới hạn trong đó sự thay đổi
về lượng của sự vật chưa đủ làm thay đổi căn bản chất của sự vật.
Độ là mối liên hệ giữa lượng và chất của sự vật, ở đó thể hiện sự thống nhất
giữa lượng và chất của sự vật. Trong đó, sự vật vẫn còn là nó chứ chưa biến thành
cái khác.
Tại điểm giới hạn (ví dụ 0 hay 100 độ C đối với nước) mà sự thay đổi về
lượng đã đủ làm thay đổi về chất của sự vật gọi là điểm nút.
Điểm nút là phạm trù triết học dùng để chỉ thời điểm mà tại đó sự thay đổi về
lượng đã đủ làm thay đổi về chất của sự vật.
Lượng mới và chất mới của sự vật thống nhất với nhau, tạo nên độ mới và
điểm nút mới của sự vật. Quá trình đó liên tiếp diễn ra trong sự vật và vì thế sự vật
luôn phát triển chừng nào nó còn tồn tại. Chất của sự vật thay đổi do lượng của nó
thay đổi trước đó gây ra gọi là bước nhảy.
Bước nhảy là phạm trù triết học dùng để chỉ sự chuyển hoá về chất của sự vật
do sự thay đổi về lượng của sự vật trước đó gây nên.
Một số hình thức của bước nhảy.
Căn cứ vào tốc độ bước nhảy của bản thân sự vật, bước nhảy gồm:
49
Bước nhảy đột biến là bước nhảy được thực hiện trong một thời gian rất ngắn
làm thay đổi chất của toàn bộ kết cấu cơ bản của sự vật. Ví dụ, khi khối lượng
Uranium 235 đạt tới khối lượng tới hạn thì sẽ xảy ra vụ nổ nguyên tử trong chốc
lát.
Bước nhảy dần dần là bước nhảy được thực hiện từ từ, từng bước bằng cách
tích luỹ dần dần những nhân tố của của chất mới và những nhân tố của chất cũ dần
dần mất đi. Ví dụ, quá trình chuyển hoá từ Vượn thành Người diễn ra lâu dài, hàng
vạn năm.
Căn cứ vào quy mô thực hiện, bước nhảy được chia thành:
Bước nhảy toàn bộ là bước nhảy làm thay đổi chất của toàn bộ các mặt, các
yếu tố cấu thành sự vật.
Bước nhảy cục bộ là bước nhảy làm thay đổi chất của những mặt, những yếu
tố riêng lẻ của sự vật.
Khi xem xét sự thay đổi về chất của xã hội, người ta chia sự thay đổi đó thành
thay đổi có tính chất cách mạng và sự thay đổi có tính chất tiến hoá.
Cách mạng là sự thay đổi trong đó bản chất của sự vật biến đổi căn bản,
không phụ thuộc vào hình thức biến hoá của nó.
Tiến hoá là sự thay đổi về lượng với những biến đổi nhất định về chất không
cơ bản của sự vật.
Tuy nhiên chỉ có sự thay đổi căn bản về chất mang tính tiến bộ, đi lên mới là
cách mạng. Nếu sự thay đổi cơ bản về chất làm cho xã hội thụt lùi thì lại là phản
cách mạng.
Khái quát nội dung của quy luật này là: mọi sự vật đều là sự thống nhất giữa
lượng và chất, sự thay đổi dần dần về lượng trong khuôn khổ của độ tới điểm nút
sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất của sự vật hiện tượng thông qua bước nhảy; chất
mới ra đời tác động trở lại sự thay đổi của lượng mới. Quá trình tác động đó diễn
ra liên tục làm cho sự vật không ngừng phát triển, biến đổi.
c. Ý nghĩa phương pháp luận
Trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn chúng ta phải biết từng
bước tích luỹ về lượng để làm biến đổi về chất theo quy luật. Điều này đã được
50
khái quát như “tích tiểu thành đại”, “năng nhặt, chặt bị”, “góp gió thành bão”,...
điều này giúp ta tránh tư tưởng nôn nóng, chủ quan, duy ý chí, đốt cháy giai đoạn,
muốn thực hiện những bước nhảy mà không tính đến lượng đã tích lũy đủ hay
chưa.
Trong xã hội, quy luật xã hội chỉ được thực hiện thông qua ý thức của con
người. Do đó, khi đã tích luỹ đủ về số lượng, phải có quyết tâm thực hiện bước
nhảy, phải kịp thời chuyển những sự thay đổi về lượng thành những thay đổi về
chất, từ những thay đổi mang tính chất tiến hoá sang những thay đổi mang tính
chất cách mạng, khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ, hữu khuynh thường biểu hiện
ở chỗ coi sự phát triển chỉ là sự thay đổi đơn thuần về lượng.
Trong hoạt động thực tế phải biết vận dụng linh hoạt các hình thức của bước
nhảy. Để thực hiện được bước nhảy toàn bộ thì trước hết phải thực hiện những
bước nhảy cục bộ làm thay đổi về chất của từng yếu tố.
Sự thay đổi về chất của sự vật còn phụ thuộc vào sự thay đổi phương thức liên
kết giữa các yếu tố tạo thành sự vật. Do đó, trong hoạt động của mình chúng ta
phải biết cách tác động vào phương thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành sự vật
trên cơ sở hiểu rõ bản chất, quy luật, kết cấu của sự vật đó.
Ví dụ: công nghệ sinh học tạo nên giống mới nhờ tác động, biến đổi gien,...
2. Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập
Vị trí của quy luật trong phép biện chứng duy vật: là hạt nhân của phép biện
chứng, vì chỉ ra nguồn gốc, động lực bên trong của mọi sự vận động, phát triển của
thế giới khách quan.
a. Khái niệm về mặt đối lập, mâu thuẫn, sự thống nhất, sự đồng nhất
Tất cả các sự vật, hiện tượng đều chứa đựng những mặt trái ngược nhau. Ví
dụ: Trong nguyên tử có điện tử và hạt nhân; trong sinh vật có đồng hoá và dị hoá;
hay cung và cầu trong nền kinh tế thị trường, những mặt trái ngược nhau đó trong
phép biện chứng duy vật gọi là mặt đối lập.
Mặt đối lập là những mặt có những đặc điểm, những thuộc tính, những tính
quy định có khuynh hướng biến đổi trái ngược nhau tồn tại một cách khách quan

51
trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Sự tồn tại các mặt đối lập là khách quan và phổ
biến trong tất cả các sự vật.
Mâu thuẫn các mặt đối lập nằm trong sự liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau tạo
thành mâu thuẫn biện chứng. Mâu thuẫn biện chứng tồn tại một cách khách quan
và phổ biến trong tất cả các lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy.
Hai mặt đối lập tạo thành mâu thuẫn biện chứng nhưng không tách rời mà tồn
tại trong sự thống nhất với với nhau.
Sự thống nhất của các mặt đối lập là sự nương tựa lẫn nhau, tồn tại không
tách rời nhau, sự tồn tại của mặt này phải lấy sự tồn tại của mặt kia làm tiền đề.
Sự đồng nhất: các mặt đối lập không tách rời nhau nên giữa chúng bao giờ
cũng có những nhân tố giống nhau. Những nhân tố giống nhau đó gọi là sự đồng
nhất của các mặt đối lập.
Như vậy, sự thống nhất của các mặt đối lập còn bao hàm cả sự đồng nhất của
các mặt đó.
Sự thống nhất của các mặt đối lập còn biểu hiện ở sự tác động ngang nhau của
chúng. Song đó chỉ là trạng thái vận động của mâu thuẫn ở một giai đoạn phát triển
khi diễn ra sự cân bằng của các mặt đối lập.
Sự đấu tranh của các mặt đối lập: các mặt đối lập không chỉ thống nhất, mà
còn luôn đấu tranh với nhau. Đấu tranh của các mặt đối lập là sự tác động qua lại
theo xu hướng bài trừ và phủ định lẫn nhau giữa các mặt đó.
Sự chuyển hoá của các mặt đối lập: do có sự đồng nhất của các mặt đối lập
mà trong sự triển khai của mâu thuẫn đến một lúc nào đó, các mặt đối lập có thể
chuyển hoá lẫn nhau.
b. Quá trình diễn biến của mâu thuẫn
Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là hai xu hướng tác động khác
nhau của các mặt đối lập tạo thành mâu thuẫn. Mâu thuẫn biện chứng cũng bao
hàm cả sự thống nhất lẫn đấu tranh của các mặt đối lập. Sự thống nhất và đấu tranh
của các mặt đối lập không tách rời nhau trong quá trình vận động và phát triển của
sự vật.

52
Sự thống nhất gắn liền với sự đứng im, với sự ổn định tạm thời của sự vật. Sự
đấu tranh gắn liền với tính tuyệt đối của sự vận động và phát triển. Điều đó có
nghĩa là sự thống nhất của các mặt đối lập là tương đối, là tạm thời; sự đấu tranh
của các mặt đối lập là tuyệt đối.
Trong sự tác động qua lại của các mặt đối lập thì đấu tranh của các mặt đối
lập quy định một cách tất yếu sự thay đổi của các mặt đang tác động và làm cho
mâu thuẫn phát triển. Lúc đầu mới xuất hiện, mâu thuẫn chỉ là sự khác nhau căn
bản, nhưng theo khuynh hướng trái ngược nhau. Sự khác nhau đó càng ngày càng
phát triển và đi đến đối lập. Khi hai mặt đối lập xung đột gay gắt đã đủ điều kiện,
chúng sẽ chuyển hoá lẫn nhau, mâu thuẫn được giải quyết. Nhờ đó thể thống nhất
cũ được thay thế bằng thể thống nhất mới; sự vật cũ mất đi, sự thống nhất mới ra
đời, thay thế. Tuy nhiên, không có thống nhất của các mặt đối lập thì cũng không
có đấu tranh giữa chúng. Sự vận động và phát triển bao giờ cũng là sự thống nhất
giữa tính ổn định và tính thay đổi. Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập
quy định tính ổn định và tính thay đổi của sự vật. Do đó, mâu thuẫn chính là nguồn
gốc của sự vận động và sự phát triển.
Các loại mâu thuẫn và ý nghĩa của chúng đối với hoạt động của con người.
Mâu thuẫn tồn tại trong tất cả các sự vật, hiện tượng, cũng như trong tất cả
các giai đoạn phát triển của chúng. Mâu thuẫn hết sức đa dạng và phong phú.
Căn cứ vào quan hệ đối với sự vật được xem xét, người ta phân biệt:
Mâu thuẫn bên trong là sự tác động qua lại giữa các mặt, các khuynh hướng
đối lập của cùng một sự vật.
Mâu thuẫn bên ngoài là mâu thuẫn diễn ra trong mối quan hệ giữa sự vật đó
với các sự vật khác.
Việc phân chia này chỉ có tính tương đối, tuỳ theo phạm vi xem xét, cùng một
mâu thuẫn nhưng xét trong mối quan hệ này là mâu thuẫn bên ngoài, nhưng xét
trong mối quan hệ khác lại là mâu thuẫn bên trong.
Mâu thuẫn bên trong có vai trò quyết định trực tiếp đối với quá trình vận động
và phát triển của sự vật. Tuy nhiên, việc giải quyết mâu thuẫn bên trong không thể

53
tách rời việc giải quyết mâu thuẫn bên ngoài; việc giải quyết mâu thuẫn bên ngoài
là điều kiện để giải quyết mâu thuẫn bên trong.
Căn cứ vào ý nghĩa đối với sự tồn tại và phát triển của toàn bộ sự vật, mâu
thuẫn được chia thành:
- Mâu thuẫn cơ bản.
- Mâu thuẫn không cơ bản.
Căn cứ vào vai trò của mâu thuẫn đối với sự tồn tại và phát triển của sự vật
trong một giai đoạn nhất định, mâu thuẫn được chia thành:
- Mâu thuẫn chủ yếu.
- Mâu thuẫn thứ yếu.
Căn cứ vào tính chất của các quan hệ lợi ích, mâu thuẫn được chia thành:
- Mâu thuẫn đối kháng.
- Mâu thuẫn không đối kháng.
Tóm lại, thực chất quy luật đấu tranh và thống nhất của các mặt đối lập là mọi
sự vật, hiện tượng đều chứa những mặt, những khuynh hướng đối lập tạo thành
những mâu thuẫn trong bản thân nó; sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập
là nguồn gốc của sự vận động và phát triển, làm cho cái cũ mất đi và cái mới ra đời
thay thế.
c. Ý nghĩa phương pháp luận
Đứng trước bất cứ sự vật hiện tượng nào cũng phải thấy sự tác động của hai
mặt đối lập (tức mâu thuẫn) để có thể nhận thức đúng bản chất của sự vật và tìm ra
phương hướng và giải pháp đúng cho hoạt động thực tiễn.
Phải phân tích cụ thể mâu thuẫn, xem xét quá trình phát sinh, phát triển của
từng mâu thuẫn, xem xét vai trò, vị trí và mối quan hệ lẫn nhau của các mâu thuẫn;
phải xem xét quá trình phát sinh, phát triển và vị trí từng mặt đối lập, mối quan hệ
tác động qua lại giữa chúng, điều kiện chuyển hoá lẫn nhau giữa chúng.
Không được điều hoà mâu thuẫn, để thúc đẩy sự vật phát triển phải tìm mọi
cách giải quyết mâu thuẫn.
Phải biết sử dụng, giải quyết mâu thuẫn trong hoàn cảnh cụ thể: việc đấu
tranh giải quyết mâu thuẫn phải phù hợp với trình độ phát triển của mâu thuẫn.
54
Phải tìm ra phương thức, phương tiện và lực lượng để giải quyết mâu thuẫn. Mâu
thuẫn chỉ được giải quyết khi điều kiện chín muồi. Một mặt phải chống thái độ chủ
quan, nóng vội; mặt khác, phải tích cực thúc đẩy các điều kiện khách quan để làm
cho các điều kiện giải quyết mâu thuẫn đi đến chín muồi. Mâu thuẫn khác nhau
phải có phương pháp giải quyết khác nhau. Phải tìm ra các hình thức giải quyết
khác nhau. Phải tìm ra các hình thức giải quyết mâu thuẫn một cách linh hoạt, vừa
phù hợp với từng loại mâu thuẫn, vừa phù hợp với điều kiện cụ thể.
3. Quy luật phủ định của phủ định
Vị trí trong phép biện chứng duy vật: vạch ra xu hướng, chiều hướng của sự
vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan.
a. Khái niệm phủ định và phủ định biện chứng
Phủ định là sự thay thế sự vật này bằng sự vật khác trong quá trình vận động
và phát triển. Bất cứ sự vật, hiện tượng nào trong thế giới đều trải qua quá trình
phát sinh, tồn tại, phát triển và diệt vong. Sự vật cũ mất đi được thay thế bằng sự
vật mới. Sự thay thế đó là tất yếu trong quá trình vận động và phát triển của sự vật.
Sự thay thế đó được triết học gọi là sự phủ định.
Quan điểm siêu hình coi sự phủ định là sự diệt vong hoàn toàn của cái cũ, sự
phủ định sạch trơn, chấm dứt hoàn toàn sự vận động và phát triển của sự vật. Họ đi
tìm nguyên nhân của sự phủ định ở bên ngoài sự vật, ở một hiện tượng siêu nhiên
nào đó.
Theo quan điểm duy vật biện chứng, sự chuyển hoá từ những thay đổi về
lượng dẫn đến những thay đổi về chất, sự đấu tranh thường xuyên của các mặt đối
lập làm cho mâu thuẫn được giải quyết, từ đó dẫn đến sự vật cũ mất đi, sự vật mới
ra đời thay thế.
Sự thay thế diễn ra liên tục tạo nên sự vận động và phát triển không ngừng
của sự vật. Sự vật mới ra đời là kết quả của sự phủ định sự vật cũ. Như vậy, sự phủ
định là tiền đề, điều kiện cho sự phát triển liên tục, cho sự ra đời của cái mới thay
thế cái cũ. Đó là phủ định biện chứng.

55
Phủ định biện chứng là phạm trù triết học dùng để chỉ sự phủ định tự thân, sự
phát triển tự thân, là mắt khâu trong quá trình dẫn tới sự ra đời sự vật mới, tiến bộ
hơn sự vật cũ.
Phủ định biện chứng có những đặc trưng cơ bản
Phủ định biện chứng mang tính khách quan: do nguyên nhân phủ định nằm
ngay trong bản thân sự vật. Đó chính là kết quả giải quyết những mâu thuẫn bên
trong của sự vật, nhờ đó sự vật luôn luôn phát triển. Ví dụ: Sự phát triển của phép
biện chứng là quá trình phủ định biện chứng liên tục từ phép biện chứng tự phát
thời cổ đại, phép biện chứng duy tâm của triết học cổ điển Đức đến phép biện
chứng duy vật.
Phủ định biện chứng mang tính kế thừa: phủ định biện chứng là kết quả của
sự phát triển tự thân của sự vật. Cái mới ra đời trên nền tảng của cái cũ chứ không
phải từ hư vô. Cái mới ra đời là sự phát triển tiếp tục của cái cũ trên cơ sở gạt bỏ
những mặt tiêu cực, lỗi thời, lạc hậu của cái cũ và chọn lọc, giữ lại, cải tạo những
mặt còn thích hợp, những mặt tích cực, bổ sung những mặt mới phù hợp với hiện
thực.
Phủ định biện chứng còn là sự liên kết giữa cái cũ và cái mới, sự vật cũ với sự
vật mới, giữa sự khẳng định với sự phủ định, quá khứ với hiện tại. Phủ định biện
chứng là mắt khâu tất yếu của mối liên hệ và sự phát triển.
b. Nội dung quy luật phủ định của phủ định
Tại sao gọi là phủ định của phủ định? Một là, do các sự vật, hiện tượng của
thế giới khách quan vận động, phát triển có tính chu kỳ. Để thực hiện một chu kỳ
phát triển thì sự vật phải thể hiện “hai” lần phủ định; hai là, phát triển là quá trình
phủ định liên tục từ thấp đến cao. Sau hai lần phủ định thì sự vật mới ra đời dường
như lặp lại một số mặt, một số yếu tố ban đầu nhưng trên cơ sở mới cao hơn; Ba là,
do tính chu kỳ như lập luận ở trên, nên quy luật này nó phản ánh đúng đắn chiều
hướng phát triển của sự vật theo hình “xoáy ốc”.
Sơ đồ của 1 chu kỳ phủ định biện chứng:
Khẳng định(Cũ) – phủ định – phủ định ═ khẳng định trên cơ sở mới(Mới).
(lần 1) (lần 2)
56
Ví dụ: từ sự khẳng định ban đầu (hạt thóc) trải qua sự phủ định lần 1 (cây lúa
phủ định hạt thóc) và sự phủ định lần 2 (những hạt thóc mới phủ định cây lúa) sự
vật dường như quay trở lại sự khẳng định ban đầu (hạt thóc) nhưng trên cơ sở cao
hơn (số lượng hạt thóc nhiều hơn, chất lượng hạt thóc thay đổi).
Hai lần phủ định có những đặc điểm cơ bản khác nhau:
Phủ định lần 1: làm cho sự vật cũ chuyển thành cái đối lập với mình.
Phủ định lần 2: làm cho sự vật mới ra đời. Sự vật này đối lập với cái được
sinh ra ở lần phủ định 1. Nó được bổ sung nhiều nhân tố mới.
Như vậy, sau hai lần phủ định sự vật dường như quay trở lại cái cũ nhưng trên
cơ sở mới cao hơn. Đây là đặc trưng quan trọng nhất của sự phát triển biện chứng
thông qua phủ định của phủ định.
Chú ý: Sự phủ định trong thực tế có thể phải trải qua một số lần phủ định mới
hoàn thành một chu kỳ phát triển.
Ví dụ: vòng đời của con tằm: trứng - tằm - nhộng - ngài - trứng.
Tổng hợp toàn bộ các vòng khâu của sự phát triển ta được con đường phát
triển theo hình xoáy ốc.
Khái quát nội dung cơ bản của quy luật: quy luật phủ định của phủ định nêu
lên mối liên hệ, sự kế thừa giữa cái khẳng định và cái phủ định, nhờ đó phủ định
biện chứng là điều kiện cho sự phát triển; nó bảo toàn nội dung tích cực của các
giai đoạn trước và bổ sung thêm những thuộc tính mới làm cho sự phát triển đi
theo đường “xoáy ốc”.
c. Ý nghĩa phương pháp luận
Giúp chúng ta nhận thức đúng đắn về xu hướng phát triển của sự vật. Quá
trình phát triển của bất kỳ sự vật nào cũng không bao giờ đi theo một đường thẳng,
mà diễn ra quanh co, phức tạp, trong đó bao gồm nhiều chu kỳ khác nhau. Chu kỳ
sau bao giờ cũng tiến bộ hơn chu kỳ trước. Xã hội loài người phát triển từ công xã
nguyên thuỷ, qua chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản sẽ đến xã hội phủ định xã
hội tư bản - chủ nghĩa cộng sản mà giai đoạn đầu là xã hội xã hội chủ nghĩa. Xã
hội tư bản đã, đang và sẽ tạo ra những tiền đề phủ định chính nó, đặt nền móng cho
xã hội phát triển cao hơn nó trong tương lai.
57
Ở mỗi chu kỳ phát triển sự vật có những đặc điểm riêng biệt. Do đó, chúng ta
phải hiểu những đặc điểm đó để có cách tác động phù hợp sao cho sự phát triển
nhanh hoặc chậm. Điều này phụ thuộc vào tác dụng của sự vật đối với đời sống
con người. Nếu sự vật có ích lợi cho con người thì phải đẩy nhanh sự phát triển của
nó, ngược lại nếu nó có hại thì phải kìm hãm sự phát triển của nó.
Trong sự phát triển của sự vật thì cái mới sẽ ra đời thay thế cái cũ. Do đó phải
chống thái độ phủ định sạch trơn.
Biết phát hiện cái mới đích thực, tạo điều kiện cho cái mới ra đời và cho sự
phát triển của cái mới.
Khắc phục tư tưởng bảo thủ, khư khư giữ lấy những cái đã lỗi thời, cản trở sự
phát triển.
Phải biết kế thừa có chọn lọc, có phê phán những tinh hoa, những mặt tích
cực, mặt tốt của cái cũ, bổ sung hoàn chỉnh những mặt mới phù hợp với hiện thực
khách quan.
V. LÝ LUẬN NHẬN THỨC DUY VẬT BIỆN CHỨNG
Nhận thức là gì? Nhận thức trải qua những giai đoạn chủ yếu nào, được thực
hiện dưới những hình thức nào? Chân lý là gì, vai trò của thực tiễn trong quá trình
nhận thức chân lý? Tất cả những vấn đề này và nhiều vấn đề chung khác có liên
quan đến việc nhận thức chân lý, từ lâu đã trở thành đối tượng nghiên cứu của lý
luận nhận thức.
1. Thực tiễn, nhận thức và vai trò của thực tiễn với nhận thức
a. Thực tiễn và các hình thức cơ bản của thực tiễn
Là một hiện tượng xã hội, ngay từ rất sớm, thực tiễn đã thu hút sự chú ý của
các nhà triết học. Các nhà triết học thời kỳ cổ đại cho rằng, nhận thức cảm tính gắn
bó chặt chẽ với hoạt động con người. Song, đó là hoạt động nhận thức đối tượng để
hình thành chân lý. Tuy họ chưa giải quyết vấn đề hình thành, phát triển và cấu
trúc của quá trình hoạt động đó, nhưng, chính họ là những người đặt nền móng cho
vấn đề hoạt động của con người trong quá trình nhận thức.
Ph.Bêcơn, nhà triết học duy vật Anh, người đặt nền móng cho sự phát triển
của chủ nghĩa duy vật siêu hình thế kỷ XVII-XVIII, khi đề cao vai trò của tri thức,
58
ông đã nhấn mạnh nhiệm vụ của triết học là tìm ra con đường nhận thức giới tự
nhiên. Theo ông, quá trình nhận thức phải kiên quyết chống chủ nghĩa kinh viện,
chủ nghĩa kinh nghiệm. Nhận thức về giới tự nhiên và thực nghiệm để tìm ra mối
quan hệ nhân quả, phát hiện và kiểm tra chân lý. Có thể nói, Bêcơn là nhà triết học
đầu tiên thấy được vai trò của thực tiễn, của thực nghiệm khoa học trong quá trình
nhận thức, trong quá trình hình thành tri thức.
Phoiơbắc, nhà triết học duy vật Đức đầu thế kỷ XIX, tuy có đề cập đến thực
tiễn, song ông không thấy được thực tiễn như là hoạt động vật chất cảm tính, có
tính năng động của con người. Do đó, ông đã coi thường hoạt động thực tiễn, xem
“thực tiễn là những hành động bẩn thỉu của các con buôn vỉa hè”, ông không hiểu
được vai trò, ý nghĩa của thực tiễn đối với việc nhận thức và cải tạo thế giới. Đối
với ông chỉ có hoạt động đích thực lý luận mới là quan trọng, mới là hoạt động
đích thực của con người.
Như vậy, các nhà triết học duy vật trước Mác không thấy được vai trò của
hoạt động thực tiễn đối với nhận thức, lý luận nên quan điểm của họ mang tính
chất trực quan. Chính vì thế, C.Mác đã đánh giá “Khuyết điểm chủ yếu của toàn bộ
chủ nghĩa duy vật từ trước đến nay kể cả chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc - là sự
vật, hiện thực, cái cảm giác được, chỉ được nhận thức dưới hình thức khách thể hay
hình thức trực quan, chứ không được nhận thức là hoạt động cảm giác được của
con người là thực tiễn”13.
Các nhà triết học duy tâm tuy đã thấy được mặt năng động, sáng tạo trong
hoạt động của con người nhưng lại phát triển lên một cách trừu tượng, thái quá. Vì
vậy, chủ nghĩa duy tâm cũng chỉ hiểu thực tiễn như là hoạt động tinh thần chứ
không hiểu nó như là hoạt động hiện thực, hoạt động vật chất cảm tính của con
người. Chẳng hạn, khi đề cập đến “ý niệm thực tiễn”, Hêghen, nhà triết học duy
tâm lớn nhất trước Mác đã có tư tưởng hợp lý sâu sắc là bằng thực tiễn, chủ thể tự
“nhân đôi” mình, đối tượng hoá bản thân mình trong quan hệ với thế giới bên

13
C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004, t.3,
tr.9.
59
ngoài. Song do quan điểm duy tâm nên ông chỉ giới hạn thực tiễn ở ý niệm, ở hoạt
động tư tưởng. Đối với Hêghen, thực tiễn là “suy lý lôgíc”.
Kế thừa và phát triển sáng tạo những yếu tố hợp lý trong những quan niệm về
thực tiễn của các nhà triết học trước đó, C.Mác và Ph.Ăngghen đã có quan niệm
đúng đắn, khoa học về thực tiễn và vai trò của nó đối với nhận thức cũng như đối
với sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Với việc đưa phạm trù thực tiễn
vào lý luận, C.Mác - Ph.Ăngghen đã thực hiện bước chuyển biến cách mạng trong
lý luận nói chung và trong lý luận nhận thức nói riêng. V.I.Lênin nhấn mạnh:
“Quan điểm về đời sống, về thực tiễn, phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý
luận về nhận thức”14.
Phạm trù thực tiễn là một trong những phạm trù nền tảng, cơ bản của lý luận
nhận thức Mácxít nói riêng, chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung. Thực tiễn là toàn bộ
hoạt động vật chất có mục đích, mang tính lịch sử - xã hội của con người nhằm cải
tạo tự nhiên và xã hội.
Khác với hoạt động tư duy, trong hoạt động thực tiễn, con người sử dụng
những công cụ vật chất tác động vào những đối tượng vật chất làm biến đổi chúng
theo mục đích của mình. Những hoạt động ấy là những hoạt động đặc trưng và bản
chất của con người. Nó được thực hiện một cách tất yếu khách quan và không
ngừng được phát triển bởi con người thông qua các thời kỳ lịch sử. Chính vì vậy
mà thực tiễn bao giờ cũng là hoạt động vật chất có mục đích và mang tính lịch sử -
xã hội.
Thực tiễn biểu hiện rất đa dạng với nhiều hình thức ngày càng phong phú,
song có ba hình thức cơ bản là hoạt động sản xuất vật chất, hoạt động chính trị xã
hội và hoạt động thực nghiệm khoa học.
Hoạt động sản xuất vật chất là hình thức cơ bản, quan trọng nhất của thực
tiễn. Lao động là cơ sở vật chất của các loại hoạt động khác của con người, là hoạt
động đã đưa con người từ một trạng thái thú vật lên trạng thái con người. Đây là
hoạt động mà trong đó con người sử dụng những công cụ lao động tác động vào

14
V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, tập 18, tr.167.
60
giới tự nhiên để tạo ra của cải và các điều kiện thiết yếu nhằm duy trì sự tồn tại và
phát triển của mình và xã hội.
Hoạt động chính trị xã hội là hoạt động của các tổ chức cộng đồng người
khác nhau trong xã hội nhằm cải biến những mối quan hệ xã hội để thúc đẩy xã hội
phát triển.
Hoạt động thực nghiệm khoa học là hình thức đặc biệt của thực tiễn. Thực
nghiệm bao gồm thực nghiệm sản xuất, thực nghiệm khoa học và thực nghiệm xã
hội. Những hình thức này của thực nghiệm cũng làm biến đổi giới tự nhiên và xã
hội. Thực nghiệm là những hoạt động của con người được tiến hành trong điều
kiện nhân tạo, tức là trong những điều kiện lặp lại những điều kiện tự nhiên (xã
hội) nhằm rút ngắn thời gian của các quá trình biến đổi để dựa trên cơ sở đó nhận
thức thế giới, chứng minh tính chân thực của nhận thức.
Mỗi hình thức hoạt động cơ bản ấy có một chức năng quan trọng khác nhau,
không thể thay thế được cho nhau. Song, giữa chúng có mối quan hệ chặt chẽ với
nhau, tác động qua lại lẫn nhau. Trong mối quan hệ đó, hoạt động sản xuất vật chất
là hoạt động cơ bản nhất, đóng vai trò quyết định đối với các hình thức hoạt động
khác. Bởi vì, nó là hoạt động nguyên thủy nhất và tồn tại một cách khách quan,
thường xuyên nhất trong đời sống của con người và nó tạo ra những điều kiện, của
cải thiết yếu có tính quyết định đối với sự sinh tồn và phát triển của con người.
Không có hoạt động sản xuất vật chất thì không thể có các hình thức hoạt động
khác. Các hình thức hoạt động khác suy cho cùng cũng xuất phát từ hoạt động sản
xuất vật chất và phục vụ cho hoạt động sản xuất của con người.
Như vậy, không có nghĩa là hình thức hoạt động chính trị xã hội và thực
nghiệm khoa học hoàn toàn thụ động, lệ thuộc vào hoạt động động sản xuất vật
chất. Ngược lại, chúng có tác động kìm hãm hoặc thúc đẩy hoạt động sản xuất phát
triển. Chính sự tác động qua lại giữa các hình thức hoạt động cơ bản đó làm cho
thực tiễn vận động, phát triển không ngừng và ngày càng có vai trò quan trọng đối
với nhận thức.
b. Nhận thức và các trình độ nhận thức

61
Quan niệm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về nhận thức khẳng định nhận
thức là quá trình phản ánh thế giới bên ngoài vào bộ óc con người. Lý luận nhận
thức của triết học Mác - Lênin được xây dựng trên những nguyên tắc cơ bản sau
đây:
Một là, thừa nhận sự tồn tại khách quan của thế giới vật chất (tồn tại ở bên
ngoài và độc lập) đối với ý thức. Nhận thức là sự phản ánh thực tại khách quan vào
bộ não người.
Hai là, thừa nhận khả năng nhận thức thế giới của con người. Về nguyên tắc,
không có cái gì là không thể biết mà chỉ là chưa biết được mà thôi.
Ba là, nhận thức là sự phản ánh hiện thực khách quan trải qua quá trình biện
chứng, tích cực, chủ động (tự giác) và sáng tạo. Nhận thức của con người là quá
trình đi từ chưa biết đến biết, từ biết ít đến biết nhiều, từ hiện tượng đến bản chất,
từ bản chất kém sâu sắc đến bản chất sâu sắc hơn.
Bốn là, coi thực tiễn là cơ sở chủ yếu và trực tiếp nhất của nhận thức; là động
lực, mục đích của nhận thức và là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý.
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, nhận thức là một quá
trình. Đó là quá trình đi từ trình độ nhận thức kinh nghiệm đến trình độ nhận thức
lý luận; từ trình độ nhận thức thông thường đến trình độ nhận thức khoa học.
Dựa vào khả năng phản ánh bản chất của đối tượng nhận thức, người ta chia
nhận thức thành nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận. Chúng là hai mức độ
nhận thức khác nhau về đối tượng, tính chất, chức năng cũng như hình thức và
trình tự phản ánh.
Nhận thức kinh nghiệm là nhận thức được hình thành từ sự quan sát trực tiếp
các sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội, trong các thí nghiệm khoa học và
trong các hình thức hoạt động thực tiễn không cơ bản khác. Kết quả của nhận thức
kinh nghiệm là những tri thức kinh nghiệm. Có hai loại tri thức kinh nghiệm là: Tri
thức kinh nghiệm thường và Tri thức kinh nghiệm khoa học. Cả hai loại tri thức
này có quan hệ mật thiết, thâm nhập lẫn nhau tạo ra tính phong phú, sinh động của
nhận thức kinh nghiệm.

62
Nhận thức lý luận là nhận thức gián tiếp, trừu tượng và khái quát về bản chất
và qui luật của các sự vật, hiện tượng. Nhận thức lý luận được hình thành trên cơ
sở tổng kết nhận thức kinh nghiệm. Cái khác của nhận thức lý luận so với nhận
thức kinh nghiệm nằm ở chỗ, nhận thức lý luận có chức năng phản ánh gián tiếp,
có tính khái quát và trừu tượng cao. Nhận thức lý luận chỉ tập trung phản ánh cái
bản chất mang tính quy luật của sự vật, hiện tượng. Do vậy, tri thức lý luận là sự
thể hiện chân lý một cách sâu sắc, chính xác và có hệ thống hơn nhận thức kinh
nghiệm.
Nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận là hai giai đoạn nhận thức khác
nhau, trong đó nhận thức kinh nghiệm là cơ sở của nhận thức lý luận, cung cấp cho
nhận thức lý luận những tư liệu cụ thể nhưng phong phú. Nhận thức kinh nghiệm
là dạng nhận thức còn bị hạn chế ở sự miêu tả, phân loại các sự kiện, dữ kiện đã
thu được từ sự quan sát và thí nghiệm trực tiếp. Do vậy, nhận thức kinh nghiệm “tự
nó không bao giờ chứng minh được tính tất yếu”. Nhận thức lý luận không xuất
hiện một cách tự phát từ nhận thức kinh nghiệm. Tính độc lập tương đối của nhận
thức lý luận nằm ở chỗ, lý luận có thể đi trước những dữ kiện kinh nghiệm, hướng
dẫn sự chọn lọc những tri thức kinh nghiệm có giá trị, lựa chọn những kinh nghiệm
hợp lý để phục vụ cho hoạt động thực tiễn, thông qua đó những tri thức kinh
nghiệm từ chỗ là cái cụ thể, riêng lẻ, đơn nhất được nâng lên thành những tri thức
khái quát, phổ biến.
Việc nắm vững bản chất, chức năng của từng loại nhận thức đó cũng là mối
quan hệ biện chứng giữa chúng và có ý nghĩa phương pháp luận quan trọng trong
việc đấu tranh khắc phục bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa và bệnh giáo điều. Bởi vì,
trong hoạt động nhận thức cũng như trong hoạt động thực tiễn, nếu tuyệt đối hóa
vai trò của nhận thức kinh nghiệm, coi thường nhận thức lý luận sẽ rơi vào chủ
nghĩa kinh nghiệm. Ngược lại, nếu tuyệt đối hóa vai trò của nhận thức lý luận, hạ
thấp nhận thức kinh nghiệm, không quan tâm đến nhận thức kinh nghiệm sẽ dẫn
đến căn bệnh giáo điều.
Nhận thức thông thường là nhận thức được hình thành một cách tự phát, trực
tiếp từ hoạt động hàng ngày của con người. Loại nhận thức này phản ánh sự vật,
63
hiện tượng xảy ra với tất cả những đặc điểm chi tiết, cụ thể và những sắc thái khác
nhau của sự vật, hiện tượng. Vì vậy, nhận thức thông thường mang tính phong phú,
gắn liền với những quan niệm sống thực tế hàng ngày, chi phối hoạt động của mọi
người trong xã hội.
Nhận thức khoa học là nhận thức được hình thành một cách tự giác và gián
tiếp từ sự phản ánh đặc điểm bản chất, những quan hệ tất yếu của đối tượng nghiên
cứu. Đây là sự phản ánh diễn ra dưới dạng trừu tượng, khái quát vừa có tính hệ
thống, có căn cứ và có tính chân thực. Sự phản ánh đó vận dụng một hệ thống các
phương pháp nghiên cứu và sử dụng ngôn ngữ thông thường và thuật ngữ khoa học
để diễn tả sâu sắc bản chất và quy luật của đối tượng nghiên cứu.
Nhận thức thông thường và nhận thức khoa học là hai nấc thang khác nhau về
chất của quá trình nhận thức đạt tới những tri thức chân thực. Giữa chúng có mối
quan hệ chặt chẽ với nhau. Trong mối quan hệ đó, nhận thức thông thường có
trước nhận thức khoa học và là cơ sở để xây dựng nội dung của các lý thuyết khoa
học. Mặc dù đã chứa đựng những mầm mống của những tri thức khoa học, song
nhận thức thông thường chủ yếu vẫn chỉ dừng lại ở những bề ngoài, ngẫu nhiên,
không bản chất của đối tượng và tự nó không thể chuyển thành nhận thức khoa học
được. Muốn phát triển thành nhận thức khoa học cần phải thông qua khả năng tổng
kết, trừu tượng, khái quát đúng đắn của các nhà khoa học. Ngược lại, khi đạt tới
trình độ nhận thức khoa học thì nó lại có tác động trở lại nhận thức thông thường,
xâm nhập vào nhận thức thông thường và làm cho nhận thức thông thường phát
triển, tăng cường nội dung khoa học cho quá trình nhận thức thế giới của con
người.
Như vậy, việc đạt tới tri thức khoa học trong quá trình nhận thức diễn ra theo
những cấp độ khác nhau từ nhận thức cảm tính đến nhận thức lý tính, từ nhận thức
kinh nghiệm đến nhận thức lý luận, từ nhận thức thông thường đến nhận thức khoa
học. Mỗi cấp độ nhận thức đó có những nội dung và ý nghĩa khác nhau, không
đồng nhất với nhau. Tuy nhiên, dù có diễn ra theo trật tự nào thì việc đạt đến
những tri thức về bản chất của sự vật vẫn chưa dừng lại ở đó mà nhận thức tiếp tục

64
tìm hiểu xem những tri thức đó có phải là chân lý hay không và những tri thức đó
là đúng đắn hay sai lầm lại được kiểm nghiệm qua thực tiễn.
c. Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức
Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức được thể hiện trước hết ở chỗ là cơ sở,
là động lực phát triển và là mục đích của nhận thức.
Ngay từ đầu, nhận thức đã do thực tiễn quy định, quan điểm về đời sống, về
thực tiễn phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận về nhận thức. Thực tiễn
là điểm xuất phát của nhận thức, là cơ sở, là nền tảng của sự hình thành và phát
triển kho tàng tri thức phong phú của con người về thế giới.
Thực tiễn là điểm xuất phát của nhận thức. Thực tiễn đề ra nhu cầu, nhiệm vụ,
cách thức và khuynh hướng vận động và phát triển của nhận thức. Chính nhu cầu
tất yếu, khách quan là giải thích và cải tạo thế giới buộc con người phải tác động
trực tiếp vào các sự vật, hiện tượng bằng hoạt động thực tiễn của mình. Chính sự
tác động đó đã làm cho các sự vật, hiện tượng bộc lộ những thuộc tính, những mối
liên hệ và các quan hệ khác nhau giữa chúng đem lại cho con người những tri thức,
giúp cho con người nhận thức được các qui luật vận động và phát triển (bản chất)
của thế giới. Trên cơ sở đó hình thành nên lý thuyết các khoa học. Ví dụ, toán học
cũng giống như tất cả các ngành khoa học khác, cũng nảy sinh ra từ nhu cầu thực
tiễn của con người. Chẳng hạn, xuất phát từ nhu cầu thực tiễn của con người cần
phải đo đạc “từ sự đo đạc diện tích và sự đong lường sức chứa của những cái bình,
từ sự tính toán thời gian và sự chế tạo cơ khí”. Học thuyết mácxít cũng xuất hiện từ
thực tiễn; học thuyết Gien (phát minh và giải mã Gien người và động, thực vật)
cũng ra đời từ hoạt động thực tiễn, từ nhu cầu chữa những căn bệnh nan y, gìn giữ
và phát triển các loài động, thực vật quý hiếm, tăng năng suất và chất lượng vật
nuôi, cây trồng,... Có thể nói, không một lĩnh vực khoa học nào lại không xuất phát
từ thực tiễn, không nhằm phục vụ, hướng dẫn thực tiễn. Do vậy, nếu không xuất
phát từ thực tiễn thì chủ thể nhận thức không thể có những tri thức đúng đắn và sâu
sắc về thế giới.

65
Thực tiễn là cơ sở của nhận thức còn là vì nhờ thực tiễn các giác quan và bộ
não của con người không ngừng được hoàn thiện và phát triển. Năng lực tư duy
trừu tượng ngày càng phát triển trong quá trình con người cải biến thế giới.
Thực tiễn chẳng những là cơ sở, động lực, mục đích của nhận thức mà nó còn
đóng vai trò là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý.
Vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con người có thể đạt tới chân lý khách quan
hay không, hoàn toàn không phải là vấn đề lý luận mà là một vấn đề thực tiễn.
Chính trong thực tiễn mà con người phải chứng minh chân lý.
Thực tiễn chẳng những là cơ sở, động lực, mục đích của nhận thức mà thực
tiễn còn đóng vai trò là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý. Bởi vì, thực tiễn là những
hoạt động vật chất có tính tất yếu khách quan, diễn ra độc lập đối với nhận thức.
Nó luôn luôn vận động và phát triển trong lịch sử. Nhờ đó mà thúc đẩy nhận thức
cùng vận động, phát triển. Mọi sự biến đổi của nhận thức suy cho cùng không thể
vượt ra ngoài sự kiểm tra của thực tiễn. Nó thường xuyên chịu sự kiểm nghiệm
trực tiếp của thực tiễn. Chính thực tiễn có vai trò là tiêu chuẩn, thước đo giá trị của
những tri thức đã đạt được trong nhận thức, đồng thời thực tiễn bổ sung, điều
chỉnh, sửa chữa, phát triển và hoàn thiện nhận thức.
Như vậy, thực tiễn chẳng những là điểm xuất phát của nhận thức, là yếu tố
đóng vai trò quyết định đối với sự hình thành và phát triển của nhận thức mà còn là
nơi nhận thức phải luôn luôn hướng tới để thể nghiệm tính đúng đắn của mình. Vì
thế mà thực tiễn vừa là cơ sở, động lực, mục đích của nhận thức, vừa là tiêu chuẩn
để kiểm tra nhận thức.
Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức, đòi hỏi chúng ta phải luôn quán triệt
quan điểm thực tiễn. Quan điểm này yêu cầu việc nhận thức phải xuất phát từ thực
tiễn, dựa trên cơ sở thực tiễn, phải coi trọng công tác tổng kết thực tiễn, đi sâu vào
thực tiễn, coi trọng công tác tổng kết kinh nghiệm thực tiễn. Việc nghiên cứu lý
luận phải gắn với thực tiễn. Nếu xa rời thực tiễn sẽ dẫn đến sai lầm của bệnh chủ
quan, duy ý chí, giáo điều, máy móc, quan liêu. Ngược lại, nếu tuyệt đối hóa vai
trò của thực tiễn sẽ rơi vào chủ nghĩa thực dụng, kinh nghiệm chủ nghĩa.
2. Con đường biện chứng của nhận thức chân lý
66
a. Quan điểm của V.I.Lênin về con đường biện chứng của sự nhận thức
chân lý
Nhận thức là một quá trình biện chứng diễn ra rất phức tạp, bao gồm nhiều
giai đoạn, trình độ, vòng khâu và hình thức khác nhau. Ở mỗi cấp độ có nội dung,
chức năng và ý nghĩa khác nhau trong quá trình nhận thức và hoạt động thực tiễn
của chủ thể.
Trong tác phẩm Bút ký triết học, V.I.Lênin đã khái quát con đường biện
chứng của sự nhận thức chân lý như sau: Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu
tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn - đó là con đương biện chứng của nhận
thức chân lý, của sự nhận thức hiện thực khách quan.
Giai đoạn nhận thức cảm tính đến nhận thức lý tính
Nhận thức cảm tính
Nhận thức cảm tính (hay còn gọi là trực quan sinh động) là giai đoạn đầu tiên
của quá trình nhận thức. Đó là giai đoạn mà con người sử dụng các giác quan để
tác động trực tiếp vào các sự vật nhằm nắm bắt các sự vật ấy. Nét đặc trưng cơ bản
để phân biệt trực quan sinh động với tư duy trừu tượng là nhận thức trong giai
đoạn trực quan này được thực hiện trong mối liên hệ sinh động trực tiếp với thực
tiễn cải tạo thế giới hiện thực thông qua các hình thức nhận thức cảm tính khác
nhau như cảm giác, tri giác và biểu tượng.
Cảm giác là tri thức được sinh ra do sự tác động trực tiếp của khách thể nhận
thức lên các giác quan của chủ thể nhận thức, nghĩa là cảm giác là sự chuyển hoá
năng lượng kích thích từ bên ngoài thành một sự kiện thuộc về ý thức. Nguồn gốc
và nội dung của cảm giác là thế giới khách quan, còn về bản chất của cảm giác thì
V.I.Lênin viết: “Cảm giác là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan” 1.
Cảm giác là hình thức đầu tiên, đơn giản nhất của nhận thức ở giai đoạn trực
quan sinh động. Cảm giác chỉ phản ánh những mặt, những khía cạnh, những thuộc
tính riêng biệt của sự vật nhờ năm giác quan của con người là mắt, mũi, tai, lưỡi,
da. Cảm giác đưa lại cho con người những thông tin trực tiếp, đơn giản nhất về sự
11
V.I.Lênin:Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva,1981, t.18, tr.138.

67
vật, hiện tượng như màu sắc, mùi vị, độ cứng, để từ đó hình thành những hình thái
khác, phức tạp hơn của nhận thức.
Nếu chỉ dừng lại ở cảm giác thì nhận thức mới chỉ hiểu biết được từng thuộc
tính riêng lẻ của các sự vật, hiện tượng. Điều đó là không đủ, bởi vì muốn tìm hiểu
bản chất của sự vật hiện tượng phải nắm được một cách tương đối toàn vẹn các
thuộc tính của sự vật hiện tượng ấy. Đây là một điều tất yếu của quá trình nhận
thức và cũng là một mâu thuẫn trong nhận thức cần giải quyết. Vì thế, nhận thức
không dừng lại ở cảm giác mà tiến lên tri giác.
Tri giác được cấu thành từ nhiều cảm giác riêng biệt, đó là sự tổng hợp các
cảm giác vào trong một mối liên hệ thống nhất để tạo nên một hình ảnh cảm tính
trực tiếp hoàn chỉnh về sự vật. Tri giác được hình thành do hoạt động phối hợp, bổ
sung lẫn nhau của nhiều giác quan. Do vậy, tri giác là sự tổng hợp những thuộc
tính khác nhau của sự vật, hiện tượng do các cảm giác riêng lẻ đưa lại. Tuy vậy,
hình thái này của nhận thức chỉ mới phản ánh được sự vật, hiện tượng trong một
thời gian và địa điểm nhất định. Cũng như cảm giác, tri giác mang tính trực tiếp, có
nghĩa là không có khách thể nhận thức trực tiếp và các giác quan của chủ thể nhận
thức thì không có tri giác, vì thế, tri giác không phản ánh được quá khứ và tương
lai của khách thể nhận thức
Biểu tượng là hình thức cao nhất và phức tạp nhất của nhận thức cảm tính, là
hình ảnh cảm tính của nhận thức về sự vật, hiện tượng được tri giác lưu lại trong
bộ não người và do một tác động nào đó được tái dựng lại trong bộ não người khi
khách thể nhận thức đã không còn nằm trong tầm tri giác của chủ thể nhận thức.
Biểu tượng được hình thành nhờ sự phối hợp hoạt động, bổ sung lẫn nhau của
các giác quan, có sự tham gia của các yếu tố phân tích, trừu tượng và khả năng ghi
nhận thông tin về khách thể nhận thức của não người để tái hiện khách thể nhận
thức đó ở trong não người khi đã không còn sự tác động trực tiếp giữa con người
và sự vât, hiện tượng. Do vậy, biểu tượng tuy đã là hình ảnh cảm tính hoàn chỉnh
về khách thể của nhận thức nhưng biểu tượng đã phản ánh khách thể nhận thức
một cách gián tiếp.

68
Kết quả của nhận thức trong giai đoạn trực quan sinh động này không những
chỉ là những hiểu biết bề ngoài về khách thể của nhận thức, mà còn, như V.I.Lênin
nhận xét “cảm giác xuất hiện như là cái gì nguyên thuỷ nhất và trước tiên nhất,
nhưng ở cảm giác, tất nhiên là đã có chất rồi” 1. Tuy vậy, các hình thức của nhận
thức trong giai đoạn trực quan sinh động không thể đưa lại cho chúng ta những
hiểu biết về khách thể nhận thức một cách chỉnh thể, khái quát. Biểu tượng, hình
thức cao nhất trong giai đoạn này của nhận thức có thể hình dung được sự khác
nhau và mâu thuẫn nhưng không nắm được sự chuyển hoá từ cái này sang cái kia
của sự vật, hiện tượng.
Như vậy, cảm giác, tri giác, biểu tượng là những hình thức khác nhau của giai
đoạn đầu tiên trong quá trình nhận thức. Mọi sự nhận thức về khách thể nhận thức
đều bắt đầu từ giai đoạn này.
Nhưng, chỉ bằng trực quan sinh động, chủ thể nhận thức không thể nhận thức
được những mối liên hệ bản chất và các quy luật chi phối sự vận động và phát triển
của các khách thể nhận thức. Yêu cầu của nhận thức đòi hỏi phải tách ra và nắm
lấy cái bản chất, tất yếu, bên trong, chỉ có chúng mới có vai trò quan trọng cho
hoạt động thực tiễn và nhận thức của con người.
Như vậy, dừng lại ở nhận thức cảm tính sẽ gặp phải mâu thuẫn giữa một bên
là thực trạng chưa phân biệt được đâu là cái bản chất, tất yếu, bên trong, đâu là cái
không bản chất, ngẫu nhiên bên ngoài với một bên là nhu cầu tất yếu phải phân
biệt được những cái đó thì con người mới có thể nắm được quy luật vận động và
phát triển của sự vật. Để làm được việc đó, nhận thức của chủ thể phải chuyển sang
giai đoạn cao hơn của quá trình nhận thức: đó là tư duy trừu tượng.
Nhận thức lý tính (tư duy trừu tượng)
Nhận thức lý tính bắt nguồn từ trực quan sinh động. Đây là giai đoạn phản
ánh gián tiếp, trừu tượng và khái quát những thuộc tính, những đặc điểm bản chất
của đối tượng. Đây là giai đoạn nhận thức thực hiện chức năng quan trong nhất là
tách ra và nắm lấy cái bản chất có tính quy luật của các sự vật hiện tượng. Nhận
11
V.I.Lênin:Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mát xcơva,1980, t.29, tr.359.

69
thức lý tính cũng phản ánh hiện thực khách quan, nhưng khác với nhận thức cảm
tính, đó là sự phản ánh sâu sắc hơn, chính xác hơn và đầy đủ hơn về khách thể của
nhận thức.
Khái niệm là hình thức cơ bản của tư duy trừu tượng, là kết quả của sự tổng
hợp, khái quát biện chứng những tài liệu thu nhận được về khách thể nhận thức
nhờ thực tiễn và hoạt động nhận thức. Các tài liệu đó ngày càng nhiều, ngày càng
phong phú thì các khái niệm cũng ngày một nhiều và giữa chúng có các mối liên
hệ qua lại với nhau.
Mỗi một khái niệm nằm trong mối liên hệ, mối quan hệ với tất cả các khái
niệm khác đang tham gia vào quá trình nhận thức tiếp theo về khách thể của nhận
thức. Điều đó dẫn đến sự hình thành những khái niệm mới, cụ thể hơn, phản ánh
sâu sắc hơn về bản chất của khách thể. Khái niệm phản ánh cả một tập hợp những
thuộc tính cơ bản có tính bản chất và có tính chất chung của sự vật, hiện tượng.
Phán đoán là hình thức liên hệ giữa các khái niệm, là hình thức phản ánh mối
liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan vào ý thức của con
người.
Ví dụ: phán đoán “Hà nội là thủ đô nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt
Nam”, thì cái được phản ánh trong phán đoán đó không phải là các sự vật được nêu
ra trong các khái niệm “Hà nội” và “Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam”, mà là
mối quan hệ giữa hai khái niệm tạo thành phán đoán đó, tức hệ ngữ “là”.
Có ba loại phán đoán cơ bản: Phán đoán đơn nhất, phán đoán đặc thù, phán
đoán phổ biến. Trong ba loại phán đoán cơ bản này, phán đoán phổ biến là hình
thức diễn đạt đầy đủ các qui luật nhất. Trong một số giáo trình triết học, người ta
còn chia phán đoán thành phán đoán khẳng định và phán đoán phủ định, tùy theo
phán đoán có hay không phản ánh sự có mặt của một thuộc tính nào đó của sự vật,
hiện tượng.
Nếu khái niệm phản ánh những thuộc tính chung, bản chất của các sự vật,
hiện tượng thì phán đoán phản ánh những mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng
và các mặt trong chúng. Vì vậy, phán đoán là hình thức biểu hiện và diễn đạt các
quy luật khách quan.
70
Suy luận là hình thức của tư duy liên kết các phán đoán lại với nhau để rút ra
tri thức mới. Chẳng hạn, để có tri thức mới, khái quát về một lớp đối tượng nào đó
trong phán đoán phổ biến, phải có sự liên kết giữa phán đoán đơn nhất với phán
đoán đặc thù.
Ví dụ: nếu liên kết phán đoán “đồng dẫn điện” với phán đoán “đồng là kim
loại”, ta suy ra được tri thức mới, biểu hiện trong phán đoán mới “mọi kim loại đều
dẫn điện”. Tùy theo sự kết hợp giữa các phán đoán theo trật tự nào đó mà người ta
có được hình thức suy luận quy nạp hay diễn dịch.
Ngoài suy luận, trực giác cũng có chức năng phát hiện ra tri thức mới một
cách nhanh chóng và đúng đắn. Như vậy, nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính
là những nấc thang hợp thành chu trình nhận thức. Chúng có những nhiệm vụ và
chức năng khác nhau. Nếu nhận thức cảm tính gắn liền với hoạt động thực tiễn, với
sự tác động của khách thể cảm tính, là cơ sở cho nhận thức lý tính thì nhận thức lý
tính, nhờ có tính khái quát cao, lại có thể hiểu biết được bản chất, quy luật vận
động và phát triển sinh động của sự vật, giúp cho nhận thức cảm tính có định
hướng đúng và trở nên sâu sắc.
Trực quan sinh động và tư duy trừu tượng là hai giai đoạn của một quá trình
nhận thức. Tuy có những sự khác biệt về mức độ phản ánh hiện thực khách quan,
nhưng giữa hai quá trình đó có sự liên hệ, tác động qua lại. Trong lịch sử triết học,
có những quan điểm tách rời và tuyệt đối hoá một trong hai giai đoạn của quá trình
nhận thức: Những người theo chủ nghĩa duy lý đã cường điệu, khuếch đại vai trò
của nhận thức lý tính, hạ thấp vai trò của tri thức do nhận thức cảm tính mang lại.
Chủ nghĩa duy cảm lại đề cao vai trò của tri thức do nhận thức cảm tính, hại thấp
vai trò của nhận thức lý tính. Sai lầm cơ bản của cả hai quan điểm trên là xem xét
quá trình nhận thức một cách phiến diện, không thấy được sự thống nhất biện
chứng giữa hai giai đoạn của một quá trình nhận thức. Trên thực tế, nhận thức lý
tính không thể thực hiện được nếu thiếu những tài liệu do nhận thức cảm tính
mang lại. Nhận thức cảm tính (trực quan sinh động) là cơ sở tất yếu của tư duy lô-
gíc, tư duy trừu tượng, ngược lại, nhận thức lý tính sẽ làm cho nhận thức cảm tính
sâu sắc và chính xác hơn. Nhưng, tư duy trừu tượng là sự phản ánh gián tiếp hiện
71
thực khách quan, cho nên có khả năng sự phản ánh đó phản ánh sai lệch hiện thực.
Chính vì vậy, kết quả tri thức do tư duy trừu tượng mang lại phải được kiểm tra
bằng thực tiễn, phân biệt những tri thức đúng và những tri thức chưa đúng. Mặt
khác, tư duy trừu tượng phải trở về thực tiễn để áp dụng vào thực tiễn, giúp cho
hoạt động thực tiễn có hiệu quả.
Mỗi giai đoạn nhận thức có những nét đặc trưng riêng. Nhận thức ở giai đoạn
cảm tính gắn liền với thực tiễn, gắn liền với sự tác động trực tiếp của khách thể
nhận thức lên các giác quan của chủ thể nhận thức. Nhận thức ở giai đoạn lý tính là
nhận thức được thoát ra khỏi sự tác động trực tiếp của khách thể nhận thức để có
thể bao quát sự vật, hiện tượng “trong tính tất yếu của nó, trong những quan hệ
toàn diện của nó”1 và trong sự vận động, chuyển hoá của nó. Tuy vậy, kết quả nhận
thức ở giai đoạn này nhất thiết phải được thực tiễn kiểm nghiệm, chứng minh
nhằm tránh nguy cơ nhận thức lý tính trở thành ảo tưởng, viển vông và không thực
tế. Trong đó, thực tiễn giữ vai trò là điểm bắt đầu và khâu kết thúc của chu trình
đó. Thực tiễn đóng vai trò kiểm nghiệm tính chân thực khách quan của các kết quả
nhận thức mà con người thu nhận được trong chu trình nhận thức. Nhưng, sự kết
thúc chu trình nhận thức này lại là sự khởi đầu của chu trình nhận thức mới ở mức
độ cao hơn, rộng hơn chu trình cũ và cứ thế vận động mãi mãi làm cho nhận thức
của con người ngày càng đi sâu nắm được bản chất và quy luật của thế giới khách
quan, phục vụ cho hoạt động biến đổi thế giới. Sự phân chia quá trình nhận thức
như trên thực ra chỉ là sự trừu tượng hoá quá trình vận động của nhận thức, trên
thực tế, nhận thức cảm tính, nhận thức lý tính và các thành phần của chúng luôn
đan xen vào nhau và thực tiễn là cơ sở của toàn bộ quá trình nhận thức. Mỗi kết
quả của nhận thức, mỗi nấc thang mà con người đạt được trong việc nhận thức thế
giới khách quan đều là kết quả của cả “trực quan sinh động” và “tư duy trừu
tượng” được thực hiện trên cơ sở thực tiễn, do thực tiễn quy định. Trong đó, “trực
quan sinh động” là điểm khởi đầu, “tư duy trừu tượng” tổng hợp những tri thức của
“trực quan sinh động” thành các kết quả của nhận thức và thực tiễn là nơi kiểm

11
V.I.Lênin:Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1981, t.29, tr.227.
72
nghiệm tính chân thực của các kết quả của nhận thức đó. Đó chính là con đường
biện chứng của nhận thức.
Con đường biện chứng nói trên của nhận thức không bị gián đoạn khi lặp lại
chu trình của nhận thức: trực quan sinh động -> tư duy trừu tượng -> thực tiễn trên
những cơ sở mới cao hơn, rộng hơn và bao quát hơn để giải quyết những mâu
thuẫn giữa biết và không biết, giữa biết ít và biết nhiều, giữa chân lý và sai lầm,
giữa tính khách quan và tính chủ quan của nhận thức, không ngừng nảy sinh trên
con đường phát triển của nhận thức.
b. Chân lý và vai trò của chân lý đối với thực tiễn
* Khái niệm chân lý
Khi bàn về vấn đề chân lý, các nhà triết học đã có nhiều quan điểm khác
nhau, triết học thực chứng cho rằng chân lý là những tư tưởng, những quan điểm
được nhiều người thừa nhận. Đây là một quan niệm phiến diện, bởi vì trong thực tế
không phải bất kỳ luận điểm nào được nhiều người thừa nhận cũng là đúng đắn.
Có những luận điểm, do sự thỏa hiệp của đa số đã xuyên tạc, bóp méo sự thật, cố
tình che đậy sự thật để lấn át thiểu số và như thế vấn đề chân lý phụ thuộc hoàn
toàn vào yếu tố chủ quan.
Chủ nghĩa phát xít lại đưa ra quan niệm cực đoan hơn về chân lý. Họ cho rằng
chân lý là những luận điểm của kẻ mạnh, hay chân lý thuộc về kẻ mạnh. Đây là
một quan niệm sai lầm, bởi vì nó coi yếu tố quyền lực, sức mạnh của chủ thể nhận
thức làm nội dung bản chất của chân lý; dùng yếu tố chủ quan để xác định giá trị
của những tri thức đã đạt được, phủ nhận tính khách quan của tri thức mà con
người đã đạt được trong quá trình nhận thức thế giới.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng chân lý là những tri thức phù hợp với
hiện thực khách quan và được thực tiễn kiểm nghiệm. Triết học Mác - Lênin cho
rằng chân lý bao giờ cũng là chân lý khách quan. Chân lý là khách quan không
phải vì nó tồn tại ở đâu đó bên ngoài và độc lập với nhận thức của con người mà vì
nội dung của nó có tính khách quan, phù hợp với khách thể nhận thức.
Quan niệm như vậy về chân lý đã khẳng định chân lý là sản phẩm của quá
trình nhận thức về thế giới của con người. Chân lý được hình thành, phát triển dần
73
từng bước phụ thuộc vào điều kiện lịch sử cụ thể của nhận thức, vào hoạt động
thực tiễn và hoạt động nhận thức của con người.
Chân lý không phải là một sản phẩm có sẵn mà là một quá trình. Chân lý
được hình thành và phát triển dần dần, từng bước, phụ thuộc vào những điều kiện
lịch sử cụ thể của chủ thể nhận thức trong thực tiễn, trong hoạt động nhận thức và
ngày càng phản ánh hiện thực khách quan một cách sâu sắc hơn, đầy đủ hơn. Do
đó, chân lý vừa có tính tương đối, vừa có tính tuyết đối. Các khái niệm chân lý
tuyệt đối và chân lý tương đối phản ánh tính biện chứng của chân lý.
Các tính chất của chân lý
Chân lý có tính khách quan bởi vì nội dung mà chân lý phản ánh có tính
khách quan, phù hợp với khách thể nhận thức. Bản chất quan niệm của chủ nghĩa
duy vật biện chứng về tính khách quan của chân lý là thừa nhận nguồn gốc khách
quan, nghĩa là độc lập với con người, của cảm giác, của tri thức của con người về
thế giới? Thừa nhận chân lý khách quan là tri thức có nội dung phù hợp với khách
thể nhận thức, lý luận về nhận thức của triết học Mác - Lênin đồng thời cũng cho
rằng sự phù hợp với nội dung của khách thể của nhận thức là chân lý khách quan.
Phải trải qua một quá trình thì nhận thức của con người mới đạt đến chân lý bởi vì
chân lý? Nếu chân lý là một quá trình, thì chúng ta có một vấn đề cần phải giải
quyết: đó là quá trình nhận thức chân lý được hình thành như thế nào, ngay một
lúc, ngay trong một quá trình thì nhận thức chân lý đã đạt tới mức hoàn toàn, đầy
đủ, tuyệt đối hay chỉ như vậy ở từng phần, từng mảng và tương đối? Đây chính là
mối quan hệ giữa chân lý tương đối và chân lý tuyệt đối.
Trong chân lý khách quan, các yếu tố tuyệt đối và tương đối liên hệ biện
chứng với nhau: chân lý tương đối bao giờ cũng hàm chứa một hay nhiều yếu tố
của chân lý tuyệt đối. Chính vì vậy các chân lý tương đối là các bậc thang trong
quá trình nhận thức của con người đi tới chân lý tuyệt đối. Chân lý tuyệt đối chỉ có
thể hình thành và tồn tại thông qua chân lý tương đối.
Chân lý tương đối là tri thức đúng nhưng chưa hoàn toàn đầy đủ của chủ thể
nhận thức đối với nội dung của khách thể nhận thức. Sự phù hợp giữa nội dung của
khách thể nhận thức với tri thức của chân lý tương đối chỉ là sự phù hợp ở từng bộ
74
phận, ở từng phần, ở một số mặt, ở một số khía cạnh nào đó nhưng cũng đã phản
ánh được một phần nào đó của bản thân khách thể nhận thức. Tại sao lại nảy sinh
chân lý tương đối trên con đường nhận thức chân lý của chủ thể nhận thức? Tính
tương đối của chân lý là do sự tác động của các giới hạn của các hoàn cảnh và điều
kiện lịch sử, của trình độ phát triển của thực tiễn xã hội lên nhận thức của con
người, của thế hệ người, thậm chí lên nhận thức của cả nhân loại trong bất kỳ thời
điểm nào của lịch sử, trong khi đó, các sự vật, hiện tượng khách quan là hết sức đa
dạng, chúng không ngừng vận động và phát triển nên luôn bộc lộ ra những thuộc
tính và quan hệ mới mà nhận thức của chúng ta cần phải theo kịp, phải nhận biết.
Cùng với sự phát triển của thực tiễn là sự phát triển của nhận thức khoa học. Sự
phát triển đó của nhận thức khoa học sẽ không ngừng phát hiện ra những thiếu sót,
sai lầm mà nhận thức của con người phạm phải để phát triển chân lý tương đối
theo hướng tiếp cận đến chân lý tuyệt đối. Chân lý tương đối chứa trong mình
“những yếu tố của chân lý tuyệt đối” cũng phát triển và ngày càng “trở nên chính
xác hơn”, đầy đủ hơn để trở thành chân lý tuyệt đối.
Chân lý tuyệt đối là tri thức của chủ thể nhận thức có nội dung phù hợp hoàn
toàn, đầy đủ với khách thể nhận thức mà nó phản ánh.
Ví dụ: “Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một. Sông có thể cạn,
núi có thể mòn, nhưng chân lý ấy không bao giờ thay đổi” là một chân lý tuyệt đối.
Một vấn đề đặt ra là liệu nhận thức của con người có đem lại một tri thức
hoàn toàn phù hợp và đầy đủ với khách thể nhận thức hay không? Câu trả lời là có
thể, bởi vì nếu thừa nhận tính khách quan của chân lý, có nghĩa là thừa nhận tính
tuyệt đối của chân lý, thừa nhận chân lý tuyệt đối. Con người nhận thức được thế
giới và nội dung của tri thức đó có tính khách quan, cho nên xét về bản chất, xét
trong kết quả và xét trong quá trình phát triển lâu dài của mình, nhận thức của con
người- thông qua các thế hệ người kế tiếp nhau trong lịch sử, về nguyên tắc là có
thể phản ánh đầy đủ, chính xác bản chất của sự vật, hiện tượng trong tính chỉnh thể
và nguyên vẹn của nó.
Chân lý tương đối và chân lý tuyệt đối có mối quan hệ biện chứng với nhau;
được thể hiện cụ thể ở những điểm sau đây: sự khác nhau giữa chân lý tương đối
75
và chân lý tuyệt đối không thuộc về bản chất mà chỉ ở mức độ phù hợp giữa nội
dung của chúng đối với khách thể nhận thức được chúng phản ánh. Sự khác biệt đó
là tồn tại nhưng không ngừng bị xoá bỏ và lại được xác lập, nó vận động theo đà
phát triển của nhận thức khoa học. Tuy vậy, cả chân lý tương đối lẫn chân lý tuyệt
đối đều là những hình thức biểu hiện khác nhau của chân lý khách quan. Phép biện
chứng duy vật thừa nhận tính tương đối của tri thức con người theo nghĩa thừa
nhận những giới hạn của sự nhận thức, điều này không có nghĩa là phủ nhận chân
lý khách quan, không phủ nhận tính chân thực khách quan của các tri thức đã đạt
được. Chân lý tuyệt đối được tạo nên từ những chân lý tương đối đang phát triển,
V.I.Lênin viết: “Chân lý tuyệt đối được cấu thành từ tổng số những chân lý tương
đối đang phát triển, chân lý tương đối là những phản ánh tương đối đúng của một
khách thể tồn tại độc lập đối với nhân loại, những phản ánh ấy ngày càng trở nên
chính xác hơn; mỗi chân lý khoa học, dù là có tính tương đối, vẫn chứa đựng một
yếu tố của chân lý tuyệt đối”1.
Chân lý có tính cụ thể
Chân lý mang tính khách quan và tính cụ thể. Hai tính chất này của chân lý
gắn liền chặt chẽ với nhau. Tính cụ thể của chân lý là do tính cụ thể của khách thể
nhận thức quy định: Các sự vật, hiện tượng (khách thể nhận thức) bao giờ cũng tồn
tại một cách khách quan, trong tính cụ thể của chúng. Nhận thức của con người
(chủ thể nhận thức) là sự phản ánh về các sự vật, hiện tượng đó trong những điều
kiện tồn tại, trong những quan hệ xác định của chúng. Thoát ly khỏi những điều
kiện khách quan - cụ thể đó của khách thể nhận thức hoặc mở rộng khỏi phạm vi
tồn tại và thoát ly khỏi những quan hệ xác định của khách thể nhận thức thì chân lý
sẽ không còn là chân lý khách quan.
Ví dụ: các định luật cơ học cổ điển đều là chân lý khoa học, nhưng tính chân
lý của các định luật đó chỉ được thể hiện trong một lĩnh vực hết sức xác định.
Chúng phản ánh đúng sự vận động của các vật thể vĩ mô nhưng không còn là chân

11
V.I.Lênin:Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva,1980, t.18, tr.383.

76
lý khi phản ánh sự vận động của các vật thể vi mô. “Nước sôi ở 100 độ C”, chỉ
đúng trong điều kiện áp suất của không khí là 1 átmốtphe (760 mm Hg).
Luận điểm của triết học Mác - Lênin cho rằng chân lý là cụ thể, không có
chân lý trừu tượng đã trở thành nguyên tắc lịch sử - cụ thể của phương pháp biện
chứng duy vật để nhận thức và cải tạo thế giới.
* Vai trò của chân lý đối với nhận thức
Để sinh tồn và phát triển, con người phải tiến hành những hoạt động thực tiễn.
Đó là các hoạt động cải biến môi trường tự nhiên và xã hội, đồng thời cũng qua đó
con người thực hiện một cách tự giác quá trình hoàn thiện và phát triển chính bản
thân mình. Chính quá trình này đã làm phát sinh và phát triển hoạt động nhận thức
của con người. Hoạt động thực tiễn chỉ có thể thành công và có hiệu quả một khi
con người vận dụng được những tri thức đúng đắn về thực tế khách quan trong
chính hoạt động thực tiễn của mình. Vì vậy, chân lý là một trong những điều kiện
tiên quyết đảm bảo sự thành công và tính hiệu quả trong hoạt động thực tiễn.
Mối quan hệ giữa chân lý và hoạt động thực tiễn là mối quan hệ biện chứng
trong quá trình vận động, phát triển của cả chân lý và thực tiễn: chân lý phát triển
nhờ thực tiễn và thực tiễn phát triển nhờ vận dụng đúng đắn những chân lý mà con
người đã đạt được trong hoạt động thực tiễn.
Như vậy, lần đầu tiên trong lịch sử tư tưởng của loài người, C.Mác coi thực
tiễn là tiêu chuẩn khách quan, duy nhất và là thước đo của chân lý. C.Mác viết:
“Vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con người có thể đạt tới chân lý khách quan hay
không, đó hoàn toàn không phải là một vấn đề lý luận mà là một vấn đề thuộc về
thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà con người phải chứng minh chân lý” 15.
Sở dĩ thực tiễn có thể trở thành tiêu chuẩn, thước đo tính chân thực của các
kết quả của nhận thức, trong đó có chân lý, bởi vì thực tiễn là hoạt động vật chất có
tính lịch sử - xã hội của con người, thực tiễn có đặc tính phổ biến và tính hiện thực
trực tiếp. Chỉ có thông qua thực tiễn thì tính khách quan và tính cụ thể của tri thức
mới được thể hiện trong hình thức trực tiếp và tính xác thực cảm tính - vật chất.

15
C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, t.3,
tr.10
77
Thực tiễn tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau nên các hình thức kiểm
nghiệm tri thức đã là chân lý cũng được thực hiện trong những hình thức khác
nhau: đó có thể là áp dụng thành công những phát minh khoa học vào sản xuất; là
những thành công trong lĩnh vực chính trị - xã hội của những chủ trương, chính
sách đúng, phù hợp với từng giai đoạn cụ thể của lịch sử; đó cũng có thể là những
thành công trong việc chinh phục khoảng không vũ trụ để chứng minh cho những
nhận thức đúng đắn mà con người tích luỹ được về các quy luật khách quan chi
phối khoảng không đó.
Thực tiễn, với tư cách là tiêu chuẩn, là thước đo của tính khách quan, tính
chân thật của các tri thức đã trở thành chân lý, cũng tự thân vận động và phát triển.
Do vậy, ngay cả khi thực tiễn đang chi phối việc kiểm nghiệm chân lý, thì thực tiễn
đó cũng vẫn chưa đủ “sức mạnh” để có thể xác nhận hoặc bác bỏ hoàn toàn chân lý
đó, có nghĩa là, việc kiểm nghiệm chân lý cũng phải là một quá trình cần phải thực
hiện nhiều lần, và chỉ có như vậy, sự hiểu biết của con người về khách thể nhận
thức mới ngày càng trở nên chính xác, đầy đủ và sâu sắc hơn
CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ

I. VAI TRÒ CỦA SẢN XUẤT VẬT CHẤT VÀ QUY LUẬT QUAN HỆ SẢN
XUẤT PHÙ HỢP VỚI TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN
CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT
1. Sản xuất vật chất và vai trò của nó
a. Sản xuất vật chất và phương thức sản xuất
Hoạt động đặc trưng của con người và xã hội loài người là sản xuất. Bởi theo
Ph.Ăngghen: “điểm khác biệt căn bản giữa xã hội loài người với xã hội loài vật là
ở chỗ: loài vật may lắm chỉ hái lượm, trong khi con người lại sản xuất” 16. Sản xuất
xã hội bao gồm: sản xuất vật chất, sản xuất tinh thần và sản xuất ra bản thân con
người. Ba quá trình đó gắn bó chặt chẽ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau, trong
đó sản xuất vật chất là cơ sở của sự tồn tại và phát triển của xã hội.
16
C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1998, t.34,
tr.241.

78
Sản xuất vật chất là quá trình con người sử dụng công cụ lao động tác động
vào tự nhiên, cải biến các dạng vật chất của giới tự nhiên nhằm tạo ra của cải vật
chất thỏa mãn nhu cầu tồn tại và phát triển của con người.
Bất kỳ một quá trình sản xuất vật chất nào cũng được tiến hành với mục đích
nhất định và được tiến hành theo những cách thức xác định. Cách thức tiến hành
đó chính là phương thức sản xuất. Phương thức sản xuất là cách thức con người
thực hiện quá trình sản xuất vật chất ở những giai đoạn lịch sử nhất định của loài
người.
Mỗi một xã hội được đặc trưng một phương thức sản xuất nhất định. Phương
thức sản xuất đóng vai trò quyết định đối với tất cả các mặt của đời sống xã hội:
kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Sự thay thế kế tiếp nhau của các phương thức
sản xuất trong lịch sử quyết định sự phát triển của xã hội loài người từ thấp đến
cao.
Trong quá trình sản xuất vật chất, con người có “quan hệ song trùng” đó là:
thứ nhất, quan hệ giữa người với tự nhiên, tức là lực lượng sản xuất; thứ hai là
quan hệ giữa người với người, tức là quan hệ sản xuất. Vậy phương thức sản xuất
chính là sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất ở một trình độ nhất định và quan hệ
sản xuất tương ứng.
b. Vai trò của sản xuất vật chất và phương thức sản xuất đối với sự tồn tại
và phát triển của xã hội.
Trong quá trình tồn tại và phát triển của mình con người không thỏa mãn với
những cái đã có sẵn trong giới tự nhiên, mà luôn luôn cải tạo và tiến hành sản xuất
vật chất nhằm tạo ra các tư liệu sinh hoạt thỏa mãn nhu cầu ngày càng phong phú,
đa dạng của con người. Việc sản xuất ra các tư liệu sinh hoạt là yêu cầu khách
quan của đời sống xã hội. Bằng việc “sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình,
như thế con người đã gián tiếp sản xuất ra chính đời sống vật chất của mình” 17.
Trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất cho sự tồn tại và phát triển của
mình, con người đồng thời sáng tạo ra toàn bộ các mặt đời sống xã hội. Tất cả các
quan hệ xã hội về nhà nước, pháp quyền, đạo đức, nghệ thuật, tôn giáo,... đều hình
17
Sđd, t.3,tr.29.
79
thành, biến đổi trên cơ sở sản xuất vật chất. Khái quát lịch sử phát triển của nhân
loại, C.Mác đã kết luận: “Việc sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt vật chất trực tiếp
và chính, mỗi một giai đoạn phát triển kinh tế nhất định của một dân tộc hay một
thời đại tạo ra một cơ sở, từ đó mà người ta phát triển các thể chế nhà nước, các
quan điểm pháp quyền, nghệ thuật và thậm chí cả những quan niệm tôn giáo của
con người ta”18.
Trong quá trình sản xuất vật chất con người không ngừng làm biến đổi tự
nhiên, biến đổi xã hội, đồng thời làm biến đổi bản thân mình. Sản xuất vật chất
không ngừng phát triển. Sự phát triển của sản xuất vật chất quyết định sự biến đổi,
phát triển các mặt của đời sống xã hội, quyết định phát triển xã hội từ thấp đến cao.
Chính vì vậy, phải tìm cơ sở sâu xa của các hiện tượng xã hội ở trong nền sản xuất
vật chất của xã hội. Do đó, để giải thích và giải quyết đúng đắn các vấn đề của đời
sống xã hội thì cần phải tìm nguyên nhân cuối cùng của nó từ tình trạng phát triển
của nền sản xuất vật chất của xã hội đó, mà căn bản là từ trình độ phát triển
phương thức sản xuất của nó. Nền sản xuất tư bản chủ nghĩa ở trình độ cao hơn
nền sản xuất phong kiến chính là vì nền sản xuất tư bản chủ nghĩa là nền sản xuất
dựa vào trình độ phát triển của phương thức sản xuất công nghiệp và hình thức tổ
chức kinh tế thị trường ngày càng hiện đại, cũng nhờ đó mà nó có thể tạo ra năng
xuất lao động cao hơn rất nhiều phương thức sản xuất phong kiến với trình độ lao
động căn bản là thủ công với hình thức tổ chức kinh tế tự cấp, tự túc, khép kín.
Với việc phát hiện ra vai trò quyết định của phương thức sản xuất đối với
trình độ phát triển của nền sản xuất xã hội và do đó là với trình độ phát triển của
đời sống xã hội nói chung, chủ nghĩa Mác - Lênin đã phân tích sự phát triển của
lịch sử nhân loại theo lịch sử thay thế và phát triển của các phương thức sản xuất.
Sự thay thế và phát triển của các phương thức sản xuất phản ánh xu hướng tất yếu
khách quan của quá trình phát triển xã hội loài người từ trình độ thấp đến trình độ
ngày càng cao hơn. Tính chất tuần tự trong quá trình thay thế và phát triển của các
phương thức sản xuất cũng chính là quy luật chung trong tiến trình phát triển của
lịch sử nhân loại nhưng với mỗi cộng đồng xã hội nhất định, tùy theo điều kiện
18
Sđd, t.19, tr.500.
80
khách quan và chủ quan mà có thể có những biểu hiện đa dạng về con đường phát
triển của nó: có tính chất đan xen giữa các phương thức sản xuất trong một thời kỳ
phát triển hoặc có những bước bỏ qua một hay một vài phương thức sản xuất nào
đó và tiến thẳng lên phương thức sản xuất cao hơn. Đó chính là sự biểu hiện của
tính thống nhất trong tính đa dạng về con đường phát triển của mỗi cộng đồng
người nhất định, tạo nên tính chất phong phú của lịch sử nhân loại. Tuy nhiên, dù
lịch sử của mỗi cộng đồng người có phát triển phong phú, đa dạng như thế nào,
thậm có những giai đoạn phát triển trải qua những con đường vòng nhưng rốt cuộc
lịch sử vẫn tuân theo xu hướng chung là phát triển theo chiều hướng đi lên từ
phương thức sản xuất ở trình độ thấp lên trình độ cao hơn.
2. Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất
a. Khái niệm lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất
Bất kỳ một quá trình sản xuất vật chất nào cũng cần phải có các nhân tố thuộc
về người lao động (như năng lực, kỹ năng, tri thức, của người lao động) cùng các
tư liệu sản xuất nhất định (như đối tượng lao động, công cụ lao động, các tư liệu
phụ trợ của quá trình sản xuất). Toàn bộ các nhân tố đó tạo thành lực lượng sản
xuất của các quá trình sản xuất. Vậy, lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ
giữa con người với tự nhiên trong quá trình sản xuất. Lực lượng sản xuất thể hiện
năng lực thực tiễn của con người trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất. Lực
lượng sản xuất bao gồm: người lao động với kỹ năng lao động của họ và tư liệu
sản xuất, trước hết là công cụ lao động. Trong quá trình sản xuất, sức lao động của
con người và tư liệu sản xuất trước hết là công cụ lao động, kết hợp với nhau tạo
thành lực lượng sản xuất.
Trong các yếu tố của lực lượng sản xuất, “lực lượng sản xuất hàng đầu của
toàn thể nhân loại là công nhân, là người lao động”19. Chính người lao động là chủ
thể của quá trình lao động sản xuất, với sức mạnh và kỹ năng lao động của mình,
sử dụng tư liệu lao động, trước hết là công cụ lao động, tác động vào đối tượng lao
động để sản xuất ra của cải vật chất. Cùng với quá trình lao động sản xuất, sức
19
V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1977, t.38, tr.430.
81
mạnh và kỹ năng lao động của con người ngày càng được tăng lên, đặc biệt là trí
tuệ của con người không ngừng phát triển, hàm lượng trí tuệ của lao động ngày
càng cao. Ngày nay, với cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, lao động trí tuệ
ngày càng đóng vai trò chính yếu.
Yếu tố cơ bản của lực lượng sản xuất, đóng vai trò quyết định trong tư liệu
sản xuất đó là người lao động và công cụ lao động. Công cụ lao động do con người
sáng tạo ra, là “sức mạnh của tri thức đã được vật thể hóa”, nó “nhân” sức mạnh
của con người trong quá trình lao động sản xuất. Công cụ lao động là yếu tố động
nhất của lực lượng sản xuất. Cùng với quá trình tích luỹ kinh nghiệm, với những
phát minh và sáng chế kỹ thuật, công cụ lao động không ngừng được cải tiến và
hoàn thiện. Chính sự cải tiến và hoàn thiện không ngừng công cụ lao động đã làm
biến đổi toàn bộ tư liệu sản xuất. Xét đến cùng, đó là nguyên nhân sâu xa của mọi
biến đổi xã hội. Trình độ phát triển của công cụ lao động là thước đo trình độ chinh
phục tự nhiên của con người, là tiêu chuẩn phân biệt các thời đại kinh tế trong lịch
sử.
Khoa học ngày càng đóng vai trò to lớn trong sự phát triển của lực lượng sản
xuất. Sự phát triển của khoa học gắn liền với sản xuất và là động lực mạnh mẽ thúc
đẩy sản xuất phát triển. Ngày nay, khoa học đã phát triển đến mức trở thành
nguyên nhân trực tiếp của nhiều biến đổi to lớn trong sản xuất, trong đời sống và
trở thành “lực lượng sản xuất trực tiếp”. Những phát minh khoa học trở thành điểm
xuất phát ra đời những ngành sản xuất mới, những máy móc thiết bị mới, công
nghệ mới, nguyên vật liệu mới, năng lượng mới. Sự thâm nhập ngày càng sâu của
khoa học vào sản xuất, trở thành một yếu tố không thể thiếu được của sản xuất đã
làm cho lực lượng sản xuất có bước phát triển nhảy vọt, tạo thành cuộc cách mạng
khoa học và công nghệ hiện đại. Yếu tố trí lực trong sức lao động đặc trưng cho
lao động hiện đại không còn là kinh nghiệm và thói quen của họ và là tri thức khoa
học. Có thể nói: khoa học và công nghệ hiện đại là đặc trưng cho lực lượng sản
xuất hiện đại.
Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất
(sản xuất và tái sản xuất xã hội). Quan hệ sản xuất gồm ba mặt: quan hệ về sở hữu
82
đối với tư liệu sản xuất, quan hệ trong tổ chức và quản lý sản xuất, quan hệ trong
phân phối sản phẩm sản xuất ra.
Quan hệ sản xuất do con người tạo ra, nhưng nó hình thành một cách khách
quan trong quá trình sản xuất, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con
người. C.Mác viết: “Trong sản xuất, người ta không chỉ quan hệ với giới tự nhiên.
Người ta không thể sản xuất được nếu không kết hợp với nhau theo một cách nào
đó để hoạt động chung và để trao đổi hoạt động với nhau. Muốn sản xuất được,
người ta phải có những mối liên hệ và quan hệ nhất định với nhau; và quan hệ của
họ với giới tự nhiên, tức là việc sản xuất” 20. Quan hệ sản xuất là hình thức xã hội
của sản xuất; giữa ba mặt của quan hệ sản xuất thống nhất với nhau, tạo thành một
hệ thống mang tính ổn định tương đối so với sự vận động, phát triển không ngừng
của lực lượng sản xuất.
Trong ba mặt của quan hệ sản xuất, quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất là quan
hệ xuất phát, quan hệ cơ bản, đặc trưng cho quan hệ sản xuất trong từng xã hội.
Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất quyết định quan hệ về tổ chức quản lý sản xuất,
quan hệ phân phối sản phẩm cũng như các quan hệ xã hội khác.
Lịch sử phát triển của nhân loại đã chứng kiến có hai loại hình sở hữu cơ bản
về tư liệu sản xuất: sở hữu tư nhân và sở hữu công cộng. Sở hữu tư nhân là loại
hình sở hữu mà trong đó tư liệu sản xuất tập trung vào trong tay một số ít người,
còn đại đa số không có hoặc có rất ít tư liệu sản xuất. Do đó, quan hệ giữa người
với người trong sản xuất vật chất và trong đời sống xã hội là quan hệ thống trị và
bị trị, bóc lột và bị bóc lột. Sở hữu công cộng là loại hình sở hữu mà trong đó tư
liệu sản xuất thuộc về mọi thành viên của mỗi cộng đồng. Nhờ đó, quan hệ giữa
người với người trong mỗi cộng đồng là quan hệ bình đẳng, hợp tác, giúp đỡ lẫn
nhau. Quan hệ tổ chức và quản lý sản xuất trực tiếp tác động đến quá trình sản
xuất, đến việc tổ chức, điều khiển quá trình sản xuất, Nó có thể thúc đẩy hoặc kìm
hãm quá trình sản xuất. Quan hệ tổ chức và quản lý sản xuất do quan hệ sở hữu
quyết định và nó phải thích ứng với quan hệ sở hữu. Tuy nhiên có trường hợp,
20
C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1993, t.6,
tr.552.
83
quan hệ tổ chức và quản lý không thích ứng với quan hệ sở hữu, làm biến dạng
quan hệ sở hữu.
Quan hệ về phân phối sản phẩm sản xuất ra mặc dù do quan hệ sở hữu về tư
liệu sản xuất và quan hệ tổ chức quản lý sản xuất chi phối, song nó kích thích trực
tiếp đến lợi ích của con người, nên nó tác động đến thái độ của con người trong lao
động sản xuất, và do đó có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sản xuất phát triển.
b. Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
Phương thức sản xuất gồm hai mặt là lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất,
chúng không tách rời nhau, tác động qua lại lẫn nhau một cách biện chứng, tạo
thành quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất - quy luật cơ bản nhất của sự vận động, phát triển xã hội.
Khuynh hướng chung của sản xuất vật chất là không ngừng phát triển. Sự
phát triển đó xét đến cùng là bắt nguồn từ sự biến đổi và phát triển của lực lượng sản
xuất, trước hết là công cụ lao động. Sự phát triển của lực lượng sản xuất được đánh
dấu bằng trình độ của lực lượng sản xuất. Trình độ lực lượng sản xuất trong từng
giai đoạn lịch sử thể hiện trình độ chinh phục tự nhiên của con người trong giai
đoạn lịch sử đó. Trình độ lực lượng sản xuất biểu hiện ở trình độ của công cụ lao
động, trình độ, kinh nghiệm và kỹ năng lao động của con người, trình độ tổ chức
và phân công lao động xã hội, trình độ ứng dụng khoa học vào sản xuất.
Gắn liền với trình độ của lực lượng sản xuất là tính chất của lực lượng sản
xuất. Trong lịch sử xã hội, lực lượng sản xuất đã phát triển từ chỗ có tính chất cá
nhân lên tính chất xã hội hóa. Khi sản xuất dựa trên công cụ thủ công, phân công
lao động kém phát triển thì lực lượng sản xuất chủ yếu có tính chất cá nhân. Khi
sản xuất đạt tới trình độ cơ khí, hiện đại, phân công lao động xã hội phát triển thì
lực lượng sản xuất có tính chất xã hội hóa.
Sự vận động, phát triển của lực lượng sản xuất quyết định và làm thay đổi
quan hệ sản xuất cho phù hợp với nó. Khi một phương thức sản xuất mới ra đời,
khi đó quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Sự
phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là một
trạng thái mà trong đó quan hệ sản xuất là “hình thức phát triển” của lực lượng sản
84
xuất. Trong trạng thái đó, tất cả các mặt của quan hệ sản xuất đều “tạo địa bàn đầy
đủ” cho lực lượng sản xuất phát triển. Điều đó có nghĩa là, nó tạo điều kiện sử
dụng và kết hợp một cách tối ưu giữa người lao động với tư liệu sản xuất và do đó
lực lượng sản xuất có cơ sở để phát triển hết khả năng của nó.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất đến một trình độ nhất định làm cho quan
hệ sản xuất từ chỗ phù hợp trở thành không phù hợp với sự phát triển của lực
lượng sản xuất. Khi đó, quan hệ sản xuất trở thành “xiềng xích” của lực lượng sản
xuất, kìm hãm lực lượng sản xuất phát triển. Yêu cầu khách quan của sự phát triển
lực lượng sản xuất tất yếu dẫn đến thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản
xuất mới phù hợp với trình độ phát triển mới của lực lượng sản xuất để thúc đẩy
lực lượng sản xuất tiếp tục phát triển. Thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ
sản xuất mới cũng có nghĩa là phương thức sản xuất cũ mất đi, phương thức sản
xuất mới ra đời thay thế. C.Mác đã viết: “Tới một giai đoạn phát triển nào đó của
chúng, các lực lượng sản xuất vật chất của xã hội mâu thuẫn với những quan hệ
sản xuất hiện có,... trong đó từ trước đến nay các lực lượng sản xuất vẫn phát triển.
Từ chỗ là những hình thức phát triển của lực lượng sản xuất, những quan hệ ấy trở
thành những xiềng xích của các lực lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu thời đại một
cuộc cách mạng xã hội”21.
Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất, nhưng quan hệ sản xuất cũng
có tính độc lập tương đối và tác động trở lại sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Quan hệ sản xuất quy định mục đích của sản xuất, tác động đến thái độ của con
người trong lao động sản xuất, đến tổ chức phân công lao động xã hội, đến phát
triển và ứng dụng khoa học và công nghệ và do đó tác động đến sự phát triển của
lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất là động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Ngược lại, quan hệ sản
xuất lỗi thời, lạc hậu hoặc “tiên tiến” hơn một cách giả tạo so với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Khi
quan hệ sản xuất kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất, thì theo quy luật
chung, quan hệ sản xuất cũ sẽ được thay thế bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp
21
Sđd, t.13, tr.15.
85
với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất để thúc đẩy lực lượng sản xuất phát
triển. Tuy nhiên, việc giải quyết mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất với quan hệ
sản xuất không phải giải đơn. Nó phải thông qua nhận thức và hoạt động cải tạo xã
hội của con người. Trong xã hội có giai cấp phải thông qua đấu tranh giai cấp,
thông qua cách mạng xã hội.
Quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là
quy luật phổ biến tác động trong toàn bộ tiến trình lịch sử nhân loại. Sự thay thế,
phát triển của lịch sử nhân loại từ chế độ công xã nguyên thủy, qua chế độ chiếm
hữu nô lệ, chế độ phong kiến, chế độ tư bản chủ nghĩa và đến xã hội cộng sản
tương lai là do sự tác động của hệ thống các quy luật xã hội, trong đó quy luật cơ
bản nhất là quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất.
II. BIỆN CHỨNG CỦA CƠ SỞ HẠ TẦNG
VÀ KIẾN TRÚC THƯỢNG TẦNG
1. Khái niệm cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
a. Khái niệm cơ sở hạ tầng
Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của
một xã hội nhất định.
C.Mác cho rằng: “Toàn bộ những quan hệ sản xuất ấy hợp thành cơ cấu kinh
tế của xã hội, tức là cái cơ sở hiện thực trên đó dựng lên một kiến trúc thượng tầng
pháp lý và chính trị và những hình thái ý thức xã hội nhất định tương ứng với cơ sở
hiện thực đó. Phương thức sản xuất đời sống vật chất quyết định các quá trình sinh
hoạt xã hội, chính trị và tinh thần nói chung”22.
Từ thời cổ đại cho đến nay, trong bất cứ hình thái kinh tế - xã hội nào bên
cạnh những quan hệ sản xuất thống trị thường vẫn còn tàn dư của những quan hệ
sản xuất của xã hội cũ và cả mầm mống của những quan hệ kinh tế - xã hội của
tương lai. Cho nên, cơ sở hạ tầng của một xã hội cụ thể được đặc trưng trước hết
bởi kiểu quan hệ sản xuất thống trị bao giờ cũng giữ vai trò chủ đạo, chi phối các

22
C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1993, t.13,
tr.15.
86
quan hệ sản xuất khác, nó quy định xu hướng chung của đời sống kinh tế - xã hội.
Tuy nhiên, những quan hệ sản xuất quá độ (tàn dư của những quan hệ cũ, mầm
mống của những quan hệ mới và những kiểu quan hệ kinh tế khác có thể có) cũng
có vai trò nhất định. Điều cần chú ý là ở chỗ, trong hệ thống cơ cấu kinh tế đó, cái
giữ địa vị chi phối, có vai trò chủ đạo và tác dụng quyết định đối với toàn bộ cơ sở
hạ tầng là quan hệ sản xuất thống trị. Tư tưởng thống trị của mỗi xã hội bao giờ
cũng là tư tưởng của giai cấp thống trị.
Như vậy, xét trong nội bộ phương thức sản xuất thì quan hệ sản xuất là hình
thức phát triển của lực lượng sản xuất, nhưng xét trong tổng thể các quan hệ xã hội
thì các quan hệ sản xuất “hợp thành” cơ sở kinh tế của xã hội, tức là cơ sở hiện
thực, trên đó hình thành nên kiến trúc thượng tầng tương ứng.
b. Khái niệm kiến trúc thượng tầng
Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm chính trị, pháp quyền, triết
học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật,... cùng với những thiết chế xã hội tương ứng
như nhà nước, đảng phái, giáo hội, các đoàn thể xã hội, v.v. được hình thành trên
cơ sở hạ tầng nhất định.
Thiết chế của kiến trúc thượng tầng là hệ thống các cơ quan được hình thành
trên nền tảng cơ cấu kinh tế nhất định để duy trì và xử lý các mối quan hệ trong thể
chế xã hội. Nó bao gồm các đảng phái chính trị, tổ chức nhà nước, các tổ chức
chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội, trong đó nhà nước giữ
vai trò trung tâm.
Trong xã hội có giai cấp, kiến trúc thượng tầng mang tính giai cấp, trong đó,
nhà nước có vai trò đặc biệt quan trọng. Nó tiêu biểu cho chế độ chính trị của một
xã hội nhất định. Nhờ có nhà nước, giai cấp thống trị mới thực hiện được sự thống
trị của mình về tất cả các mặt của đời sống xã hội. Theo C.Mác và Ph.Ăngghen:
“Trong mọi thời đại, những hệ tư tưởng của giai cấp thống trị là những tư tưởng
thống trị, điều đó có nghĩa là giai cấp nào là lực lượng vật chất thống trị trong xã
hội thì cũng là lực lượng tinh thần thống trị trong xã hội”23.

23
C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004, t.23,
tr.21.
87
2. Quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
a. Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng
Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là hai mặt của đời sống xã hội, chúng
thống nhất với nhau trong đó cơ sở hạ tầng đóng vai trò quyết định đối với kiến
trúc thượng tầng.
Mỗi cơ sở hạ tầng sẽ hình thành nên một kiến trúc thượng tầng tương ứng với
nó. Tính chất của kiến trúc thượng tầng là do tính chất của cơ sở hạ tầng quyết
định. Giai cấp thống trị kinh tế chi phối địa vị chính trị và đời sống tinh thần của
xã hội. Các mâu thuẫn trong kinh tế, xét đến cùng, quyết định các mâu thuẫn trong
lĩnh vực chính trị tư tưởng, cuộc đấu tranh giai cấp về chính trị tư tưởng là biểu
hiện những đối kháng trong đời sống kinh tế. Tất cả các yếu tố của kiến trúc
thượng tầng như nhà nước, pháp quyền, triết học, tôn giáo,... đều trực tiếp hay gián
tiếp phụ thuộc vào cơ sở hạ tầng, do cơ sở hạ tầng quyết định. Cơ sở hạ tầng thay
đổi dẫn đến thay đổi kiến trúc thượng tầng. C.Mác khẳng định: “Cơ sở kinh tế thay
đổi thì toàn bộ cái kiến trúc thượng tầng đồ sộ cũng bị đảo lộn ít nhiều nhanh
chóng”24.
Quá trình thay đổi diễn ra cả trong thời kỳ các hình thái kinh tế - xã hội thay
thế lẫn nhau, cả trong bản thân mỗi hình thái kinh tế - xã hội. Sự phát triển của lực
lượng sản xuất, dẫn đến sự thay đổi kiến trúc thượng tầng thông qua sự thay đổi
quan hệ sản xuất. Quá trình thay đổi của kiến trúc thượng tầng không thuần nhất,
có những yếu tố của kiến trúc thượng tầng thay đổi nhanh chóng cùng với sự thay
đổi cơ sở hạ tầng như chính trị, pháp luật. Trong kiến trúc thượng tầng, có những
yếu tố thay đổi chậm như tôn giáo, nghệ thuật, hoặc có những yếu tố vẫn được kế
thừa trong xã hội mới. Trong xã hội có giai cấp, sự thay đổi đó phải thông qua đấu
tranh giai cấp, thông qua cách mạng xã hội.
b. Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng
Vai trò tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng thể hiện ở
chức năng chính trị - xã hội của kiến trúc thượng tầng. Một mặt, chức năng cơ bản
của kiến trúc thượng tầng thống trị là xây dựng, bảo vệ và phát triển cơ sở hạ tầng
24
Sđd, t.13, tr.15.
88
đã sinh ra nó, mặt khác, nó kiên quyết đấu tranh để xóa bỏ tàn dư của cơ sở hạ tầng
và kiến trúc thượng tầng cũ lỗi thời, chống lại mọi nguy cơ làm suy yếu hoặc phá
hoại chế độ kinh tế đó. Một giai cấp chỉ có thể giữ vững được sự thống trị về kinh
tế chừng nào xác lập và củng cố được sự thống trị về chính trị, tư tưởng.
Các bộ phận của kiến trúc thượng tầng đều tác động đến cơ sở hạ tầng bằng
nhiều hình thức khác nhau. Trong xã hội có giai cấp, nhà nước là yếu tố có tác
động trực tiếp nhất, mạnh mẽ nhất đối với cơ sở hạ tầng vì đó là bộ máy bạo lực
tập trung của giai cấp thống trị về kinh tế. Còn các bộ phận khác của kiến trúc
thượng tầng tác động gián tiếp như triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật, cũng
đều tác động đến cơ sở hạ tầng nhưng chúng đều bị nhà nước, pháp luật chi phối.
Trong mỗi chế độ xã hội, sự tác động của các bộ phận của kiến trúc thượng
tầng không phải bao giờ cũng theo một xu hướng. Sự tác động của kiến trúc
thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng diễn ra theo hai chiều. Tác động của kiến trúc
thượng tầng sẽ là tích cực khi nó tác động cùng chiều với sự vận động của những
quy luật kinh tế khách quan. Trái lại, nếu tác động ngược với những quy luật đó thì
nó sẽ là trở lực, gây tác hại cho sự phát triển sản xuất, cản đường phát triển của xã
hội.
Tuy kiến trúc thượng tầng có tác động mạnh mẽ đối với sự phát triển kinh tế,
nhưng không làm thay đổi được tiến trình phát triển khách quan của xã hội. Xét
đến cùng, nhân tố kinh tế đóng vai trò quyết định đối với kiến trúc thượng tầng.
Nếu kiến trúc thượng tầng kìm hãm phát triển kinh tế thì sớm hay muộn, bằng cách
này hay cách khác, kiến trúc thượng tầng cũ sẽ được thay thế bằng kiến trúc
thượng tầng mới tiến bộ để thúc đẩy kinh tế tiếp tục phát triển.
Vai trò của Nhà nước đối với cơ sở hạ tầng ở Việt Nam hiện nay
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có những chủ trương, chính
sách tác động tới cơ sở hạ tầng trong giai đoạn đổi mới như:
Chuyển đổi nền kinh tế với cơ sở kế hoạch hóa tập trung, bao cấp sang nền
kinh tế nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà
nước định hướng xã hội chủ nghĩa

89
Phát triển nguồn nhân lực con người, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước coi đó là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ. Quá trình phát triển
lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với quá trình xây dựng quan hệ sản xuất mới
phù hợp trên cả ba mặt sở hữu, quản lý và phân phối.
Xây dựng và hoàn thiện môi trường pháp lý để quản lý nền kinh tế thị trường,
vận động phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
III. TỒN TẠI XÃ HỘI QUYẾT ĐỊNH Ý THỨC XÃ HỘI VÀ TÍNH ĐỘC
LẬP TƯƠNG ĐỐI CỦA Ý THỨC XÃ HỘI
1. Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội
a. Khái niệm tồn tại xã hội, ý thức xã hội
Tồn tại xã hội là sinh hoạt vật chất và những điều kiện sinh hoạt vật chất của
xã hội. Đời sống vật chất của xã hội, trước hết và chủ yếu là lao động sống của con
người trong sản xuất, lưu thông, phân phối và tiêu dùng của cải vật chất để đáp ứng
nhu cầu vật chất của con người như ăn, mặc, ở, đi lại, chữa bệnh. Đó là quá trình
duy trì sự tồn tại của các cá thể người, đồng thời tái sản xuất và không ngừng mở
rộng quan hệ vật chất của xã hội.
Như vậy, phạm trù tồn tại xã hội bao quát không chỉ hoạt động vật chất, mà
c̣òn cả những quan hệ vật chất cùng những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội.
Tất cả những cái này tồn tại một cách khách quan không phụ thuộc vào ý thức cá
nhân cũng như ý thức xã hội. Nghiên cứu tồn tại xã hội với tính cách vừa là đời
sống vật chất vừa là những quan hệ vật chất giữa người và người, V.I.Lênin viết:
“Việc anh sống, anh hoạt động kinh tế, anh sinh đẻ con cái và anh chế tạo ra các
sản phẩm, anh trao đổi sản phẩm, làm nảy sinh ra một chuỗi tất yếu khách quan
gồm những biến cố, những sự phát triển, không phụ thuộc vào ý thức xã hội của
anh và ý thức này không bao giờ bao quát được toàn vẹn cái chuỗi đó”25.
Tồn tại xã hội bao gồm các yếu tố chính là phương thức sản xuất vật chất;
điều kiện tự nhiên - hoàn cảnh địa lý; dân số và mật độ dân số, trong đó phương
thức sản xuất vật chất là yếu tố cơ bản nhất, có ý nghĩa quyết định nhất đối với
toàn bộ tồn tại xã hội và sự phát triển của ý thức xã hội.
25
V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1977, t.4, tr.403.
90
Ý thức xã hội là mặt tinh thần của đời sống xã hội, bao gồm những quan điểm,
tư tưởng cùng những tình cảm, tâm trạng, truyền thống của cộng đồng xã hội, nảy
sinh từ tồn tại xã hội và phản ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn phát triển
nhất định.
Cần thấy rõ sự khác nhau tương đối giữa ý thức xã hội và ý thức cá nhân. Ý
thức của cá nhân đều phản ánh tồn tại xã hội với mức độ khác nhau. Do đó, nó
không thể không mang tính xã hội. Song ý thức cá nhân không phải bao giờ cũng
thể hiện quan điểm, tư tưởng, tình cảm phổ biến của một cộng đồng, một tập đoàn
xã hội, một thời đại xã hội nhất định.
Ý thức xã hội và ý thức cá nhân tồn tại trong mối liên hệ hữu cơ, biện chứng
với nhau, thâm nhập vào nhau và làm phong phú nhau.
Với tính cách là toàn bộ đời sống tinh thần của xã hội, ý thức xã hội được thể
hiện ở những bộ phận, những hình thái ý thức khác nhau phản ánh tồn tại xã hội
bằng những phương thức không giống nhau. Tùy thuộc vào đối tượng, phạm vi và
trình độ phản ánh mà ta có thể chia ý thức xã hội thành các cấp độ: ý thức xã hội
thông thường và ý thức lý luận, tâm lý xã hội và hệ tư tưởng.
Ý thức xã hội thông thường và ý thức lý luận
Ý thức xã hội thông thường là những tri thức, những quan niệm của con người
hình thành một cách trực tiếp trong hoạt động thực tiễn hàng ngày, chưa được hệ
thống hóa, khái quát hóa. Ý thức xã hội thông thường, thường phản ánh sinh động,
trực tiếp nhiều mặt cuộc sống hàng ngày của con người, thường xuyên chi phối
cuộc sống đó. Ý thức thông thường tuy là trình độ thấp so với ý thức lý luận,
nhưng những tri thức kinh nghiệm phong phú đó có thể trở thành tiền đề quan
trọng cho sự hình thành các lý thuyết xã hội.
Ý thức lý luận là những tư tưởng, quan điểm được hệ thống hóa, khái quát hóa
thành các học thuyết xã hội, được trình bày dưới dạng những khái niệm, phạm trù,
quy luật. Ý thức lý luận (lý luận khoa học) có khả năng phản ánh hiện thực khách
quan một cách khái quát, sâu sắc và chính xác, vạch ra các mối liên hệ bản chất
của các sự vật và hiện tượng.
Tâm lý xã hội và hệ tư tưởng xã hội
91
Tâm lý xã hội bao gồm toàn bộ tình cảm, ước muốn, thói quen, tập quán của
con người, của một bộ phận xã hội hoặc của toàn xã hội hình thành dưới ảnh
hưởng trực tiếp của đời sống hàng ngày của họ và phản ánh đời sống đó.
Đặc điểm của tâm lý xã hội là phản ánh một cách trực tiếp điều kiện sinh sống
hàng ngày của con người, là sự phản ánh có tính chất tự phát, thường ghi lại những
mặt bề ngoài của tồn tại xã hội. Nó không có khả năng vạch ra đầy đủ, rõ ràng, sâu
sắc bản chất các mối quan hệ xã hội của con người.
Những quan niệm của con người ở trình độ tâm lý xã hội còn mang tính kinh
nghiệm, chưa được thể hiện về mặt lý luận, yếu tố trí tuệ đan xen với yếu tố tình
cảm. Tuy nhiên, không thể phủ nhận vai trò quan trọng của tâm lý xã hội trong sự
phát triển của ý thức xã hội. C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin và Hồ Chí Minh rất
coi trọng việc nghiên cứu trạng thái tâm lý xã hội của nhân dân để hiểu nhân dân,
giáo dục nhân dân, đưa nhân dân tham gia tích cực, tự giác vào cuộc đấu tranh cho
một xã hội tốt đẹp.
Hệ tư tưởng là trình độ cao của ý thức xã hội, hình thành khi con người nhận
thức sâu sắc hơn về những điều kiện sinh hoạt vật chất của mình. Hệ tư tưởng có
khả năng đi sâu vào bản chất các mối quan hệ xã hội. Hệ tư tưởng là nhận thức lý
luận về tồn tại xã hội, là hệ thống những quan điểm, tư tưởng (chính trị, triết học,
đạo đức, nghệ thuật, tôn giáo), kết quả của sự khái quát hóa những kinh nghiệm xã
hội. Hệ tư tưởng được hình thành một cách tự giác nghĩa là tạo ra bởi các nhà tư
tưởng của những giai cấp nhất định và được truyền bá trong xã hội.
Với tính cách là một bộ phận của ý thức xã hội, hệ tư tưởng ảnh hưởng lớn
đến sự phát triển của khoa học. Lịch sử các khoa học tự nhiên đã cho thấy tác dụng
quan trọng của hệ tư tưởng, đặc biệt là tư tưởng triết học đối với quá trình khái
quát những tài liệu khoa học.
Tâm lý xã hội và hệ tư tưởng xã hội tuy là hai trình độ, hai phương thức phản
ánh khác nhau của ý thức xã hội, nhưng có mối quan hệ tác động qua lại với nhau,
chúng có cùng một nguồn gốc là tồn tại xã hội, đều phản ánh tồn tại xã hội. Tâm lý
xã hội tạo điều kiện thuận lợi cho các thành viên giai cấp tiếp thu hệ tư tưởng của
giai cấp. Mối liên hệ chặt chẽ giữa hệ tư tưởng (đặc biệt là tư tưởng khoa học tiến
92
bộ) với tâm lý xã hội, với thực tiễn cuộc sống sinh động và phong phú sẽ giúp cho
hệ tư tưởng xã hội, cho lý luận bớt xơ cứng, bớt sai lầm. Trái lại hệ tư tưởng khoa
học thúc đẩy tâm lý xã hội phát triển theo chiều hướng đúng đắn, lành mạnh có lợi
cho tiến bộ xã hội. Hệ tư tưởng phản khoa học, phản động kích thích những yếu tố
tiêu cực của tâm lý xã hội phát triển.
Như vậy, hệ tư tưởng xã hội liên hệ hữu cơ với tâm lý xã hội, chịu sự tác động
của tâm lý xã hội, nhưng nó không phải đơn giản là sự “cô đặc” của tâm lý xã hội.
Tính giai cấp của ý thức xã hội
Theo quan niệm của C.Mác và Ph.Ăngghen: “Giai cấp nào chi phối những tư
liệu sản xuất vật chất thì cũng chi phối luôn cả những tư liệu sản xuất tinh thần,
thành thử nói chung tư tưởng của những người không có tư liệu sản xuất tinh thần
cũng đồng thời bị giai cấp thống trị đó chi phối”26.
Trong xã hội có giai cấp, các giai cấp có những điều kiện sinh hoạt vật chất
khác nhau, những lợi ích khác nhau do địa vị xã hội của mỗi giai cấp quy định, do
đó ý thức xã hội của các giai cấp có nội dung và hình thức phát triển khác nhau
hoặc đối lập nhau.
Tính giai cấp của ý thức xã hội biểu hiện ở tâm lý xã hội, cũng như ở hệ tư
tưởng xã hội. Về mặt tâm lý xã hội, mỗi giai cấp đều có tình cảm, tâm trạng, thói
quen riêng có thiện cảm hay ác cảm với tập đoàn xã hội này hoặc tập đoàn xã hội
khác. Ở trình độ hệ tư tưởng thì tính giai cấp của ý thức xã hội biểu hiện sâu sắc
hơn nhiều. Trong xã hội có đối kháng giai cấp bao giờ cũng có những quan điểm
tư tưởng hoặc những hệ tư tưởng đối lập nhau: tư tưởng của giai cấp bóc lột và giai
cấp bị bóc lột, của giai cấp thống trị và giai cấp bị trị. Những tư tưởng thống trị của
một thời đại bao giờ cũng là tư tưởng của giai cấp thống trị về kinh tế và chính trị
ở thời đại đó.
b. Vai trò quyết định của tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội
Công lao to lớn của C.Mác và Ph.Ăngghen là phát triển chủ nghĩa duy vật đến
đỉnh cao, xây dựng quan điểm duy vật về lịch sử và lần đầu tiên giải quyết một

26
C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, t.3,
tr.66.
93
cách khoa học vấn đề sự hình thành và phát triển của ý thức xã hội. Các ông đã
chứng minh rằng, đời sống tinh thần của xã hội hình thành và phát triển trên cơ sở
của đời sống vật chất, rằng không thể tìm nguồn gốc của tư tưởng, tâm lý xã hội
trong bản thân nó, nghĩa là không thể tìm trong đầu óc con người mà phải tìm
trong hiện thực vật chất. Sự biến đổi của một thời đại nào đó cũng sẽ không thể
giải thích được nếu chỉ căn cứ vào ý thức của thời đại ấy. C.Mác viết: “… không
thể nhận định về một thời đại đảo lộn như thế căn cứ vào ý thức của thời đại đó.
Trái lại, phải giải thích ý thức ấy bằng những mâu thuẫn của đời sống vật chất,
bằng sự xung đột hiện có giữa các lực lượng sản xuất xã hội và những quan hệ sản
xuất xã hội”27.
Những luận điểm trên đây đã bác bỏ quan niệm sai lầm của chủ nghĩa duy
tâm muốn đi tìm nguồn gốc của ý thức tư tưởng trong bản thân ý thức tư tưởng,
xem tinh thần, tư tưởng là nguồn gốc của mọi hiện tượng xã hội, quyết định sự
phát triển xã hội và trình bày lịch sử các hình thái ý thức xã hội tách rời cơ sở kinh
tế - xã hội. Chủ nghĩa duy vật lịch sử chỉ rõ rằng tồn tại xã hội quyết định ý thức xã
hội, ý thức xã hội là sự phản ánh của tồn tại xã hội. Mỗi khi tồn tại xã hội, nhất là
phương thức sản xuất biến đổi thì những tư tưởng và lý luận xã hội, những quan
điểm về chính trị, pháp quyền, triết học, đạo đức, văn hóa, nghệ thuật, sớm muộn
sẽ biến đổi theo. Cho nên ở những thời kỳ lịch sử khác nhau nếu chúng ta thấy có
những lý luận, quan điểm, tư tưởng xã hội khác nhau thì do đó là những điều kiện
khác nhau của đời sống vật chất quyết định.
Chẳng hạn, trong xã hội nguyên thủy, do trình độ của lực lượng sản xuất còn
hết sức thấp kém, mọi người còn sống chung, làm chung và hưởng chung nên chưa
có quan niệm về tư hữu, chưa có ý thức về bóc lột. Nhưng khi chế độ công xã
nguyên thủy tan rã, chế độ tư hữu ra đời, xã hội phân chia giàu nghèo, bóc lột và bị
bóc lột thì ý thức con người cũng biến đổi căn bản, nảy sinh và phát triển tư tưởng
tư hữu, ăn bám, bóc lột, chủ nghĩa cá nhân. Các nhà tư tưởng của giai cấp chủ nô
(kể cả chủ nô dân chủ, tiến bộ) vẫn ca ngợi chế độ nô lệ, coi sư tồn tại của nó là
27
C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, t.13,
tr.15.

94
hợp tự nhiên, cần thiết. Nhưng, khi chế độ chiếm hữu nô lệ suy tàn, lỗi thời thì
trong xã hội cũng xuất hiện những tư tưởng xem chế độ nô lệ là trái với chính
nghĩa, cần xóa bỏ. Trong xã hội phong kiến khi quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa
ra đời trong lòng xã hội này và dần lớn mạnh thì nảy sinh quan niệm cho rằng sự
tồn tại của chế độ phong kiến là trái với công lý, không phù hợp với lý tính con
người và cần phải được thay thế bằng chế độ công bằng và hợp lý tính của con
người hơn. Ngay khi xã hội tư bản chủ nghĩa hình thành đã xuất hiện các trào lưu
tư bản chủ nghĩa không tưởng phê phán chế độ tư bản chủ nghĩa, đề xuất những
phương án xây dựng chế độ xã hội tốt đẹp, thay thế chế độ tư bản. Nhưng những
nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng không thể giải thích được bản chất của phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và không hiểu được những điều kiện khách quan
dẫn tới thắng lợi của chủ nghĩa xã hội. Điều đó phản ánh tình hình xã hội tư bản
mới ra đời đã mang trong mình nó những mâu thuẫn, song những điều kiện xây
dựng xã hội mới thay thế xã hội tư bản hoàn toàn chưa chín muồi.
Ở Việt Nam, khi công cuộc đổi mới toàn diện đất nước được triển khai, từ nền
kinh tế kế hoạch hóa tập trung với cơ chế bao cấp chuyển sang nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đất nước “mở cửa” chủ động hội nhập quốc
tế, thì trong xã hội đã xuất hiện và phát triển ý thức đổi mới, tinh thần hợp tác và
cạnh tranh lành mạnh, tính năng động sáng tạo, ý chí quyết tâm làm giàu cho mình
và đất nước. Tất cả những điều trình bày ở trên cho thấy rằng: “không phải ý thức
của con người quyết định tồn tại của họ; trái lại, tồn tại xã hội của họ quyết định ý
thức của họ”28.
Quan điểm duy vật lịch sử về nguồn gốc của ý thức xã hội không phải dừng
lại ở chỗ xác định sự phụ thuộc của ý thức xã hội vào tồn tại xã hội, mà còn chỉ ra
rằng, tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội không phải một cách giản đơn trực
tiếp mà thường qua các khâu trung gian. Không phải bất cứ tư tưởng, quan niệm,
lý luận hình thái ý thức xã hội nào cũng phản ánh rõ ràng và trực tiếp những quan
hệ kinh tế của thời đại, mà chỉ khi nào xét đến cùng thì chúng ta mới thấy rõ những

28
Sđd, t.13, tr.15.
95
mối quan hệ kinh tế được phản ánh bằng cách này hay cách khác trong các tư tư
tưởng ấy.
2. Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội
Ý thức xã hội là sự phản ánh của tồn tại xã hội, do tồn tại xã hội quyết định,
song ý thức xã hội không phụ thuộc vào tồn tại xã hội một cách thụ động và trong
sự phát triển, nó có những quy luật đặc thù, quy luật nội tại của nó. Tính độc lập
tương đối đó biểu hiện ở những nội dung sau:
a. Ý thức xã hội thường lạc hậu so với tồn tại xã hội
Lịch sử xã hội cho thấy, nhiều khi xã hội cũ đã mất đi, thậm chí đã mất rất
lâu, nhưng ý thức xã hội do xã hội đó sinh ra vẫn tồn tại dai dẳng với thời gian khá
lâu, nhất là những truyền thống, tập quán, thói quen của con người. Và, khi xã hội
mới đã ra đời nhưng ý thức xã hội về xã hội đó chưa nảy sinh ngay lập tức, mà
phải một thời gian sau đó mới xuất hiện. Nguyên nhân của tình trạng này thường
xuất phát từ những nguyên nhân sau đây:
Một là, sự biến đổi của tồn tại xã hội do tác động mạnh mẽ, thường xuyên và
trực tiếp của những hoạt động thực tiễn của con người, thường diễn ra với tốc độ
nhanh mà ý thức xã hội có thể không phản ánh kịp và trở nên lạc hậu. Ngay cả cấp
độ lý luận của ý thức xã hội, trong một số trường hợp có thể trở nên lạc hậu, nhất
là trong những thời điểm mà lịch sử có tính chất bước ngoặt, nếu như lý luận đó
không kịp chuyển biến kịp với sự biến đổi của hiện thực cuộc sống. Hơn nữa, ý
thức xã hội là cái phản ánh tồn tại xã hội nên nói chung chỉ biến đổi sau khi có sự
biến đổi của tồn tại xã hội.
Hai là, do sức mạnh bảo thủ, trì trệ của thói quen, truyền thống, tập quán có
hàng ngàn năm đã ăn sâu bám rễ vào con người và cộng đồng xã hội. Mặt khác,
còn do tính lạc hậu, bảo thủ của một số hình thái ý thức xã hội.
Ba là, ý thức xã hội luôn gắn với lợi ích của những nhóm, những tập đoàn
người, những giai cấp nhất định trong xã hội. Vì vậy, những tư tưởng cũ, lạc hậu
thường được các lực lượng xã hội phản tiến bộ lưu giữ và truyền bá nhằm chống
lại các lực lượng xã hội tiến bộ.

96
Những ý thức lạc hậu, tiêu cực không mất đi một cách dễ dàng. Vì vậy, trong
sự nghiệp xây dựng xã hội mới phải thường xuyên tăng cường công tác tư tưởng,
đấu tranh chống lại những âm mưu và hành động phá hoại của những lực lượng thù
địch về mặt tư tưởng, kiên trì xóa bỏ những tàn dư ý thức cũ, đồng thời ra sức phát
huy những truyền thống tư tưởng tốt đẹp.
b. Ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội
Sự phản ánh vượt trước sẽ là sáng tạo khi ý thức xã hội phản ánh đúng được
những mối liên hệ tất yếu, bản chất của tồn tại xã hội. Nói cách khác, ý thức xã hội
phản ánh được cái logic khách quan của tồn tại xã hội. Đặc biệt những tư tưởng
khoa học tiên tiến có thể vượt trước sự phát triển của tồn tại xã hội, dự báo được
tương lai và có tác dụng tổ chức, chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con người, hướng
hoạt động đó vào việc giải quyết những nhiệm vụ mới do sự phát triển chín muồi
của đời sống vật chất của xã hội đặt ra. Nhưng sự phản ánh vượt trước sẽ là ảo
tưởng, duy ý chí khi nó chỉ là sự mong muốn chủ quan của con người, không dựa
trên sự nắm bắt cái logic khách quan của hiện thực.
Chủ nghĩa Mác - Lênin là hệ tư tưởng của giai cấp cách mạng nhất của thời
đại - giai cấp công nhân, tuy ra đời vào thế kỷ XIX trong lòng chủ nghĩa tư bản,
nhưng đã chỉ ra được những quy luật vận động tất yếu của xã hội loài người nói
chung, của xã hội tư bản nói riêng, qua đó chỉ ra rằng xã hội tư bản nhất định sẽ bị
thay thế bằng xã hội cộng sản. Học thuyết đó trang bị cho giai cấp công nhân và
chính đảng cộng sản vũ khí lý luận sắc bén để giải phóng mình và giải phóng nhân
dân lao động, các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới thoát khỏi ách nô dịch, bóc
lột, xây dựng một xã hội mới tốt đẹp.
Trong thời đại ngày nay, chủ nghĩa Mác – Lênin vẫn là thế giới quan và
phương pháp luận khoa học cho nhận thức và cải tạo thế giới trên mọi lĩnh vực, là
cơ sở lý luận và phương pháp luận khoa học cho sự nghiệp cải tạo và xây dựng chủ
nghĩa xã hội.
c. Ý thức xã hội có tính kế thừa trong sự phát triển của mình
Kế thừa là một trong những tính quy luật phát triển nội tại của bản thân ý thức
xã hội, không kế thừa thì tư tưởng, lý luận, khoa học không thể tiến lên được một
97
bước nào cả. Tuy nhiên, kế thừa phải có “lọc bỏ”, kế thừa và “lọc bỏ” là hai mặt
của quá trình phát triển của ý thức xã hội.
Ví dụ: chủ nghĩa Mác đã kế thừa và phát triển những tinh hoa tư tưởng của
loài người mà trực tiếp là nền triết học cổ điển Đức, kinh tế chính trị học cổ điển
Anh và chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp.
Quán triệt sâu sắc tính quy luật kế thừa trong sự phát triển của ý thức xã hội
có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Tính chất kế thừa trong sự phát triển của tư tưởng
là một trong những nguyên nhân nói rõ vì sao một nước có trình độ phát triển
tương đối kém về kinh tế nhưng tư tưởng lại ở trình độ phát triển cao hơn.
Ví dụ: nước Pháp thế kỷ XVIII có nền kinh tế phát triển kém nước Anh,
nhưng tư tưởng thì lại tiên tiến hơn nước Anh; so với Anh, Pháp thì nước Đức ở
nửa đầu thế kỷ XIX lạc hậu về kinh tế, nhưng đã đứng ở trình độ cao hơn về triết
học.
Trong xã hội có giai cấp, tính chất kế thừa của ý thức xã hội gắn với tính chất
giai cấp của nó. Những giai cấp khác nhau kế thừa những nội dung ý thức khác
nhau của các thời đại trước. Các giai cấp tiên tiến tiếp nhận những di sản tư tưởng
tiến bộ của xã hội cũ để lại.
Ví dụ: khi làm cách mạng tư sản chống phong kiến, các nhà tư tưởng tiên tiến
của giai cấp tư sản đã khôi phục những tư tưởng duy vật và nhân bản của thời cổ
đại. Ngược lại, những giai cấp lỗi thời và các nhà tư tưởng của nó thì tiếp thu, khôi
phục những tư tưởng, những lý thuyết xã hội phản tiến bộ của những thời kỳ lịch
sử trước. Giai cấp phong kiến các nước Tây Âu trung cổ ở thời kỳ suy thoái đã ra
sức khai thác triết học của Platôn và những yếu tố duy tâm trong hệ thống triết học
của Arixtốt thời kỳ cổ đại Hy Lạp, biến chúng thành cơ sở triết học của các giáo lý
đạo Thiên chúa; hoặc vào nửa sau thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX các thế lực tư sản
phản động đã phục hồi và phát triển những trào lưu triết học duy tâm, tôn giáo
dưới những cái tên mới như chủ nghĩa Cantơ mới, chủ nghĩa Tômát mới, để chống
lại phong trào của giai cấp công nhân và hệ tư tưởng của nó là chủ nghĩa Mác.
Quan điểm của triết học Mác - Lênin về tính kế thừa của ý thức xã hội có ý
nghĩa to lớn đối với sự nghiệp xây dựng nền văn hóa tinh thần của xã hội xã hội
98
chủ nghĩa. V.I.Lênin nhấn mạnh rằng: văn hóa xã hội chủ nghĩa cần phát huy
những thành tựu và truyền thống tốt đẹp nhất của nền văn hóa nhân loại từ cổ chí
kim trên cơ sở thế giới quan mácxít. Người viết: “Văn hóa vô sản phải là sự phát
triển hợp quy luật của tổng số những kiến thức mà loài người đã tích lũy được dưới
ách thống trị của xã hội tư bản, xã hội của bọn địa chủ và xã hội của bọn quan
liêu”29.
Nắm vững quan điểm trên đây của chủ nghĩa Mác - Lênin về tính kế thừa của
ý thức xã hội có ý nghĩa quan trọng đối với công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay
trên lĩnh vực văn hóa, tư tưởng, Đảng ta khẳng định, trong điều kiện kinh tế thị
trường và mở rộng giao lưu quốc tế, phải đặc biệt quan tâm, giữ gìn và nâng cao
bản sắc văn hóa dân tộc, kế thừa và phát huy truyền thống đạo đức, tập quán tốt
đẹp và lòng tự hào dân tộc. Tiếp thu tinh hoa các dân tộc trên thế giới, làm giàu
đẹp thêm nền văn hóa Việt Nam.
d. Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội trong sự phát triển
của chúng
Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội còn được biểu hiện thông qua sự tác
động và ảnh hưởng lẫn nhau giữa các hình thái ý thức trong quá trình phát triển của
ý thức xã hội. Mỗi hình thái ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội theo một cách
thức và phương pháp riêng - điều đó làm cho ý thức xã hội trở nên sinh động,
phong phú và đa dạng. Trong khi phản ánh tồn tại xã hội, các hình thái ý thức xã
hội không hình thành một cách biệt lập mà chúng luôn tương tác và ảnh hưởng lẫn
nhau, xâm nhập vào nhau và đều tác động trở lại tồn tại xã hội.
Trong sự tác động lẫn nhau giữa các hình thái ý thức, ý thức chính trị có vai
trò đặc biệt quan trọng, ý thức chính trị của giai cấp cách mạng định hướng cho sự
phát triển theo chiều hướng tiến bộ của các hình thái ý thức khác. Sở dĩ ý thức
chính trị có vai trò quan trọng như vậy là vì trong xã hội có giai cấp, giai cấp thống
trị về kinh tế luôn giữ vai trò thống trị về đời sống tinh thần và ý thức chính trị của
giai cấp đó sẽ trở thành hệ tư tưởng chi phối toàn bộ đời sống xã hội. Ngoài hình
thái ý thức chính trị ra, lịch sử phát triển của ý thức xã hội cho thấy, thông thường
29
V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1977, t.41, tr.361.
99
ở mỗi thời đại, tùy theo những hoàn cảnh lịch sử cụ thể có những hình thái ý thức
nào đó nổi lên hàng đầu và tác động mạnh đến các hình thái ý thức xã hội khác. Ở
Hy Lạp cổ đại, triết học và nghệ thuật đóng vai trò đặc biệt to lớn; còn ở Tây Âu
trung cổ thì tôn giáo ảnh hưởng mạnh mẽ đến mọi mặt tinh thần xã hội như triết
học, đạo đức, nghệ thuật, chính trị, pháp quyền. Ở giai đoạn lịch sử sau này thì ý
thức chính trị lại đóng vai trò to lớn tác động đến các hình thái ý thức xã hội khác.
Ở Pháp nửa sau thế kỷ XVIII và ở Đức cuối thế kỷ XIX, triết học và văn học là
công cụ quan trọng nhất để tuyên truyền những tư tưởng chính trị, là vũ đài của
cuộc đấu tranh chính trị của các lực lượng xã hội tiên tiến. Trong điều kiện của
nước ta hiện nay, những hoạt động tư tưởng như triết học, văn học nghệ thuật, v.v.
mà tách rời đường lối chính trị đúng đắn của Đảng sẽ không tránh khỏi rơi vào
những quan điểm sai lầm, không thể đóng góp tích cực vào sự nghiệp cách mạng
của nhân dân.
e. Ý thức xã hội tác động trở lại tồn tại xã hội
Chủ nghĩa duy vật lịch sử không những chống lại quan điểm duy tâm tuyệt
đối hóa vai trò của ý thức xã hội, mà còn bác bỏ quan điểm duy vật tầm thường,
hay chủ nghĩa duy vật kinh tế phủ nhận tác dụng tích cực của ý thức xã hội trong
đời sống xã hội. Ph.Ăngghen viết: “Sự phát triển về mặt chính trị, pháp luật, triết
học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật,... đều dựa vào sự phát triển kinh tế. Nhưng tất
cả chúng cũng có ảnh hưởng lẫn nhau và ảnh hưởng đến cơ sở kinh tế. Hoàn toàn
không phải điều kiện kinh tế là nguyên nhân duy nhất chủ động, còn mọi thứ khác
chỉ có một tác dụng thụ động. Trái lại, có sự tác động qua lại trên cơ sở tất yếu
kinh tế, là một tính tất yếu, xét đến cùng bao giờ cũng tự vạch ra con đường đi của
nó”30.
Mức độ ảnh hưởng của tư tưởng đối với sự phát triển xã hội phụ thuộc vào
những điều kiện lịch sử cụ thể; vào tính chất của các mối quan hệ kinh tế mà trên
đó tư tưởng nảy sinh; vai trò lịch sử của giai cấp mang ngọn cờ tư tưởng; vào mức
độ phản ánh đúng đắn của tư tưởng đối với các nhu cầu phát triển của xã hội; vào

30
C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1999, t.1,
tr.39, 271.
100
mức độ mở rộng của tư tưởng trong quần chúng. Cũng do đó, ở đây cần phân biệt
vai trò của ý thức tư tưởng tiến bộ và ý thức tư tưởng phản tiến bộ đối với sự phát
triển xã hội.
Sự tác động trở lại của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội diễn ra theo hai
khuynh hướng trái ngược nhau. Nếu là ý thức xã hội tiến bộ, phản ánh đúng quy
luật phát triển khách quan của đời sống xã hội và phù hợp với lợi ích của quần
chúng lao động thì nó thúc đẩy tồn tại xã hội phát triển. Trái lại, nếu là ý thức lạc
hậu, phản động thì nó tác động làm kìm hãm sự phát triển của tồn tại xã hội.
Như vậy, nguyên lý của chủ nghĩa duy vật lịch sử về tính độc lập tương đối
của ý thức xã hội chỉ ra bức tranh phong phú và phức tạp của lịch sử phát triển ý
thức xã hội và của đời sống tinh thần xã hội nói chung; nó bác bỏ mọi quan điểm
siêu hình, máy móc, tầm thường về mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã
hội. Đồng thời nó cung cấp cơ sở lý luận và phương pháp khoa học để các khoa
học chuyên ngành đi sâu khám phá những “bí ẩn” của đời sống xã hội.
IV. HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ QUÁ TRÌNH LỊCH SỬ -
TỰ NHIÊN CỦA SỰ PHÁT TRIỂN CÁC HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI
1. Khái niệm, kết cấu hình thái kinh tế - xã hội.
Hình thái kinh tế - xã hội là một phạm trù chỉ xã hội ở từng nấc thang lịch sử
nhất định với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó phù hợp với một
trình độ nhất định của lực lượng sản xuất và với một kiến trúc thượng tầng tương
ứng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất ấy.
Chức năng của các yếu tố cơ bản cấu thành hình thái kinh tế - xã hội:
Lực lượng sản xuất là nền tảng vật chất - kỹ thuật của mỗi hình thái kinh tế -
xã hội. Hình thái kinh tế - xã hội khác nhau có lực lượng sản xuất khác nhau. Suy
đến cùng, sự phát triển của lực lượng sản xuất quyết định sự hình thành, phát triển
và thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế - xã hội.
Quan hệ sản xuất giúp ta hiểu về cách thức tổ chức của một hình thái kinh tế -
xã hội, là tiêu chuẩn khách quan phân biệt sự khác nhau về mặt bản chất giữa các
hình thái kinh tế - xã hội.

101
Kiến trúc thượng tầng giúp ta hiểu trạng thái, cách thức tổ chức của các kiểu
nhà nước đã có trong lịch sử, đồng thời giúp ta hiểu về đời sống tinh thần của một
xã hội nhất định.
Chú ý: ngoài những mặt của xã hội đã nêu kể trên thì xã hội còn bao gồm
những quan hệ như quan hệ giáo dục, quan hệ dân tộc, và các sinh hoạt xã hội
khác.
2. Quá trình lịch sử - tự nhiên của sự phát triển các hình thái kinh tế - xã
hội
Sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là quá trình lịch sử tự nhiên.
Quá trình lịch sử - tự nhiên với tính phong phú đa dạng của lịch sử toàn nhân loại.
Xã hội phát triển qua nhiều giai đoạn kế tiếp nhau ứng với mỗi giai đoạn của
sự phát triển là một hình thái kinh tế - xã hội nhất định, các hình thái kinh tế - xã
hội vận động phát triển do sự tác động của các quy luật khách quan, đó là quá trình
tự nhiên của sự phát triển.
Khuynh hướng của sản xuất vật chất là không ngừng phát triển biến đổi. Sự
biến đổi đó bao giờ cũng bắt đầu bằng sự biến đổi và phát triển của lực lượng sản
xuất, lực lượng sản xuất phát triển dẫn đến mâu thuẫn gay gắt với quan hệ sản xuất
hiện có và xuất hiện một đòi hỏi khách quan là xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ, thiết
lập quan hệ sản xuất mới, quan hệ sản xuất biến đổi có nghĩa là cơ sở hạ tầng biến
đổi.
Khi cơ sở hạ tầng thay đổi thì kiến trúc thượng tầng cũng thay đổi theo. Như
vậy, sự vận động phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội chịu sự tác động của
các quy luật khách quan, mà biểu hiện trực tiếp ở đây là quy luật quan hệ sản xuất
phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và quy luật tác động biện
chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng.
Chỉ có đem quy những quan hệ xã hội vào những quan hệ sản xuất và đem
quy những quan hệ sản xuất vào trình độ của những lực lượng sản xuất thì người ta
mới có được một cơ sở vững chắc để quan niệm sự phát triển của những hình thái
kinh tế xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên.

102
Loài người đã và đang trải qua các hình thái kinh tế - xã hội trong lịch sử theo
trật tự từ thấp đến cao, đó là quá trình tự nhiên của sự phát triển lịch sử, thể hiện
tính liên tục của lịch sử. New-tơn đã từng nói: “Sở dĩ tôi có những phát minh là vì
tôi đã biết đứng trên vai những người khổng lồ”.
3. Giá trị khoa học của học thuyết hình thái kinh tế - xã hội
Khắc phục quan điểm duy tâm về xã hội, học thuyết hình thái kinh tế - xã hội
đã đưa lại cho khoa học xã hội một phương pháp nghiên cứu thực sự khoa học, ở
chỗ học thuyết này đã chỉ ra sản xuất vật chất là cơ sở của đời sống xã hội, phương
thức sản xuất quyết định các mặt của đời sống xã hội. Do đó, phải xuất phát từ
phương thức sản xuất để giải thích các hiện tượng xã hội chứ không thể xuất phát
từ ý thức, tư tưởng, từ ý chí chủ quan của con người.
Học thuyết đó chỉ ra rằng muốn nhận thức đúng đời sống xã hội, phải phân
tích một cách sâu sắc các mặt của đời sống xã hội và mối quan hệ lẫn nhau giữa
chúng. Đặc biệt phải đi sâu phân tích về quan hệ sản xuất thì mới có thể hiểu một
cách đúng đắn về đời sống xã hội. Chính quan hệ sản xuất cũng là tiêu chuẩn
khách quan để phân kỳ lịch sử một cách đúng đắn khoa học.
Ngày nay, thực tiễn lịch sử và kiến thức về lịch sử của nhân loại đã có nhiều
bổ sung và phát triển mới. Tuy vậy, những cơ sở khoa học của học thuyết hình thái
kinh tế - xã hội vẫn giữ nguyên giá trị. Gần đây, trước những thành tựu kỳ diệu của
khoa học và công nghệ, một số nhà xã hội học phương Tây đã giải thích sự tiến
hoá xã hội như là sự chống chọi nhau, thay thế nhau giữa các nền văn minh: Nông
nghiệp, Công nghiệp và hậu Công nghiệp. Tiêu biểu trong số đó là AlvinToffler là
tác giả của ba bộ sách nổi tiếng: “Cú sốc tương lai” (Future shock), xuất bản năm
1970; “Làn sóng thứ ba” (The third wave) xuất bản năm 1980 và “Thăng trầm
quyền lực” (Power shiff) xuất bản năm 1990 tại New York. Trong “Làn sóng thứ
ba” (The third wave) xuất bản năm 1980, ông viết: “Cho đến bây giờ nhân loại đã
trải qua hai làn sóng thay đổi vĩ đại, mỗi làn sóng đã xoá đi hết các nền văn hoá
trước đó để thay bằng nền văn minh mới mà những người trước đó không thể nào
nhận thức nổi. Làn sóng thứ nhất - cách mạng nông nghiệp, cần hàng nghìn năm
mới hình thành. Làn sóng thứ hai - cuộc cách mạng công nghiệp, chỉ cần 300 năm.
103
Ngày nay lịch sử còn nhanh hơn, dường như Làn sóng thứ ba sẽ tràn qua lịch sử và
diễn ra trong vòng vài thập kỷ tới” 31. Theo tác giả, tất cả các thuật ngữ “Thời đại
vũ trụ”, “Thời đại tin tức”, “Thời đại công nghiệp điện tử”, “Xã hội hậu công
nghiệp” cũng như thuật ngữ “Xã hội siêu công nghiệp” của chính tác giả, đều
không đủ để diễn tả sự thay đổi của làn sóng thứ ba đó.
Cách tiếp cận này đã phạm sai lầm căn bản là tác giả chỉ coi trình độ phát
triển của khoa học, công nghệ, của lực lượng sản xuất là yếu tố quyết định duy
nhất và trực tiếp đối với mọi sự thay đổi của đời sống xã hội của con người, mà bỏ
qua vai trò của các quan hệ sản xuất, giai cấp, dân tộc, chế độ chính trị. Lý thuyết
này cố ý bỏ qua vấn đề bản chất, đó là vấn đề xã hội - tức là vấn đề hình thái kinh
tế - xã hội. Nó không vạch ra được mối quan hệ giữa các mặt trong đời sống xã hội
và các quy luật vận động và phát triển của xã hội từ thấp đến cao.
V. VẬN DỤNG HỌC THUYẾT HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI VÀO
SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
1. Lựa chọn con đường tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư
bản chủ nghĩa
Chủ nghĩa xã hội đã hình thành và phát triển từ sau Cách mạng Tháng Mười
Nga theo mô hình kế hoạch hoá tập trung. Mô hình đó đã phát huy vai trò tích cực
trong một giai đoạn lịch sử nhất định, nhưng từ cuối những năm 1980 của thế kỷ
XX đã rơi vào khủng hoảng nghiêm trọng, dẫn đến chủ nghĩa xã hội hiện thực ở
Liên Xô và Đông Âu sụp đổ. Đó là sự bác bỏ chủ nghĩa xã hội theo mô hình kế
hoạch hoá tập trung, chứ không phải bác bỏ chủ nghĩa xã hội với tính cách là xã
hội cao hơn chủ nghĩa tư bản. Mặc dù chủ nghĩa tư bản hiện nay có sự điều chỉnh
nhất định.
Tuy nhiên, xu thế quá độ lên chủ nghĩa xã hội là tất yếu: Nếu như cách mạng
công nghiệp thế kỷ XVII - XIX đã quyết định thắng lợi của chủ nghĩa tư bản đối
với chế độ phong kiến, thì cuộc cách mạng khoa học, công nghệ hiện đại đang tạo
ra những tiền đề vật chất để thay thế chủ nghĩa tư bản bằng chủ nghĩa xã hội.
31
Alvin Toffler: “Làn sóng thứ ba”, Nxb Thanh niên, 2002, tr.16.

104
Khả năng quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa trong
thời đại ngày nay.
Thời kỳ quá độ: từ hình thái kinh tế - xã hội này chuyển sang hình thái kinh tế
- xã hội khác có một giai đoạn lịch sử đặc biệt với độ dài ngắn khác nhau, kết cấu
và hình thức biểu hiện khác nhau, đó là thời kỳ quá độ.
Ngay cả khi chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu và Liên Xô tan rã thì vẫn xuất hiện
những điều kiện để bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa lên chủ nghĩa xã hội vì:
Thời đại chúng ta đang sống hiện nay được mở đầu bằng Cách mạng Tháng
Mười Nga năm 1917, thời đại này đã làm thức tỉnh các dân tộc, quốc gia, tạo ra
những điều kiện và khả năng khách quan mới để các nước mới giành được độc lập
về chính trị có thể thực hiện được con đường phát triển bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa.
Xu thế toàn cầu hoá và quốc tế hoá lực lượng sản xuất của nhân loại do cuộc
cách mạng khoa học và công nghệ mới hiện nay đem lại đang chứa đựng những
phương tiện, những điều kiện vật chất của quan hệ sản xuất mới cao hơn mà những
nước chưa trải qua chế độ tư bản chủ nghĩa có thể tìm thấy và vận dụng vào nước
mình thông qua sự giao lưu, hợp tác quốc tế dưới nhiều hình thức khác nhau để từ
đó tận dụng nguồn công nghệ, nguồn vốn và kinh nghiệm quản lý của những nước
có nền công nghiệp phát triển đạt được trong chế độ tư bản chủ nghĩa để phát triển
đất nước mình.
Chừng nào mà các quốc gia chậm phát triển nhận thấy sản xuất tư bản còn
thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế đến mức độ nhất định, thì các nước đi theo con
đường chủ nghĩa xã hội không có lý do gì không dám sử dụng nó như một thành
phần kinh tế trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, tất nhiên dưới sự dẫn
dắt của thành phần kinh tế nhà nước theo định hướng chủ nghĩa xã hội.
* Việc lựa chọn con đường tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ
tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam
Xét về phương diện chính trị, từ năm 1930 đến nay phong trào cách mạng đã
trở thành một phong trào hiện thực, xoá bỏ chế độ thực dân, phong kiến giành độc
lập dân tộc, tiến lên chủ nghĩa xã hội, không chấp nhận chế độ tư bản chủ nghĩa.
105
Sau hơn nửa thế kỷ tôi luyện và thử thách, khuynh hướng chính trị tự nguyện của
tuyệt đại bộ phận nhân dân và các dân tộc Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam đã trở thành một sức mạnh vật chất bám rễ sâu sắc trong lòng
xã hội Việt Nam. Cái tất yếu chính trị đó đã, đang và sẽ đóng vai trò quyết định
trong việc thu hút, chuyển hoá những nhân tố thời đại thành quyền lực bên trong
để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Về phương diện kinh tế, chúng ta đều biết chủ nghĩa tư bản khi mới ra đời
cũng phải dựa trên trình độ của lực lượng sản xuất kém phát triển (lao động thủ
công là chủ yếu và dựa trên hợp tác phân công lao động từ công trường thủ công),
do vậy hiện nay trình độ lực lượng sản xuất của chúng ta còn kém phát triển,
nhưng chúng ta có thể từng bước học hỏi, tranh thủ nguồn vốn, nguồn công nghệ,
kinh nghiệm quản lý của những nước có nền công nghiệp phát triển đạt được trong
chế độ tư bản chủ nghĩa và dựa vào nội lực để phát triển đất nước.
Chính từ sự khủng hoảng của mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông
Âu giúp chúng ta nhận thức rõ hơn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội. Vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta,
Đảng ta khẳng định: độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội là quy luật phát triển
của cách mạng Việt Nam, sợi chỉ đỏ xuyên suốt đường lối cách mạng của Đảng.
Việc Đảng ta luôn luôn kiên định con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội là phù hợp
với xu hướng của thời đại và điều kiện cụ thể của nước ta.
2. Kết hợp chặt chẽ giữa kinh tế với chính trị và các mặt khác của đời sống
xã hội trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội
Để có thể thực hiện được mục tiêu quá độ lên chủ nghĩa xã hội, gắn liền với
việc tăng trưởng và phát triển kinh tế, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng
chủ nghĩa xã hội, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phải không ngừng đổi
mới hệ thống chính trị, nâng cao vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nâng cao vai trò của các tổ chức
quần chúng, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân trong sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ tổ quốc.

106
Đồng thời với phát triển kinh tế, phải phát triển văn hoá, xây dựng nền văn
hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc nhằm không ngừng nâng cao đời sống tinh
thần của nhân dân; phát triển giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo
nhân lực và bồi dưỡng nhân tài; giải quyết tốt các vấn đề xã hội, thực hiện công
bằng xã hội nhằm thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh”.
3. Xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa
Kinh tế thị trường là thành tựu chung của văn minh nhân loại. Nó là kết quả
của sự phát triển của lực lượng sản xuất đến một trình độ nhất định, kết quả của
quá trình phân công lao động xã hội, đa dạng hoá các hình thức sở hữu, đồng thời
nó là động lực mạnh mẽ thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
Thực hiện công cuộc đổi mới từ 1986, Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực
hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng
xã hội chủ nghĩa.
Theo Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng, nền kinh tế
nước ta có 5 thành phần:
- Kinh tế nhà nước
- Kinh tế tập thể
- Kinh tế tư bản nhà nước
- Kinh tế tư nhân
- Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài
Trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng với
kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc.
Việc xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa vừa phù hợp với xu hướng phát triển chung của nhân loại, vừa phù hợp với
yêu cầu phát triển của lực lượng sản xuất ở nước ta; với yêu cầu của quá trình xây
dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, kết hợp với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.

107
4. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là nhiệm vụ trung tâm trong quá trình
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Hội nghị TW lần thứ 7 khoá VII đưa ra khái niệm: “Công nghiệp hóa, hiện
đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất kinh
doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính
sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện,
phương pháp tiên tiến, hiện đại dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ
khoa học - công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao”.
Con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá cần và có thể rút ngắn, phấn đấu
đến năm 2020 nước ta cơ bản thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta chỉ thực sự thành công chừng nào thực
hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
V. QUAN ĐIỂM CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN VỀ GIAI CẤP
VÀ ĐẤU TRANH GIAI CẤP
1. Nguồn gốc và điều kiện tồn tại của giai cấp
Xã hội loài người đã từng tồn tại rất lâu trong tình trạng không có các giai
cấp. C.Mác cho rằng: “sự tồn tại của các giai cấp chỉ gắn liền với các giai đoạn
phát triển lịch sử nhất định của sản xuất” 32. Trong thời kỳ nguyên thủy, khi trình độ
của lực lượng sản xuất còn thấp, công cụ lao động chủ yếu là các vật dụng tự nhiên
như đá, gậy gộc, cung tên,… con người làm ra sản phẩm chỉ đủ để tồn tại, duy trì
nòi giống, chưa có sản phẩm dôi dư tương đối thì chưa có khả năng xuất hiện chế
độ người bóc lột người, chưa thể có các giai cấp. Cuối xã hội nguyên thủy, việc sử
dụng phổ biến công cụ bằng kim loại làm cho năng suất lao động tăng lên, con
người có thể sản xuất số lượng sản phẩm vượt hơn nhu cầu tối thiểu để tồn tại.
Điều đó tạo khả năng cho những người này có thể chiếm đoạt lao động của người
khác. Với công cụ sản xuất tiến bộ hơn, sản xuất cá thể từng gia đình có hiệu quả
hơn sản xuất tập thể nguyên thủy. Như vậy, lực lượng sản xuất phát triển đã dẫn
đến sự phân công lao động, thủ công nghiệp tách khỏi nông nghiệp. Trao đổi sản

32
C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,1996, t.28,
tr.662.
108
phẩm trở thành hoạt động thường xuyên, phổ biến. Quan hệ sản xuất thời nguyên
thủy không còn phù hợp với lực lượng sản xuất ở trình độ mới. Các gia đình có tài
sản riêng ngày càng nhiều và trong công xã xuất hiện sự chênh lệch về tài sản. Chế
độ tư hữu dần dần thay thế chế độ công hữu nguyên thủy về tư liệu sản xuất. Trong
bối cảnh như vậy, những người có quyền lực trong thị tộc, bộ lạc đã có thể lợi
dụng địa vị của mình để chiếm đoạt tài sản của công xã làm của riêng.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất sang trình độ mới tạo khả năng và tiền đề
phân hóa xã hội thành giai cấp. Điều này cho thấy, chế độ tư hữu về tư liệu sản
xuất là cơ sở trực tiếp của sự hình thành giai cấp. C.Mác và Ph.Ăngghen chỉ rõ
rằng nguyên nhân phân chia xã hội thành giai cấp, cũng như nguyên nhân của sự ra
đời và mất đi của hệ thống giai cấp này hay hệ thống giai cấp khác, là nguyên nhân
kinh tế chứ không phải là nguyên nhân chính trị hay tư tưởng. Ph.Ăngghen nhấn
mạnh rằng các cuộc chiến tranh, những thủ đoạn cướp bóc, những hành vi bạo lực
đã góp phần đẩy nhanh sự phân hóa giai cấp, song bạo lực vốn đã có từ đầu xã hội
nguyên thủy, không tạo ra chế độ tư hữu và giai cấp. Sự ra đời cũng như sự mất đi
của xã hội có giai cấp, sự xuất hiện và mất đi của những giai cấp cụ thể đều dựa
trên tính tất yếu kinh tế.
Xã hội có giai cấp xuất hiện là một tất yếu lịch sử, là biểu hiện của sự phát
triển. Lịch sử chuyển từ trạng thái mông muội và dã man sang thời đại văn minh.
Ph.Ăngghen cho rằng: “Quy luật phân công lao động là cái làm cơ sở cho sự phân
chia thành giai cấp. Nhưng điều đó không hoàn toàn loại trừ việc sử dụng bạo lực,
cướp bóc, mánh khóe và lừa bịp trong sự hình thành các giai cấp và không cản trở
giai cấp thống trị, một khi đã nắm được chính quyền sẽ củng cố địa vị của nó trên
lưng các giai cấp lao động và biến việc quản lý xã hội thành việc bóc lột quần
chúng”33.
* Định nghĩa giai cấp của V.I.Lênin
Trong tác phẩm Sáng kiến vĩ đại, V.I.Lênin đã xây dựng định nghĩa về giai
cấp: “Người ta gọi là giai cấp, những tập đoàn to lớn gồm những người khác nhau
về địa vị của họ trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử, khác
33
C.Mác và Ph Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1994, t.20, tr.390-391.
109
nhau về quan hệ của họ (thường thường thì những quan hệ này được pháp luật quy
định và thừa nhận), đối với những tư liệu sản xuất, về vai trò của họ trong tổ chức
lao động xã hội và như vậy là khác nhau về cách thức hưởng thụ và về phần của
cải ít hoặc nhiều mà họ được hưởng. Giai cấp là những tập đoàn người, mà tập
đoàn này thì có thể chiếm đoạt lao động của tập đoàn khác, do chỗ các tập đoàn đó
có địa vị khác nhau trong một chế độ kinh tế xã hội nhất định”34.
Theo định nghĩa này, nói đến giai cấp không phải là nói đến một tập đoàn
người riêng lẻ mà nói đến các tập đoàn người trong một chế độ kinh tế xã hội nhất
định, do chế độ ấy sản sinh ra; giai cấp không phải là một phạm trù xã hội thông
thường mà là phạm trù kinh tế - xã hội có tính lịch sử, nó không phải sản phẩm của
sản xuất nói chung mà là sản phẩm của những hệ thống sản xuất xã hội nhất định
trong lịch sử. Các giai cấp khác nhau về địa vị của họ trong hệ thống sản xuất nhất
định đó. Sự khác nhau này là do:
Các giai cấp có quan hệ khác nhau đối với việc sở hữu tư liệu sản xuất. Đây
là sự khác nhau cơ bản nhất. Giai cấp nắm quyền lực nhà nước (giai cấp bóc lột)
trong chế độ nô lệ, trong chế độ phong kiến, trong chế độ tư bản là những tập đoàn
giữ địa vị thống trị trong hệ thống kinh tế xã hội mà họ là đại biểu, trước hết do các
tập đoàn người này chiếm hữu tư liệu sản xuất xã hội, tức là nắm được phương
tiện, điều kiện vật chất quan trọng nhất để chi phối lao động của các tập đoàn
người không có hoặc có rất ít tư liệu sản xuất. Những tập đoàn người bị mất tư liệu
sản xuất (bị bóc lột) buộc phải phụ thuộc về kinh tế vào các tập đoàn thống trị.
Các giai cấp có vai trò khác nhau trong tổ chức lao động xã hội, trong tổ
chức quản lý sản xuất. Giai cấp nào chiếm hữu tư liệu sản xuất sẽ giữ vai trò lãnh
đạo, chỉ huy hoạt động sản xuất và lưu thông trên quy mô toàn xã hội cũng như
từng đơn vị kinh tế. Các giai tầng lao động là những tập đoàn người trực tiếp tiến
hành quá trình sản xuất dưới sự điều khiển của giai cấp nắm giữ quyền sở hữu tư
liệu sản xuất xã hội. Ở một số nước, giai cấp công nhân có đại diện ở hội đồng
quản trị trong nhiều đơn vị sản xuất, kinh doanh. Tuy nhiên, do những quy định

34
V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva,1977, t.39, tr.17-18.
110
của pháp luật, do tương quan vị trí trong quan hệ sở hữu nên vai trò quản lý thực
chất vẫn chỉ thuộc về các nhà tư bản và các tập đoàn tư bản.
Các giai cấp có phương thức và quy mô khác nhau trong thu nhận của cải xã
hội. Là người chiếm hữu tư liệu sản xuất và tổ chức, lãnh đạo sản xuất, tập đoàn
thống trị đủ điều kiện thực hiện mục đích của mình trong sản xuất kinh tế là chiếm
đoạt lao động thặng dư của các giai cấp lao động. Chế độ phân phối sản phẩm
trong các xã hội có giai cấp đối kháng là chế độ phân phối bất công vì nó đảm bảo
cho giai cấp thống trị (giai cấp chiếm thiểu số trong dân cư, giai cấp không trực
tiếp lao động sản xuất) chiềm phần lớn của cải xã hội; còn giai cấp lao động chỉ
nhận phần ít ỏi của cải xã hội dưới hình thức này hay hình thức khác.
Như vậy, sự khác nhau giữa các tập đoàn người về địa vị trong chế độ kinh tế
xã hội tất yếu dẫn đến tập đoàn này chiếm đoạt lao động của tập đoàn khác. Đó là
bản chất của quan hệ giai cấp đối kháng. Trong các xã hội có giai cấp, bên cạnh
giai cấp thống trị và bị trị bao giờ cũng tồn tại những tầng lớp “trung gian”, không
chiếm địa vị cơ bản trong phương thức sản xuất. Các tầng lớp trung gian luôn bị
phân hóa, một số người leo lên địa vị giai cấp trên, số khác rơi xuống địa vị giai
cấp bị trị.
Trong xã hội tư bản hiện đại, các giai cấp và các quan hệ giai cấp có những
biến đổi đáng kể. Lao động trí tuệ tăng nhanh, trở thành bộ phận tiêu biểu của giai
cấp công nhân hiện đại; số lượng công nhân kỹ thuật cao ngày càng nhiều, số
lượng công nhân “áo xanh” ngày càng giảm. Bên cạnh đó, một bộ phận trí thức kỹ
thuật làm công ăn lương cũng tham gia vào đội ngũ giai cấp công nhân hiện đại.
Ngày nay, ở các nước tư bản, giai cấp công nhân vẫn không ngừng phát triển về số
lượng, mặc dù tỉ lệ giai cấp công nhân thất nghiệp luôn ở mức cao. Một số khá
đông công nhân mua được cổ phiếu, được chia lợi nhuận, thế nhưng giá trị cổ
phiếu trong tay công nhân chỉ chiếm một tỷ lệ không đáng kể. Sự phát triển các
công ty cổ phần là biểu hiện xu thế xã hội hóa tư bản, nhưng xu thế này không làm
thay đổi bản chất của mối quan hệ giữa giai cấp tư sản và giai cấp công nhân,
không làm thay đổi bản chất quan hệ giữa tư bản và lao động. Những biến đổi về
hình thức chiếm hữu tư liệu sản xuất, cơ chế bóc lột giá trị thặng dư, phương thức
111
tổ chức quản lý sản xuất diễn ra ngay ở bản thân giai cấp tư sản hiện đại. Điều
không thay đổi là giai cấp tư sản vẫn là những người chiếm hữu tư liệu sản xuất
của xã hội, những người chỉ huy sản xuất, những người chiếm hữu giá trị thặng dư,
không một lý thuyết nào có thể bác bỏ được thực tế này.
Đấu tranh giai cấp và vai trò của nó trong sự phát triển của xã hội có đối
kháng giai cấp
Các giai tầng bị trị trong xã hội có đối kháng giai cấp, không những bị chiếm
đoạt kết quả lao động mà còn bị áp bức về chính trị, xã hội và tinh thần. Giai cấp
thống trị sử dụng quyền lực nhà nước làm công cụ chủ yếu của để bảo vệ đặc
quyền đặc lợi của họ. Hai giai cấp cơ bản trong xã hội luôn đối kháng nhau về lợi
ích, và đó cũng chính là nguyên nhân của đấu tranh giai cấp. Đấu tranh giai cấp là
hiện tượng tất yếu không thể tránh được trong xã hội có áp bức giai cấp. V.I.Lênin
khẳng định đấu tranh giai cấp thực chất là “cuộc đấu tranh của quần chúng bị tước
hết quyền, bị áp bức và lao động, chống bọn có đặc quyền, đặc lợi, bọn áp bức và
bọn ăn bám, cuộc đấu tranh của những người công nhân làm thuê hay những người
vô sản chống những người hữu sản hay giai cấp tư sản”35.
Đấu tranh giai cấp trong lịch sử có nhiều hình thức khác nhau tùy thuộc vào
hoàn điều kiện, cảnh lịch sử - cụ thể, vào các giai cấp tham gia đấu tranh, và giai
đoạn phát triển của cuộc đấu tranh. Trong giai đoạn hiện nay của thời đại ngày
nay, đấu tranh giai cấp có rất nhiều hình thức phong phú, đa dạng và cũng rất phức
tạp. Trong xã hội tư bản mới hình thành, đấu tranh giai cấp của giai cấp công nhân
lúc đầu diễn ra dưới hình thức các cuộc đấu tranh riêng lẻ, cục bộ, tự phát. Đấu
tranh của công nhân chỉ trở thành đấu tranh giai cấp thực sự khi nó phát triển thành
cuộc đấu tranh toàn quốc hoặc ít nhất có quy mô rộng lớn, nhằm chống lại quyền
lực chính trị của cả giai cấp tư sản. Với ý nghĩa đó: “bất cứ cuộc đấu tranh giai cấp
nào cũng là một cuộc đấu tranh chính trị”36.

35
V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1979, t.7, tr.237-238.
36
C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,1995, t.4,
tr.608.
112
Lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học chỉ ra rằng giai cấp công nhân trong xã hội
tư bản đấu tranh chống tư sản ở cả ba lĩnh vực: đấu tranh kinh tế, đấu tranh tư
tưởng, đấu tranh chính trị. Để có thể tự giải phóng về mặt kinh tế, giai cấp công
nhân không thể chỉ đấu tranh kinh tế, hay đấu tranh tư tưởng mà phải tiến lên đấu
tranh chính trị để giành lại các quyền tự do dân chủ và cuối cùng giành chính
quyền. Trong quá trình đó, giai cấp công nhân phải có học thuyết cách mạng và
khoa học soi đường, phải tổ chức chính đảng của mình, phải trở thành một giai cấp
tự giác và có tổ chức.
Các giai cấp thống trị luôn sử dụng những công cụ bạo lực để chống lại các
cuộc đấu tranh của các giai cấp bị áp bức. Vì thế các giai cấp bị trị không thể
không dùng bạo lực cách mạng để chống lại bạo lực phản cách mạng. Tuy nhiên,
trong giai đoạn hiện nay, bạo lực cách mạng không loại trừ những hình thức nhất
định của đấu tranh chính trị. Những hình thức này ngày càng có vai trò quan trọng.
Mặt khác, ở nhiều quốc gia, trong những điều kiện nhất định, giai cấp công nhân
và nhân dân lao động có thể giành chính quyền một cách tương đối hòa bình. Song
trong trường hợp đó, đảng của giai cấp công nhân phải xây dựng lực lượng quần
chúng có tổ chức, rất hùng mạnh, đủ khả năng làm thất bại mọi hành động bạo lực
phản cách mạng của giai cấp thống trị.
Như vậy, khi các điều kiện lịch sử đã thay đổi thì các hình thức đấu tranh giai
cấp cũng có thể và cần phải thay đổi. Trong bối cảnh mới rất phức tạp hiện nay,
cách mạng xã hội chủ nghĩa đang ở thời kỳ thoái trào, giai cấp công nhân các nước
tư bản chủ nghĩa đứng trước vấn đề cấp bách là tìm những hình thức mới của đấu
tranh giai cấp để chống lại những thủ đoạn mới của giai cấp thống trị, của những
tập đoàn tư bản lũng đoạn xuyên quốc gia bảo vệ những lợi ích giai cấp trước mắt
và lâu dài của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Trong quan hệ giữa các
giai cấp có đấu tranh giai cấp và liên minh giai cấp. Liên minh giai cấp là sự liên
kết giữa một số giai cấp để cùng đấu tranh bảo vệ những lợi ích chung nhất thời
hoặc lâu dài. Liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và các tầng
lớp lao động chân tay và trí óc khác là liên minh chiến lược lâu dài. Trong cách

113
mạng tư sản, liên minh giữa giai cấp tư sản với công nhân và nông dân là liên minh
nhất thời và trong nội bộ khối liên minh này có đối kháng giữa tư bản và lao động.
Trong các xã hội có đối kháng giai cấp, đấu tranh giai cấp là một trong những
động lực phát triển quan trọng của xã hội: những quan hệ sản xuất lỗi thời không
tự động nhường chỗ cho quan hệ sản xuất mới mà được giai cấp thống trị bảo vệ
bằng tất cả sức mạnh chính trị, kinh tế và tư tưởng, đặc biệt là bằng bạo lực có tổ
chức. Muốn thay đổi quan hệ sản xuất để giải phóng sức sản xuất phải gạt bỏ sự
bảo vệ ấy. Điều đó chỉ có thể thực hiện được qua đấu tranh giai cấp và cách mạng
xã hội. Xuất phát từ quan điểm xem sự vận động nội tại của phương thức sản xuất
quyết định sự phát triển của toàn bộ lịch sử xã hội, C.Mác và Ph.Ăngghen đã xem
đấu tranh giai cấp mà đỉnh cao là thời kỳ diễn ra cách mạng xã hội như đòn bẩy để
thay đổi hình thái kinh tế - xã hội, do đó “đấu tranh giai cấp” là động lực trực tiếp
của lịch sử các xã hội có đối kháng giai cấp.
Trong các xã hội có áp bức giai cấp, thông qua đấu tranh cho tự do, không
cam chịu số phận nô lệ, các giai cấp bị áp bức mới gột rửa được tinh thần nô lệ và
những tập quán xấu do chế độ người áp bức người sản sinh ra. Đấu tranh giai cấp
không chỉ là đòn bẩy của lịch sử trong thời kỳ cách mạng mà còn là động lực phát
triển các mặt của đời sống xã hội trong thời kỳ phát triển bình thường của xã hội.
Dưới chế độ tư bản, hoạt động của phong trào công nhân là sức ép, là một trong số
nhiều động lực mạnh mẽ, thúc đẩy giai cấp tư sản đổi mới phương thức quản lý, sử
dụng kỹ thuật mới để đảm bảo lợi nhuận của họ và qua đó gián tiếp cải thiện đời
sống của người lao động. Những thành tựu dân chủ mà giai cấp công nhân, nhân
dân lao động ở các nước tư bản giành được cũng chính là kết quả của đấu tranh
giai cấp dưới nhiều hình thức. Qua đó, giai cấp công nhân ngày càng trưởng thành
về chính trị, tư tưởng và tổ chức, và hoàn toàn có khả năng thực hiện nhiệm vụ lịch
sử của mình.
Vai trò của đấu tranh giai cấp trong lịch sử được phát huy như thế nào tùy
thuộc vào tính chất, trình độ phát triển của các cuộc đấu tranh. Tác dụng đặc biệt to
lớn đối với lịch sử là những cuộc đấu tranh mang tính chất quần chúng rộng lớn,
do lực lượng tiên tiến của xã hội lãnh đạo, được tổ chức một cách khoa học nhằm
114
thực hiện nghĩa vụ lịch sử chín muồi là đánh đổ giai cấp thống trị phản động đang
là lực cản lớn đối với sự phát triển xã hội. Sau khi giai cấp công nhân và nhân dân
lao động giành được chính quyền, đấu tranh giai cấp chưa biến mất mà tiếp tục
diễn ra gay go phức tạp trong điều kiện mới. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội mục tiêu đấu tranh trực tiếp của giai cấp công nhân đã thay đổi: từ mục tiêu
giành chính quyền chuyển sang mục tiêu cơ bản và chủ yếu là củng cố chính quyền
của nhân dân lao động xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, trọng tâm là xây
dựng kinh tế. Giai cấp tư sản đã bị lật đổ, tiến hành cuộc đấu tranh chống cách
mạng xã hội chủ nghĩa nhằm phục hồi chủ nghĩa tư bản.
Điều kiện đấu tranh thay đổi, mục tiêu trực tiếp của các giai cấp thay đổi thì
hình thức đấu tranh giai cấp cũng thay đổi. Lênin đã nói: “Trong điều kiện chuyên
chính vô sản, những hình thức đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản không thể
giống như trước được”37. Cuộc đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa
tư bản lên chủ nghĩa xã hội diễn ra trên tất cả các lĩnh vực như chính trị, kinh tế, xã
hội, văn hóa, tư tưởng. V.I.Lênin cho rằng chủ nghĩa xã hội chỉ giành được thắng
lợi triệt để khi giai cấp công nhân lãnh đạo đông đảo quần chúng nhân dân xây
dựng thành công phương thức sản xuất mới, bảo đảm chủ nghĩa xã hội tạo ra được
năng suất lao động cao hơn chủ nghĩa tư bản. Mục tiêu này chưa được thực hiện thì
khả năng phục hồi chủ nghĩa tư bản vẫn còn rất lớn. Các thế lực tư bản quốc tế ra
sức ngăn cản giai cấp công nhân đã nắm chính quyền xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội bằng nhiều phương tiện và thủ đoạn từ bao vây, cấm vận, can thiệp
quân sự đến “diễn biến hòa bình”. Để xây dựng chủ nghĩa xã hội, giai cấp công
nhân và nhân dân lao động phải làm thất bại các thủ đoạn nói trên.
Trong điều kiện đã nắm được chính quyền, giai cấp công nhân phải sử dụng
tổng hợp, linh hoạt các hình thức đấu tranh mới, trong đó có đấu tranh bằng bạo
lực và bằng hòa bình, bằng giáo dục thuyết phục và bằng hành chính, pháp chế,
bằng chính trị, quân sự và bằng kinh tế, bằng cải tạo các quan hệ cũ đã lỗi thời và
xây dựng các quan hệ mới theo quy luật; bằng liên minh giữa giai cấp công nhân
với các giai cấp, tầng lớp lao động và các tầng lớp trung gian khác; bằng “sử dụng”
37
V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1977, t.39, tr.298.
115
giai cấp tư sản để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cuộc đấu tranh vì chủ nghĩa xã hội
lâu dài, gay go phức tạp như thế nào tùy theo điều kiện lịch sử cụ thể.
Trong giai đoạn hiện nay cần chú ý tránh hai loại quan niệm sai lầm về đấu
tranh giai cấp:
Một là, chủ quan duy ý chí, coi nhẹ quy luật kinh tế khách quan, trong khi đó
lại tuyệt đối hóa đấu tranh giai cấp, nhất là tuyệt đối hóa một trong những hình
thức của đấu tranh giai cấp
Hai là, cơ hội hữu khuynh, mơ hồ về đấu tranh giai cấp, mất cảnh giác trước
âm mưu diễn biến hòa bình của các thế lực thù địch với chủ nghĩa xã hội.
VI. NHÀ NƯỚC- NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XHCN
Nhà nước là tổ chức chính trị của giai cấp thống trị về kinh tế nhằm bảo vệ
trật tự hiện hành và đàn áp sự phản kháng của các giai cấp khác "Nhà nước chẳng
qua chỉ là một bộ máy của một giai cấp này dùng để trấn áp một giai cấp khác" 1.
Nhà nước trong xã hội nô lệ có tiền thân là những tổ chức phi chính trị trong
xã hội thị tộc, bộ lạc. Những tổ chức này có chức năng bảo vệ lợi ích chung của
cộng đồng thị tộc, bộ lạc, thì nay, những tổ chức đó biến thành công cụ bảo vệ lợi
ích của một giai cấp. như vậy, sự ra đời của nhà nước chứng tỏ rằng, nhà nước
không phải là cơ quan sinh ra để điều hoà mâu thuẫn giữa các giai cấp trong xã
hội, mà ngược lại, nhà nước sinh ra là do mâu thuẫn giai cấp ngày càng sâu sắc,
không thể điều hoà.
1. Nguồn gốc và bản chất của nhà nước.
a. Nguồn gốc của nhà nước.
- Lịch sử cho thấy rằng, không phải khi loài người xuất hiện là nhà nước
xuất hiện. Nguyên nhân trực tiếp xuất hiện của nhà nước là mâu thuẫn giữa các
giai cấp là không thể điều hoà được. “Nhà nước là sản phẩm và biểu hiện của
những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hoà được. Bất cứ ở đâu, hễ lúc nào và
chứng nào mà, về mặt khách quan, những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hoà
được, thì nhà nước xuất hiện. Và ngược lại: sự tồn tại của nhà nước chứng tỏ rằng

11
C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hànội, 1995, t.22,
tr.290-291.
116
những mâu thuẫn giai cấp là không thể diều hoà được” 1. Nhà nước chỉ tồn tại trong
một giai đoạn nhất định của lịch sử loài người và sẽ mất đi khi những cơ sở tồn tại
của nó không còn nữa.
Theo Ph.Ăngghen, sự tan rã của xã hội cộng sản nguyên thuỷ, dẫn tới sự ra
đời của nhà nước là do:
1) Sự phát triển của lực lượng sản xuất đã dẫn tới một kết quả: một mặt, chế
độ sỡ hữu chung bị thay thế bằng chế độ sở hữu tư nhân đối với tư liệu sản xuất,
mặt khác, xuất hiện chế độ người bóc lột người.
2) Sự dư thừa tương đối sản phẩm tiêu dùng và tham vọng muốn chiếm đoạt
nó làm nảy sinh thói hám của và giới cầm quyền sử dụng mọi quyền lực để thực
hiện tham vọng đó. Đây là nguyên nhân thúc đẩy sự phân hoá xã hội. Giai cấp xuất
hiện, quan hệ người áp bức người thay thế cho quan hệ bình đẳng, hợp tác, tương
trợ. Sự đối kháng giữa giai cấp bóc lột và bị bóc lột ngày càng sâu sắc.
3) Chiến tranh ăn cướp giữa các thị tộc, bộ lạc làm cho quyền lực của các
thủ lĩnh quân sự được củng cố và tăng cường, địa vị thống trị của họ ngày càng
được củng cố và mở rộng. Với quyền lực và địa vị đó, họ bóc lột nhân dân ngày
càng thậm tệ và trở nên ngày càng giàu có về của cải. Kết quả là họ trở thành lực
lượng đối lập với nhân dân.
4) Cơ quan tổ chức của thị tộc, bộ lạc, từ chỗ là công cụ của nhân dân, dần
thoát khỏi gốc rễ của nó và trở thành cơ quan đối lập, trở thành cơ quan thống trị
và áp bức nhân dân.
Do các nguyên nhân cơ bản trên, lần đầu tiên trong lịch sử loài người, xuất
hiện xã hội có hai giai cấp đối kháng nhau là chế độ nô lệ. Hai giai cấp này là chủ
nô và nô lệ đấu tranh với nhau dẫn tới nguy cơ chẳng những hai giai cấp đó tiêu
diệt lẫn nhau mà tiêu diệt luôn cả xã hội. Để ngăn chặn thảm hoạ đó, một cơ quan
quyền lực đặc biệt ra đời, đó là nhà nước.
b. Bản chất của nhà nước.
- Không có nhà nước- một tổ chức bạo lực chuyên được dùng để trấn áp, thì
giai cấp thống trị không thể duy trì được ách áp bức, bóc lột của mình đối với giai
11
V.I.Lênin: Toàn tập. Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1976, t.33, tr. 9.
117
cấp bị áp bức, bóc lột. như vậy, sự ra đời của nhà nước là một tất yếu khách quan
để làm "dịu" sự xung đột giai cấp, để làm cho sự xung đột ấy diễn ra trong vòng
"trật tự", nhằm duy trì chế độ kinh tế, trong đó, giai cấp này bóc lột được giai cấp
khác. V.I.Lênin viết "Theo C.Mác, nhà nước là một cơ quan thống trị giai cấp, là
một cơ quan áp bức của một giai cấp này đối với một giai cấp khác. Đó là sự kiện
lập ra một "trật tự", trật tự này hợp pháp hoá và củng cố sự áp bức kia bằng cách
làm dịu xung đột giai cấp"1. Do vậy, bản chất của nhà nước "chẳng qua chỉ là một
bộ máy của một giai cấp này dùng để trấn áp một giai cấp khác"2, đồng thời là bộ
máy thực hiện sự bóc lột các giai cấp bị bóc lột.
- Tóm lại, nhà nước là công cụ chuyên chính của một giai cấp, không thể có
nhà nước ở ngoài giai cấp cũng như cũng không thể có một nhà nước chung của
nhiều giai cấp. Tuy vậy, cũng có trường hợp nhà nước giữ được một mức độ độc
lập nào đó đối với cả hai giai cấp đối kháng nhau. Đó là trường hợp nhà nước nằm
trong cuộc đấu tranh đang ở thế cân bằng nhất định giữa hai giai cấp đó, hoặc nhà
nước là sản phẩm của sự thoả hiệp tạm thời giữa một số giai cấp để chống lại một
(số) giai cấp khác. Đó là những ngoại lệ và tạm thời (vận động trong cân bằng),
còn nói chung, nhà nước chỉ là công cụ chuyên chính của một giai cấp mà thôi.
2. Đặc trưng cơ bản của nhà nước.
a. Quản lý dân cư theo lãnh thổ. Nhà nước được hình thành trên cơ sở
phân chia dân cư theo địa bàn lãnh thổ, nơi họ sinh sống. Quyền lực nhà nước, về
nguyên tắc, chỉ có hiệu lực đối với mọi thành viên sinh sống trên địa bàn ấy. Biên
giới quốc gia xuất hiện và trong một quốc gia có thể đồng thời tồn tại nhiều giai
cấp, nhiều tầng lớp xã hội, thậm chí nhiều thị tộc và bộ lạc khác nhau. Mỗi nhà
nước được xác định bằng một biên giới quốc gia.
b. Nhà nước có bộ máy quyền lực chuyên nghiệp mang tính cưỡng chế
đối với mọi thành viên trong xã hội. Trong các cơ quan quyền lực của nhà nước,
chủ nghĩa Mác - Lênin nhấn mạnh rằng, phải tìm đặc trưng của nhà nước trong
những cơ quan làm nhiệm vụ trấn áp, bởi "quân đội thường trực và cảnh sát là

11
V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1976, t.33, tr.10.
22
C.Mác và Ph.Ăngghen: Sđd. t.22. tr.290-291.
118
những công cụ vũ lực chủ yếu của quyền lực nhà nước"(V.I.Lênin: t.33, tr.12),
kèm theo đó là "cái đuôi vật chất" tương ứng như nhà tù, trại tập trung, trại giam,
để bắt buộc những người bị trị phải phục tùng. Ngoài sỹ quan, binh lính và các
nhân viên khác của lực lượng vũ trang, nhân lực nhà nước còn bao gồm cả một bộ
máy các công chức được trả lương để chuyên làm công việc hành chính -cai trị.
Những nhân lực này của nhà nước thể hiện quyền lực của giai cấp thống trị trên cơ
sở sức mạnh cưỡng bức của pháp luật. Do vậy, các cơ quan quyền lực của nhà
nước ngày càng thoát khỏi nhân dân và đứng đối lập với nhân dân.
c. Nhà nước có hệ thống thuế khoá để duy trì và tăng cường bộ máy cai
trị. Bộ máy cai trị của giai cấp thống trị tồn tại nhờ vào thuế, quốc trái và những
hình thức bóc lột có tính chất cưỡng bức khác. Đó là những hình thức đóng góp
cưỡng bức để nuôi sống bộ máy cai trị. "Nắm được quyền lực công cộng và quyền
thu thuế, bọn quan lại, với tư cách là những cơ quan của xã hội, được đặt lên trên
xã hội"1.
3. Chức năng cơ bản của nhà nước.
a. Chức năng chính trị - xã hội của giai cấp.
1) Chức năng thống trị chính trị nói lên rằng, bất kỳ nhà nước nào cũng là
công cụ chuyên chính của một giai cấp nhằm bảo vệ sự thống trị của giai cấp đó
đối với toàn thể xã hội. Chức năng giai cấp của nhà nước bắt nguồn từ lý do ra đời
của nhà nước và tạo thành bản chất chủ yếu của nó. Giai cấp thống trị này sẵn sàng
sử dụng mọi công cụ, mọi biện pháp để bảo vệ sự thống trị của mình đối với xã hội
(kể cả việc tổ chức, xây dựng và trấn áp).
2) Chức năng xã hội nói lên rằng, bất kỳ nhà nước nào cũng phải thực hiện
việc quản lý những hoạt động chung vì sự tồn tại của xã hội, tức là nhà nước phải
quản lý những công việc để thoả mãn một số nhu cầu chung của cộng đồng dân cư
nằm trong sự quản lý của nhà nước.
Trong hai chức năng trên thì chức năng thống trị chính trị là chức năng cơ
bản; chức năng xã hội của nhà nước chỉ nằm trong phạm vi lợi ích của giai cấp
thống trị. “ở khắp nơi, chức năng xã hội là cơ sở của sự thống trị chính trị; và sự
11
C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.21. tr. 254.
119
thống trị chính trị cũng chỉ kéo dài chừng nào nó còn thực hiện chức năng xã hội
đó của nó”2.

b. Chức năng đối nội và chức năng đối ngoại.


1) Chức năng đối nội. Nhà nước dùng công cụ bạo lực để duy trì quyền
thống trị của mình, sử dụng các bộ máy thông tin, tuyên truyền, văn hoá, giáo dục,
các tổ chức xã hội v.v để xác lập, củng cố tư tưởng, ý chí của giai cấp thống trị và
làm cho tư tưởng và tổ chức của giai cấp thống trị trở thành lực lượng thống trị xã
hội.
2) Chức năng đối ngoại. Nhà nước thực hiện chức năng đối ngoại nhằm bảo
vệ lãnh thổ quốc gia và bảo vệ những lợi ích của giai cấp thống trị. Thiết lập các
quan hệ ngoại giao vì lợi ích của giai cấp thống trị và của lợi ích quốc gia (trong
những trường hợp lợi ích quốc gia không mâu thuẫn với lợi ích của giai cấp thống
trị). Đảm bảo không bị các nước khác xâm lược và, trong những điều kiện cần
thiết, đi xâm lược các nước khác.
Sự thống trị chính trị và thực hiện chức năng xã hội của nhà nước được thể
hiện trong lĩnh vực đối nội và đối ngoại. Cả đối nội và đối ngoại của nhà nước đều
xuất phát từ lợi ích của giai cấp thống trị. Chúng là hai mặt của thể thống nhất:
Tính chất của đối nội quyết định tính chất đối ngoại; ngược lại, tính chất và những
nhu cầu của đối ngoại có tác động trở lại đối nội của nhà nước.
4. Các kiểu và hình thức nhà nước.
a. Khái niệm kiểu và hình thức nhà nước.
- Khái niệm kiểu nhà nước dùng để chỉ bộ máy thống trị đó thuộc về giai cấp
nào, tồn tại trên cơ sở kinh tế nào và tơng ứng với hình thái kinh tế - xã hội nào.
Mỗi kiểu nhà nước có thể tồn tại trong các hình thức khác nhau.
- Khái niệm hình thức nhà nước dùng để chỉ cách thức tổ chức và phương
pháp thực hiện quyền lực nhà nước. Nói cách khác, hình thức nhà nước- đó là hình
thức cầm quyền của giai cấp thống trị. Hình thức nhà nước bị quy định bởi bản

22
C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.20.
tr. 253.
120
chất giai cấp của nhà nước; bởi tương quan lực lượng giữa các giai cấp; bởi cơ cấu
giai cấp - xã hội; bởi đặc điểm truyền thống chính trị của đất nước v.v.
b. Các kiểu và hình thức nhà nước trong lịch sử.
Tương ứng với ba chế độ xã hội có giai cấp đối kháng (nô lệ, phong kiến, tư
bản) tồn tại ba kiểu nhà nước:
1) Nhà nước chiếm hữu nô lệ. Là nhà nước của giai cấp chủ nô ở Hy Lạp, La
Mã cổ đại tồn tại trong các hình thức quân chủ, cộng hoà, quý tộc và dân chủ. Về
bản chất, là nhà nước của giai cấp chủ nô nhưng khác nhau về cách thức và cơ chế
hoạt động của tổ chức bộ máy nhà nước.
2) Nhà nước phong kiến. Là nhà nước của giai cấp địa chủ, phong kiến chủ
yếu tồn tại trong: a) Hình thức quân chủ phân quyền (ở phương Tây). Quyền lực
nhà nước được phân chia thành quyền lực địa phương phân tán. Mỗi chúa phong
kiến đều là “Vua” trên lãnh thổ của mình; chúa phong kiến nhỏ là chư hầu của
chúa phong kiến lớn. b) Hình thức quân chủ tập quyền (ở phương Đông) dựa trên
chế độ sở hữu nhà nước về ruộng đất. Quyền lực của nhà Vua rất mạnh. Dù tồn tại
trong hình thức nào, nhà nước phong kiến cũng là chính quyền của giai cấp địa
chủ, quý tộc; là bộ máy bảo vệ đặc quyền, đặc lợi của giai cấp thống trị và áp bức,
bóc lột nông dân.
3) Nhà nước tư sản. Là nhà nước của giai cấp tư sản, chủ yếu tồn tại trong
hai hình thức cơ bản là: a) Cộng hoà gồm Cộng hoà đại nghị, cộng hoà tổng thống.
b) Quân chủ lập hiến.
Bản chất của nhà nước tư sản, trong bất kỳ hình thức nào, "Những hình thức
của nhà nước tư sản thì hết sức khác nhau, nhưng thực chất chỉ là một: chung quy
lại thì tất cả những nhà nước ấy, vô luận thế nào, cũng tất nhiên là nền chuyên
chính tư sản"1.
4. Nhà nước vô sản.
a. Chuyên chính vô sản là hình thức nhà nước kiểu mới.

11
V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1976, t.33, tr.44.

121
- Chuyên chính vô sản là sự thống trị chính trị của giai cấp công nhân; do
cách mạng xã hội chủ nghĩa sản sinh ra và có sứ mệnh xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội. Giai cấp công nhân và nhân dân lao động muốn xoá bỏ tình trạng
người bóc lột người và sự tha hoá con người do chế độ chiếm hữu tư nhân đối với
tư liệu sản xuất sinh ra, trước hết họ phải chiếm lấy quyền lực, thực hiện chuyên
chính của giai cấp công nhân. Trong tác phẩm Phê phán cương lĩnh Gôta, C.Mác
viết “Giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ cải
biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia. Thích ứng với thời kỳ ấy không thể là
cái gì khác hơn là nền chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản”.
- Sự cần thiết xác lập chuyên chính vô sản để tiến tới chủ nghĩa cộng sản là
vì trong thời kỳ quá độ xã hội còn tồn tại giai cấp bóc lột và các lực lượng xã hội,
chúng chống lại sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của nhân dân, do đó chuyên
chính vô sản là cần thiết để đưa xã hội đi theo con đường xã hội chủ nghĩa. Trong
thời kỳ quá độ, chuyên chính vô sản đóng vai trò cần thiết để đảm bảo sự lãnh đạo
của giai cấp công nhân với nhân dân. Với ý nghĩa như vậy, chuyên chính vô sản là
sự thống trị chính trị của giai cấp công nhân, do cách mạng xã hội chủ nghĩa sản
sinh ra và có sứ mệnh xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Về bản chất, chuyên
chính vô sản là hình thức để bảo vệ sự thống trị của giai cấp công nhân.
Tóm lại, như V.I.Lênin nhận xét, dấu hiệu tất yếu, điều kiện bắt buộc và
thuộc tính cơ bản của chuyên chính vô sản là trấn áp những kẻ bóc lột với tính
cách là một giai cấp; là tổ chức thông qua đó, đảng của giai cấp công nhân thực
hiện vai trò lãnh đạo của mình đối với toàn xã hội. Tổ chức, xây dựng toàn diện xã
hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa là đặc trưng cơ bản nhất
của chuyên chính vô sản. Bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với
nhà nước là nguyên tắc sống còn của chuyên chính vô sản, trong đó, chức năng tổ
chức xây dựng là chức năng cơ bản nhất. Chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng, nhà
nước vô sản là một hình thức nhà nước đặc biệt, “nhà nước nửa nhà nước”, “nhà
nước không còn nguyên nghĩa”.
- Để thực hiện sứ mệnh đó, giai cấp công nhân cần có sự hỗ trợ, cộng tác
liên minh vững chắc và ngày càng củng cố với những giai cấp và tầng lớp lao động
122
khác. Do vậy, chuyên chính vô sản là một liên minh đặc biệt giữa giai cấp công
nhân và quần chúng lao động. Nhà nước vô sản là chuyên chính của nhân dân, là
nhà nước của dân, do dân, vì dân. Chế độ của nền dân chủ vô sản là chế độ dân chủ
theo nghĩa đầy đủ nhất của từ đó.
Giai cấp công nhân không chỉ có sứ mệnh lãnh đạo cuộc đấu tranh giải
phóng dân tộc mình, mà còn có vai trò lịch sử toàn thế giới. Do vậy, nhà nước vô
sản còn phải làm nghĩa vụ quốc tế của mình, bằng việc giúp đỡ có thể được cho
cuộc đấu tranh của các dân tộc, vì hoà bình, độc lập, dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã
hội.
b. Các hình thức của chuyên chính vô sản.
- Nhà nước vô sản tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau: Nhà nước Công
xã (Công xã Pari năm 1871), Nhà nước XôViết (ở nước Nga 1917-1991). Nhà
nước dân chủ nhân dân v.v. Tuy hình thức khác nhau, nhưng về cơ bản bản chất
của các nhà nước này là giống nhau.
c. Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
+ Khái niệm: Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là trụ cột của
hệ thống chính trị, là công cụ thực hiện quyền lực của nhân dân, là tổ chức thực
hiện quyền làm chủ của nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam
+ Đặc điểm:
1) Nhà nước quản lý đời sống xã hội bằng pháp luật, quản lý kinh tế bằng kế
hoạch, bằng chính sách, bằng những đoàn bẩy kinh tế và những công cụ điều tiết
khác.
2) Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam được tổ chức theo
nguyên tắc pháp quyền của dân do dân và vì dân, lấy liên minh công nông và đội
ngũ trí thức làm nền tảng đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam.
3) Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam hoạt động theo nguyên
tắc thống nhất, nhưng có sự phân công, phân cấp và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ
quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Tổ

123
chức và hoạt động của Nhà nước theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Tập trung dân
chủ đối lập với tập trung quan liêu, cũng như phân tán, cục bộ.
4) Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam có sự thống nhất hữu cơ
giữa chức năng giai cấp và chức năng xã hội trong các hoạt động của mình.
Về hoạt động của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong thời
gian tới, cần thực hiện đồng bộ một số nhiệm vụ như, đổi mới, nâng cao chất lượng
công tác lập pháp, công tác cải cách hành chính, tổ chức kiện toàn bộ máy và kiện
toàn đội ngũ cán bộ, công chức; cải cách tổ chức và hoạt động của tư pháp. Tích
cực đấu tranh chống các bệnh quan liêu, tham nhũng trong bộ máy nhà nước.
Tóm lại, Nhà nước ta là cột trụ của hệ thống chính trị, là công cụ thực hiện
quyền làm chủ của nhân dân; là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, của dân,
do dân và vì dân, được tổ chức theo nguyên tắc thống nhất, có sự phân công và
phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp,
hành pháp và tư pháp; lấy liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và
tầng lớp trí thức làm nền tảng, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam;
Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ để đảm bảo tất cả quyền lực nhà nước đều
thuộc vào tay nhân dân "đổi mới, nâng cao chất lượng công tác lập pháp và giám
sát tối cao của Quốc hội đối với toàn bộ hoạt động của nhà nước, cải cách hành
chính nhà nước, bao gồm cải cách thể chế hành chính, tổ chức máy và kiện toàn
đội ngũ cán bộ, công chức, cải cách tổ chức và hoạt động của tư pháp"1.
VII. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ VỀ CON NGƯỜI
VÀ TRÒ SÁNG TẠO LỊCH SỬ CỦA QUẦN CHÚNG NHÂN DÂN
1. Con người và bản chất con người
a. Khái niệm con người
Con người là khái niệm chỉ những cá thể người như một chỉnh thể trong sự thống
nhất giữa mặt sinh học và mặt xã của nó.
Con người luôn là chủ đề trung tâm của lịch sử triết học từ cổ đến hiện đại. Nên trong
lịch sử tư tưởng, có rất nhiều cách tiếp cận về vấn đề con người. Trong lịch sử của khoa

11
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà nội, 1996, tr.45-46.

124
học nói chung, của triết học nói riêng là lịch sử nghiên cứu về con người. Tuy nhiên, mỗi
khoa học tiếp cận vấn đề con người theo một phương pháp riêng, phù hợp với đối tượng
đặc điểm của mình. Việc giải thích con người từ sự sáng tạo và chi phối của thần thánh
hoặc từ ý thức trừu tượng không đem lại ý nghĩa tích cực trong cuộc sống, đã làm nảy sinh
khuynh hướng muốn tìm hiểu con người từ giác độ tộc loại - sinh học. Các nhà khoa học ở
trường phái này xem con người có xương thịt, có ham muốn, với những bản năng muôn
thủa như một động vật tự nhiên. Mặt khác các khoa học khác nghiên cứu vấn đề con
người bằng cách chia hệ thống thành yếu tố, còn triết học nghiên cứu vấn đề con
người bằng cách tổng hợp các yếu tố thành hệ thống. Do vậy, quan hệ giữa triết
học với các khoa học khác là quan hệ giữa cái chung và cái riêng.
Từ đó có hai cách tiếp cận chính về con người đó là:
- Xem con người là thực thể sinh vật thuần túy
- Xem con người là thực thể thực tiễn - xã hội.
Đương nhiên, con người trước hết là một động vật, nhưng chỉ dừng lại ở thuộc tính
chung của động vật thì không thể giải thích được gì nhiều về con người với tính cách là
con người.
Ngày nay khoa học nghiên cứu về cơ thể con người như quá trình hoạt động thần
kinh cao cấp, di truyền, đã đạt đến trình độ cao. Các kết quả nghiên cứu này đã đem lại sự
hiểu biết sâu sắc về những thuộc tính sinh học của con người, vạch ra các cơ sở, quy luật tự
nhiên có ảnh hưởng to lớn đến hành vi của con người. Từ đấy vạch ra các phương hướng
hoàn thiện, phát triển cơ thể con người, thích ứng hơn nữa với đời sống xã hội. Đây là
những giá trị mới của văn minh nhân loại, mầm mống của giai đoạn đi sâu vào bí mật tự
nhiên trong cơ thể con người và tác động chủ động đến nó để tạo ra sự sống và hoạt động
tối ưu của các cá nhân người.
Con người thời xa xưa và con người đương đại khác nhau biết bao nhiêu về dáng
hình, năng lực, sáng tạo, lối sống, nhưng về mặt cơ thể, di truyền sinh vật chưa có biến đổi
gì đáng kể.
Con người sống, hoạt động không phải chỉ theo những bản năng di truyền có sẵn như
các động vật thông thường mà chủ yếu theo sự phát triển của văn hóa, của tiến bộ lịch sử -
xã hội.
125
Con người không phải là động vật thông thường mà là một thực thể vật chất đặc biệt,
hoạt động có ý thức, có khả năng sáng tạo lại mọi đối tượng khác theo nhu cầu của mình.
Nội dung của thế giới nội tâm và chỉnh thể cuộc sống từng con người không thể là những
gì chỉ từ tự nhiên trực tiếp đưa lại mà chủ yếu là từ kỹ thuật đến kinh tế; từ kinh nghiệm,
lòng tin đến khoa học, từ đạo đức đến âm nhạc và thơ ca; từ cuộc sống thôn xã đến nhà
nước và pháp luật; từ cuộc sống dân tộc riêng biệt đến giao lưu quốc tế của toàn nhân loại.
Con người đâu có phải chỉ là sự tiến hóa sinh vật. Tiếp cận về mặt sinh vật, nhiều lắm chỉ
dẫn đến hoàn thiện cơ thể con người chứ không thể hoàn thiện toàn bộ cuộc sống và hoạt
động của con người. Và về mặt xã hội cách đó tất nhiên cũng chỉ dẫn đến một số biện pháp
“khai sáng” riêng biệt mà không dẫn cải biến toàn bộ đời sống thật của con người, đó là
chưa nói đến những xu hướng phản động, phân biệt chủng tộc, hay muốn tạo ra những “cá
nhân ưu việt”, “người hùng” thống trị mọi người khác. Tất cả hoạt động của con người đều
phải qua cơ thể sinh vật của mình, phụ thuộc không ít vào chất lượng của cơ thể đó. Nhưng
đó mới chỉ là cơ sở tự nhiên chứ không phải là toàn bộ ngọn nguồn và nội dung sống của
con người.
Con người là một động vật có tính xã hội với tất cả nội dung văn hóa - lịch sử của nó.
Đó là điểm xuất phát để tiếp cận con người của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Con vật sống dựa vào những ân huệ sẵn có của tự nhiên (ăn cây rừng, uống nước
suối, sống trong hang động), còn con người, từ tư liệu sản xuất và tiêu dùng cho đến môi
trường sống đều không có sẵn trong tự nhiên dưới dạng trực tiếp mà phải sáng tạo và
không ngừng sáng tạo lại tất cả. Thực tiễn trước hết là lao động sản xuất, là hoạt động đổi
mới thế giới trong hiện thực và từ đấy tạo ra cơ sở cho toàn bộ hoạt động của con người.
C.Mác gọi đó là hoạt động bản chất của con người hiện thực.
Có thể nói rằng, lịch sử của khoa học nói chung, của triết học nói riêng là lịch sử
nghiên cứu về con người. Tuy nhiên, mỗi khoa học tiếp cận vấn đề con người theo một
phương pháp riêng, phù hợp với đối tượng đặc điểm của mình. Các khoa học khác
nghiên cứu vấn để con người bằng cách chia hệ thống thành yếu tố, còn triết học
nghiên cứu vấn đề con người bằng cách tổng hợp các yếu tố thành hệ thống. Do
vậy, quan hệ giữa triết học với các khoa học khác là quan hệ giữa cái chung và cái
riêng.
126
Triết học Mác đã kế thừa quan niệm về con người trong lịch sử triết học, đồng
thời khẳng định con người hiện thực là sự thống nhất giữa yếu tố sinh học và yếu
tố xã hội.
Tiền đề vật chất đầu tiên quy sự tồn tại của con người là sản phẩm của thế
giới tự nhiên. Con người tự nhiên là con người mang tất cả bản tính sinh học, tính
loài. Yếu tố sinh học trong con người là điều kiện đầu tiên quy định sự tồn tại của
con người. Vì vậy, giới tự nhiên là “thân thể vô cơ của con người”, con người là
một bộ phận của tự nhiên.
Là động vật cao cấp nhất, tinh hoa của muôn loài, con người là sản phẩm của
quá trình phát triển hết sức lâu dài của thế giới tự nhiên. Con người phải tìm kiếm
mọi điều kiện cần thiết cho sự tồn tại trong đời sống tự nhiên như thức ăn, nước
uống, hang động để ở. Đó là quá trình con người đấu tranh với tự nhiên, với thú dữ
để sinh tồn. Trải qua hàng chục vạn năm, con người đã thay đổi từ vượn thành
người, điều đó đã được chứng minh trong các công trình nghiên cứu của Đácuyn.
Các giai đoạn mang tính sinh học mà con người trải qua từ sinh thành, phát triển
đến mất đi quy định bản tính sinh học trong đời sống con người. Như vậy, con
người trước hết là một tồn tại sinh vật, biểu hiện trong những cá nhân con người
sống, là tổ chức cơ thể của con người và mối quan hệ của nó đối với tự nhiên.
Những thuộc tính, những đặc điểm sinh học, quá trình tâm - sinh lý, các giai đoạn
phát triển khác nhau nói lên bản chất sinh học của cá nhân con người.
Tuy nhiên, điều cần khẳng định rằng, mặt tự nhiên không phải là yếu tố duy
nhất quy định bản chất con người. Đặc trưng quy định sự khác biệt giữa con người
với thế giới loài vật là mặt xã hội. Trong lịch sử đã có những quan niệm khác nhau
phân biệt con người với loài vật, như con người là động vật sử dụng công cụ lao
động, là “một động vật có tính xã hội”, hoặc con người động vật có tư duy,...
Với phương pháp biện chứng duy vật, triết học Mác nhận thức vấn đề con
người một cách toàn diện, cụ thể, trong toàn bộ tính hiện thực xã hội của nó, mà
trước hết là vấn đề lao động sản xuất ra của cải vật chất.
C.Mác và Ph.Ăngghen đã nêu ra vai trò của lao động sản xuất của con người:
“có thể phân biệt con người với súc vật, bằng ý thức, bằng tôn giáo, nói chung
127
bằng bất cứ cái gì cũng được. Bản thân con người bắt đầu bằng tự phân biệt với
súc vật ngay khi con người bắt đầu sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình,
như thế con người đã gián tiếp sản xuất ra chính đời sống vật chất của mình” 38.
Thông qua hoạt động sản xuất vật chất, con người đã làm thay đổi, cải biến toàn bộ
giới tự nhiên: “Con người chỉ tái sản xuất ra bản thân nó, còn con người thì tái sản
xuất ra toàn bộ giới tự nhiên”39. Tính xã hội của con người biểu hiện trong trong
hoạt động sản xuất vật chất; hoạt động sản xuất vật chất biểu hiện một cách căn
bản tính xã hội của con người. Thông qua hoạt động lao động sản xuất, con người
sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần, phục vụ đời sống của mình; hình thành và
phát triển ngôn ngữ và tư duy; xác lập quan hệ xã hội. Bởi vậy, lao động là yếu tố
quyết định hình thành bản chất xã hội của con người, đồng thời hình thành nhân
cách cá nhân trong cộng đồng xã hội.
Là sản phẩm của tự nhiên và xã hội nên quá trình hình thành và phát triển của
con người luôn luôn bị quyết định bởi ba hệ thống quy luật khác nhau, nhưng
thống nhất với nhau. Hệ thống các quy luật tự nhiên như quy luật về sự phù hợp cơ
thể với môi trường, quy luật về sự trao đổi chất, về di truyền, biến dị, tiến hóa, quy
định phương diện sinh học của con người. Hệ thống các quy luật tâm lý ý thức hình thành
và vận động trên nền tảng sinh học của con người như hình thành tình cảm, khát
vọng, niềm tin, ý chí. Hệ thống các quy luật xã hội quy định quan hệ xã hội giữa
người với người.
Ba hệ thống quy luật trên cùng tác động, tạo nên thể thống nhất hoàn chỉnh
trong đời sống con ngưòi bao gồm cả mặt sinh học và mặt xã hội. Mối quan hệ
sinh học và xã hội là cơ sở để hình thành hệ thống các nhu cầu sinh học và nhu cầu
xã hội trong đời sống con người như nhu cầu ăn, mặc, ở; nhu cầu tái sản xuất xã
hội; nhu cầu tình cảm; nhu cầu thẩm mỹ và hưởng thụ các giá trị tinh thần.
Với phương pháp luận duy vật biện chứng, chúng ta thấy rằng quan hệ giữa
mặt sinh học và mặt xã hội, cũng như nhu cầu sinh học và nhu cầu xã hội trong

38
C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, t.3, tr.29.
39
Sđd, t.42, tr.137.

128
mỗi con người là thống nhất. Mặt sinh học là cơ sở tất yếu tự nhiên của con người,
còn mặt xã hội là đặc trưng bản chất để phân biệt con người với loài vật. Nhu cầu
sinh học phải được "nhân hóa" để mang giá trị văn minh con người, và đến lượt nó,
nhu cầu xã hội không thể thoát ly khỏi tiền đề của nhu cầu sinh học. Hai mặt trên
thống nhất với nhau, hòa quyện vào nhau. Để tạo thành con người viết hoa, con người tự
nhiên - xã hội.
Vậy con người là một thực thể tự nhiên mang đặc tính xã hội; có sự thống
nhất biện chứng giữa hai phương diện tự nhiên và xã hội.
b. Bản chất con người
Trong “Luận cương về Phoiơbắc”, C.Mác vạch rõ: “Bản chất con người không phải
là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất
con người là tổng hoà những quan hệ xã hội”40. Đây là sự khái quát khoa học cao nhất đối
với khái niệm bản chất con người, là tư tưởng cơ bản của chủ nghĩa Mác về con người.
Luận đề trên khẳng định rằng, không có con người trừu tượng, thoát ly mọi
điều kiện, hoàn cảnh lịch sử xã hội. Con người luôn luôn cụ thể, xác định, sống
trong một điều kiện lịch sử cụ thể nhất định, một thời đại nhất định. Trong điều
kiện lịch sử đó, bằng hoạt động thực tiễn của mình, con người tạo ra những giá trị
vật chất và tinh thần để tồn tại và phát triển cả thể lực và tư duy trí tuệ. Chỉ trong
toàn bộ các mối quan hệ xã hội đó (như quan hệ giai cấp, dân tộc, thời đại; quan hệ
chính trị, kinh tế; quan hệ cá nhân, gia đình, xã hội) con người mới bộc lộ toàn bộ.
Điều cần lưu ý là luận đề trên khẳng định bản chất xã hội không có nghĩa là
phủ nhận mặt tự nhiên trong đời sống con người; trái lại, điều đó muốn nhấn mạnh
sự phân biệt giữa con người và thế giới động vật trước hết là ở bản chất xã hội và
đấy cũng là để khắc phục sự thiếu sót của các nhà triết học trước Mác không thấy
được bản chất xã hội của con người. Mặt khác, cái bản chất với ý nghĩa là cái phổ
biến, cái mang tính quy luật chứ không thể là cái duy nhất; do đó cần phải thấy
được các biểu hiện riêng biệt, phong phú và đa dạng của mỗi cá nhân về cả phong
cách, nhu cầu và lợi ích trong cộng đồng xã hội.

40
C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, t.3,
tr.511.
129
Như vậy, không có con người phi lịch sử mà trái lại luôn gắn với những điều
kiện cảnh lịch sử nhất định nên con người vừa là chủ thể vừa là sản phẩm của lịch
sử. Vì không có thế giới tự nhiên, không có lịch sử xã hội thì không tồn tại con
người. Bởi vậy, con người là sản phẩm của lịch sử, của sự tiến hóa lâu dài của giới
hữu sinh. Song, điều quan trọng hơn cả là, con người luôn luôn là chủ thể của lịch
sử - xã hội. C.Mác đã khẳng định: “Cái học thuyết duy vật chủ nghĩa cho rằng con
người là sản phẩm của những hoàn cảnh và của giáo dục... cái học thuyết ấy quên
rằng chính những con người làm thay đổi hoàn cảnh và bản thân nhà giáo dục cũng
cần phải được giáo dục”41.
Trong tác phẩm Biện chứng của tự nhiên, Ph.Ăngghen cũng cho rằng: “Thú
vật cũng có một lịch sử phát triển dần dần của chúng cho tới trạng thái hiện nay
của chúng. Nhưng lịch sử ấy không phải do chúng làm ra và trong chừng mực mà
chúng tham dự vào việc làm ra lịch sử ấy thì điều đó diễn ra mà chúng không hề
biết và không phải phải do ý muốn của chúng. Ngược lại, con người càng cách xa
con vật, hiểu theo nghĩa hẹp của từ này bao nhiêu thì con người lại càng tự mình
làm ra lịch sử của mình một cách có ý thức bấy nhiêu”42.
Bản chất con người là do tổng hòa các quan hệ xã hội quyết định. Các quan
hệ xã hội của loài người có thể chia làm hai loại: các quan hệ thực chất và các quan
hệ tư tưởng. Quan hệ vật chất lại có thể chia làm quan hệ trong sản xuất, phân
phối, trao đổi và tiêu dùng dưới sự chi phối của chế độ sở hữu nhất định. Quan hệ
tư tưởng là quan hệ chính trị, luật pháp, đạo đức, tôn giáo,... Trong hai loại quan hệ
xã hội này, quan hệ sản xuất quy định quan hệ tư tưởng, cho nên quan hệ xã hội
thực chất tức là quan hệ sản xuất là quan hệ quyết định cả bộ mặt xã hội. Chỉ có
đặt con người trong tổng hòa các quan hệ xã hội, trên cơ sở những quan hệ sản
xuất nhất định để tiến hành khảo sát, tổng hợp mới có thể nắm được toàn diện bản
chất của con người. Trong cuộc sống hiện thực quan hệ vật chất và quan hệ tư
tưởng đan xen nhau, thâm nhập lẫn nhau.

41
Sđd, tr.10.
42
Sđd, t.20, tr.476.
130
Mỗi cá thể người từ khi sinh ra và sống trong quan hệ xã hội nhất định, cùng
với sự tăng thêm của tuổi tác thì con người tự nhiên, mỗi cá nhân dần dần chuyển
biến thành con người xã hội nhờ nắm được văn hóa và tham gia cuộc sống xã hội,
thực hành những vai trò xã hội. Quá trình xã hội ấy cũng tức là quá trình hình
thành bản chất của con người, không những là cơ sở căn bản phân biệt con người
với động vật mà còn là cơ sở phân biệt các loại đặc điểm của cá nhân trong cuộc
sống cộng đồng. Do hoạt động thực tiễn, mỗi cá nhân khác nhau mà quan hệ xã hội
cũng có sự khác nhau. Như vậy, dù là bản chất cộng đồng của loài người hay là
bản chất đặc thù của cá nhân, đều có thể được giải thích từ trong tổng hòa những
quan hệ xã hội.
Như vậy, với tư cách là một thực thể xã hội, con người hoạt động thực tiễn,
tác động vào tự nhiên, cải biến giới tự nhiên, đồng thời thúc đẩy sự vận động phát
triển của lịch sử xã hội. Thế giới loài vật dựa vào những điều kiện có sẵn của tự
nhiên. Con người thì trái lại, thông qua hoạt động thực tiễn của mình để làm phong
phú thêm thế giới tự nhiên, tái tạo lại thế giới tự nhiên thứ hai theo mục đích của
mình
Trong xã hội có giai cấp thì tính xã hội của con người hiện thực mang tính
giai cấp. Trong xã hội có giai cấp, do địa vị của người ta trong quan hệ sản xuất
khác nhau, do quan hệ chiếm hữu đối với tư liệu sản xuất khác nhau, mà dẫn tới sự
khác nhau về các mặt lợi ích vật chất, phương thức sinh hoạt, tư tưởng, đạo đức,
tác phong. Cái gọi là con người trừu tượng, siêu giai cấp là không tồn tại.
Mặt khác, chúng ta cũng không nên hiểu con người mang tính giai cấp là con
người không có cá tính, mặc dù cá tính của họ cũng chịu sự chế ước của quan hệ
giai cấp. Nếu như chỉ thừa nhận tính giai cấp, không thừa nhận con người còn có
những đặc tính khác thì cái con người có tính giai cấp đó vẫn chưa phải là con
người hiện thực, vẫn là sự trừu tượng hóa theo một cực đoan khác - cực đoan giai
cấp.
Vì vậy, để phát triển bản chất con người theo hướng tích cực, cần phải làm
cho hoàn cảnh ngày càng mang tính người nhiều hơn. Hoàn cảnh đó chính là toàn
bộ môi trường tự nhiên và xã hội tác động đến con người theo khuynh hướng phát
131
triển nhằm đạt tới các giá trị có tính mục đích, tự giác, có ý nghĩa định hướng giáo
dục. Thông qua đó, con người tiếp nhận hoàn cảnh một cách tích cực và tác động
trở lạị hoàn cảnh trên nhiều phương diện khác nhau, như hoạt động thực tiễn, quan
hệ ứng xử, hành vi con người, sự phát triển của phẩm chất trí tuệ và năng lực tư
duy, các quy luật nhận thức hướng con người tới hoạt động vật chất. Đó là biện
chứng của mối quan hệ giữa con người và hoàn cảnh trong bất kỳ giai đoạn nào
của lịch sử xã hội loài người.
2. Khái niệm quần chúng nhân dân và vai trò sáng tạo lịch sử của quần
chúng nhân dân
a. Khái niệm quần chúng nhân dân
Sự phát triển của lịch sử xã hội cũng là lịch sử phát triển của từng cá nhân trở
thành chủ đề sáng tạo tự do. Nhưng lịch sử không diễn ra qua hoạt động của từng
cá nhân cô lập hay là tổng số số học của những hoạt động đó, mà thông qua hoạt
động đông đảo của quần chúng theo đuổi mục đích nhất định và lợi ích của mình,
dưới sự lãnh đạo của một cá nhân hay một tổ chức.
Quần chúng nhân dân là phạm trù độc lập với cá nhân, tập đoàn người đứng
đầu một phong trào hay lãnh đạo quản lý một xã hội. Tùy theo chế độ xã hội và các
sự kiện lịch sử nhất định mà quần chúng nhân dân bao hàm những thành phần
người và tầng lớp xã hội nào. Như vậy, quần chúng nhân dân là bộ phận có cùng
chung lợi ích căn bản, bao gồm những thành phần, những tầng lớp và những giai
cấp, liên kết lại thành tập thể dưới sự lãnh đạo của một cá nhân, tổ chức hay đảng
phái nhằm giải quyết những vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội của một thời đại nhất
định
Khái niệm quần chúng nhân dân được xác định bởi các nội dung sau đây:
Thứ nhất, những người lao động sản xuất ra của cải vật chất và các giá trị tinh
thần đóng vai trò là hạt nhân cơ bản của quần chúng nhân dân.
Thứ hai, những bộ phận dân cư chống lại giai cấp thống trị áp bức, bóc lột,
đối kháng với nhân dân.

132
Thứ ba, những giai cấp, những tầng lớp xã hội thúc đẩy sự tiến bộ xã hội
thông qua hoạt động của mình, trực tiếp hoặc gián tiếp trên các lĩnh vực của đời
sống xã hội.
Do đó, quần chúng nhân dân là một phạm trù lịch sử, vận động biến đổi theo
sự phát triển của lịch sử xã hội.
b. Vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân và vai trò của cá nhân trong
lịch sử
Khi chưa có chủ nghĩa Mác ra đời, triết học duy tâm và triết học duy vật đều
không hiểu đúng đắn vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử. Tư tưởng tôn
giáo cho rằng mọi sự thay đổi trong lịch sử xã hội là do ý chí của đấng tối cao, do mệnh
trời tạo nên và trao quyền cho các cá nhân thực hiện. Chủ nghĩa duy tâm cho rằng
lịch sử nhân loại là lịch sử của các bậc vua chúa, anh hùng hào kiệt, của các vĩ
nhân. Còn quần chúng nhân chỉ là “lực lượng tiêu cực”, là “công cụ, phương tiện”
để sai khiến. Những nhà chủ nghĩa duy vật trước Mác mặc dù không tin vào
thượng đế, thần thánh, nhưng cũng không hiểu được vai trò của quần chúng nhân
dân trong lịch sử. Họ cũng cho rằng nhân tố quyết định sự phát triển của xã hội là
tư tưởng, đạo đức, là các vĩ nhân và chỉ có họ mới sớm nhận thức được chân lý
vĩnh cửu. Cũng có nhà tư tưởng để cao vai trò quần chúng nhân dân nhưng lại phủ
nhận hoàn toàn vai trò của cá nhân. Có người đề cao vai trò của quần chúng nhân
dân nhưng không nhận thức được một cách khoa học về vai trò quần chúng nhân
dân,
Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định quần chúng nhân dân là
lực lượng sáng tạo chân chính ra lịch sử. Bởi vì, mọi lý luận giải phóng xã hội, giải
phóng con người chỉ được chứng minh thông qua sự tiếp thu và hoạt động của
quần chúng nhân dân. Hơn nữa, tư tưởng tự nó không làm biến đổi xã hội mà phải
thông qua hành động cách mạng, hoạt động thực tiễn của quần chúng nhân dân, để
biến lý tưởng, ước mơ thành hiện thực trong đời sống xã hội.
Vai trò quyết định lịch sử của quần chúng nhân dân được thể hiện ở những
mặt sau:

133
Thứ nhất, quần chúng nhân dân là lực lượng sản xuất cơ bản của xã hội, trực
tiếp sản xuất ra của cải vật chất, là cơ sở của sự tồn tại và phát triển của xã hội. Sản
xuất vật chất, chế tạo và cải tiến công cụ lao động là hoạt động của toàn xã hội,
chứ không phải là của một số cá nhân. Lực lượng sản xuất cơ bản là đông đảo quần
chúng nhân dân lao động bao gồm cả lao động chân tay và lao động trí óc. Thực
tiễn sản xuất của loài người, của quần chúng nhân dân là cơ sở và là động lực của
sự phát triển khoa học kỹ thuật. Điều đó khẳng định rằng hoạt động sản xuất của
quần chúng nhân dân là điều kiện cơ bản để quyết định sự tồn tại và phát triển của
xã hội.
Thứ hai, quần chúng nhân dân là động lực cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã
hội. Trong xã hội có giai cấp, mẫu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất biểu hiện thành mâu thuẫn giữa các giai cấp đối kháng giữa giai cấp thống trị
và giai cấp lao động bị trị. Khi quan hệ sản xuất đã trở thành xiềng xích của lực
lượng sản xuất thì cần có cuộc cách mạng xã hội để xóa bỏ quan hệ sản xuất cũ,
thiết lập quan hệ sản xuất mới, giải phóng lực lượng sản xuất, hình thành phương
thức sản xuất mới cao hơn. Quần chúng nhân dân bao giờ là lực lượng cơ bản của
cách mạng, đóng vai trò quyết định thắng lợi của mọi cuộc cách mạng. Trong các
cuộc cách mạng vĩ đại làm chuyển biến xã hội từ hình thái kinh tế - xã hội này
sang hình thái kinh tế - xã hội khác, nhân dân lao động là lực lượng tham gia đông
đảo, tự giác, tích cực thì cách mạng mới có thể giành thắng lợi. Cách mạng là ngày
hội của quần chúng, là sự nghiệp của quần chúng chứ không phải là sự nghiệp của
một số cá nhân.
Thứ ba, quần chúng nhân dân có vai trò to lớn trong sản xuất tinh thần. Quần
chúng nhân dân chẳng những đóng vai trò quyết định trong sản xuất vật chất, trong
cách mạng xã hội mà còn đóng vai trò vô cùng to lớn trong sự phát triển văn học,
nghệ thuật, khoa học,... đồng thời áp dụng những thành tựu đó vào hoạt động thực
tiễn. Những nền văn học nghệ thuật lớn đều bắt nguồn từ văn học nghệ thuật dân
gian. Hoạt động của quần chúng nhân dân từ trong thực tiễn là nguồn cảm hứng vô
tận cho mọi sáng tạo tinh thần trong đời sống xã hội. Mặt khác, các giá trị văn hóa
tinh thần chỉ có thể trường tồn khi được đông đảo quần chúng nhân dân chấp nhận
134
và truyền bá sâu rộng, trở thành giá trị phổ biến. C.Mác cho rằng thần thoại Hy
Lạp không những cấu thành kho tàng của nghệ thuật Hy Lạp mà còn là miếng đất
đã nuôi dưỡng nghệ thuật Hy Lạp nữa. Truyện Kiều của Nguyễn Du sống mãi với
nhân dân ta và nhân dân thế giới chính là vì tác phẩm đó phản ánh sinh động cuộc
sống, tâm tư nguyện vọng của nhân dân, đồng thời kế thừa những tinh hoa văn học
dân gian, nhất là dân ca, ca dao.
Trong xã hội có áp bức giai cấp, quần chúng nhân dân lao động không có điều
kiện nghiên cứu, phát minh khoa học. Song, vẫn xuất hiện những nhà khoa học tài
năng từ quần chúng nhân dân lao động. Khoa học tự nhiên và khoa học xã hội là sự
khái quát thực tiễn lao động sản xuất chế ngự thiên nhiên và đấu tranh xã hội của
quần chúng nhân dân. Quần chúng nhân dân là lực lượng đông đảo với hoạt động
thực tiễn của họ là cơ sở sản xuất tinh thần của xã hội.
Tóm lại, xét từ kinh tế đến chính trị, hoạt động vật chất đến hoạt động tinh
thần, quần chúng nhân dân luôn đóng vai trò quyết định trong lịch sử.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin vai trò của quần chúng và vai trò
của cá nhân trong lịch sử không tách rời nhau, trái lại có quan hệ khăng khít với
nhau. Cá nhân ưu tú, lãnh tụ kiệt xuất là sản phẩm của thời đại, đại diện cho lợi ích
và ý chí của chúng, và chỉ cá nhân như thế mới được quần chúng công nhận là
người lãnh đạo thực sự của họ. Cá nhân ưu tú, lãnh tụ kiệt xuất là sản phẩm, là con
đẻ của phong trào quần chúng nên sức mạnh của họ, trí tuệ của họ bắt nguồn từ
quần chúng nhân dân.
Lãnh tụ có vai trò vô cùng quan trọng đối với phong trào quần chúng. Lãnh tụ
sáng suốt, đức độ, tài năng xuất hiện đúng lúc bao giờ có tác dụng túc đẩy phong
trào quần chúng phát triển mạnh mẽ, chắc chắn đúng hướng, ít sai lầm và do đó
giúp cho phong trào quần chúng đạt tới những thành quả tốt đẹp nhất, to lớn nhất.
Nhưng phong trào quần chúng to lớn không thể thiếu người lãnh đạo có tầm nhìn
xa, trông rộng, có năng lực tổ chức tập hợp, đoàn kết quần chúng. V.I.Lênin viết:
“Trong lịch sử, chưa hề có một giai cấp nào giành được chính quyền thống trị, nếu
nó không đào tạo ra được trong hàng ngũ của mình những lãnh tụ chính trị, những

135
đại biểu tiên phong có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào” 43. Sự xuất hiện
của những lãnh tụ, cá nhân kiệt xuất tiêu biểu cho thời đại không phải hoàn toàn
ngẫu nhiên mà mang tính tất yếu.
Chủ nghĩa Mác - Lênin đánh giá rất cao vai trò của công cụ các nhân anh
hùng của lãnh tụ trong sự phát triển của lịch sử, nhưng lại kiên quyết chống chủ
nghĩa sùng bái cá nhân.
Chủ nghĩa sùng bái cá nhân, thần thánh hóa cá nhân lãnh đạo sẽ đi đến chỗ
chỉ thấy vai trò quyết định tất cả của cá nhân lãnh đạo, mà không thấy hoặc xem
nhẹ vai trò lãnh đạo của tập thể và của quần chúng nhân dân. Mặt khác, còn tước
bỏ quyền làm chủ của quần chúng, làm cho quần chúng thiếu tự tin vào lực lượng
bản thân, dẫn đến thái độ phục tùng tiêu cực, mù quáng, không phát huy được tính
năng động sáng tạo của họ trong sự nghiệp cách mạng.
Tệ sùng bái cá nhân tạo ra nhiều hiện tượng tiêu cực như thái độ xu nịnh,
quan liêu, gia trưởng, hành động tham nhũng, cũng như mọi tệ hại khác. Nó phá
hoại nghiêm trọng thành quả cách mạng của Đảng và của nhân dân. Các nhà kinh
điển của chủ nghĩa Mác - Lênin luôn coi sùng bái cá nhân là hiện tượng hoàn toàn
xa lạ với hệ tư tưởng giai cấp vô sản.
C.Mác, Ph.Ănghen, V.I.Lênin và ở Việt Nam có Hồ Chí Minh trong cả cuộc
đời mình luôn luôn là những người khiêm tốn, chân thành, không hề tách mình ra
khỏi quần chúng nhân dân, cho dù họ là những người, những nhà lãnh tụ tài giỏi,
được quần chúng yêu mến, tôn kính.

43
V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.1974, tập 4, tr.473.
136

You might also like