You are on page 1of 18

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

VIỆN ĐÀO TẠO TIÊN TIẾN, CHẤT LƯỢNG CAO VÀ POHE

BÀI TẬP LỚN


Môn: Triết học Mác - Lênin
ĐỀ BÀI: PHÂN TÍCH MỐI QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC
VÀ RÚT RA Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN. VẬN DỤNG GIẢI
QUYẾT BÀI TOÁN “BÁN LƯỢC CHO SƯ” DƯỚI GÓC ĐỘ CỦA MỘT
NHÀ KINH TẾ HỌC.

Họ và tên: Doãn Khánh Linh


Mã sinh viên: 11202112
Lớp: Kinh tế quốc tế CLC 62A - khóa 62

Hà Nội - 2020
MỤC LỤC

1. Phần1: Dẫn luận 1


2. Phần 2: Nội dung 3
A. Vật chất, ý thức và mối quan hệ giữa vật chất, ý thức 3
B. Ý nghĩa phương pháp luận chung của nhận thức và thực tiễn 12
C. Ứng dụng mối quan hệ vật chất và ý thức để giải quyết bài toán
“bán lược cho sư” dưới góc độ của một nhà kinh tế 14
3. Kết luận 16
PHẦN 1: DẪN LUẬN

Thế giới xung quanh chúng ta rất phong phú và đa dạng. Trong lịch
sử tư tưởng nhân loại, Triết học đã được hình thành từ rất sớm, trước tất
cả mọi sự ra đời của các môn khoa học tự nhiên và nó quyết định, lý giải
mọi hiện tượng, vấn đề diễn ra trong cuộc sống này. Tuy nhiên, bản thân
bên trong Triết học luôn tồn tại hai mặt đối lập, đồng thời nó phải giải
quyết một vấn đề có ý nghĩa nền tảng và là điểm xuất phát để giải quyết
tất cả những vấn đề còn lại - vấn đề mối quan hệ giữa vật chất và ý thức.
Song, để đưa ra định nghĩa tổng quan và chính xác nhất về nội dung của
cặp phạm trù này, các nhà lý luận đã không ngừng vận động sáng tạo,
luận bàn. Do vậy mà “vật chất” và “ý thức” từ lâu đã trở thành nội dung
được trường phái Triết học đặc biệt quan tâm, các định nghĩa khác nhau
về phạm trù này cũng vì thế mà ra đời.

      Ví dụ, khi được đặt câu hỏi: “Quả trứng có trước hay con gà có
trước ?”, để trả lời cho câu hỏi này, ta cần nắm được những quan điểm
khác nhau về vật chất và ý thức cũng như mối quan hệ giữa chúng. Thực
tế cho thấy mối quan hệ này có ý nghĩa lớn lao về mặt lý luận cũng như
thực tiễn. Một ví dụ điển hình như:

Trước năm 1986, đất nước ta đã gặp rất nhiều khó khăn bởi một nền
kinh tế trì trệ, một hệ thống quản lý yếu kém cũng là do một phần không
nhận thức đúng và đầy đủ về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức. Vấn đề
này đã được nhận thức đúng sau đổi mới ở đại hội VI, và quả nhiên đã
dành rất nhiều thắng lợi sau khi đã chuyển nền kinh tế từ cơ chế quan liêu
bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Trước thời kỳ Đổi Mới, khi cơ sở vật chất còn
chưa có, chúng ta nôn nóng muốn đốt cháy giai đoạn nên đã phải trả giá.
Ở thời kì này, chúng ta phát triển quan hệ sản xuất đi trước lực lượng sản
xuất mà không nhìn thấy vai trò quyết định của lực lượng sản xuất. Sau
giải phóng, đất nước ta là một đất nước nông nghiệp với số dân tham gia
vào ngành này tới hơn 90%. Nhưng chúng ta vẫn xây dựng các nhà máy
công nghiệp trong khi để nhanh chóng trở thành nước công nghiệp hoá
trong khi lực lượng sản xuất chưa phát triển, thêm vào đó là sự phân công
không hợp lý về quản lý nhà nước và của xã hội, quyền lực quá tập trung
vào Đảng, và Nhà nước quản lý quá nhiều các mặt của đời sống xã hội,
thực hiện quá cứng nhắc làm cho toàn xã hội thiếu sức sống, thiếu năng
động và sáng tạo. Các giám đốc thời kì này chỉ đến ngồi chơi và cuối
tháng lĩnh lương, các nông dân và công nhân làm đúng giờ quy định

1
nhưng hiệu quả không cao... Ở đây chúng ta đã xem nhẹ thực tế phức tạp
khách quan của thời kỳ quá độ, chưa nhận thức đầy đủ rằng thời kỳ quá
độ lên xã hội chủ nghĩa là quá trình lịch sử lâu dài và phải trải qua nhiều
chặng đường.

       Hiểu được tầm quan trọng của việc cần phải nắm rõ nội dung và ý
nghĩa của của phạm trù này để có thể vận dụng chúng vào thực tế đời
sống, bài tập lớn này em đã lấy mối quan hệ giữa vật chất và ý thức và ý
nghĩa của phương pháp luận làm chủ đề chính, qua đó ứng dụng thực tiễn
vào bài toán “bán lược cho sư” theo góc độ của một nhà kinh tế.

2
PHẦN 2: NỘI DUNG

A. Vật chất, ý thức và mối quan hệ giữa vật chất và ý thức:


a.Vật chất:

*Quan niệm về vật chất của các nhà triết học trước Mác:

    Vật chất với tư cách là 1 phạm trù Triết học có lịch sử khoảng 2500
năm, xuất hiện cùng với sự xuất hiện của Triết học trong lịch sử. Ngay từ
khi mới ra đời, xung quanh phạm trù vật chất đã diễn ra cuộc đấu tranh
gay gắt không khoan nhượng giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy
tâm. Chủ nghĩa duy tâm tìm mọi cách phủ nhận và làm sụp đổ phạm trù
vật chất của chủ nghĩa duy vật. Chủ nghĩa duy tâm khách quan thừa nhận
sự tồn tại hiện thực của giới tự nhiên, nhưng lại cho rằng nguồn gốc của
nó là do “sự tha hóa” của “tinh thần thế giới”. Chủ nghĩa duy tâm chủ
quan cho rằng đặc trưng cơ bản nhất của mọi sự vật hiện tượng là sự tồn
tại lệ thuộc vào chủ quan, tức là một hình thức tồn tại khác của ý thức. Vì
vậy, về mặt nhận thức luận, chủ nghĩa duy tâm cho rằng vật chất chỉ là
một phạm trù trống rỗng, phi hiện thực, một sự nhào nặn chủ quan của
các nhà duy vật.

Quan điểm nhất quán từ xưa đến nay của các nhà triết học duy vật là
thừa nhận sự tồn tại khách quan của thế giới vật chất, lấy bản thân tự
nhiên để giải thích tự nhiên. Chủ nghĩa duy vật coi vật chất là thực thể thế
giới, tồn tại vĩnh cửu, tạo nên mọi sự vật hiện tượng và các thuộc tính của
chúng:

       Chủ nghĩa duy vật vào thời kỳ Cổ đại: ở Hy Lạp nói riêng, ở phương
Tây nói chung các nhà triết học duy vật đã đồng nhất vật chất nói chung
với các dạng cụ thể nào đó của nó. Ở phương Đông, quan niệm vật chất
thể hiện qua một số trường phái triết học Ân Độ và Trung Quốc về thế
giới. Ấn Độ có Trường phái Lokāyata cho rằng tất cả được tạo ra bởi sự
kết hợp trong 4 yếu tố: Đất- Nước - Lửa - Khí. Tính đa dạng của vạn vật
chính là do sự kết hợp khác nhau của 4 yếu tố bản nguyên đó. Ngoài ra,
phái Nyāya và Vaisesika coi nguyên tử là thực thể của thế giới. Trung
Hoa có Thuyết Âm Dương cho rằng nguyên lý vận hành đầu tiên và phổ
biến của vạn vật là tương tác của những thế lực đối lập nhau đó là Âm và
Dương. Hai thế lực này thống nhất với nhau, chế ước lẫn nhau tạo thành
vũ trụ và vạn vật. Ngoài ra, Thuyết Ngũ hành của Trung Quốc có xu
hướng phân tích về cấu trúc của vạn vật để quy nó về 5 yếu tố khởi

3
nguyên với tính chất khác nhau là Kim- Mộc - Thủy - Hỏa - Thổ. Năm
yếu tố này không tồn tại độc lập, tuyệt đối mà tác động lẫn nhau theo
nguyên tắc tương sinh, tương khắc với nhau tạo ra vạn vật. Đặc biệt đỉnh
cao của quan niệm về vật chất của thời kỳ Hy Lạp cổ đại là thuyết nguyên
tử của Leucippe và Democrite. Theo thuyết này thì thực thể tạo nên thế
giới là nguyên tử và nó là phần tử nhỏ bé nhất và không thể phân chia
được, không thể xâm nhập và quan sát được, chỉ có thể nhận biết được
bằng tư duy. Các nguyên tử không khác nhau về chất mà chỉ khác nhau
về hình dạng. Sự kết hợp các nguyên tử khác nhau theo một trật tự khác
nhau sẽ tạo nên vật thể khác nhau. Thuyết nguyên tử tồn tại đến cuối thế
kỷ 19 đầu thế kỷ 20 mới bị khoa học đánh đổ và có hạn chế lịch sử nhất
định.

          Chủ nghiã duy vật thời kỳ cận đại: Vào thế kỷ 17, thế kỷ 18 nền
khoa học tự nhiên, thực nghiệm ở Châu Âu có sự phát triển mạnh mẽ.
Đặc biệt là trên lĩnh vực vật lý học với phát minh của Newton, phương
pháp nghiên cứu ở trong vật lý đã xâm nhập ảnh hưởng rất lớn vào trong
triết học. Chủ nghĩa duy vật nói chung và phạm trù vật chất nói riêng đã
có những bước phát triển mới chứa đựng nhiều yếu tố biện chứng:

- Quan điểm của Francis Bacon: coi thế giới vật chất tồn tại khách
quan, vật chất là tổng hợp các hạt. Ông coi tự nhiên là tổng hợp của
những vật chất muôn màu, muôn vẻ.

- Quan điểm của Pierre Gassendi: Phát triển học thuyết nguyên tử
của thời cổ đại cho rằng thế giới gồm những nguyên tử có tính tuyệt đối
như tính kiên cố và tính không thể thông qua.

       Vào thế kỉ 18, các nhà triết học Pháp đã phát triển phạm trù vật chật
lên một tầm cao mới. Đitơro cho rằng vũ trụ trong con người, trong mọi
sự vật chỉ có 1 thực thể duy nhất là vật chất. Vì vậy, các nhà triết học duy
vật thời kỳ này đã đồng nhất vật chất với khối lượng và coi vận động của
vật chất chỉ là vận động cơ học và nguyên nhân của sự vận động đó là do
tác động từ bên ngoài.

      Vào thế kỷ 19, trong nền triết học Đức cổ điển là Ludwig Feuerbach
(1804), ông chứng minh và khẳng định rằng thế giới này là vật chất và
vật chất theo ông là toàn bộ thế giới tự nhiên. Nó không doai sáng tạo ra
mà nó tồn tại độc lập với ý thức và không phụ thuộc vào bất cứ ý niệm, ý
thức nào.Tuy nhiên L.Feuerbach lại không thấy được mối quan hệ giữa
vật chất và ý thức, mối quan hệ giữa con người với xã hội, con người với
giới tự nhiên. Mặc dù vậy những quan niệm của ông về vật chất đã trở
thành một trong những tiền đề, nguồn gốc lý luận của Triết học duy vật
Mác sau này.

4
       Tóm lại, Các nhà triết học duy vật trước Mác trong cuộc đấu tranh
chống chủ nghĩa duy tâm đã hết sức quan tâm giải quyết vấn đề cốt lõi là
vật chất. Họ đưa ra những kiến giải khác nhau về vật chất và qua đó đã có
những đóng góp hết sức quan trọng đối với lịch sử phát triển của triết học
duy vật. Tuy nhiên tất cả họ đều mắc phải hạn chế lớn nhất là đã đồng
nhất vật chất với vật thể hoặc một thuộc tính nào đó của vật thể, họ không
thấy được sự tồn tại của vật chất gắn liền với vận động và họ không chỉ ra
được biểu hiện của vật chất trong đời sống xã hội và chỉ đến khi triết học
Mác xuất hiện thì phạm trù vật chất mới được giải quyết một cách khoa
học.

 *Hoàn cảnh ra đời và quan niệm về vật chất của V.I. Lênin:

      Sự phát triển của khoa học tự nhiên cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX đã
bác bỏ quan điểm của các nhà duy vật về những chất được coi là “giới
hạn tột cùng”, từ đó dẫn đến cuộc khủng hoảng về thế giới quan trong
lĩnh vực nghiên cứu vật lý học. Những người theo chủ nghĩa duy tâm đã
lợi dụng cơ hội này để khẳng định bản chất “phi vật chất” của thế giới,
khẳng định vai trò của các lực lượng siêu nhiên đối với quá trình sáng tạo
ra thế giới.

       Trong bối cảnh lịch sử đó, để bảo vệ và phát triển thế giới quan duy
vật, V.I. Lênin đã tổng kết thành tựu khoa học tự nhiên cuối thế kỉ XIX,
đầu thế kỉ XX, đồng thời kế thừa tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen để
đưa ra định nghĩa kinh điển về vật chất :

        “Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan
được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta
chép lại, chụp lại, phản ánh, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”.

*Phân tích để hiểu rõ hơn về định nghĩa vật chất của V.I. Lênin và ý
nghĩa quan trọng của nó đối với sự phát triển của chủ nghĩa duy vật và
nhận thức khoa học:

       +) Thứ nhất, cần phân biệt vật chất với tư cách là phạm trù triết học
với khái niệm vật chất trong các khoa học chuyên ngành.

       +) Thứ hai, thuộc tính cơ bản nhất, phổ biến nhất của mọi dạng vật
chất là thuộc tính tồn tại khách quan, tức là tồn tại độc lập, không phụ
thuộc vào ý thức con người, cho dù con người có nhận thức được nó hay
không. Chính thuộc tính này đã phân biệt được sự khác nhau cơ bản giữa
khái niệm vật chất với tư cách là phạm trù triết học so với các khoa học
chuyên ngành. Từ đó khắc phục được hạn chế duy tâm và chủ nghĩa duy
vật cũ; cung cấp căn cứ nhận thức khoa học để xác định những gì thuộc

5
về vật chất; tạo lập cơ sở lý luận cho việc xây dựng quan điểm duy vật về
lịch sử.

       +) Thứ ba, vật chất là cái được ý thức phản ánh. Con người có thể
nhận thức được thực tại khách quan thông qua sự “chép lại, chụp lại,
phản ánh” của con người đối với thực tại khách quan.

*Phương thức và hình thức tồn tại của vật chất:

- Phương thức tồn tại của vật chất chính là “vận động”, vật chất luôn
gắn liền với vận động và chỉ thông qua vận động mà các dạng cụ thể của
vật chất mới biểu hiện được sự tồn tại của mình. Vận động của vật chất là
tự thân vận động.

       Tuy nhiên, ta cần hiểu định nghĩa vận động theo quan điểm của
Ph.Ăngghen: “Vận động, hiểu theo nghĩa chung nhất, bao gồm tất cả mọi
sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí
đơn giản cho đến tư duy” chứ không nên chỉ hiểu nó theo nghĩa thuần túy
là sự thay đổi vị trí. Ngoài ra, Ph.Ăngghen còn chia vận động thành 5
hình thức cơ bản được sắp xếp theo trình độ từ thấp đến cao như sau: vận
động cơ học, vận động vật lý, vận động hóa học, vận động sinh học và
vận động xã hội. Trong sự tồn tại của mình, mỗi sự vật có thể có nhiều
hình thức vận động khác nhau, song bản thân nó bao giờ cũng được đặc
trưng bởi hình thức vận động cao nhất mà nó có. Ví dụ như hình thức vận
động hóa học diễn ra quá trình biến đổi chất này thành chất khác có thể
kèm theo sự biến đổi về mặt vật lý, tuy nhiên phản ứng đó vẫn được đặc
trưng bởi vận động hóa học.

        Chủ nghĩa duy vật biện chứng đã khẳng định: Vận động là tuyệt đối,
là vĩnh viễn. Điều này không có nghĩa là phủ nhận trạng thái đứng im, mà
cho rằng: Đứng im là trạng thái đặc biệt của vận động, đứng im có những
đặc điểm sau:

        +) Là vận động trong thế cân bằng: nghĩa là vận động chưa làm thay
đổi cơ bản về vị trí, hình dạng, kết cấu của sự vật.

        +) Là hiện tượng tương đối: Vì đứng im chỉ xảy ra đối với một số
hình thức vận động và trong một số quan hệ nhất định chứ không xảy ra
với tất cả các hình thức vận động.

        +) Là hiện tượng tạm thời: Vì đứng im chỉ tồn tại trong một thời
gian nhất định chứ không tồn tại vĩnh viễn.

*Hình thức tồn tại của vật chất là không gian và thời gian:

6
Vật chất, không gian, thời gian không tách rời nhau; không có vật chất
ngoài không gian, thời gian; cũng không có không gian, thời gian tồn tại
ở ngoài vật chất vận động. Trong đó:

        +) Không gian có ba chiều: dài, rộng, cao

        +) Thời gian có một chiều: từ quá khứ đến tương lai

*Tính thống nhất vật chất của thế giới

        Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: Bản chất của thế giới là
vật chất, thế giới thống nhất ở tính vật chất của nó. Điều đó được thể hiện
ở:

        +) Chỉ có một thế giới duy nhất là thế giới vật chất; thế giới vật chất
là cái có trước, tồn tại khách quan, độc lập với ý thức con người.

        +) Thế giới vật chất tồn tại vĩnh viễn, vô tận, vô hạn, không được
sinh ra và không bị mất đi.

        +) Mọi tồn tại của thế giới vật chất đều có mối liên hệ khách quan,
thống nhất với nhau.

b. Ý thức

*Nguồn gốc của ý thức:

       Theo quan điểm duy vật biện chứng, ý thức có nguồn gốc tự nhiên và
nguồn gốc xã hội.

- Nguồn gốc tự nhiên của ý thức: Được cấu thành từ nhiều yếu tố ,
trong đó cơ bản nhất là bộ óc người và mối quan hệ giữa con người với
thế giới khách quan tạo nên hiện tượng phản ánh năng động sáng tạo.
Đây là điều kiện cần để có ý thức.

       Khoa học chứng minh rằng thế giới vật chất nói chung và trái đất nói
riêng đã từng tồn tại rất lâu trước khi xuất hiện con người, rằng hoạt động
ý thức của con người diễn ra trên cơ sở hoạt động sinh lý thần kinh bộ
não người. Không thể tách rời ý thức ra khỏi bộ não vì ý thức là chức
năng bộ não, bộ não là khí quản của ý thức. Sự phụ thuộc ý thức vào hoạt
động bộ não thể hiện khi bộ não bị tổn thương thì hoạt động ý thức sẽ bị
rối loạn. Tuy nhiên không thể quy một cách đơn giản ý thức về quá trình
sinh lý bởi vì bộ óc chỉ là cơ quan phản ánh. Sự xuất hiện của ý thức gắn
liền sự phát triển đặc tính phản ánh, nó phát triển cùng với sự phát triển
của tự nhiên. Sự xuất hiện của xã hội loài người đưa lại hình thức cao
nhất của sự phản ánh, đó là sự phản ánh ý thức luôn gắn liền với việc làm

7
cho tự nhiên thích nghi với nhu cầu phát triển của xã hội, có tính chủ
động lựa chọn thông tin, xử lý thông tin để tạo ra những thông tin mới,
phát hiện ý nghĩa của thông tin, được gọi là phản ánh năng động sáng tạo.

- Nguồn gốc xã hội của ý thức: Có nhiều yếu tố cấu thành nguồn
gốc xã hội của ý thức, trong đó, cơ bản nhất và trực tiếp nhất là lao động
và ngôn ngữ. Đây là yếu tố quyết định, là điều kiện đủ để sự phản ánh
tâm lý ở động vật thành ý thức ở con người.

       Lao động là quá trình con người tác động vào giới tự nhiên nhằm tạo
ra sản phẩm phục vụ cho nhu cầu và sự phát triển của mình. Nhờ nó mà
con người và xã hội loài người mới hình thành và phát triển. Lao động là
phương thức tồn tại cơ bản đầu tiên của con người, đồng thời ngay từ đầu
đã liên kết con người với nhau trong mối quan hệ khách quan, tất yếu; 
mối quan hệ này làm nảy sinh nhu cầu trao đổi kinh nghiệm và tổ chức
lao động, cần phải có phương tiện để giao tiếp, trao đổi vật chất chứa
đựng thông tin mang nội dung ý thức. Không có ngôn ngữ, ý thức không
thể tồn tại và phát triển.

*Bản chất và kết cấu của ý thức :

- Bản chất của ý thức:

Là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, là quá trình phản ánh
tích cực, sáng tạo hiện thực khách quan ở óc người.

+) Theo C.Mác: Ý thức là vật chất được di chuyển vào đầu óc con
người và được cải biến trong đầu óc con người.

         +) Theo Leenin: Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách
quan      

Sự phản ánh năng động, sáng tạo thể hiện ở khả năng tâm – sinh
lý của con người trong việc định hướng tiếp nhận, chọn lọc, xử lý, lưu trữ
thông tin và trên cơ sở những thông tin đã có, nó có thể tạo ra thông tin
mới và phát hiện ý nghĩa của thông tin được tiếp nhận. Ngoài ra, nó thể
hiện ở quá trình con người tạo ra ý tưởng, giả thuyết, hoặc khái quát quy
luật khách quan, xây dựng mô hình tư tưởng, tri thức trong các hoạt động
của họ. Tính sáng tạo của ý thức còn thể hiện ở chỗ nó không chụp lại
một cách thụ động nguyên xi mà gắn liền với cải biến ,quá trình thu nhập
thông tin gắn liền với quá trình xử lý thông tin.

       Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan vì nó bị thế giới
khách quan quy định cả về nội dung lẫn hình thức biểu hiện, nhưng nó

8
không còn y nguyên như thế giới khách quan mà đã được cải biến thông
qua lăng kính chủ quan của con người.

        Sự ra đời và tồn tại của ý thức bị chi phối bởi các quy luật xã hội, nó
được quy định bởi nhu cầu giao tiếp xã hội và các điều kiện sinh hoạt
hiện thực của đời sống xã hội.

*Kết cấu của ý thức:       

       Ý thức có kết cấu cực kỳ phức tạp. Ta có thể chia kết cấu của ý thức
theo 2 cách. Trước hết, theo các lớp ý thức thì ý thức bao gồm những yếu
tố cơ bản sau: tri thức, tình cảm, ý chí và niềm tin, trong đó tri thức là
nhân tố cơ bản, cốt lõi nhất, quan trọng nhất.

       + Tri thức là toàn bộ những hiểu biết nhất định của con người, là kết
quả của quá trình nhận thức, là sự tái tạo lại hình ảnh của đối tượng được
nhận thức dưới dạng các loại ngôn ngữ. Mọi hoạt động của con người đều
có tri thức, được tri thức định hướng. Mọi biểu hiện của ý thức đều chứa
đựng nội dung tri thức. Tri thức là phương thức tồn tại của ý thức và là
điều kiện để ý thức phát triển. Theo Mác: “phương thức mà theo đó ý
thức tồn tại và theo đó một cái gì đó tồn tại đối với ý thức là tri thức”.

        + Tình cảm là những rung động biểu hiện thái độ con người trong
các quan hệ. Tình cảm là một hình thái đặc biệt của sự phản ánh hiện
thực, được hình thành từ sự khái quát những cảm xúc cụ thể của con
người khi nhận sự tác động của ngoại cảnh. Tình cảm biểu hiện và phát
triển trong mọi lĩnh vực đời sống của con người; là một yếu tố phát huy
sức mạnh, một động lực thúc đẩy hoạt động nhận thức và thực tiễn. Lênin
cho rằng: không có tình cảm thì “xưa nay không có và không thể có sự
tìm tòi chân lý”; không có tình cảm thì không có một yếu tố thôi thúc
những người vô sản và nửa vô sản, những công nhân và nông dân nghèo
đi theo cách mạng.

       + Ý chí là khả năng huy động những năng lực của bản thân để vượt
qua những cản trở trong quá trình thực hiện mục đích của con người.
Lênin cho rằng: Ý chí là một trong những yếu tố tạo nên sự nghiệp cách
mạng của hàng triệu người trong cuộc đấu tranh giai cấp quyết liệt nhằm
giải phóng mình, giải phóng nhân loại.

+ Niềm tin: Sự tin tưởng của chúng ta vào sự vật, hiện tượng đó. Tuy
nhiên, niềm tin là một yếu tố phái sinh, là sự tổng hợp của tri thức, tình
cảm và ý chí của con người

Bên cạnh đó, cấu trúc của ý thức cũng được phân theo trình độ ý
thức, gồm có: Vô thức, tiềm thức và tự ý thức.

9
+ Vô thức là những thứ có sẵn, xuất phát từ chính bản năng của con
người

+ Tự ý thức là những tư duy trừu tượng, tư duy mà ở đó có sự chỉ


đạo của các hoạt động thần kinh

+ Tiềm thức như một trạng thái kết hợp giữa vô thức và tự ý thức, nó
được thể hiện qua xúc cảm và nó là những phản xạ có điều kiện, lặp đi
lặp lại như một thói quen.

       Tất cả các yếu tố tạo thành ý thức có mối quan hệ biện chứng với
nhau song tri thức là yếu tố quan trọng nhất; là phương thức tồn tại của ý
thức, đồng thời là nhân tố định hướng đối với sự phát triển và quyết định
mức độ biểu hiện của các yếu tố khác.

c. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức:

Đối với chủ nghĩa duy tâm: Họ coi ý thức là tồn tại duy nhất, tuyệt
đối, là tính thứ nhất từ đó sinh ra tất cả; còn thế giới vật chất chỉ là bản
sao, biểu hiện khác của ý thức tinh thần, là tính thứ hai do ý thức tinh
thần sinh ra.

Đối với chủ nghĩa duy vật siêu hình: Họ tuyệt đối hóa yếu tố vật
chất, chỉ nhấn mạnh một chiều vai trò của vật chất sinh ra ý thức, quyết
định ý thức, phủ định tính độc lập tương đối của ý thức, không thấy được
tính năng động, sáng tạo, vai trò to lớn của ý thức trong hoạt động thực
tiễn cải tạo hiện thực khách quan.

Tuy nhiên, đến với C.Mác, theo ông: “Xét đến cùng thì vật chất
quyết định ý thức, nhưng ý thức cũng có tính độc lập tương đối, tác động
trở lại vật chất. Trong một giới hạn nhất định, ý thức cũng có thể quyết
định được cái vật chất”

*Vai trò của vật chất đối với ý thức:

       Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: Vật chất có trước, ý thức
có sau, vật chất là nguồn gốc của ý thức, quyết định ý thức vì:

       Trước hết, xuất phát từ nguồn gốc của ý thức: Ý thức là sản phẩm
của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ não người nên chỉ khi có con
người mới có ý thức. Trong mối quan hệ giữa con người với thế giới vật
chất thì con người là kết quả quá trình phát triển lâu dài của thế giới vật
chất, là sản phẩm của thế giới vật chất. Lao động là hoạt động vật chất.
Ngôn ngữ là tín hiệu vật chất. Như vậy, vật chất quyết định ý thức vì nói
chính là nguồn gốc mà ý thức ra đời. Kết luận này đã được chứng minh

10
bởi sự phát triển hết sức lâu dài của khoa học về giới tự nhiên; nó là một
bằng chứng khoa học chứng minh quan điểm: vật chất có trước, ý thức có
sau.

       Thứ hai, xét về nội dung của ý thức:

+ Bản chất của ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất, là hình ảnh
chủ quan về thế giới vật chất, giống như câu nói: “Người sống trong túp
lều tranh sẽ có suy nghĩ khác với người sống trong cung điện bằng vàng”.

+ Không chỉ vậy, khi thế giới vật chất thay đổi thì ý thức cũng phải
thay đổi theo. Như vậy, nhận thức của chúng ta thay đổi theo thế giới
khách quan.

+ Những thứ ý thức tưởng tượng ra (hình tượng con rồng: có hình
dáng uốn lượn từ loài rắn, vảy là vảy cá, râu lấy từ loài cá chép, cái bờm
sư tử, ngựa, chân của chim ưng). Như vậy những thứ ý thức tưởng tượng
ra lấy chất liệu từ thế giới vật chất.

Thứ ba, sự vận động và phát triển của ý thức, hình thức biểu hiện
của ý thức bị các quy luật sinh học, các quy luật xã hội và sự tác động của
môi trường sống quyết định. Những yếu tố này thuộc lĩnh vực vật chất, là
chất liệu để ý thức được hiện thực hóa nên vật chất không chỉ quyết định
nội dung mà còn quyết định cả hình thức biểu hiện cũng như mọi sự biến
đổi của ý thức.

*Vai trò của ý thức đối với vật chất:

       Trong mối quan hệ với vật chất, ý thức có thể tác động trở lại vật
chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người.

       + Vì ý thức là của con người nên nói đến vai trò của ý thức là nói đến
vai trò của con người. Bản thân ý thức tự nó không trực tiếp thay đổi
được gì trong hiện thực. Muốn thay đổi hiện thực, con người phải tiến
hành những hoạt động vật chất. Song, mọi hoạt động của con người đều
do ý thức chỉ đạo, nên vai trò của ý thức không phải trực tiếp tạo ra hay
thay đổi thế giới vật chất mà nó trang bị cho con người tri thức, hiểu biết
về thực tại khách quan, trên cơ sở ấy con người xác định mục tiêu, đề ra
phương hướng, xây dựng kế hoạch, lựa chọn phương pháp, cách thức,
biện pháp, công cụ, phương tiện, v.v. phù hợp nhất lên sự vật, hiện tượng.
Ở đây, ý thức đã thể hiện sự tác động của mình đối với vật chất, quyết
định sự thành bại của hoạt động thực tiễn

       Còn tình cảm, ý chí, niềm tin có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm hoạt
động thực tiễn. Sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất diễn ra theo

11
hai hướng: tích cực hoặc tiêu cực. Nếu con người nhận thức đúng, có tri
thức khoa học, có tình cảm cách mạng, có nghị lực, có ý chí thì hành
động của con người phù hợp với các quy luật khách quan, con người có
năng lực vượt qua những thách thức trong quá trình thực hiện mục đích
của mình, thế giới được cải tạo - đó là sự tác động tích cực của ý thức.
Còn nếu ý thức của con người phản ánh không đúng hiện thực khách
quan, bản chất, quy luật khách quan thì ngay từ đầu, hướng hành động
của con người đã đi ngược lại các quy luật khách quan, hành động ấy sẽ
có tác dụng tiêu cực đối với hoạt động thực tiễn, đối với hiện thực khách
quan.

       Như vậy, bằng việc định hướng cho hoạt động của con người, ý thức
có thế quyết định hành động của con người, hoạt động thực tiễn của con
người đúng hay sai, thành công hay thất bại, hiệu quả hay không hiệu
quả.

       Tìm
hiểu về vật chất, về nguồn gốc, bản chất của ý thức, về vai trò của
vật chất, của ý thức có thể thấy: vật chất là nguồn gốc của ý thức, quyết
định nội dung và khả năng sáng tạo ý thức; là điều kiện tiên quyết để thực
hiện ý thức; ý thức chỉ có khả năng tác động trở lại vật chất, sự tác động
ấy không phải tự thân mà phải thông qua hoạt động thực tiễn của con
người. Sức mạnh của ý thức trong sự tác động này phụ thuộc vào trình độ
phản ánh của ý thức, mức độ thâm nhập của ý thức vào những người hành
động, trình độ tổ chức của con người và những điều kiện vật chất, hoàn
cảnh vật chất, trong đó con người hành động theo định hướng của ý thức.

B. Ý nghĩa phương pháp luận chung của nhận thức và thực


tiễn
      Sau khi đã nắm được nội dung và quan điểm của phạm trù này, điều
tất yếu là cần đúc rút ra những nguyên tắc, quy luật cơ bản để áp dụng
chúng vào trong thực tế cuộc sống, vì thế mà nguyên tắc phương pháp
luận cơ bản, chung nhất đối với hoạt động nhận thức và thực tiễn của con
người ra đời: “Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn phải xuất phát từ
thực tế khách quan, đồng thời phát huy tính năng động, chủ quan.”

        Vì
vật chất quyết định ý thức nên trong nhận thức và hoạt động thực
tiễn cần xuất phát từ khách quan, tôn trọng khách quan. Xuất phát từ thực
tế khách quan, tôn trọng khách quan là xuất phát từ tính khách quan của
vật chất, có thái độ tôn trọng đối với hiện thực khách quan, mà căn bản là
tôn trọng quy luật, nhận thức và hành động theo quy luật; tôn trọng vai
trò quyết định của đời sống vật chất đối với đời sống tinh thần của con
người và xã hội. Trong nhận thức và hành động, con người phải xác định
rõ mục đích, đề ra đường lối, chủ trương, chính sách, kế hoạch, biện

12
pháp; phải lấy thực tế khách quan làm cơ sở, phương tiện; phải tìm ra
những nhân tố vật chất, tổ chức những nhân tố ấy thành lực lượng vật
chất để hành động.

      
  Vì ý thức có tính độc lập tương đối tác động trở lại vật chất cho nên
nhận thức và thực tiễn cần phải đồng thời phát huy tính năng động chủ
quan của ý thức. Phát huy tính năng động chủ quan là phát huy vai trò
tích cực, năng động,sáng tạo của ý thức và phát huy vai trò yếu tố con
người trong việc vật chất hoá tích cực,năng động, sáng tạo ấy. Điều này
đòi hỏi con người phải tôn trọng tri thức khoa học; tích cực học tập,
nghiên cứu để làm chủ tri thức khoa học và truyền bá vào quần chúng.

          Nguyên tắc này còn đòi hỏi con người phải phòng, chống và khắc
phục bệnh chủ quan duy ý chí – là những hành động lấy ý chí áp đặt cho
thực tế, lấy ảo tưởng thay cho hiện thực, lấy ý muốn chủ quan làm chính
sách, lấy tình cảm làm điểm xuất phát cho chiến lược,..Ngoài ra, cũng cần
chống lại chủ nghĩa kinh nghiệm, xem thường tri thức khoa học, xem
thường lý luận, bảo thủ, trì trệ, thụ động trong nhận thức và thực tiễn.

13
C. Ứng dụng mối quan hệ giữa vật chất, ý thức để giải quyết
bài toán “bán lược cho sư” dưới góc độ của một nhà kinh tế:

Các yếu tố khách quan Diễn giải tư duy


- Có một số lượng lớn lược cần - Cần phải suy nghĩ các hướng giải
phải bán quyết để có thể bán được số lượng
- Đối tượng hướng đến: các nhà sư lược nhiều nhất, vận dụng, sáng tạo
- Yêu cầu: càng bán được nhiều và phát huy những gì mình đang có.
lược càng tốt, và càng nhiều người - Hướng giải quyết:
mua càng tốt + Trước hết, vì người mua là các
- Mối quan hệ: một nhà kinh tế học nhà sư mà bản thân sư không cần
với nhà sư dùng lược.
- Những nhà sư không có nhu cầu + Vì vậy, muốn bán được lược cho
cá nhân để mua lược. sư thì phải nghĩ cách để thuyết phục
sư mua và những chiếc lược được
bán với đúng mục đích sử dụng của
nó.
+ Như vậy, đối tượng hướng đến để
thuyết phục sư mua lược có thể là
những người dân hàng ngày tới
chùa dâng hương, những du khách
lần đầu đến thăm…
+ Tiếp theo, xét đến nhu cầu khi đi
chùa của mọi người, tất cả đều xuất
phát từ tâm, từ việc muốn làm điều
thiện, điều tốt, cầu mong bình an.
Bên cạnh đó, có những người tham
quan cũng muốn mua những món
đồ lưu niệm, những bức thư pháp,
… nên việc thuyết phục sư mua
lược làm quà bán cho khách tham
quan và người dâng hương trở nên
khá khả thi.
+ Xin nhà sư dùng thư pháp, viết
lên ba chữ “Lược tích thiện” để làm
tặng phẩm cho mọi người với đúng
ý nghĩa vừa bán được lược cho sư,
vừa bán lược với đúng mục đích sử
dụng của nó
+ Như vậy, muốn bán được lược
trước hết phải đánh vào tâm lý làm

14
việc thiện của nhà chùa, thuyết
phục sư mua một số lượng lớn với
mục đích làm tặng phẩm. Em bắt
đầu việc bán lược từ đây.

15
PHẦN 3: KẾT LUẬN

Triết học Mác - Lênin đã khẳng đinh: Để có một sự vật hiện tượng
tồn tại thì yếu tố khách quan có vai trò quyết định. Vì thế, muốn thực hiện
một việc gì đó cần phải xem xét các yếu tố khách quan vốn có. Đó là sự
tồn tại khách quan nội tại của sự vật đó và sự tồn tại khách quan của các
mối liên hệ (từ hẹp đến rộng) của sự vật đó với các sự vật, hiện tượng
khác. Mọi mong muốn, nỗ lực thực hiện mà không quan tâm, không dựa
trên những yếu tố khách quan đang có sẽ rơi vào chủ quan duy ý chí. Em
mong rằng bài tập lớm này phần nào đã tổng kết được lý luận và mang lại
giá trị thực tiễn, đem đến hiểu biết cơ bản nhất về phạm trù vật chất và ý
thức. Có thể nói tóm lại là, vật chất bao giờ cũng đóng vai trò quyết định
đối với ý thức, nó là cái có trước ý thức, nhưng ý thức có tính lực năng
động tác động trở lại vật chất. Mối tác động qua lại này chỉ được thực
hiện thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Chúng ta nâng cao vai
trò của ý thức với vật chất chính là ở chỗ nâng cao năng lực nhận thức
các quy luật khách quan và vận dụng các quy luật khách quan trong hoạt
động thực tiễn của con người. Bài luận trên đã đưa ra lý luận và đúc rút
bài học thực tiễn, tuy nhiên cách hiểu và vận dụng sáng tạo của mỗi
người trong từng tình huống cụ thể khác nhau thì sẽ đem lại những hiệu
quả và thành công khác nhau. Vì vậy, “bán lược cho sư” chỉ là một ví dụ
rất nhỏ trong cách vận dụng mối quan hệ giữa vật chất và ý thức. Qua đó
hình thành nên cách tư duy, suy nghĩ và hành động đúng đắng, dựa trên
những yếu tố khách quan sẵn có. Như vậy, vật chất và ý thức, hai khái
niệm, hai phạm trù mang ý nghĩa đối lập nhưng luôn tồn tại song song,
thống nhất với nhau, và hỗ trợ cho nhau, cần phải hiểu đúng, hiểu chính
xác mối quan hệ giữa hai phạm trù này để việc vận dụng thực tiễn trở nên
dễ dàng và chính xác hơn.

16

You might also like