You are on page 1of 27

HỌC VIỆN CHÍNH SÁCH VÀ PHÁT TRIỂN

KHOA CƠ BẢN
BỘ MÔN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

TIỂU LUẬN
TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN

ĐỀ TÀI

Vấn đề hội nhập quốc tế nhưng không hòa tan ở Việt Nam hiện
nay- nhìn từ góc độ quy luật phủ định của phủ định

GVHD: Thầy Ngô Minh Thuận


SVTH: Nhóm 8
Lớp: Triết 24

HÀ NỘI - 2022

1
DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM 8:

1.Nguyễn Hương Ly – MSV: 7103402028 ( NHÓM TRƯỞNG )


2. Nông Thúy Vân – MSV: 7133205077
3. Vi Thị Kiều Trinh – MSV: 7133205075
4. Nguyễn Bảo Trang – MSV: 7133205071
5. Lương Xuân Trường – MSV: 7133205076
6. Nguyễn Thanh Nga – MSV: 7103807045
7. Nguyễn Thị Thêu – MSV: 7103101094
8. Hà Hồng Nhung – MSV: 71134201094
9. Vũ Huyền Trang – MSV: 7133205073
10.Vũ Thu Trang – MSV: 7133205074
11. Vũ Thị Thủy – MSV: 7103401092
12. Nguyễn Hà Vi – MSV: 7133205079
13. Vi Thị Thảo Vân – MSV: 7133205078
14. Khoàng Tư Xá – MSV: 7133205080
15. Vũ Đỗ Minh Trang – MSV: 7133205072
16. Đàm Thị Khánh Vy – MSV: 7133205081

2
PHIẾU NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ TIỂU LUẬN

STT Nội dung nhận xét Giảng viên nhận xét Điểm Điểm
kết luận
giảng viên
1 Thể thức văn bản 1,5

2 Bố cục, kết cấu đề tài 1,5

3 Nội dung 5
(Lý luận + Thực tiễn)

4 Phương pháp trình bày 1,0

5 Tài liệu tham khảo 1,0

10

Họ và tên giảng viên:


Chữ ký giảng viên:

3
LỜI CẢM ƠN

“Lời đầu tiên, chúng em xin cảm ơn Học viện Chính sách và Phát triển đã đưa bộ
môn lý luận chính trị vào chương trình giảng dạy, truyền đạt cho sinh viên chúng em
những kiến thức quý giá bên trong, rất nhiều kiến thức bổ ích, tinh thần học tập hiệu quả
và nghiêm túc. Đây chắc chắn sẽ là hành trang để chúng em có thể vững bước sau này.
Tuy nhiên, chúng em vẫn còn nhiều bỡ ngỡ do kiến thức và khả năng tiếp thu thực tế
còn hạn chế nên mặc dù chúng em đã cố gắng hết sức để hoàn thành nội dung nhưng
chắc chắn bài tiểu luận khó có thể tránh khỏi những thiếu sót và nhiều chỗ còn chưa
chính xác, vì vậy chúng em mong nhận đươc sự đóng góp của thầy cô và bạn bè để bài
tiểu luận của chúng em được hoàn thiện hơn nữa”.
Nhóm 8 chúng em xin chân thành cảm ơn! "

4
MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU.............................................................................................................................6
1. Lý do chọn đề tài.....................................................................................................................6
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.........................................................................................6
2.1. Mục đích của đề tài...............................................................................................................6
2.2. Nhiệm vụ của đề tài...............................................................................................................6
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu..........................................................................................7
3.1. Đối tượng nghiên cứu...........................................................................................................7
3.2. Phạm vi nghiên cứu..............................................................................................................7
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu............................................................................7
4.1. Cơ sở lý luận.........................................................................................................................7
4.2. Phương pháp nghiên cứu......................................................................................................7
5. Những đóng góp mới của đề tài..............................................................................................7
6. Kết cấu của đề tài....................................................................................................................8
NỘI DUNG.................................................................................................................................9
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN QUY LUẬT PHỦ ĐỊNH CỦA PHỦ ĐỊNH......................9
1.1.Khái niệm..............................................................................................................................9
1.2.Nội dung................................................................................................................................9
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ NHƯNG KHÔNG HÒA
TAN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY- NHÌN TỪ GÓC ĐỘ QUY LUẬT PHỦ ĐỊNH CỦA
PHỦ ĐỊNH................................................................................................................................11
2.1.Khái quát thực trạng..........................................................................................................11
2.2.Những thành tựu và hạn chế.............................................................................................14
2.3.Những vấn đề đặt ra...........................................................................................................16
CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP NÂNG CAO HỘI NHẬP QUỐC TẾ VIỆT NAM HIỆN NAY.
18
CHƯƠNG 4. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ..........................................................................20
4.1.Kết luận...............................................................................................................................20
4.2.Kiến nghị.............................................................................................................................20
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................................................24
PHỤ LỤC..................................................................................................................................25

5
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Quy luật phủ định của phủ định cho rằng sự phát triển của sự vật là do mâu thuẫn của
bản thân sự vật quyết định. Mọi sự phủ nhận đều là kết quả của sự đấu tranh và chuyển hóa
giữa các mặt đối lập của bản thân vấn đề: giữa mặt tích cực và mặt tiêu cực của nó. Sự phủ
định đầu tiên xảy ra và điều ngược lại với sự khẳng định ban đầu trở nên lỗi thời. Phủ định
mới, với tư cách là phủ định của phủ định, đối lập với phủ định và quay lại, nhưng không
giống với phủ định cũ mà dựa trên một tiêu chuẩn cao hơn, tốt đẹp hơn. Phủ định của phủ
định là sự thống nhất biện chứng giữa khẳng định và phủ định, là kết quả tổng hợp tất cả
những yếu tố tích cực của khẳng định thứ nhất và phủ định thứ nhất, đồng thời cũng là giai
đoạn phủ định của phủ định. Tích hợp này đang lọc các giai đoạn trước để cung cấp nội
dung phong phú và toàn diện hơn. Kết quả của phủ định của phủ định là kết thúc một chu kỳ
phát triển và bắt đầu chu kỳ phát triển tiếp theo. Theo triết học Mác - Lênin, quy luật phủ
định của phủ định là quy luật phổ biến trong sự phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy. Sau
hơn 30 năm Đổi mới, đất nước ta bước sang một thời kỳ phát triển mới. Đây là thời đại thúc
đẩy đổi mới bao trùm, đồng bộ giữa kinh tế và đổi mới chính trị. Đẩy mạnh hội nhập quốc tế
theo hướng phát triển bền vững, hiện đại. Để hiểu hơn về vấn đề hội nhập quốc tế nhưng
không hòa tan ở Việt Nam hiện nay- nhìn từ góc độ quy luật phủ định của phủ định, em đã
chọn nghiên cứu về đề tài này cho bài tiểu luận của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích của đề tài
Từ góc độ quy luật phủ định của phủ định, phân tích và đánh giá được thực trạng vấn đề
hội nhập quốc tế nhưng không hòa tan ở Việt Nam hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ của đề tài
- Phân tích cơ sở lý luận phủ định của phủ định
- Phân tích từ thực trạng vấn đề hội nhập quốc tế nhưng không hòa tan ở Việt Nam hiện
nay, đưa ra những đánh giá và liên hệ giải pháp

6
- Đưa ra kết luận và kiến nghị
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu thực trạng vấn đề hội nhập quốc tế nhưng không hòa tan ở Việt Nam
hiện nay
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài giới hạn phạm vi nghiên cứu như sau:
Không gian: thực trạng vấn đề hội nhập quốc tế nhưng không hòa tan ở Việt Nam hiện
nay
Thời gian: vấn đề hội nhập quốc tế nhưng không hòa tan ở Việt Nam từ 2019 đến nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Dựa trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh cùng với các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu và trình bày luận án, tác giả sử dụng phương pháp luận duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử; đồng thời vận dụng quan điểm khách quan, quan điểm toàn diện,
quan điểm phát triển, quan điểm lịch sử cụ thể, quan điểm thực tiễn.
5. Những đóng góp mới của đề tài
5.1. Về lý luận
Từ cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh cùng với các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam phân tích và đánh giá thực
trạng vấn đề hội nhập quốc tế nhưng không hòa tan ở Việt Nam hiện nay.
5.2. Về thực tiễn
Liên hệ những chính sách hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay
6. Kết cấu của đề tài
Đề tài nghiên cứu gồm: chương 3 chính:
7
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN QUY LUẬT PHỦ ĐỊNH CỦA PHỦ ĐỊNH
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ NHƯNG KHÔNG HÒA
TAN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY- NHÌN TỪ GÓC ĐỘ QUY LUẬT PHỦ ĐỊNH CỦA PHỦ
ĐỊNH
CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP NÂNG CAO HỘI NHẬP QUỐC TẾ VIỆT NAM HIỆN NAY
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

8
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN QUY LUẬT PHỦ ĐỊNH CỦA PHỦ ĐỊNH
1.1. Khái niệm
Quy luật phủ định của phủ định là quy luật nói lên mối quan hệ giữa cái bị phủ định và
cái bị phủ định, sự kế thừa. Vì di sản này, phủ định biện chứng không phải là phủ định sạch
trơn mọi sự phát triển trước, mà nó phát huy và giữ nguyên nội dung tích cực của những
phát triển trước và bảo lưu một số nét cơ bản của sự phát triển lần nữa, một cơ sở mới cao
hơn; vì vậy sự phát triển xoắn ốc hơn là đi theo một đường thẳng.
1.2. Nội dung
Phủ định biện chứng có hai tính chất cơ bản là tính khách quan và tính kế thừa.
Tính khách quan:
Phủ định biện chứng là khách quan vì nguyên nhân của phủ định nằm ở bản thân sự vật.
Nguyên nhân này là kết quả của việc giải quyết mâu thuẫn bên trong sự vật. Giải quyết mâu
thuẫn giữ cho mọi thứ phát triển. Vì vậy, phủ định biện chứng là một tất yếu khách quan
trong quá trình vận động, phát triển của sự vật. Tất nhiên, mỗi sự vật đều có phương thức
phủ nhận riêng, tùy theo cách giải quyết mâu thuẫn của riêng nó. Phủ định biện chứng không
phụ thuộc vào ý chí, ý muốn chủ quan của con người. Chỉ trên cơ sở nắm vững các quy luật
phát triển, người ta mới có thể tác động đến quá trình tiêu cực diễn ra nhanh hơn hay chậm
hơn.
Tính kế thừa:
Phủ định biện chứng là kết quả quá trình tự phát triển của sự vật, cái cũ không thể bị tiêu
diệt hoàn toàn. Cái mới chỉ có thể ra đời từ cái cũ, chứ không phải từ cái không. Sự ra đời
cái mới dựa trên cơ sở vứt bỏ những mặt tiêu cực, lạc hậu, lạc hậu của cái cũ và chọn lọc,
giữ lại, hoàn thiện những mặt tích cực liên quan, bổ sung những mặt mới theo thực tiễn phát
triển của sự vật cũ. Trong phủ định biện chứng, sự vật khẳng định những mặt tích cực, tích
cực, đồng thời chỉ phủ nhận những mặt lạc hậu, tiêu cực. Có thể nói, phát triển chẳng qua là
sự biến đổi trong đó giai đoạn sau giữ lại tất cả những mặt tích cực đã tạo ra của giai đoạn
trước và bổ sung thêm những mặt mới phù hợp với thực tế. Phủ định biện chứng không chỉ
9
là khắc phục cái cũ, cái cũ mà còn là nối kết cái cũ với cái mới, cái cũ với cái mới, quá khứ
với hiện tại. Phủ định biện chứng là một giai đoạn tất yếu của mối liên hệ và sự phát triển.
Sự ra đời và tồn tại của sự vật đã được khẳng định. Sự vật vận động, cái mới thay thế cái
cũ, và diễn ra sự phủ định biện chứng. Sự vật không còn tồn tại và được thay thế bằng một
sự vật mới, trong đó yếu tố tích cực được bảo toàn. Nhưng cái mới này bị phủ định bởi cái
mới khác. Cái mới khác này trông giống cái hiện có, nhưng nó không phải là một bản sao
hoàn hảo, nó bổ sung các yếu tố mới và chỉ giữ lại những yếu tố tích cực phù hợp để phát
triển. Sau hai lần phủ định, sự phủ định của cái bị phủ định hoàn thành và cái mới trải qua
chu kỳ phát triển. Sự phát triển biện chứng thông qua sự phủ định biện chứng trên là sự
thống nhất hữu cơ giữa chắt lọc, giữ gìn và bổ sung những yếu tố mới tích cực. Vì vậy, mọi
thứ tiếp tục phát triển qua thời đại tự phủ nhận biện chứng. Một phạm trù mới của sự phủ
nhận biện chứng nói lên các giai đoạn, các mắt xích và các nấc thang trong một quá trình
phát triển cụ thể. Với tư cách là sự phủ định (lần thứ nhất), cái mới cũng chứa đựng khuynh
hướng phủ định lần thứ hai (phủ định của phủ định). Trong sự vận động không ngừng của
thế giới vật chất, dây chuyền của sự phủ định biện chứng là vô tận, cái mới phủ định cái cũ,
nhưng cái mới lại trở thành cũ và lại bị cái mới phủ định. Cũng như vậy, các sự vật và hiện
tượng phát triển theo chiều âm và chiều vô tận từ thấp lên cao theo một 'đường xoắn ốc' hay
'vòng xoắn ốc'. Sau mỗi chu kỳ của sự phủ định, một cái mới lại ra đời, lặp lại cái cũ nhưng
với nền tảng cao hơn. Sự phát triển theo “đường xoắn ốc” là biểu hiện rõ nét và đầy đủ nhất
của quá trình biện chứng về sự phát triển của sự vật: kế tiếp, lặp lại và tiến bộ. Mỗi vòng của
"xoắn ốc" đại diện cho sự lặp lại, nhưng cao hơn, một giai đoạn phát triển cao hơn.

10
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ NHƯNG KHÔNG
HÒA TAN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY- NHÌN TỪ GÓC ĐỘ QUY LUẬT PHỦ ĐỊNH
CỦA PHỦ ĐỊNH
2.1.Khái quát thực trạng
Từ góc độ quy luật phủ định của phủ định, ta thấy trong những năm gần đây, có nhiều ý
kiến cho rằng “toàn cầu hóa” đang chậm lại trên khắp thế giới, trong đó có Việt Nam. Một
số thậm chí còn đề cập đến "phi toàn cầu hóa". Xu hướng quan điểm này có liên quan đến
xu hướng hoạt động bảo hộ ngày càng gia tăng ở nhiều nước trên thế giới, cuộc chiến
thương mại Mỹ - Trung, tranh chấp thương mại giữa các trung tâm kinh tế lớn của thế giới,
việc Mỹ dọa rút lui, có nước rút khỏi các hoạt động quốc tế. các tổ chức trong.
Về bản chất, “toàn cầu hóa” là quá trình định hình “toàn cầu”, “khu vực” (chỉ liên quan
đến các khu vực địa chính trị, chính trị cụ thể của thế giới). Xã hội loài người ngày nay, với
nền kinh tế toàn cầu, chính trị thế giới và nền văn minh nhân loại, cho thấy sự tiến bộ rộng
rãi của toàn cầu hóa. Đồng thời khẳng định “toàn cầu hóa” thực sự là một xu thế khách quan
và không thể đảo ngược. Tuy rõ ràng cả ba hệ thống lớn nói trên đều có nhiều hạn chế, thiếu
sót hoặc sai sót, nhưng rõ ràng nhu cầu phát triển nội tại, bản thân của xã hội loài người mới
là gốc rễ của sự điều tiết. Điều đáng chú ý là quá trình toàn cầu hóa không diễn ra theo tuyến
tính mà liên quan đến những bước nhảy vọt đi kèm với các cuộc cách mạng về năng lực sản
xuất của xã hội loài người. Trong tương lai không xa, khi cuộc Cách mạng công nghiệp lần
thứ tư (CMCN 4.0) nổ ra, chúng ta có thể chắc chắn rằng một bước nhảy vọt mới trong quá
trình toàn cầu hóa, toàn cầu hóa sẽ diễn ra.
Quá trình hội nhập quốc tế của một quốc gia (quốc gia) có thể hiểu là sự tham gia vào hệ
thống thế giới, trở thành một bộ phận của toàn thế giới, trước hết là của “nền kinh tế quốc
dân”. "Kinh tế thế giới". "Chính trị thế giới" và "Văn minh nhân loại". Tham gia ở đây là nói
đến các hoạt động tương tác (hợp tác, cạnh tranh, đấu tranh...). Tất cả các hoạt động này
nhằm mục đích phát triển đất nước; khẳng định bản sắc dân tộc; giành được vị trí xứng đáng
của đất nước trong hệ thống; tham gia cải tiến và phát triển hệ thống... Đó là một hoạt động
với Ở Việt Nam hiện nay, nơi mà “hội nhập quốc tế” được coi là một hình thức phức tạp của
“hợp tác quốc tế”, chúng ta cần phải thoát khỏi sự đơn giản và tầm thường. Vấn đề là “hợp

11
tác quốc tế” và “hội nhập quốc tế” chúng khác nhau ở điểm nào? các lớp khái niệm. Hợp tác
quốc tế chỉ là một trong nhiều hình thức tương tác giữa các quốc gia. Bên cạnh hợp tác quốc
tế còn có cạnh tranh, đấu tranh, liên minh, đoàn kết, đối đầu, chiến tranh... Điểm cơ bản là
khác với “hội nhập quốc tế”, từ “hợp tác” không có nghĩa là “hợp tác quốc tế”. , đó là cấu
hình của toàn bộ hệ thống thế giới.
Các đường lối, chủ trương hội nhập kinh tế của Đảng đã được đề ra nhất quán, không
ngừng được hoàn thiện và triển khai tích cực, phù hợp với tình hình cụ thể của từng giai
đoạn, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp Đổi mới, phát triển đất nước. Với phương châm “đa
dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại. Việt Nam sẵn sàng là bạn của tất cả các nước
trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”. Việt Nam luôn thực
hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; chính
sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế, đồng thời mở
rộng hợp tác trên nhiều lĩnh vực. Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng
đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực. Trong đó:
Về quan hệ hợp tác song phương. Với đường lối đổi mới, nước ta đã mở rộng và củng
cố quan hệ đối ngoại, vượt qua những khó khăn về thị trường do những biến động Liên xô
cũ và Đông Âu gây ra, tạo dựng môi trường quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng và
bảo vệ tổ quốc, nâng cao vị thế đất nước trên trường quốc tế. Tính đến nay, Việt Nam đã
thiết lập quan hệ ngoại giao với khoảng 180 quốc gia trên thế giới, mở rộng quan hệ thương
mại, xuất khẩu hàng hóa tới trên 230 thị trường của các nước và vùng lãnh thổ, ký kết gần
100 Hiệp định thương mại song phương, trên 60 Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư,
khoảng 70 Hiệp định tránh đánh thuế hai lần và nhiều Hiệp định hợp tác về văn hóa song
phương với các nước và các tổ chức quốc tế.
Về hợp tác đa phương và khu vực. Việt Nam đã có mối quan hệ tích cực với nhiều tổ
chức định chế tài chính quốc tế, cụ thể: ngày 15/9/1976, Việt Nam trở thành thành viên
chính thức của của Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), ngày 21/9/1976 Việt Nam trở thành thành
viên chính thức của Ngân hàng thế giới (WB), ngày 23/9/1976 Việt Nam gia nhập vào Ngân
hàng phát triển châu Á (ADB). Tháng 7/1995 Việt Nam đã gia nhập vào Hiệp hội các quốc
gia Đông Nam Á (ASEAN) và chính thức tham gia khu vực Thương mại tự do ASEAN
(AFTA) từ 1/1/1996. Đây là sự kiện đánh dấu bước đột phá của Việt Nam trong tiến trình
12
hội nhập kinh tế quốc tế. Tiếp đó, năm 1996 Việt Nam tham gia sáng lập Diễn đàn hợp tác Á
– Âu (ASEM) và đến năm 1998, Việt Nam được công nhận là thành viên của Diễn đàn hợp
tác kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương (APEC). Đặc biệt, ngày 11/1/2007 Việt Nam trở
thành thành viên của tổ chức thương mại thế giới (WTO). Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế
của Việt Nam được nâng lên một tầm cao hơn thông qua việc tham gia ký kết các hiệp định
kinh tế đa phương và song phương. Thực hiện chủ trương, chính sách lớn của Đảng về hội
nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam đã trở thành thành viên của nhiều Hiệp định thương mại và
cũng đang tham gia đàm phán một số hiệp định thương mại quan trọng khác. Cụ thể: Tính
hết năm 2016, Việt Nam đã ký kết và thực thi 10 FTA, kết thúc đàm phán 2 FTA, và đang
đang đàm phán 4 FTA khác. Trong 10 FTA đã ký kết và thực thi có 6 FTA ký kết với tư
cách là thành viên ASEAN (gồm AFTA, 5 FTA giữa ASEAN với các đối tác Trung Quốc,
Hàn Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản, Úc và New Zealand), 4 FTA ký kết với tư cách là một bên độc
lập (Chile, Nhật Bản, Hàn Quốc, Liên minh kinh tế Á-Âu). Hai FTA đã kết thúc đàm phán là
FTA với Liên minh châu Âu, và Hiệp định Đối tác chiến lược xuyên Thái Bình Dương
(TPP). Bốn FTA còn lại đang được đàm phán bao gồm: Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện
khu vực (RCEP), FTA ASEAN- Hồng Kông, FTA với Israel và FTA với Khối thương mại
tự do châu Âu (EFTA).
Từ quan điểm, chủ trương của Đảng, quá trình mở cửa, tích cực và chủ động hội nhập
kinh tế quốc tế đã mở ra không gian phát triển mới cho nền kinh tế Việt Nam. Thể hiện trên
những mặt chính sau:
Thứ nhất, tác động tới phát triển kinh tế. Hội nhập kinh tế quốc tế về cơ bản đã tác động
tích cực và dài hạn , góp phần thực hiện thành công các mục tiêu phát triển kinh tế của đất
nước trong thời gian qua: HNKTQT đã thúc đẩy tăng trưởng giá trị thương mại hai chiều
giữa Việt Nam với các đối tác, tạo điều kiện thuận lợi để thu hút vốn FDI, ODA cho phát
triển kinh tế đất nước. Trong đó:
Đối với hoạt động xuất, nhập khẩu: Kim ngạch xuất khẩu không ngừng được tăng lên,
đóng góp một phần quan trọng vào sự tăng trưởng GDP. Nếu năm 1986, tổng kim ngạch
xuất khẩu mới đạt 789 triệu USD, thì năm 2006 xuất khẩu đã đạt trên 39 tỷ USD và kể từ
sau khi gia nhập WTO, kim ngạch xuất khẩu không ngừng tăng lên, đạt trên 170 triệu USD
năm 2016. Không chỉ xuất khẩu, kim ngạch nhập khẩu cũng tăng lên tương ứng cho thấy
13
mức độ mở cửa của nền kinh tế là tương đối lớn với tỷ lệ tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đã
lên đến trên 150% GDP.
Về cơ cấu, mặt hàng xuất khẩu ngày càng phong phú, đa dạng, có nhiều nhóm hàng
“chủ lực” đạt kim ngạch lớn. Nhiều mặt hàng xuất khẩu có khối lượng lớn, kim ngạch đứng
thứ hạng cao trên thế giới. Nếu như năm 1986 chúng ta chưa có mặt hàng nào xuất khẩu trên
200 triệu USD thì hiện này đã có nhiều mặt hàng vượt kim ngạch 1 tỷ USD, 5 tỷ USD. Cơ
cấu mặt hàng đã có sự chuyển dịch theo hướng tích cực: tỷ trọng hàng thô hoặc mới sơ chế
giảm.
Đối với hoạt động thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI): Vốn FDI đã trở thành
một trong những động lực chính cho phát triển kinh tế của Việt Nam, đặc biệt kể từ sau khi
Việt nam gia nhập WTO. Nếu như những năm đầu của thời kỳ mở cửa, vốn FDI vào Việt
Nam không đáng kể thì kể từ sau năm 2007, lượng vốn FDI không ngừng tăng lên. Số vốn
đăng ký và cấp mới có năm (2007) còn lên đến trên 70 tỷ USD. Nếu xét về vốn thực hiện, xu
hướng tăng lên cũng xuất hiện rõ rệt kể từ năm 2007. Vốn FDI thực hiện đạt 15,8 tỷ USD,
tương đương 23,4% tổng vốn đầu tư toàn xã hội và tăng 9,4% so với cùng kỳ năm 2015.
2.2.Những thành tựu và hạn chế
- Thành tựu:
Thứ nhất, phá thế bao vây cấm vận. Tạo lập, giữ vững môi trường hòa bình, thuận lợi để
phát triển đất nước. Việt Nam đã bình thường hóa quan hệ với tất cả các nước lớn và hầu hết
các nước trên thế giới. Tham gia nhiều tổ chức quốc tế và khu vực quan trọng. Trở thành
thành viên chính của ASEAN. Vì vậy, vị thế của nước ta trong chính sách khu vực của các
đối tác cũng ngày càng được đánh giá cao.
Thứ hai, củng cố và tăng cường quan hệ với các nước láng giềng. Chúng ta sẽ đấu tranh
kiên quyết, ngoan cường để bảo vệ chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. Quan hệ
đoàn kết hữu nghị đặc biệt Việt Nam - Lào sẽ ngày càng được củng cố, mở rộng và đi vào
chiều sâu với những bước phát triển tốt đẹp, nhất là trong hợp tác kinh tế, thương mại và đầu
tư. Quan hệ Việt Nam - Campuchia ngày càng được củng cố và phát triển về mọi mặt. Hai
bên thống nhất phương châm phát triển quan hệ ngoại giao trong thời kỳ mới. Quan hệ với
Trung Quốc đã phát triển qua nhiều giai đoạn kể từ khi bình thường hóa quan hệ ngoại giao.

14
Hợp tác kinh tế - thương mại phát triển nhanh chóng. Hai bên đã hoàn thành việc khoanh và
cắm mốc trên thực địa trên toàn tuyến vành đai. Phê chuẩn Hiệp định phân giới cắm mốc và
Hiệp định hợp tác nghề cá ở Vịnh Bắc Bộ. Thỏa thuận thiết lập quan hệ “Đối tác hợp tác
chiến lược toàn diện” trên tinh thần 16 chữ 4 tốt. Với nhiều diễn biến phức tạp và đôi khi
căng thẳng liên quan đến tình hình Baltic, chúng tôi sẽ, dưới ngọn cờ hòa bình và công lý,
bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của mình một cách kiên trì và kiên
quyết, đã có thể giải quyết thỏa đáng các vấn đề mà gặp phải. Nói lời tạm biệt với hành động
hòa bình theo luật pháp quốc tế.
Thứ ba, bình thường hóa, xây dựng và làm sâu sắc hơn nữa quan hệ ổn định, lâu dài với
các nước, nhất là với các nước lớn. Kể từ khi bình thường hóa quan hệ năm 1995, Việt Nam
đã đạt được những bước tiến quan trọng trong quan hệ với Hoa Kỳ. Đặc biệt, quan hệ kinh tế
đang phát triển nhanh chóng. Quan hệ an ninh, quân sự dần được thiết lập. Hợp tác trên các
lĩnh vực khoa học và công nghệ, giáo dục, y tế, lao động và văn hóa không ngừng được mở
rộng. Đồng thời, Việt Nam cũng ưu tiên phát triển quan hệ với các nước, các trung tâm kinh
tế - chính trị lớn trên thế giới trong khuôn khổ phù hợp.
- Hạn chế:
Chưa tạo được môi trường thuận lợi cho sự phát triển đất nước một cách thực sự bền
vững. Quan hệ với các đối tác, nhất là các đối tác chủ chốt chưa ổn định, còn nhiều trở ngại
cho sự phát triển quan hệ giữa nước ta với các nước đối tác chủ chốt. Trong một số trường
hợp, hiệu quả của các hoạt động đối ngoại có thể không đáp ứng được kỳ vọng.
Thực hiện kết quả, thỏa thuận chưa kịp thời. Sự liên kết giữa các cấp, các ngành còn
chưa thông suốt, thiếu đồng bộ. Các chính sách, chiến lược hội nhập kinh tế quốc tế của
Đảng và Nhà nước chưa được các cấp, các ngành quán triệt đầy đủ, chậm được cụ thể hóa và
thể chế hóa. Đơn vị chưa ý thức chủ động nắm bắt cơ hội khi có thách thức mới nảy sinh để
chủ động ứng phó.
Hội nhập kinh tế quốc tế chưa gắn chặt với yêu cầu nâng cao hiệu quả, phát triển bền
vững, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa
dân tộc. Nó được triển khai không đồng bộ với quá trình tăng cường kết nối giữa các vùng,
miền trong cả nước.

15
2.3.Những vấn đề đặt ra
Thứ nhất, chúng ta phải nhận thức đúng “toàn cầu hóa” và “hội nhập quốc tế”, hội nhập
không hòa tan, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, lấy sức mạnh đó làm nền
tảng cho các chính sách, đề án, chiến lược phát triển đất nước. Đặc biệt, chúng ta cần thấy rõ
những diễn biến mới của toàn cầu hóa trong những năm tới khi Cách mạng công nghiệp 4.0
bùng nổ. Từ đó tính toán các chính sách, chiến lược trong quá trình tích cực và chủ động hội
nhập quốc tế.
Thứ hai, Việt Nam hiện nay đã tham gia vào mọi mặt của đời sống chính trị - xã hội
quốc tế. Điều này có nghĩa là Việt Nam đã hội nhập sâu rộng với thế giới nhưng vẫn hội
nhập tương đối sâu với vị trí và vai trò của mình trong các lĩnh vực cụ thể. Quá trình hội
nhập quốc tế chủ động và tích cực của Việt Nam đã đưa Việt Nam trở thành một bộ phận
không thể tách rời của toàn thế giới. Đến đây phải nói rằng, việc có được vị trí, vai trò ngày
càng quan trọng trong kinh tế, chính trị thế giới và văn minh nhân loại là nội dung chủ yếu
của quá trình tích cực, chủ động hội nhập của Việt Nam.
Về kinh tế, chúng ta phải phấn đấu để có vị trí trong chuỗi sản xuất và cung ứng toàn
cầu. Ưu tiên thúc đẩy phát triển nhanh nền kinh tế số và cách mạng công nghiệp 4.0. Thời
kỳ hậu COVID-19 mở ra những cơ hội không thể bỏ qua cho Việt Nam. Để đạt được mục
tiêu đó, cần ưu tiên phát triển các mạng lưới “liên kết cứng” và “liên kết mềm” kết nối Việt
Nam với phần còn lại của thế giới.
Về chính trị, Việt Nam sẽ tiếp tục củng cố vị thế của mình trong quan hệ với các nước
ASEAN chủ chốt, nhất là các nước Ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc.
Tích cực tham gia các nỗ lực giải quyết các vấn đề quốc tế và khu vực. Thể hiện vai trò
“đóng góp cho hòa bình thế giới, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội của Việt Nam
với tư cách là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế”.
Cơ chế chỉ đạo, tổ chức thực hiện, giám sát, điều phối quá trình liên kết giữa các sở,
ngành từ Trung ương đến địa phương còn nhiều bất cập. Hội nhập quốc tế về quốc phòng, an
ninh, văn hóa, xã hội và nhiều lĩnh vực khác chưa đi vào chiều sâu và hội nhập, tác động tích
cực đến quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Xu hướng tìm kiếm sự hỗ trợ quốc tế vẫn phổ
biến.

16
Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế càng nhanh, càng rộng thì áp lực cạnh tranh đối với
sản xuất trong nước càng lớn trong khi đó năng lực sản xuất trong nước chậm cải thiện, đặc
biệt là ở các ngành công nghiệp hỗ trợ nên nhập siêu đã liên tục tăng lên (chủ yếu nhập các
nguyên vật liệu đầu vào cho sản xuất). Trong khi đó, sự chuẩn bị trong nước về cơ bản là
chưa đầy đủ, chưa có sự nỗ lực chung của cả cộng đồng để tận dụng cơ hội từ hội nhập. Do
đó, cơ cấu kinh tế còn chậm chuyển dịch theo hướng hợp lý và hiệu quả. Tình trạng phát
triển dàn trải, không có trọng tâm của nền kinh tế trong điều kiện các nguồn lực hạn chế
đang kìm hãm khả năng tăng trưởng vượt bậc và bền vững. Năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp vẫn ở mức thấp, khu vực tư nhân mặc dù đã phát triển song quy mô còn nhỏ và còn
nhiều hạn chế về năng lực tài chính. Ngoài ra, các vấn đề về đất đai, lao động, vốn và công
nghệ còn chưa phát triển đồng bộ … tất các những vấn đề này đều tác động và ảnh hưởng
lớn đến sự phát triển bền vững của Việt Nam trong tương lai.
Năng lực kiểm soát và điều tiết các dòng vốn còn yếu khiến cho hiệu quả của FDI cũng
như ODA chưa cao. Hội nhập KTQT đã mang lại cho Việt nam cơ hội thu hút các dòng vốn
nước ngoài cho phát triển kinh tế đất nước. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy bên cạnh những
tác động tích cực, chất lượng kiểm soát và điều tiết, quản lý các dòng vốn này chưa cao nên
những vấn đề từ thu hút FDI (ô nhiễm môi trường, chuyển giá, thất thu thuế, tác động lan tỏa
từ khu vực kinh tế nhà nước sang các khu vực khác kém…), hiệu quả sử dụng ODA, ổn định
kinh tế vĩ mô… đều là thách thức không nhỏ đối với Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh
tế quốc tế.
Các hoạt động hội nhập kinh tế quốc tế và mở rộng quan hệ trong các lĩnh vực khác
chưa được triển khai đồng bộ, nhịp nhàng trong một chiến lược tổng thế. Cơ chế chỉ đạo,
điều hành, phối hợp thực hiện và giám sát quá trình hội nhập từ Trung ương đến địa phương,
giữa các ban, ngành còn nhiều bất cập. Chất lượng nguồn nhân lực và kết cấu hạ tầng chậm
được cải thiện. Năng lực đội ngũ cán bộ, công chức, doanh nhân chưa đáp ứng được yêu cầu
hội nhập.
Khả năng nhận định, đánh giá và dự báo trước tình hình diễn biến trên thực tế để chủ
động xử lý những vấn đề phát sinh trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế còn hạn chế.

17
CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP NÂNG CAO HỘI NHẬP QUỐC TẾ VIỆT NAM HIỆN NAY
Một là, luôn có thế giới quan khách quan, biện chứng, khoa học. Do thực tiễn thế giới
luôn vận động và biến đổi không ngừng nên tư duy nhận thức phải linh hoạt trước sự thay
đổi, thậm chí phải dự kiến được sự thay đổi này để có chiến lược, sách lược và bước đi phù
hợp với mình.
Thứ hai, quá trình hội nhập quốc tế trong tất cả các ngành phải bắt đầu từ nhu cầu trong
nước, thể hiện ở mức độ sẵn sàng và thiện chí tham gia hội nhập của các chủ thể trong từng
ngành. Tham gia hội nhập và cùng làm mà không bị động.
Thứ ba, chúng ta cần có sự đồng thuận về quan điểm và nhận thức khi hoạch định chính
sách, mục tiêu tổng hợp và hành động. Cách thức xây dựng và hội nhập cơ sở khoa học,
pháp lý và thực tiễn hội nhập quốc tế trên từng lĩnh vực để đảm bảo tầm nhìn chiến lược dài
hạn về mục tiêu trong từng lĩnh vực hội nhập quốc tế.
Thứ tư, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, thông tin tuyên truyền nhằm nâng cao nhận
thức của công chúng về hội nhập quốc tế của Việt Nam nói chung, nỗ lực hội nhập trên các
lĩnh vực và các vấn đề hội nhập nói riêng. Công tác tuyên truyền phải linh hoạt, chủ động,
phù hợp trên nhiều kênh thông tin khác nhau, đồng bộ và đúng đối tượng. Tuyên truyền hiệu
quả đòi hỏi phải tiếp cận các nhóm đối tượng khác nhau (cơ quan chính phủ, doanh nghiệp,
cá nhân, v.v.) bằng nhiều cách khác nhau.
Thứ năm, tiến trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng đòi hỏi cam kết tham gia hội
nhập ở mức độ cao hơn, cả về phạm vi và mức độ hội nhập. Vì vậy, chủ động xây dựng,
điều chỉnh và hoàn thiện khuôn khổ pháp luật trong nước đáp ứng nhu cầu phát triển trong
nước đồng thời hỗ trợ và tận dụng tối đa các cơ hội và điều kiện quốc tế mà quá trình hội
nhập quốc tế tạo ra là cần thiết
Thứ sáu, huy động và tăng cường lực lượng vật chất bằng cách huy động và phát huy
lực lượng tinh thần. Kết hợp sức mạnh tự thân, sức mạnh bên trong, sức mạnh dân tộc, sự
thỏa thuận và hội nhập của bạn bè quốc tế, sức mạnh thời đại để hội nhập thực chất và hiệu
quả. Đặc biệt, cần mở rộng nguồn nhân lực tham gia hội nhập một cách chuyên nghiệp, hợp
pháp, ngôn ngữ và văn hóa.
Bảy là, nắm bắt, sử dụng khôn khéo thời cơ, giành thắng lợi trên mọi mặt của hội nhập.
18
Quá trình hội nhập cần tiến triển đều đặn ở tất cả các cấp, từ nhỏ đến lớn, để làm sâu sắc hơn
các mối quan hệ và cải thiện các khuôn khổ hợp tác trong dài hạn. Trên thực tế, quá trình hội
nhập của Việt Nam đã bao gồm gia nhập ASEAN (1995), ASEM (1996), APEC (1998),
WTO (2002), hội nhập kinh tế quốc tế... Chúng ta đang mở rộng hội nhập vào khu vực. giáo
dục xã hội, an ninh, quốc phòng, khoa học và công nghệ.
Thứ tám, hành động khôn ngoan, linh hoạt giữa hai mặt hợp tác và đấu tranh hội nhập
quốc tế theo triết lý ngoại giao “dĩ tắc, ứng vạn biến” của Hồ Chí Minh. Mạnh mẽ về cơ bản
và linh hoạt về chiến lược, mọi chính sách và hoạt động hội nhập phải tuân thủ các nguyên
tắc độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ lâu dài, kiên định và đặt lợi ích quốc gia lên
hàng đầu. Đồng thời, cần linh hoạt, mềm dẻo trong đàm phán, giải quyết những bất đồng,
những vấn đề chưa tìm được tiếng nói chung.
Thứ chín, hội nhập theo hướng đa phương hóa, đa dạng hóa nhưng phải hết sức chọn
lọc. Nói cách khác, chúng ta cần tận dụng mọi lĩnh vực có lợi cho nước và cho dân. Tuy
nhiên, cần lựa chọn lĩnh vực, mặt hàng, sản phẩm đáp ứng nhu cầu của thị trường thế giới và
lợi thế so sánh của Việt Nam để hội nhập, hợp tác mang lại lợi ích lớn nhất cho đất nước.
Thứ mười, hội nhập quốc tế phải đi đôi với xây dựng xã hội văn minh, nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa, luôn bảo đảm sự lãnh đạo tập trung, thống nhất của Đảng. Quá trình
hội nhập đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ giữa các hình thức và phương pháp hội nhập để tạo
thành một mặt trận bao trùm, hợp tác và bao trùm, giúp duy trì môi trường hòa bình, thúc
đẩy các mục tiêu công nghiệp, hiện đại hóa và bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống
nhất, lãnh thổ của nước ta. bệ hạ.

19
CHƯƠNG 4. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
4.1.Kết luận
Từ góc độ quy luật phủ định của phủ định, có thể thấy thực trạng vấn đề hội nhập quốc
tế nhưng không hòa tan ở Việt Nam hiện nay đi kèm với nhiều cơ hội: thách thức, thuận lợi,
khó khăn, thành tựu và hạn chế. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, cách mạng Việt Nam đã từng
bước vượt qua nhiều thách thức, khó khăn, nắm bắt và khai thác nhiều thời cơ, thuận lợi,
vượt qua khủng hoảng, tiến tới hội nhập khu vực và quốc tế đa dạng, toàn diện và từng bước
phát triển. Việc thực hiện nhất quán đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước trong quá
trình đối ngoại và hội nhập quốc tế hơn 30 năm qua đã mang lại cho Việt Nam nhiều thành
tựu to lớn trên các lĩnh vực, nâng cao hình ảnh và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Tuy nhiên, quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam sẽ còn gặp nhiều thách thức, khó khăn
trong thời gian tới trước những thay đổi nhanh chóng của thế giới và yêu cầu phát triển bền
vững của đất nước. Để hội nhập quốc tế của Việt Nam ngày càng thực chất và hiệu quả,
chúng ta phải phát huy kiến thức tiếp thu được, giải quyết tốt các vấn đề, thực hiện triệt để
hệ thống giải pháp hội nhập quốc tế cả về nhận thức và thực tiễn.
4.2.Kiến nghị
Trước hết, tình hình trong nước, khu vực và thế giới đang có nhiều thay đổi, diễn biến
phức tạp, khó lường. Bên cạnh những thời cơ, thuận lợi, nước ta tiếp tục phải đối mặt với
nhiều khó khăn, thách thức. Vấn đề này càng thôi thúc Việt Nam tăng cường tham gia tích
cực, chủ động, có trách nhiệm và sâu rộng hơn vào quá trình hình thành và đổi mới các tổ
chức, cơ chế, cơ cấu khu vực và quốc tế đại diện cho lợi ích và vị thế của Việt Nam, đồng
thời duy trì các điều kiện thuận lợi cho cuộc đấu tranh bảo vệ lợi ích quốc gia của mình. lợi
ích của tổ chức, cá nhân trong nước. Bảo đảm độc lập, tự chủ, hội nhập để xây dựng, phát
triển và bảo vệ Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định.
Thứ hai, quá trình hội nhập quốc tế và đổi mới trong nước, nhất là đổi mới, hoàn thiện
thể chế, nhất là hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách cần được thực hiện đồng bộ, chặt chẽ
với quá trình nâng cao sức cạnh tranh của quốc phòng, an ninh và bảo vệ Tổ quốc. phát huy
hiệu quả công tác giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, môi trường sinh thái, bản

20
sắc văn hóa dân tộc.
Thứ ba, hội nhập quốc tế phải trên cơ sở tận dụng và phát huy tối đa nội lực. Phối hợp
chặt chẽ, thúc đẩy mạnh mẽ quá trình hoàn thiện thể chế, pháp luật phù hợp với thông lệ
quốc tế, bảo đảm lợi ích quốc gia. Phát triển toàn diện và nâng cao chất lượng nhân tài. Đẩy
nhanh hiện đại hóa cơ sở hạ tầng. Nâng cao sức mạnh tổng hợp và sự phối hợp chặt chẽ,
hiệu quả trong nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia và hội nhập, tăng cường liên kết vùng,
liên kết vùng và cả nước.
Thứ tư, hội nhập kinh tế là cốt lõi của hội nhập quốc tế. Hội nhập với các khu vực khác
nên thúc đẩy hội nhập kinh tế và đóng góp tích cực vào phát triển kinh tế. Hội nhập kinh tế
quốc tế không thể tách rời với củng cố quốc phòng, bảo đảm an ninh quốc gia, phát huy bản
sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái. Hội nhập trên mọi lĩnh vực cần được tiến
hành đồng bộ trong một chiến lược hội nhập quốc tế tổng thể, theo lộ trình, trình tự, phù hợp
với tình hình thực tế và khả năng của đất nước.
Để khắc phục những hạn chế, vượt qua những thách thức, thực hiện thành công mục tiêu
“thực hiện tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội, nhằm tăng
cường khả năng tự chủ của nền kinh tế, mở rộng thị trường, tranh thủ thêm vốn, công nghệ,
tri thức, kinh nghiệm quản lý, bảo đảm phát triển nhanh và bền vững, nâng cao đời sống
nhân dân; bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc; giữ vững độc lập, chủ quyền, thống
nhất và toàn vẹn lãnh thổ; nâng cao uy tín và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế”6, cần
tập trung vào các nhóm giải pháp cơ bản sau:
- Tăng cường cải cách trong nước nhằm nâng cao năng lực sản xuất và xuất khẩu của
doanh nghiệp trong nước, năng lực cạnh tranh quốc gia.
- Nâng cao năng lực kiểm soát và điều tiết các dòng vốn nhằm đảm bảo an toàn kinh tế
vĩ mô và nâng cao hiệu quả sử dụng của các dòng vốn. Xây dựng hệ thống thu thập và xử lý
thông tin về sự luân chuyển của dòng vốn nước ngoài kịp thời, chính xác để đáp ứng yêu cầu
công tác phân tích, dự báo và hoạch định chính sách. Để có thể điều tiết tốt sự di chuyển của
dòng vốn nước ngoài cũng như hạn chế tác động của dòng vốn đến các yếu tố kinh tế vĩ mô
lạm phát, tỷ giá… hay để đánh giá được mức độ ảnh hưởng hệ thống thu thập dữ liệu phải
được cập nhật thường xuyên.

21
- Xây dựng khuôn khổ phối hợp chính sách vĩ mô và các chính sách thận trọng vĩ mô,
chính sách quản lý vốn nhằm điều tiết và giảm thiểu sự biến động của các dòng vốn: Vai trò
của chính sách kinh tế vĩ mô đối với việc điều tiết dòng vốn, giảm áp lực lên lạm phát là cần
thiết song vẫn chưa đủ nếu không gian chính sách bị giới hạn. Do các chính sách thận trọng
vĩ mô chủ yếu tập trung vào giám sát và đánh giá các rủi ro có thể xảy ra đối với (nhóm)
định chế được giám sát, có tính đến tác động lan truyền rủi ro trong tương lai của đối tượng
được giám sát tới các đối tượng khác trong hệ thống tài chính và trong nền kinh tế. Vì vậy,
phối hợp chính sách giám sát thận trọng vĩ mô với các chính sách điều hành kinh tế vĩ mô
khác (chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ,…) sẽ hỗ trợ quản lý tốt rủi ro hệ thống từ đó có
những đối sách phù hợp để giảm thiểu khả năng xảy ra khủng hoảng.

- Nâng cao nhận thức, năng lực lãnh đạo và chỉ đạo tổ chức thức hiện. Quán triệt nhận
thức về chủ trương, đường lối của Đảng về quá trình hội nhập kinh tế quốc tế tại các cấp, các
ngành và các địa phương. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và thống nhất chỉ đạo triển khai
thực hiện có hiệu quả các mục tiêu, nhiệm vụ đã đề ra. Ngoài ra, các cấp, các ngành và các
địa phương còn chủ động bám sát các chủ trương, đường lối, các quan điểm chỉ đạo của
Đảng và nhà nước về hội nhập kinh tế quốc tế trong quá trình thực hiện.
- Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách nhằm nâng cao hiệu quả
hội nhập kinh tế quốc tế. Nhằm đáp ứng tốt các yêu cầu của các đối tác quốc tế cũng như
nâng cao hiệu quả trong HNKTQT, Việt Nam cần tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống
pháp luật, chính sách để thực hiện các hiệp định, thỏa thuận kinh tế - thương mại, qua đó
góp phần thúc đẩy, gia tăng thị phần xuất khẩu, thu hút đầu tư nước ngoài, khai thác tốt nhất
tiềm năng lợi thế so sánh và lợi thế quốc gia trong quan hệ kinh tế quốc tế. Ngoài ra, còn
giúp tận dụng tối đa những cơ hội và hạn chế những thách thức trong HNKTQT.
- Các doanh nghiệp cần chủ động, tích cực tìm hiểu thông tin các cam kết về hội nhập,
tập trung tìm hiểu và nắm chắc những thông tin về lộ trình cắt giảm thuế liên quan đến các
mặt hàng kinh doanh của mình để có chiến lược điều chỉnh sản xuất, kinh doanh và cạnh
tranh phù hợp nhằm tận dụng tối đa các cơ hội.
- Nhà nước cần đẩy mạng công tác tuyên truyền cho các doanh nghiệp về các cam kết

22
của Việt Nam cũng như các cam kết của các đối tác để giúp các doanh nghiệp tận dụng được
các cơ hội và vượt qua được các thử thách; thêm nữa nhà nước cần có chiến lược rà soát quy
hoạch phát triển ngành, vùng phù hợp với tiến trình hội nhập cũng như cần có nhiều hoạt
động tham vấn cộng đồng doanh nghiệp để hòan thiện khuôn khổ pháp luật nhằm cạnh tranh
theo hướng minh bạch, ổn định. Ngoài ra, nhà nước cần đẩy mạnh cải cách các thủ tục hành
chính, từng bước hoàn thiện môi trường kinh doanh để thu hút đầu tư nước ngoài

23
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG,
H.2011.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận và thực tiễn qua 30
năm đổi mới (1986 – 2016), Nxb CTQG, H.2015.
3. Phạm Bình Minh, Ngoại giao Việt Nam quá trình triển khai đường lối đối ngoại Đại hội
toàn quốc lần thứ XI của Đảng, Nxb CTQG, H.2015.
4. Bùi Thanh Sơn (chủ biên), Hội nhập quốc tế và những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam,
Nxb CTQG, H.2015.
5. Nguyễn Xuân Thắng (chủ biên), Độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế của Việt Nam trong
bối cảnh mới, Nxb KHXH, H.2011.
6. Nghị quyết số 22-NQ/TW ngày 10/4/2013 của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế.
7. Nghị quyết số 06-NQ/TW (2016), Về thực hiện có hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế
quốc tế, giữ vững ổn định chính trị xã hội trong bối cảnh nước ta tham gia các hiệp định
thương mại tự do thế hệ mới.

24
PHỤ LỤC

Một số hình ảnh về vấn đề hội nhập kinh tế không hòa tan ở nước ta

25
PHIẾU ĐÁNH GIÁ THÀNH VIÊN CỦA NHÓM 8

TÊN RẤT TÍCH CỰC TÍCH CỰC BÌNH THƯỜNG ÍT THAM GIA KHÔNG
THAM GIA

1.Nguyễn Hương Ly X

2.Nông Thúy Vân X

3.Vi Thị Kiều Trinh X


4. Nguyễn Bảo Trang X
5. Lương Xuân X
Trường

6.Nguyễn Thanh Nga X


7. Nguyễn Thị Thêu X
8. Hà Hồng Nhung X
9. Vũ Huyền Trang X
10. Vũ Thu Trang X
11. Vũ Đỗ Minh Trang X
12. Vũ Thị Thủy X
13. Nguyễn Hà Vi X
14. Đàm Thị Khánh X
Vy

15. Vi Thị Thảo Vân X


16. Khoàng Tư Xá X

You might also like