You are on page 1of 73

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

KHOA KINH TẾ - LUẬT

ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC

2010
VẤN ĐỀ LÀM VIỆC NHÓM CỦA SINH VIÊN KHOA
KINH TẾ - LUẬT

Giáo viên hướng dẫn Nhóm sinh viên thực hiện:


PGS.TS PHẠM ĐÌNH NGHIỆM 1. Lê Ngọc Hạnh K084040500
2. Đoàn Quốc Huy K084050936
3. Phan Nữ Quỳnh Mơ K084040533
4. Lã Văn Thọ K084040573

Lê Ngọc Hạnh
TP. Hồ Chí Minh – 12 /2009
NHÓM KT28
1/13/2010
Lời cảm ơn

Trong những năm qua, công cuộc cải cách nền giáo dục nước nhà và việc đổi mới
phương pháp dạy và học diễn ra mạnh mẽ. Điều đó đã mang lại cho nền giáo dục nước
nhà một bộ mặt mới và thể hiện chủ đường lối đúng đắn của nhà nước ta. Tuy nhiên, vẫn
còn tồn tại nhiều vấn đề cần phải xem xét xung quanh phương pháp dạy và học của sinh
viên Việt Nam.
Với mong muốn tìm hiểu thực tế những gì còn tồn tại trong vấn đề làm việc nhóm
của sinh viên, hy vọng đóng góp một phần nhỏ bé của mình để làm sáng tỏ vấn đề tưởng
chừng như rất quen thuộc này chúng em đã quyết định lưa chọn đề tài “ Vấn đề làm việc
nhóm của sinh viên Khoa Kinh Tế-Luật ĐHQG.TP HỒ CHÍ MINH. Sau một thời gian
nghiên cứu tìm hiểu, tới hôm nay đề tài đã được hoàn thành. Điều đầu tiên, chúng tôi xin
gửi lời cảm ơn chân thành tới các thầy cô đang giảng dạy tại Khoa Kinh Tế- ĐHQG.TP
HỒ CHÍ MINH. Đặc biệt là những thầy đã trực tiếp hướng dẫn giúp đỡ tận tình để đề tài
được hoàn thành: PGS.TS ….., ThS ……. Cũng xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới các anh chị,
các bạn sinh viên tai Khoa đã nhiệt tình giúp đỡ chúng tôi trong quá trình khảo sát, đồng
thời cũng đã thẳng thắn đóng góp những ý kiến hết sức cần thiết và quý báu để giúp chúng
tôi sớm hoàn tất đề tài.
Tât cả những nội dung mà chúng tôi trình bày trong đề tài này có thể còn chưa đầy
đủ, thậm chí là có đôi chỗ chưa thật chính xác về một vấn đề đầy tính phức tạp. Bởi vậy
một lần nữa rất mong có được sự đóng góp ý kiến nhận xét của thầy,cô và các bạn để đề
tài hoàn thiện hơn.

Xin chân thành cảm ơn!

1
Tóm tắt đề tài
Đề tài “Vấn đề làm việc nhóm của sinh viên Khoa kinh tế Luật -ĐHQG
TPHCM” được phôi thai, nhen nhóm không phải từ một ý tưởng ngẫu nhiên mà được
đưa ra từ chính những băn khoăn trăn trở. Những vấn đề mà chính nhóm của chúng tôi
gặp phải trong quá trình làm việc từ khi vào ĐH và cùng với bao suy nghĩ, bao trăn trở
mong muốn một hình ảnh mới đẹp hơn tươi sáng hơn cho bức tranh giáo dục đại học, làm
sao để sinh viên không chỉ giỏi cả về chuyên môn, đồng thời lại phải thành thạo những kỹ
năng mềm để đáp ứng kịp nhu cầu xã hội. Kỹ năng làm việc nhóm là một trong những kỹ
năng rất cần thiết mà sinh viên không thể thiếu trong học tập cũng như cho việc làm về
sau, chúng tôi nhìn nhận vấn đề một cách nghiêm túc bởi nó liên quan trực tiếp tới quyền
lợi của những sinh viên và xem thực trạng làm việc nhóm của sinh viên Khoa kinh tế-
Luật làm điểm khởi đầu cho quyết định thực hiện đề tài vấn đề làm việc nhóm của sinh
viên Khoa kinh tế Luật- ĐHQG TPHCM.

Làm việc nhóm đã và đang phát triển nhanh chóng ở hầu hết các nền giáo dục các
nước trên thế giới và ở nhiều cấp bậc khác nhau. Hiệu quả cao trong công việc, lợi ích mà
nó mang lại cũng như sự du nhập của phương pháp này vào Việt Nam đã được kiểm
chứng bằng lịch sử hình thành nên phương pháp này. Như vậy nếu chúng ta khắc phục
những vấn đề còn tồn tại và nâng cao được hiêu quả làm việc nhóm, thì sinh viên sẽ
không chỉ có được kiên thức mà còn rất nhiều điều khác mà làm việc nhóm mang lại.

Tuy nhiên, đề tài của chúng tôi không chỉ dừng lại ở việc chỉ ra những bất cập này
cũng như nêu ra những yếu tố ảnh hưởng tới vấn đề làm việc nhóm. Trọng tâm của đề tài
chính là đề ra nhưng giải pháp hợp lý cho vấn đề làm việc nhóm hiện nay tại Khoa. Từ
đó, chúng tôi mạnh dạn đề ra một mô hình hết sức khả thi vừa giúp sinh viên tiệp cận
thực tế tại doanh nghiệp lại vừa nâng cao khả năng làm việc nhóm.

Với tất cả những vấn đề được đặt ra và giải quyết trong đề tài, chúng tôi mong muốn
góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy của Khoa Kinh Tế trước các yêu cầu của doanh
nghiệp về những kỹ năng giải quyết vấn đề của sinh viên, bên cạnh đó chúng tôi cũng mong
muốn biến quá trình dạy học thành quá trình tự học, lấy sinh viên làm trung tâm. Đề tài của
chúng tôi một lần nữa nêu lên những mong muốn của sinh viên đó là cùng sự cố gắng của
sinh viên đồng thời là sự giúp đỡ về vật chất cũng như là sự chỉ dẫn của các thầy cô trong
quá trình giảng dạy sẽ nâng cao được hiẹu quả làm việc nhóm từ đó nâng cao chất lượng
giáo dục, đó cũng là mục tiêu mà toàn xã hội mong muốn.

2
MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU…………………………………………………………………………
6

PHẦN NỘI DUNG…………………………………………………………………… 11


Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Lịch sử quá trình hình thành phương pháp làm việc theo nhóm.....................12
1.2. Khái quát về làm việc nhóm................................................................................13
1.3. Quá trình phát triển nhóm làm việc...................................................................15
1.4. Tiêu chuẩn đánh giá nhóm làm việc hiệu quả....................................................18
1.5. Các yếu tố tác động tới hiệu quả của nhóm làm việc.........................................19
Chương 2. VẤN ĐỀ LÀM VIỆC NHÓM CỦA SINH VIÊN KHOA KINH TẾ-
LUẬT VÀ CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG
2.1. Thực trạng về vấn đề làm việc nhóm của sinh viên...........................................22
2.2. Hiệu quả làm việc nhóm và các yếu tố tác động đến nó....................................35
2.2.1. Yếu tố chủ quan...............................................................................................35
2.2.2. Yếu tố khách quan...........................................................................................43
2.3. Kết luận................................................................................................................. 51
Chương 3. GIẢI PHÁP, KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ LÀM VIỆC
NHÓM CỦA SINH VIÊN KHOA KINH TẾ LUẬT- ĐHQG.TP HỒ CHÍ MINH
3.1. Đề xuất giải pháp dành cho nhà trường.............................................................52
3.1.1. Sơ lược qua về môn Kỹ năng làm việc nhóm..................................................52
3.1.2. Giải pháp cho môn học Kỹ năng làm việc nhóm.............................................52
3.1.3. Mô hình giảng dạy và rèn luyện môn học Kỹ năng làm việc nhóm.................54
3.2. Đề xuất giải pháp dành cho giảng viên...............................................................59
3.3. Giải pháp dành cho sinh viên..............................................................................62
KẾT LUẬN.

Mục lục các hình và bảng


Mục lục các hình
3
Hình 1.1 Các giai đoạn phát triển của nhóm.
Hình 1.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả nhóm.
Hình 2.1. Mức độ ưa thích làm việc nhóm của sinh viên Khoa Kinh Tế-Luật
Hình 2.2.Mức độ thường xuyên làm việc nhóm trong học tập của sv Khoa Kinh Tế-Luật .
Hình 2.3. Mức độ thường xuyên nêu ý kiến khi làm việc nhóm
Hình 2.4. Mục tiêu hướng tới khi làm việc nhóm
Hình 2.5. Đánh giá về cách thức hoạt động nhóm của sinh viên Khoa Kinh Tế
Hình 2.6. Đánh giá về việc họp rút kinh nghiệm khi hoàn thành công việc
Hình 2.7. Đánh giá về thái độ làm việc của nhóm
Hình 2.8. Mức độ thường xuyên xảy ra mâu thuẫn của nhóm
Hình 2.9. Đánh giá chung về mức độ hiệu quả làm việc nhóm
Hình 2.10. Đánh giá về chất lượng công việc và lượng kiến thức thu được khi làm nhóm
Hình 2.11. Đánh giá về mức độ đóng góp của các thành viên trong nhóm
Hình 2.12. Thái độ yêu thích ở các vị trí trong nhóm
Hình 2.13. Biểu đồ kết hợp 2 yêu tố “hiệu quả làm việc nhóm” và “điểm số”
Hình 2.14. Mức độ hài lòng về nhóm trưởng của sinh viên Khoa Kinh Tế-Luật
Hình 2.15. Biểu đồ kết hợp giữa 2 yếu tố “quy mô nhóm” và “hiệu quả làm việc của
nhóm”
Hình 2.16 Biểu đồ thể hiện mức độ đoàn kết trong nội bộ nhóm.
Hình 2.17 Biểu đồ thể hiện mối quan hệ giữa 2 yếu tố mức độ đoàn kết và hiệu quả làm
việc nhóm

Mục lục các bảng.

Bảng 1.1. 10 tiêu chí đánh giá sự “chín muồi” của nhóm làm việc

4
Bảng 1.2. Những tác động của quy mô lên nhóm làm việc.
Bảng 2.1 Tần suất kết hợp yếu tố ngành học và mức độ thường xuyên làm việc nhóm
Bảng 2.2. Tần suất kết hợp 2 yếu tố giữa mức độ đóng góp và thái độ yêu thích ở các vị
trí.

Bảng 2.3. Kiểm định chi bình phương 2 yếu tố giữa mức độ đóng góp và thái độ yêu
thích ở các vị trí
Bảng 2.4. Tần suất 2 yếu tố giữa mức độ đóng góp và mức độ thường xuyên nêu ý kiến
Bảng 2.5. Tần suất 2 yếu tố giữa mức độ đóng góp và mức độ thường xuyên bảo vệ ý
kiến
Bảng 2.6. Kiểm định chi bình phương “mức độ nêu ý kiến” và “mức độ đóng góp”
Bảng 2.7. Kiểm định chi bình phương “mức độ bảo vệ ý kiến” và “mức độ đóng góp”
Bảng 2.8. Kiểm định chi bình phương 2 yếu tố giữa hiệu quả làm việc nhóm và điểm số
Bảng 2.9. Tần suất 2 yếu tố giữa cách thức làm việc nhóm và hiệu quả làm việc nhóm
Bảng 2.10. Kiểm định chi bình phương “cách thức hoạt động” và “hiệu quả hoạt động”
Bảng 2.11. Tần suất giữa 2 yếu tố “mức độ hài lòng về nhóm trưởng” và “cách thức làm
việc của nhóm”
Bảng 2.12. Tần suất giữa 2 yếu tố “mức độ hài lòng về nhóm trưởng” và “hiệu quả làm
việc của nhóm”
Bảng 2.13 Kiểm định chi bình phương 2 yếu tố giữa mức độ đoàn kết và hiệu quả làm
việc nhóm

5
PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Qúa trình hội nhập quốc tế của Việt Nam hiện nay đang đứng trước muôn vàn thời cơ
và thách thức, điều này đề ra nhu cầu cấp thiết cho nền giáo dục Việt Nam trong việc
nâng cao chất lượng đào tạo và bồi dưỡng nhân tài. Song song với việc nâng cao chất

6
lượng trong việc đào tạo thì sinh viên cũng là đối tượng cần phải năng động và sáng tạo
để tiếp thu những kiến thức , phương pháp học tập mới mẻ . Ở bậc đại học thì phương
pháp làm việc theo nhóm được biết đến như là một phương pháp học tập khá phổ biến.
Ngày nay, kỹ năng làm việc nhóm gần như không thể tách rời với sinh viên, đặc biệt là
sinh viên khối ngành kinh tế, nó có thể coi như là hành trang mang theo khi sinh viên ra
trường. Nó đã trở thành một trong những tố chất quan trọng đối với những ứng viên
muốn thành công. Các doanh nghiệp tuyển nhân viên luôn yêu cầu ứng viên có khả năng
làm việc theo nhóm. Đây cũng là lý do mà rất nhiều các công ty hiện nay, đặc biệt là các
công ty nước ngoài yêu cầu ứng viên phải có khả năng làm việc theo nhóm.
Khoa kinh tế - ĐHQG TPHCM với khoảng 7000 sinh viên thuộc khối ngành kinh
tế cũng đã đưa mô hình làm việc theo nhóm vào trong quá trình học tập. Tuy nhiên đa
phần các sinh viên từ bậc trung học phổ thông lên bậc ĐH đều không thích ứng kịp với
cách học và làm việc nhóm, bên cạnh đó một số khác, tuy đã tham gia làm việc nhóm
nhưng không tìm thấy được sự thích thú trong công việc cũng như không tạo ra được
hiệu quả trong công việc của nhóm. Có một kỹ làm việc nhóm tốt là hết sức cần thiết với
sinh viên Khoa kinh tế, vì vậy việc nghiên cứu tìm hiểu về tình hình làm việc theo nhóm
của sinh viên Khoa Kinh Tế là không thể chậm trễ.
Những lý do trên là động lực thôi thúc chúng tôi đăng ký thực hiện đề tài NCKH :
“ VẤN ĐỀ LÀM VIỆC NHÓM CỦA SINH VIÊN KHOA KINH TẾ -LUẬT ĐHQG
TPHCM”

2. Mục đích của đề tài


Đề tài được nghiên cứu với mục đích sau đây:
- Khuyến khích sinh viên khoa kinh tế luật ĐHQG TPHCM làm việc và học tập theo
nhóm.
- Nâng cao kỹ năng làm việc nhóm của sinh viên khoa kinh tế luật ĐHQG TPHCM
bằng cách tìm ra phương pháp học tập và hoạt động theo nhóm phù hợp trong môi
trường ĐH nhằm giúp sinh viên phát huy được năng lực của mỗi cá nhân. Từ đó làm
nền tảng để sinh viên có thể hòa nhập tốt trong môi trường làm việc nhóm trong
doanh nghiệp.

7
3. Nhiệm vụ của đề tài
- Khảo sát tình hình làm việc nhóm của sinh viên Khoa Kinh Tế-Luật và hiệu quả
đem lại.
- Tìm ra các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả làm việc nhóm.
- Đề xuất các giải pháp thực tế và kiến nghị để nâng cao kỹ năng làm việc nhóm cho
sinh viên.

4. Phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong đề tài.


- Logic hình thức (Formal Logic)
- Tổng hợp và phân tích
- Điều tra khảo sát

5. Cấu trúc của đề tài

Với cách xác định mục tiêu và nhiệm vụ đề tài phải giải quyết ở mục 2 và 3, đề tài có
kết cấu gồm các phần: Phần mở đầu, chương 1, chương 2, chương 3, kiến nghị chung và
kết luận. Nội dung chính tập trung trong ba chương là:

Chương 1: Cơ sở lý luận về vấn đề làm việc nhóm.


Chương 2: Vấn đề làm việc nhóm của sinh viên Khoa kinh tế và các yếu tố tác động.
Chương 3: Giải pháp kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả làm việc nhóm của sinh viên
Khoa Kinh Tế Luật- ĐHQG.TP Hồ Chí Minh.

6. Tổng quan về đề tài

Vấn đề làm việc nhóm của sinh viên là một trong những vấn đề được quan tâm
hàng đầu trong môi trường đại học hiện nay. Do đó đã được đề cập rất nhiều trên sách
báo, tạp chí,…Bên cạnh đó, cũng đã có nhiều buổi hội thảo và đề tài nghiên cứu khoa học
nói về vấn đề này.

8
Đề tài : “Kỹ năng làm việc nhóm của sinh viên khoa tiếng Pháp , trường ĐH
Ngoại Ngữ - Đà Nẵng ” của một sinh viên Nguyễn Đăng Khoa. Bài viết này đã đưa ra
tình hình làm việc nhóm, chỉ ra nguyên nhân và một số yếu tố ảnh hưởng đến quá trình
làm việc nhóm không hiêu quả của sinh viên khoa tiếng Pháp thuộc trường đại học
Ngoại Ngữ - ĐH Đà Nẵng.
Đề tài: “ Kỹ năng làm việc nhóm của sinh viên trường Đại học Khoa học xã hội
và nhân văn theo mô hình đào tạo tín chỉ” của nhóm sinh viên Nguyễn Hồng Anh,
Nguyễn Cát Linh (giải nhì cuộc thi nghiên cứu khoa học cấp trường)
Đề tài: “ Đánh giá hiện trạng làm việc nhóm của sinh viên Trường Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn với hình thức đào tạo theo tín chỉ” của nhóm sinh viên
Lô Kim Chánh, Phùng Thị Minh Dương, Bùi Thị Hằng, Nguyễn Thị Thúy.
Bài viết của thạc sĩ Lê Tân Huỳnh Câm Giang, thuộc Viên nghiên cứu giáo dục,
bài viết với tiêu đề “ Những rào cản của đổi mới phương pháp dạy học ở Đại học”.
Bài viết chỉ ra những khó khăn trong việc thay đổi phương pháp dạy và học tại các
trường Đại học ở Việt Nam, trong đó ông cũng chỉ ra những vấn đề nảy sinh khi sinh
viên làm việc theo nhóm.
Bên cạnh đó còn có rất nhiều các cuộc thảo luận, hội thảo lớn các ý kiến xung
quanh vấn đề này. Ngày 20/8/2008 tại ĐHQG TP. Hồ Chí Minh Bộ Giáo dục và Đào tạo
đã tổ chức Hội thảo quốc gia về chủ đề “Sinh viên với đào tạo đáp ứng nhu cầu xã hội,
nhu cầu doanh nghiệp”. Hội thảo đã cùng thảo luận và đưa ra những vấn đề cần chú
trọng và đổi mới trong phương pháp học tập của sinh viên. Trong đó kỹ năng làm việc
theo nhóm của sinh viên cũng là một trong những vấn đề được nêu ra trong hội thảo .
Nhiều cuốn sách nói về kỹ năng làm việc nhóm như “17 nguyên tắc vàng trong
làm việc nhóm” của tác giả John C. Maxwell. Cuốn sách đã nêu lên những nguyên tắc
cần tuân thủ trong quá trình làm việc nhóm và giá trị của những nguyên tắc đó.
Trong bộ sách cẩm nang dành cho nhà quản lý của tác giả Michael Magiin có cuốn “
Thúc đẩy nhóm làm việc hiệu quả”. Nội dung cuốn sách đề câp tới những vấn đề nảy
sinh trong quá trình làm việc nhóm và đã đưa ra một số phương thức đẩy mạnh hiệu quả
làm việc.

9
Những đề tài nghiên cứu, những hội thảo khoa học hay những cuốn sách kể trên
cũng đã phần nào chỉ ra cái đã đạt được, cái cần phải đạt được và đưa ra những cách
thức để sử dụng kỹ năng trong qua trình làm việc nhóm. Tuy nhiên những sách báo, tạp
chí chỉ đơn thuần là lý thuyết về vấn đề làm việc nhóm, chưa thật thực tế và cụ thể cho
sinh viên.
Những buổi hội thảo mang tính thực tế hơn, giải đáp được những thắc mắc, khó
khăn của sinh viên trong quá trình làm việc nhóm, tuy nhiên các buổi hội thảo này không
được tổ chức thường xuyên, cũng như không có đủ thời gian để giải đáp hết thắc mắc cho
sinh viên.
Các đề tài nghiên cứu khoa học về vấn đề này chủ yếu lại tập trung vào các trường
khối ngành xã hội học, nên một số yếu tố và ảnh hưởng không phù hợp với sinh viên
ngành kinh tế.

Vì vậy vấn đề làm việc theo nhóm của sinh viên vẫn còn là vấn đề cần tiếp tục
nghiên cứu. Và trong giới hạn cho phép chúng tôi xin thực hiện đề tài này để tiếp tục làm
rõ vấn đề tại Khoa Kinh Tế - Luật ĐH Quốc Gia TP Hồ Chí Minh.

10
PHẦN NỘI DUNG

Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN

1.1. Lịch sử quá trình hình thành phương pháp làm việc theo nhóm.
Trước hết ta sơ qua vài nét về “Teambuilding”. Hình thức team building được hiểu
là tổng hợp của việc xây dựng nhóm và làm việc nhóm. Đây là một quá trình lâu dài mà
một tổ chức, tập thể thực hiện để gắn kết các thành viên lại với nhau, để các thành viên
phối hợp, đoàn kết tạo ra hiệu quả công việc cao hơn. “Teambuilding” xuất hiện trên thế

11
giới từ lâu, vào khoảng cuối những năm 20 và đầu những năm 30 của thế kỷ XX. Elton
Mayo (1880 – 1949), chính là người đầu tiên nghiên cứu những hoạt động này, ông đã
khai sáng ra “hoạt động tương quan giữa người và người” (Human Relations Movement),
với những chuỗi hoạt động thử thách trong những điều kiện nhất định, nhằm thử khả
năng làm việc của nhóm công nhân. Qua nhiều lần nghiên cứu và phân tích, người ta
đồng ý rằng yếu tố chủ yếu thành công là xây dựng tinh thần đồng nhất, tạo sự gắn kết và
hỗ trợ nhau trong tập thể.
Qua 2 thập niên sau đó, nhiều cuộc thử nghiệm và phân tích được áp dụng cho
nhiều nhóm công nhân, đã minh chứng rằng năng suất làm việc tăng nhanh khi các công
nhân được lập thành nhóm. Vào những năm 1950, tập đoàn Genaral Foods đã có một
cuộc thử nghiệm về khái niệm làm việc nhóm. Nhiều nghiên cứu sau đó liên tục được
đưa ra, nhấn mạnh tầm quan trọng của nhóm trong việc tăng năng suất làm việc.
Những thập niên sau đó, càng ngày càng có nhiều tập đoàn như Genaral Motors,
Saab, Volvo, Honeywell, Xerox, và Pratt & Whitney tổ chức những hoạt động, nhằm
chứng tỏ hiệu quả lớn lao của làm việc nhóm. Giờ đây, kỹ năng làm việc nhóm được coi
là tất yếu cho mỗi nhân viên thế kỉ XXI hay nói cách khác làm việc theo nhóm chính là
một đòi hỏi của thời đại. Khi khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển thì yêu cầu làm việc
theo nhóm là cần thiết hơn bao giờ hết. Từ nhiều thế kỷ qua, thanh niên Nhật khi đi xin
việc làm, ngoài cuộc phỏng vấn cá nhân còn phải qua những bài tập làm việc theo nhóm.
Tinh thần và kỹ năng hợp tác của người lao động quan trọng không thua gì các phẩm chất
khác như nắm vững chuyên môn,siêng năng cần cù , có tinh thần học hỏi. Con người là
một thực thể sống, không ai là hoàn hảo, làm việc theo nhóm sẽ tập trung những mặt
mạnh của từng người và bổ sung cho nhau. Cá nhân thường chỉ đảm nhiệm được một hai
việc cụ thể nhưng một nhóm lại có thể làm được nhiều việc cùng lúc với hiệu quả thường
cao hơn.
“Nhóm làm việc” ngày nay đã trở thành một đối tượng của khoa học và người ta
được đào tạo không phải chỉ để hiểu nó mà còn là tác động vào để biến nó thành một
công cụ giáo dục và phát triển cá nhân và xã hội.

1.2. Khái quát về làm việc nhóm.


12
1.2.1 Định nghĩa nhóm.
Nhóm là một tập hợp hai hay nhiều người cùng chia sẻ mục tiêu. Các thành viên
trong nhóm luôn tương tác với nhau, theo đó hành vi của mỗi thành viên bị chi phối bởi
hành vi của các thành viên khác.

Theo như hầu hết các nhà nghiên cứu có 2 loại nhóm:
Nhóm chính thức là nhóm được thành lập xuất phát từ nhu cầu của chính tổ chức,
trên cơ sở quyết định chính thức. Mục tiêu của nhóm chính thức phù hợp với mục tiêu
của tổ chức.
Nhóm không chính thức là nhóm được phát triển một cách tự nhiên nhằm đáp
ứng các nhu cầu xã hội. Hai loại nhóm không chính thức thường gặp là nhóm có cùng sự
quan tâm, lợi ích và nhóm bạn bè cùng sở thích, cùng lứa tuổi….Mục tiêu của nhóm
không chính thức không nhất thiết phải liên quan đến mục tiêu của tổ chức.
Nhóm làm việc (team) - một dạng đặc biệt của nhóm chính thức là một tập hợp
những người có các năng lực bổ trợ cho nhau (kiến thức, kỹ năng và khả năng), cùng cam
kết chịu trách nhiệm thực hiện các mục tiêu chung. Bản chất của nhóm làm việc là sự sẻ
chia, đóng góp của mỗi thành viên vào việc thực hiện công việc chung của nhóm để đạt
được mục tiêu đã đề ra. Vì vậy, mục đích của việc thành lập nhóm làm việc là để thực
hiện những mục tiêu mà một cá nhân đơn lẻ khó có thể đạt được.
Có nhiều hình thức nhóm làm việc khác nhau tuỳ theo những mục đích.Tuy nhiên,
trong bài nghiên cứu này, chúng tôi chỉ quan tâm đến làm việc nhóm trong học tập, cụ thể
là trong học tập ở bậc Đại học của sinh viên khoa kinh tế- luật, ĐH Quốc gia TP.HCM.
1.2.2 Lợi ích của làm việc nhóm.
Quá trình phát triển nhanh chóng của nền kinh tế cũng như công nghệ của thế giới
trong những thập niên trở lại đây đã phần nào cho thấy tầm quan trọng của quá trình
chuyên môn hóa, và sức mạnh của lao động tập thể. Chính vì thế làm việc theo nhóm là
một cách làm việc vô cùng hữu ích, nó góp phần năng cao hiệu quả học tập, hiệu quả
công việc mà khi đơn lẻ từng cá nhân khó có thể làm được. Những lợi ích cụ thể khi tham
gia lám việc nhóm.

13
- Mọi thành viên trong tổ chức sẽ càng đồng lòng hướng tới mục tiêu và dốc sức cho
thành công chung của tập thể khi họ cùng nhau xác định và vạch ra phương pháp đạt
được chúng.
- Là thành viên của một nhóm, họ có cảm giác kiểm soát được cuộc sống của mình tốt
hơn và không phải chịu đựng sự chuyên quyền của bất cứ người lãnh đạo nào.
- Khi các thành viên cùng góp sức giải quyết một vấn đề chung, họ học hỏi được cách
xử lý mọi nhiệm vụ đơn giản hay khó khăn; họ học hỏi từ những thành viên khác và cả
người lãnh đạo. Thúc đẩy quản lý theo nhóm là cách tốt nhất để phát huy năng lực của
các nhân viên (một hình thức đào tạo tại chức).
- Hoạt động theo nhóm mang lại cơ hội cho các thành viên thoả mãn những nhu cầu về
bản ngã, được đón nhận và thể hiện mọi tiềm năng.
- Quản lý theo nhóm giúp phá vỡ bức tường ngăn cách, tạo sự cởi mở và thân thiện
giữa các thành viên và người lãnh đạo.
- Thông qua việc quản lý theo nhóm, các thành viên có thể học hỏi và vận dụng phong
cách lãnh đạo từ cấp trên của mình. Điều đó tạo sự thống nhất về cách quản lý trong tổ
chức.
- Hoạt động theo nhóm giúp phát huy khả năng phối hợp những bộ óc sáng tạo để đưa
các quyết định đúng đắn.
Những lợi ích trên có thể chỉ là phần nào đó lợi ích mà làm việc nhóm mang lại.
Một cá nhân không thể mạnh nếu không đứng trong một tập thể mạnh và đoàn kết. Khi
mọi người học tập và làm việc như một nhóm, họ sẽ đem lại lợi ích nhiều hơn khi họ làm
việc một cách độc lập. Ai lại không thích sự thành công của mỗi cá nhân mình? Tuy
nhiên, nếu mọi thành công trong vai trò một nhóm thành công, họ sẽ thu được nhiều thứ
hơn. Họ sẽ cảm thấy sự gắn bó, tính cộng đồng với các thành viên trong nhóm - điều đó
khó có thể đạt được trong một thế giới cạnh tranh, phát triển nhanh và kỹ thuật cao. Sẽ có
sự hứng thú thực sự được nhân lên bởi số người trong một nhóm.

1.3. Quá trình phát triển nhóm làm việc.

Chín muồi có
hiệu quả
14
Sự chin muồi
Thất

của nhóm
Thất
Thất

Chưa chin muồi


không hiệu quả
Hình thành Hỗn loạn Định hình Hoạt động Kết thúc

Các giai đoạn


Hình 1.1 Các giai đoạn phát triển của nhóm.
(Nguồn: Theo Don Hellriegel và John W.Slocum. Organizational behavior. Thomsom –
South – Western, 2004, tr.203).
Quá trình làm việc, phát triển của một nhóm chia ra 5 giai đoạn.
1.3.1 Giai đoạn hình thành.
Hình thành là giai đoạn nhóm được tập hợp lại. Trong giai đoạn này, các thành viên
thường tập trung vào những điểm giống nhau, những điểm khác biệt và những ấn tượng
ban đầu để tìm ra những điểm tương đồng và khác biệt. Các thành viên hay băn khoăn
liệu mình có được nhóm chấp nhận hay không và thường cư xử cẩn thận để được chấp
nhận. Mục tiêu quan trọng của giai đoạn này là xây dựng định hướng hoạt động. Trong
giai đoạn này, hiệu quả hoạt động của nhóm làm việc thấp.
1.3.2 Giai đoạn hỗn loạn.
Sau giai đoạn hình thành, các thành viên trong nhóm làm việc đã bắt đầu hiểu rõ về
nhau hơn. Đây là lúc bắt đầu giai đoạn hỗn loạn. Đặc điểm của giai đoạn này là việc tranh
giành quyền lực và xung đột về mục tiêu, phong cách làm việc…Mỗi thành viên của
nhóm băn khoăn mình đã được tôn trọng hay chưa, làm nảy sinh cạnh tranh, tình trạng
căng thẳng và mất đoàn kết. Vai trò lãnh đạo của người trưởng nhóm cũng bị thử thách.
15
1.3.3 Giai đoạn định hình.
Trong giai đoạn định hình, nhóm đã vượt qua được sự xung đột và bắt đầu trở nên
hiệu quả hơn. Các thành viên trở nên cảm thông, quan tâm và tin tưởng nhau nên mức độ
gắn kết và cộng tác trong nhóm ngày càng tăng lên. Nhiệm vụ lớn nhất của cả nhóm
trong giai đoạn này là làm thế nào để củng cố các mối quan hệ, cởi mở trong giao tiếp và
đưa ra những phản hồi tích cực và mang tính xây dựng.

1.3.4 Giai đoạn hoạt động.


Giai đoạn hoạt động là thời gian nhóm bắt đầu hoạt động hiệu quả. Các thành viên
nhiệt tình , tập trung giải quyết công việc. Hai đường gạch đứt quãng trong hình 1.1 cho
thấy ở giai đoạn này nhóm có thể phát triển theo hai hướng.
Hướng thứ nhất: nhóm tiếp tục học hỏi và phát triển từ những kinh nghiệm đã thu nhận
được và trở nên có hiệu quả hơn.
Hướng thứ hai: những nhóm có quy tắc hoạt động không mang lại hiệu quả thì hoạt động
ở mức vừa đủ để tồn tại.
Một nhóm đạt đến được giai đoạn này, thường đạt được độ chín muồi cao theo mười tiêu
chí sau:
Nhóm chưa đạt đến độ Nhóm đạt đến độ
“chín muồi” “chín muồi”
1. Cơ chế phản hồi Kém Xuất sắc
2. Cách thức ra quyết định Không hiệu quả Hiệu quả
3. Sự kết hợp chặt chẽ của Yếu Mạnh
nhóm và sự trung thực của
các thành viên.
4. Quy trình. Cứng nhắc Mềm dẻo
5. Sử dụng các nguồn lực cá Không đủ
Rất đầy đủ
nhân
6. Truyền thông Lộn xộn Rõ ràng
7. Mục tiêu Được chấp Được chấp

16
nhận kém nhận tốt
8. Quan hệ cấp bậc Rất rõ ràng, tương Kém chính thức,
đối cứng nhắc mềm dẻo hơn
9. Tham gia vào quản lý Yếu Mạnh
10. Tôn trọng các ý kiến thiểu Yếu Mạnh
số.

Bảng 1.1. 10 tiêu chí đánh giá sự “chín muồi” của nhóm làm việc
(Nguồn: Schermerhorn Jr., J., Hunt, J., Osborn, R. et de Billy, C. 2006. Comportement
Humain et Organisation, Troisième Édition, Edition du Renouveau Pédagogique Inc., tr.
250)
1.3.5 Giai đoạn kết thúc.
Giai đoạn này liên quan tới việc kết thúc các vai trò, hoàn thành các mục tiêu và
giảm mức độ phụ thuộc. Các thành viên của nhóm cần được tập hợp nhanh, hoàn thành
các nhiệm vụ trong khoảng thời gian ngắn nhất, sau đó lại tan rã, để tập hợp thành các
nhóm mới theo nhu cầu.

1.4. Tiêu chuẩn đánh giá nhóm làm việc hiệu quả.
Trên thực tế, có rất nhiều cách đánh giá hiệu quả của nhóm làm việc. Tuy nhiên
chúng tôi chỉ nêu cách phổ biến nhất như sau:
1. Tự cam kết làm việc hiệu quả
- Mỗi thành viên là 1 chủ thể trong nhóm
- Chủ động hoàn thành nhiệm vụ cụ thể của mình trong nhóm
- Chủ động đưa ý kiến và ra quyết định
2. Thỏa thuận thông qua nhất trí
- Biểu quyết - Hạn chế ý kiến và cảm giác cá nhân
- Xung đột phải được giải quyết dựa trên sự nhất trí của toàn bộ thành viên
- Quá trình đi đến quyết định và chiến lược hành động không được thể hiện sở
thích, nhu cầu, mong muốn hay khả năng của 1 cá nhân

17
3. Xung đột và sáng tạo lành mạnh
- Xung đột là lành mạnh nếu nó tạo tiền đề cho sự sáng tạo và thành quả cao
- Sự không nhất quán dẫn đến việc đưa ra những ý kiến sáng tạo
- Xung đột phải được kiểm soát tránh dẫn đến tác động tiêu cực
4. Giao tiếp trong nhóm
- Giao tiếp ở mức độ cao liên kết 3 đặc điểm trên
- Kích thích tinh thần trách nhiệm và cách cư xử thích hợp của mỗi thành viên
- Mỗi thành viên hiểu rõ cách cư xử, ý kiến và hành động của nhau
- Chấp nhận cả nhận xét tích cực lẫn tiêu cực
- Sẵn sàng cộng tác dựa trên nỗ lực chung và chia sẻ thông tin
5. Chia sẻ quyền lực
- Tạo cảm giác là người gây ảnh hưởng, kích thích thành viên ra quyết định và
thực thi quyết định
- Chia sẻ quyền lực: kích thích phát triển năng lực cá nhân, kỹ năng và sở thích
- Chia sẻ tầm nhìn: nhìn thấy mục tiêu lớn và tìm ra những thách thức
- Chia sẻ trách nhiệm
- Chia sẻ mức độ đáp ứng: vạch ra những cơ hội phát triển mới

1.5. Các yếu tố tác động tới hiệu quả của nhóm làm việc.

Bối cảnh

Các mục tiêu

Quy mô
Sự
lãnh
đạo
Vai trò và sự
Hiệu đa dạng của
quả các thành
nhóm viên

18 Sự gắn kết
Chuẩn
mực
Hình 1.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả nhóm.
(Nguồn: Theo Don Hellriegel, John W.Slocum Jr. Organizational behavior,.
2004, Tenth Edition, South - Western).

Bối cảnh (môi trường làm việc)


Bối cảnh nói chung là môi trường làm việc của nhóm như: điều kiện làm việc, cách quản
lý điều hành, các hình thức, quy định về thưởng phạt…
Các mục tiêu của nhóm
Mục tiêu của nhóm là cái đích mà nhóm làm việc muốn đạt tới. Vì thế nó ảnh hưởng sâu
sắc đến hiệu quả làm việc của từng cá nhân, của nhóm.

Quy mô nhóm
Cấp độ Quy mô nhóm
2-7 8-12 13-16
1. Nhu cầu về người lãnh đạo Thấp Vừa phải Cao
2. Sự hướng dẫn của người lãnh đạo Thấp Vừa phải Vừa phải
đến cao
3. Thành viên chịu sự hướng dẫn Thấp đến Vừa phải Cao
của người lãnh đạo vừa phải
4. Sự kiềm chế thành viên Thấp Vừa phải Cao
19
5. Sử dụng nguyên tắc và thủ tục Thấp Vừa phải Vừa phải
đến cao
6. Thời gian để đạt được một quyết Thấp Vừa phải Cao
định.
Bảng 1.2. Những tác động của quy mô lên nhóm làm việc.
(Nguồn: Theo Don Hellriegel, John W.Slocum Jr. Organizational behavior,.
2004, Tenth Edition, South - Western).

Các thành viên trong nhóm ít hơn 7 người tương tác trực tiếp với nhau dễ dàng hơn trong
nhóm 13 – 16 người. Yêu cầu về người lãnh đạo trong từng quy mô nhóm cũng khác
nhau. Quy mô nhóm mở rộng sẽ gây khó khăn nhiều hơn cho việc thiết lập và duy trì sự
gắn bó, chia sẻ giữa các thành viên. Tuy nhiên, tuỳ thuộc vào nghệ thuật lãnh đạo nhóm,
ý thức của các thành viên nhóm, cách thức vận hành nhóm và nhiệm vụ của nhóm, nhóm
nhiều thành viên có thể mang lại hiệu quả cao hơn.
Vai trò và sự đa dạng của thành viên nhóm.
Những sự tương đồng và những điểm khác biệt giữa các thành viên và vai trò của họ tác
động nhiều đến hành vi của nhóm. Có thể chia thành 3 loại vai trò của các thành viên
trong nhóm: Vai trò liên quan đến nhiệm vụ, vai trò liên quan đến các mối quan hệ, vai
trò liên quan đến bản thân.
Các chuẩn mực.
Các chuẩn mực là các quy tắc và hình mẫu hành vi mà nhóm đã thống nhất. Các chuẩm
mực thường rất cứng nhắc và mang tính bắt buộc. Các chuẩn mực có thể đẩy mạnh hoặc
kìm hãm việc đạt được mục tiêu của nhóm.
Sự gắn kết.
Sự gắn kết là sức mạnh từ sự mong muốn của các thành viên để duy trì một nhóm và sự
gắn bó của họ đối với nhóm. Sự gắn kết này chịu tác động của mức độ tương thích giữa
mục tiêu cá nhân và mục tiêu nhóm.
Sự lãnh đạo.

20
Lãnh đạo nhóm có tầm ảnh hưởng gần như đến tất cả các khía cạnh của cơ cấu và hành vi
nhóm, như là quy mô, thành viên và vai trò của họ, chuẩn mực, mục tiêu và bối cảnh.
Tóm lại làm việc theo nhóm là cách thức học tập và làm việc rất hay và xoay quanh nó
cũng rất nhiều điều thú vị. Cách đánh giá hiệu quả của nó chịu tác động của nhiều yếu tố.
Trong quá trình làm việc thì cũng rất cần có một kiến thức cũng như kinh nghiệm mới có
thể có hiệu quả.

Chương 2. THỰC TRẠNG LÀM VIỆC NHÓM CỦA SINH VIÊN


KHOA KINH TẾ-LUẬT

Đề tài được thực hiện với mục đích là tìm ra cách thức, phương pháp làm việc
nhóm hiệu quả giúp cho sinh viên học tập tốt hơn, nhưng đồng thời lại phải phù hợp tình
hình thực tiễn của Khoa kinh tế. Tuy nhiên, việc đưa ra một giải pháp đúng đắn hoàn
toàn là không thể nếu chúng ta không có cái nhìn thật sự khách quan về tình hình làm
việc nhóm hiện nay của sinh viên tại khoa. Vì vậy, ngay trong chương thứ hai này, chúng
tôi là sẽ trình bày một cách đầy đủ và khách quan nhất tình hình thực tiễn ấy. Trong lúc
tiến hành nghiên cứu, với cỡ mẫu 200 sinh viên – 5 giảng viên, để có được kết luận đúng
đắn nhất về thực trạnglàm việc nhóm, chúng tôi đã tiến hành đánh giá vấn đề dựa trên
thông tin từ cả hai chiều sinh viên – giảng viên.

2.1. Thực trạng về vấn đề làm việc nhóm của sinh viên.

21
Khi nghiên cứu vấn đề làm việc nhóm của sinh viên thì sinh viên chính là trọng tâm,
cốt lõi và cùng với đó các vấn đề xoay quanh sau:

 Mức độ ưa thích làm việc nhóm của sinh viên


 Mức độ thường xuyên làm việc nhóm
 Thái độ làm việc của các thành viên khi làm việc nhóm
 Mục tiêu đề ra của nhóm
 Cách thức hoạt động nhóm
 Sự đoàn kết trong nội bộ nhóm
 Hiệu quả làm việc nhóm
 …

Đây cũng là những tiêu chí quan trọng để nhóm tiến hành đánh giá thực trạng làm việc
nhóm của sinh viên Khoa hiện nay.

Thứ nhất: về sự ưa thích, trong số sinh viên được tiến hành khảo sát thì có 50%
sinh viên thích làm việc nhóm, tuy nhiên số sinh viên tỏ ra bàng quan, hoặc không hứng
thú làm việc theo nhóm chiếm tỷ lệ khá lớn là 38%. Thậm chí có khoảng 2% sinh viên
hoàn toàn không thích làm việc nhóm và rất khó chịu khi làm việc nhóm. Đáng chú ý hơn
trong 2% đó thì 67% là sinh viên năm 2 và năm 3.

22
Hình 2.1. Mức độ ưa thích làm việc nhóm của sinh viên Khoa Kinh Tế-Luật

Những con số trên dù ít dù nhiều cũng đã cho ta thấy một vài nét sơ qua về suy nghĩ
cũng như thái độ của sinh viên Khoa với vấn đề làm việc nhóm. Như đã trình bày ở
những phần trên thì kỹ năng làm việc nhóm là hết sức cần thiết, nền giáo dục nước nhà
cũng như các nền giáo dục tiên tiến đang áp dụng nó vào trong giảng dạy cũng như trong
học tập và để đạt được kết quả mong muốn thì cần thiết phải tạo cho sinh viên sự hứng
thú, niềm đam mê. Tuy nhiên tại Khoa ta tỷ lệ sinh viên cảm thấy không hứng thú làm
việc nhóm chiếm gần tới 40%, tình trạng này là đáng lưu tâm bởi làm việc theo nhóm
sẽ khó có được kết quả cao khi mà những thành viên không hào hứng khi làm việc.

Thứ hai: về mức độ thường xuyên làm việc nhóm của sinh viên Khoa Kinh Tế.

Chúng ta dễ dàng thấy được mức độ thường xuyên làm việc nhóm trong từng môi trường.

23
Hình 2.2.Mức độ thường xuyên làm việc nhóm trong học tập của sv Khoa Kinh Tế-Luật .

Theo số liệu mà nhóm chúng tôi thu thập được thì có đến 63% sinh viên thường xuyên
làm việc nhóm trong môi trường học tập, trong khi đó chỉ có 8-13% sinh viên thường
xuyên làm việc nhóm ở môi trường hoạt động khác. Đây cũng là một thức trạng khá phổ
biến của sinh viên chúng ta.

Có sự khác biệt lớn như vậy là bởi lẽ: Trong nền giáo dục cải cách ngày càng hoàn thiện
hiện nay, việc học tập và giảng dạy trong môi trường đại học ngày càng gắn liền với việc
làm nhóm, làm tiểu luận, làm đề tài, bài tập nhóm… Đối với Khoa Kinh Tế_Luật ĐHQG
TPHCM, là một trong những trường ĐH thuộc khối ngành kinh tế, thì vấn đề làm việc
nhóm lại càng thường xuyên và cần thiết hơn rất nhiều, bởi lẽ đó cũng chính là 1 kỹ năng
quan trọng cần cho nghề nghiệp tương lai của sinh viên.

Theo thống kê thì có đến hơn 60% sinh viên Khoa Kinh Tế-Luật thường xuyên và liên
tục làm việc nhóm trong học tập, trong khi chỉ có chưa tới 10% sinh viên là ít và không
làm việc nhóm trong học tập.

Tại sao lại có sự khác biệt như vậy? Chúng tôi đã tiến hành phân tích sơ bộ và có bảng số
liệu sau:

24
hoc tap

ít khi vua phai thuong xuyen

Row % Row % Row %

khoi 1.00 3.1% 19.8% 77.1%

nganh 2.00 6.3% 46.9% 46.9%

hoc 3.00 13.5% 51.4% 35.1%

Bảng 2.1 Tần suất kết hợp yếu tố ngành học và mức độ thường xuyên làm việc nhóm

Nhóm ngành 1: Ngành kinh tế đối ngoại, tài chính ngân hàng, kế toán kiểm toán và quản
trị kinh doanh

Nhóm ngành 2: Kinh tế học, kinh tế quản lý công, hệ thống thông tin quản lý

Nhóm ngành 3: Nhóm ngành luật

Qua bảng số liệu trên, chúng ta dễ dàng thấy được sự phân hóa mức độ thường xuyên làm
việc nhóm giữa các ngành với nhau. Khối ngành 1 có mức độ làm việc nhóm thường
xuyên hơn hẳn nhóm 2 và nhóm 3. Có thể giải thích nguyên nhân gây ra sự phân hóa trên
như sau:

- Thứ nhất là do điểm đầu vào giữa các nhóm ngành với nhau, theo bảng thống kê
điểm đầu vào nhiều năm của Khoa Kinh Tế_Luật thì khối ngành 1 thường có điểm
đầu vào rất cao so với các ngành khác.
- Thứ hai là đặc điểm học tập của mỗi ngành có sự khác nhau, sinh viên khối ngành
1 đòi hỏi phải có kỹ năng mềm nhiều hơn, thường xuyên phải thực hiện các đề tài
và tiểu luận do các thầy cô đưa ra.

25
Nhưng nhìn chung thì đa số sinh viên Khoa Kinh Tế đều được đào tạo và trang bị những
kỹ năng làm việc nhóm trong suốt quá trình học tập tại Khoa để có thể đáp ứng đầy đủ
đòi hỏi của xã hội.

Thứ ba: về mức độ thảo luận trong nhóm (nêu ý kiến và bảo vệ ý kiến của sinh
viên), theo nghiên cứu của Trung tâm thực nghiệm về đào tạo quốc gia, đại học Maine-
Mỹ thì việc thảo luận nhóm giúp người học tiếp thu đến 50% nội dung bài học.

Khảo sát tại khoa cho thấy gần 30% sinh viên nêu ý kiến đóng góp ở mức trung bình, số
sinh viên thường xuyên nêu ý kiến đóng góp ý kiến chiếm 43,5% . Bên cạnh đó còn gần
10% sinh viên không bao giờ hoặc rất ít khi nêu ý kiến đóng góp. Về điểm này ý kiến của
sinh viên và giảng viên khá tương đồng với nhau. Các giảng viên được phỏng vấn cũng
chơi rằng số sinh viên ngại đóng góp ý kiến là không nhỏ.

Hình 2.3. Mức độ thường xuyên nêu ý kiến khi làm việc nhóm

Việc tham gia đóng góp ý kiến vào bài làm và đưa ra lý lẽ bảo vệ ý kiến của mình là rất
quan trọng, nó thể hiện vai trò của mỗi thành viên, dù tỷ lệ sinh viên không bao giờ hoặc
rất ít khi nêu ý kiến chiếm tỷ lệ không nhiều nhưng đó là một tồn tại lớn mà cần phải giải
quyết, đó là chưa kể tới đối với những sinh viên đã nêu ra ý kiến thì có tới 52% trong số

26
đó cho biết họ chỉ nêu ra mà không bao giờ bảo vệ nó hoặc ít khi, dù có cũng chỉ qua loa.
Những con số đã nói lên rằng nhìn chung sinh viên Khoa làm việc nhóm chưa thật sự
hiệu quả.

Thứ tư: về mục tiêu mà sinh viên hướng tới khi làm việc nhóm. Theo nghiên cứu
vừa qua của chúng tôi, thì cho thấy rằng có nhiều luồng suy nghĩ khác nhau. Có 37% sinh
viên trong số sinh viên được khảo sát đặt mục tiêu điểm số là hàng đầu, một số khác thì
lại cho biết đối với họ mục tiêu kiến thức là số một và tỷ lệ này cũng là 37%. Chiếm một
tỷ lệ không nhỏ 25% đó là những sinh viên làm việc nhóm với mục tiêu hướng tới là có
đươc kỹ năng tốt. Tầm quan trọng của việc đề ra mục tiêu khi thực hiện công việc là điều
không phải bàn cãi, nó chi phối cả quá trình làm việc. Thống kê đã cho thấy rằng sự định
hướng chung về mục tiêu là khác nhau, chưa có sự nhất quán.

Hình 2.4. Mục tiêu hướng tới khi làm việc nhóm

Thứ năm: là tiêu chí về nguyên tắc làm việc, hoạt động của nhóm. Đối với vấn đề
nguyên tắc hoạt động của nhóm, cụ thể là ở các khía cạnh:

- Nội quy làm việc


27
- Lập kế hoạch, thời gian biểu
- Triển khai kế hoạch
- Họp rút kinh nghiệm
- Thái độ làm việc của các thành viên trong nhóm

Sau khi tiến hành khảo sát sinh viên Khoa Kinh Tế-Luật thì nhóm chúng tôi có những
số liệu như sau:

Có tới 65% sinh viên đánh giá nội quy làm việc của nhóm mình dưới mức trung bình.
Thậm chí nhiều nhóm làm việc nhưng không hề có nội quy rõ ràng. 21% sinh viên cho
rằng nội quy của nhóm không tốt, không phát huy được hiệu quả khi làm nhóm.

Hơn một nửa số sinh viên cho rằng kế hoạch và thời gian biểu đưa ra chỉ đạt ở mức trung
bình thậm chí là rất không tốt.

Hình 2.5. Đánh giá về cách thức hoạt động nhóm của sinh viên Khoa Kinh Tế

Các con số nhận được qua khảo sát cũng cho thấy mức độ triển khai công việc trong quá
trình làm việc của sinh viên Khoa cũng chỉ ở vào mức thấp. 63% số giảng viên được
phỏng vấn cũng đưa ra lời nhận xét rằng các sinh viên mặc dù có thể có kiến thức nhưng
quá trình triển khai công việc khi làm việc nhóm tỏ ra khá chậm và thiếu kinh nghiệm.
28
Sau mỗi lần làm việc nhóm, khi mà công việc đã kết thúc thì việc nhóm họp lại và rút
kinh nghiệm, điều gì đã đạt được, điều gì còn tồn tại cũng là cái mà nhiều sinh viên được
khảo sát cho rằng nhóm mình làm chưa tốt. Tỷ lệ sinh viên cho biết nhóm mình làm cực
tốt việc này chỉ chiếm 5,5%, còn số sinh viên cho rằng nhóm mình họp rút kinh nghiệm
chỉ ở mức bình thường hay là chưa tốt thì chiếm thỉ lệ khá cao là 72%.

Đây là một thực trạng đáng báo động bởi trong bốn năm học đại học làm việc nhóm sẽ
diễn ra thường xuyên, kinh nghiệm là một trong những thứ quan trọng mà sinh viên có
được sau mỗi lần làm nhóm. Không họp rút kinh ngiệm sẽ gây khó khăn cho quá trình
làm việc nhóm.

Hình 2.6. Đánh giá về việc họp rút kinh nghiệm khi hoàn thành công việc

Và đang lưu ý hơn cả là thái độ làm việc của mỗi nhóm. Theo thống kê của nhóm thì
chỉ có 45% sinh viên cho rằng thái độ làm việc của nhóm mình là tốt (tích cực), 44% sinh
viên thấy thái độ làm việc của nhóm là bình thường, còn lại 11% cho rằng thái độ làm
việc của nhóm mình là không tốt (không tích cực). Đây là một con số đáng buồn cho thực

29
trạng làm việc nhóm của sinh viên Khoa Kinh Tế-Luật, bởi lẽ cần phải có thái độ làm
việc tích cực thì mới phát huy được năng lực của mỗi thành viên, thái độ làm việc không
tốt của một người sẽ kéo theo sự chán nản và mệt mỏi của các thành viên khác.

Hình 2.7. Đánh giá về thái độ làm việc của nhóm

Thứ sáu: Điều mà cũng không thể bỏ qua đó là những xung đột, mâu thuẫn xảy ra
trong quá trình làm việc nhóm

30
Hình 2.8. Mức độ thường xuyên xảy ra mâu thuẩn của nhóm

Qua đánh giá sơ bộ thì có 51% sinh viên cho biết nhóm của mình thỉnh thoảng xảy
ra mâu thuẫn, còn tỷ lệ sinh viên cho biết nhóm mình thường xuyên xảy ra mâu thuẫn là
7%. Mâu thuẫn dù lớn hay nhỏ luôn là vấn đề mà nhóm phải hết sức chú ý để có được sự
đoàn kết và giúp công việc thông suốt. việc

Thứ bảy và cũng là tiêu chí cuối cùng mà nhóm chúng tôi khảo sát qua, đó là mức
độ hiệu quả làm việc nhóm của sinh viên Khoa Kinh Tế-Luật.

Có thể nói hiệu quả làm việc nhóm là vấn đề được quan tâm nhất đối với hầu hết tất cả
những ai sẽ, đang và đã làm việc nhóm. Nó là kết tinh của quá trình liên kết, hợp tác giữa
các thành viên trong nhóm, và là biểu hiện duy nhất có thể phản ánh được một cách tổng
quan và chính xác nhất về năng lực làm việc, hoạt động của một nhóm. Hiện nay đã có
rất nhiều sách báo, các buổi hội thảo, các kênh thông tin đề cập và hướng dẫn cách làm
việc để có thể đạt được hiệu quả tối đa khi làm việc nhóm. Thế nhưng trên thực tế, ít có ai
lại có thể phát huy được tối đa hiệu quả của việc làm nhóm, đặc biệt là sinh viên, học sinh
– những người lần đầu tiếp cận với làm việc nhóm. Và theo một số chuyên gia và các tác
giả nổi tiếng (Don Hellriegel, John W.Slocum tác giả của “Organizational behavior”) thì
hiệu quả làm việc nhóm có thể đánh giá một cách tương đối qua các tiêu chí sau:

31
- Chất lượng công việc khi làm việc nhóm.
- Mức độ hiệu quả của cách thức hoạt động theo nhóm.
- Lượng kiến thức và kỹ năng của các thành viên sau khi làm việc nhóm.
- Sự đoàn kết và thấu hiểu nhau trong một nhóm.
- …

Và đây cũng là những tiêu chí để chúng tôi có thể đánh giá một cách khái quát hiệu quả
làm việc nhóm của Khoa Kinh Tế-Luật.

Sau khi khảo sát 200 sinh viên Khoa Kinh Tế-Luật và phỏng vấn một số giảng viên đang
công tác tại Khoa Kinh Tế-Luật thì nhóm chúng tôi có số liệu thống kê như sau:

Có đến hơn 50% sinh viên cho rằng hiệu quả làm việc nhóm của mình là cao, nhưng
trong đó chỉ có 8% cho rằng hiệu quả làm nhóm là rất cao. Số sinh viên có hiệu quả làm
việc nhóm bình thường chiếm đến 41% và 6% còn lại là số sinh viên cho rằng hiệu quả
làm nhóm của mình thấp. Kết hợp số liệu điều tra trên cùng với những nhận xét của các
giảng viên trong trường, đặc biệt là các giảng viên ở các bộ môn thường xuyên phải làm
việc nhóm thì chúng tôi cho rằng hiệu quả làm việc nhóm của sinh viên Khoa Kinh Tế là
ở mức trên trung bình, đa số các sinh viên đều đã biết cách làm việc nhóm. Thế nhưng
bên cạnh đó vẫn còn một lượng lớn sinh viên chưa thực sự nắm rõ cách thức làm việc
nhóm nên dẫn đến việc không thể nâng cao được hiệu quả làm việc nhóm của chính
mình.

32
Hình 2.9. Đánh giá chung về mức độ hiệu quả làm việc nhóm

Biểu đồ trên cũng phần nào phản ánh tình hình chung về hiệu quả của việc làm nhóm của
sinh viên Khoa Kinh Tế. Tuy nhiên nếu xét về hiệu quả của từng khía cạnh riêng thì
nhóm nhận thấy có sự khác nhau giữa các tiêu chí riêng đó.

Nhóm xin được xét ở 2 khía cạnh tiêu biểu nhất đó là:

- Chất lượng công việc được thể hiện qua kết quả của bài tiểu luận, đề tài hay các
công việc khác mà nhóm thực hiện.
- Lượng kiến thức mà nhóm nhận được.

33
Hình 2.10. Đánh giá về chất lượng công việc và lượng kiến thức thu được khi làm nhóm
Về chất lượng công việc thì có đến gần 60% cho rằng kết quả công việc nhóm
thực hiện là tốt và chỉ có 4.5% sinh viên cho rằng kết quả là không tốt. 37% còn lại thì
cho rằng kết quả công việc của nhóm là bình thường. Đây cũng là con số đáng khích lệ,
bởi nhìn chung thì kết quả công việc sinh viên Khoa đạt được là khá cao.
Tuy nhiên khi xét về khía cạnh lượng kiến thức mà sinh viên nhận được khi làm
việc nhóm với nhau thì có sự khác biệt rất lớn đối với chất lượng công việc đạt được.

Có đến 55% sinh viên cho rằng lượng kiến thức mà mình nhận lại sau khi làm việc nhóm
là ở mức trung bình trở xuống. Đáng chú ý hơn là trong đó có đến 10% cho rằng lượng
kiến thức thu về là ít và rất ít. Và chỉ có 45% cho rằng lượng kiến thức mình nhận được là
nhiều. Điều này cho thấy được phần nào trực trạng hoạt động và học tập theo nhóm của
sinh viên Khoa Kinh Tế_Luật, sinh viên Khoa quan tâm đến chất lượng công việc hoàn
thành hơn là lượng kiến thức mà mình nhận được do đó gây ảnh hưởng đến với thái độ và
cách thức làm việc nhóm của bản thân.

34
Tóm lại, về thực trạng hoạt động làm việc nhóm của sinh viên Khoa Kinh Tế hiện
nay, với góc độ nhìn tổng hợp từ hai phía sinh viên và giảng viên, thì có thể nói rằng hầu
hết các sinh viên trong Khoa đều biết cách làm việc nhóm và đạt hiệu quả ở mức trên
trung bình nhưng hiện tại vẫn và đang rất cần có những cải tiến trong phương pháp để có
thể tiến bộ hơn.

2.2. Hiệu quả làm việc nhóm và các yếu tố tác động đến nó.
Và để giúp các sinh viên hiểu rõ hơn tác động của các yếu tố lên hiệu quả làm việc
nhóm cũng như những ảnh hưởng của hiệu quả làm việc đến các yêu tố khác nhằm nâng
cao được hiệu quả làm việc nhóm của sinh viên Khoa Kinh Tế_Luật thì nhóm chúng tôi
đã tiến hành phân tích và kiểm định mối quan hệ của từng yếu tố tác động vào hiệu quả
làm việc nhóm.

2.2.1. Yếu tố chủ quan


Mỗi cá nhân với vai trò là nhân tố quan trọng cầu thành nên một nhóm, vừa chịu
ảnh hưởng của nhóm lại vừa tác động đến hiệu quả làm việc của nhóm, đây chính là sự
tương tác qua lại giữa cá nhân với tập thể, đóng góp của mỗi người tạo nên kết quả của
quá trình làm việc nhóm, và kết quả cuối cùng đó lại phản ánh năng lực cũng như phần
nào phản ánh được mức độ hiệu quả làm việc của nhóm đó. Vì vậy có thể coi đóng góp
của mỗi cá nhân là một trong những nguyên nhân quan trọng nhất tác động đến hiệu quả
làm việc nhóm.

Theo kết quả điều tra, phỏng vấn sâu các sinh viên và thầy cô trong Khoa, nhóm chúng
tôi nhận thấy đa số các thầy cô và sinh viên đều cho rằng mức độ đóng góp của mỗi thành
viên trong nhóm của sinh viên Khoa Kinh Tế_Luật không đồng đều và có sự chênh lệch
rất lớn, hình thành hiện tượng ỷ nại vào nhau… từ đó dẫn đến việc không tối ưu hóa được
hiệu quả khi làm việc nhóm.

35
Hình 2.11. Đánh giá về mức độ đóng góp của các thành viên trong nhóm

Theo khảo sát của chúng tôi, hơn 65% cho rằng đóng góp của mình đến thành quả của
nhóm là không nhiều, trong đó có gần 5% cho rằng đóng góp của mình là quá ít. Đây là
con số đáng lưu ý, và cần được cải thiện rất nhiều, bởi lẽ khi thành viên cảm thấy đóng
góp của mình không nhiều thì sẽ dẫn đến nhiều hệ quả không tốt như không có hứng thú
khi làm việc nhóm, tạo tâm lý tự ti, dễ nản…

Vì vậy nhóm chúng tôi đã tiến hành kiểm định để tìm ra yếu tố ảnh hưởng đến quá trình
tự nhận xét mức độ đóng góp của bản thân đối với thành quả của nhóm như sau:

Thứ nhất là do ảnh hưởng của sở thích và quan niệm bản thân của mỗi người. Mà
ở đây chính là quan niệm về sự yêu thích ở vị trí nào trong nhóm.

36
Hình 2.12. Thái độ yêu thích ở các vị trí trong nhóm
Khảo sát sơ qua về thái độ yêu thích ở vị trí nào trong nhóm của sinh viên Khoa thì nhóm
nhận thấy đa số các sinh viên thích làm thành viên tích cực (65.5%), chỉ có 18% sinh viên
thích được làm nhóm trưởng, và đang lưu ý là có đến 16.5% sinh viên chỉ muốn trở thành
thành viên bình thường. Chính sự phân hóa của thái độ yêu thích trên đã gây ra sự khác
nhau giữa các mức độ đóng góp của thành viên trong nhóm đến thành quả của nhóm.
Có thể nhận thấy điều này qua bảng số liệu sau:
muc do dong gop
It vua phai Nhieu
Row % Row % Row %
thich o vi tri nao nhom truong 5.6% 38.9% 55.6%
thanh vien tich cuc 6.1% 61.8% 32.1%
thanh vien binh thuong 18.2% 60.6% 21.2%
Bảng 2.2. Tần suất kết hợp 2 yếu tố giữa mức độ đóng góp và thái độ yêu thích ở các vị
trí.

Chi-Square Tests
Value Df AsympSig(2sided)

Pearson Chi-Square 14.325(a) 4 .006


37
Likelihood Ratio 13.083 4 .011

Linear-by-Linear Association 10.681 1 .001

N of Valid Cases 200

Bảng 2.3. Kiểm định chi bình phương 2 yếu tố giữa mức độ đóng góp và thái độ yêu
thích ở các vị trí

Kết quả kiểm định cho thấy biến “thích ở vị trí nào trong nhóm” và biến “ mức độ
đóng góp của thành viên đó” là có sự quan hệ, với p_value = 0.006 nhỏ hơn rất nhiều so
với giá trị kiểm định là p=0.05. Và theo thống kê thì những người thích làm nhóm trưởng
và thành viên tích cực thì có xu hướng đóng góp nhiều hơn so với những người chỉ muốn
làm thành viên bình thường.

Trong số những người thích làm nhóm trưởng thì có đến 55.6% có đóng góp nhiều
đến thành quả của nhóm, và chỉ có 5.6% là có đóng góp ít đến thành quả của nhóm.
Trong khi đó những người muốn làm thành viên bình thường thì chỉ có 21,2% trong số
đó có đóng góp nhiều đến thành quả của nhóm.

Thứ hai, mức độ đóng góp của mỗi thành viên còn có mối quan hệ với việc thành
viên đó có thường xuyên nêu ra ý kiến và bảo vệ ý kiến của mình hay không.

Vẫn tiếp tục sử dụng phương pháp thống kê tần suất 2 yếu tố, nhóm có số liệu sau:

muc do dong gop

It vua phai Nhieu

38
Row % Row % Row %

neu y kien it 33.3% 38.1% 28.6%

vua phai 10.2% 78.0% 11.9%

nhieu 2.5% 50.8% 46.7%

Bảng 2.4. Tần suất 2 yếu tố giữa mức độ đóng góp và mức độ thường xuyên nêu ý kiến

muc do dong gop

It vua phai Nhieu

Row % Row % Row %

bao ve y kien it 27.3% 48.5% 24.2%

vua phai 6.9% 69.4% 23.6%

nhieu 2.1% 51.6% 46.3%

Bảng 2.5. Tần suất 2 yếu tố giữa mức độ đóng góp và mức độ thường xuyên bảo vệ ý kiến

Theo chúng tôi thống kê được thì với những người ít nêu ý kiến và ít bảo vệ ý kiến
thì có đến khoảng 30% số đó là những người ít có đóng góp đến thành quả của nhóm.
Trong khi những người thường xuyên nêu ra ý kiến và bảo vệ ý kiến của mình thì chỉ có
gần khoảng 3% đóng góp ý và có đến gần 50% có đóng góp nhiều cho nhóm.

Chi-Square Tests (Nêu ý kiến)

Value Df AsympSig(2sided)

Pearson Chi-Square 42.457(a) 4 .000

39
Likelihood Ratio 38.897 4 .000

Linear-by-Linear
23.502 1 .000
Association

N of Valid Cases 200

Bảng 2.6. Kiểm định chi bình phương “mức độ nêu ý kiến” và “mức độ đóng góp”

Chi-Square Tests (Bảo vệ ý kiến)

Value Df Asymp.Sig(2sided)

Pearson Chi-Square 29.706(a) 4 .000

Likelihood Ratio 25.467 4 .000

Linear-by-Linear Association 18.201 1 .000

N of Valid Cases 200

Bảng 2.7. Kiểm định chi bình phương “mức độ bảo vệ ý kiến” và “mức độ đóng góp”

Với cả 2 trường hợp này, giá trị p_value dần về 0, cho thấy mức độ phụ thuộc giữa
2 biến trên là không nhỏ. Từ đó cho thấy sinh viên Khoa Kinh Tế_Luật cần có những
thay đổi mới trong hành động lẫn tư tưởng của bản thân đối với việc làm nhóm để có thể
làm tăng mức độ đóng góp của bản thân vào thành quả của nhóm được nhiều hơn.

Thứ ba: Như nhóm đã trình bày ở phần thực trạng làm việc nhóm của sinh viên
Khoa Kinh Tế cho thấy mức độ làm việc nhóm của sinh viên là rất thường xuyên và cần
thiết. Do vậy những ai đã biết cách làm việc nhóm, biết cách liên kết năng lực các thành
viên trong nhóm thì thường sẽ có ưu thế hơn hẳn so với những người khác mà thể hiện rõ
nét nhất là ở kết quả học tập và kết quả hoạt động nhóm của họ.
40
Chính vì vậy nhóm chúng tôi sẽ tiếp tục phân tích và kiểm định mối quan hệ giữa
hiệu quả làm việc nhóm và kết quả học tập của mỗi thành viên để xác định lại mức độ
chính xác của nhận định trên.

Sau khi thống kê, chúng ta có hơn 90% những thành viên có hiệu quả làm việc
nhóm thấp chỉ có điểm trung bình từ 6.0 đến 7.0 và không có thành viên nào có điểm
trung bình trên 8.0 . Trong khi gần 80% những thành viên có hiệu quả làm việc nhóm cao
có điểm trung bình từ 7.0 trở lên, trong đó có đến 30% đạt điểm trung bình trên 8.0

Hình 2.13. Biểu đồ kết hợp 2 yêu tố “hiệu quả làm việc nhóm” và “điểm số”

Qua phép kiểm định chi bình phương, càng thấy rõ hơn mức độ phụ thuộc giữa hai
biến định tính trên. Giá trị p_value nhận là dần về 0, cho thấy mức độ phụ thuộc giữa hai
biến trên là rất lớn.

Chi-Square Tests

Value Df AsympSig(2sided)

Pearson Chi-Square 25.171(a) 4 .000

41
Likelihood Ratio
25.534 4 .000

Linear-by-Linear Association 17.372 1 .000

N of Valid Cases
137

Bảng 2.8. Kiểm định chi bình phương 2 yếu tố giữa hiệu quả làm việc nhóm và điểm số

Theo nhận xét của các giảng viên trong trường và theo các thông tin truyền thông
có đề cập thì đây là mối quan hệ 2 chiều, bởi lẽ khi các sinh viên nâng cao được hiệu quả
của việc làm nhóm thì lúc đó kết quả công việc cũng sẽ được nâng cao, ngược lại, thông
thường các sinh viên có điểm học tập cao thì năng lực và kỹ năng của các sinh viên này
thường cao hơn mọi người do đó họ có khả năng làm việc nhóm, có khả năng hoàn thành
công việc và liên kết mọi người lại với nhau, từ đó tạo ra được hiệu quả làm việc nhóm
cao hơn những sinh viên khác. Do đó, sinh viên Khoa Kinh Tế_Luật nên luyện tập cho
mình kỹ năng làm nhóm, không phải chỉ để thu lại được kết quả học tập mà để thu về cho
mình những kỹ năng cần thiết đối với một sinh viên khối ngành kinh tế.

2.2.2. Yếu tố khách quan


Bên cạnh những yếu tố chủ quan, mà mỗi sinh viên có thể tự khắc phục và thay
đổi thì vẫn tồn tại những yếu tố khách quan khác tác động đến hiệu quả làm việc nhóm,
tuy là yếu tố khách quan nhưng những yếu đó lại có mối quan hệ với những yếu tố chủ
quan, do vậy mỗi chúng ta_ những sinh viên đang hoạt động và làm việc theo nhóm cũng
có thể cùng nhau dần dần tác động đến các yếu tố đó.

Có thể kể sơ qua vài yếu tố khách quan quan trọng nhất sau đây:

42
- Cách thức làm việc của nhóm.
- Vai trò của nhóm trưởng.
- Quy mô của nhóm.
- Mục tiêu của nhóm.
- Mức độ đoàn kết của nhóm.
- …

Thứ nhất: Phải nói đến cách thức làm việc của nhóm, bởi vì theo nhận định của
các chuyên gia cũng như kết quả điều tra của nhóm thì đây là yếu tố quan trọng nhất ảnh
hưởng trực tiếp đến hiệu quả của việc làm nhóm.

Theo kết quả kiểm định chi bình phương, chúng ta có thể thấy được mức độ phụ
thuộc giữa 2 biến “cách thức làm việc nhóm” và “hiệu quả làm việc nhóm”. Đây quả thật
là mối quan hệ chặc chẽ với nhau, bởi lẽ dĩ nhiên là không có 1 nhóm nào có thể đạt được
hiệu quả cao khi cách thức hoạt động trong nó đã không tốt, số liệu trên đã cho thấy một
cách tuyệt đối: Những nhóm có cách thức hoạt động tốt thì không có nhóm nào có hiệu
quả làm nhóm dưới mức bình thường, trong khi đó những nhóm có cách thức hoạt động
không tốt thì không có nhóm nào có hiệu quả làm nhóm cao và hơn 70% trong số đó có
hiệu quả làm việc nhóm chỉ ở ngang và thấp hơn mức bình thường.

hieu qua hoat dong

thap binh thuong cao rat cao


Row % Row % Row % Row %

Cách thức khong tot 23.8% 47.6% 28.6%


hoạt động
binh thuong 6.5% 59.8% 30.4% 3.3%
tot 1.4% 23.3% 65.8% 9.6%
rat tot 57.1% 42.9%

43
Bảng 2.9. Tần suất 2 yếu tố giữa cách thức làm việc nhóm và hiệu quả làm việc nhóm

Chi-Square Tests

Value Df AsympSig(2sided)

Pearson Chi-Square 72.856(a) 9 .000


Likelihood Ratio 67.248 9 .000
Linear-by-Linear Association 50.130 1 .000
N of Valid Cases 200

Bảng 2.10. Kiểm định chi bình phương “cách thức hoạt động” và “hiệu quả hoạt động”

Thứ hai: Mức độ hiệu quả làm việc nhóm cũng chịu tác động mạnh bởi vai trò
hay mức độ làm việc hiệu quả của nhóm trưởng.

Một nhóm không thể hoạt động tốt khi không có một nhóm trưởng có năng lực và trách
nhiệm. Có thể đánh giá mức độ hiệu quả của nhóm trưởng qua những tiêu chí sau:

- Tinh thần trách nhiệm.


- Biết cách quản lý và điều hành nhóm.
- Biết cách phân chia công việc cho hiệu quả.
- …

Chúng ta có thể xem qua tổng quan về mức độ hài lòng của sinh viên Khoa Kinh Tế đối
với nhóm trưởng của họ như sau:

44
Hình 2.14. Mức độ hài lòng về nhóm trưởng của sinh viên Khoa Kinh Tế-Luật

Gần 50% sinh viên Khoa Kinh Tế_Luật hài lòng với nhóm trưởng của mình không
phải là con số quá nhỏ nhưng cũng không phải là con số quá lớn. Bởi vì vẫn còn 50% còn
lại không hài lòng lắm với nhóm trưởng hiện tại của mình. Do đó để có thể nâng cao hiệu
quả của việc làm nhóm thì trước hết chúng ta nên nâng cao tỉ lệ hài lòng của các thành
viên đối với nhóm trưởng lên mức cao hơn bằng nhiều cách như thay đổi nhóm trưởng,
nâng cao năng lực cũng như phẩm chất của người nhóm trưởng…

cach thuc hoat dong

khong tot binh tot rat tot


thuong

45
Row % Row % Row % Row %

nhom truong khong hai long 21.4% 71.4% 7.1%


binh thuong 19.0% 58.3% 22.6%
hai long 2.0% 32.4% 52.0% 13.7%

Bảng 2.11. Tần suất giữa 2 yếu tố “mức độ hài lòng về nhóm trưởng” và “cách thức làm
việc của nhóm”

hieu qua lam viec nhom

binh
thap thuong cao rat cao

Row % Row % Row % Row %

nhom truong khong hai long 7.1% 57.1% 28.6% 7.1%

binh thuong 10.7% 54.8% 31.0% 3.6%

hai long 2.0% 27.5% 58.8% 11.8%

Bảng 2.12. Tần suất giữa 2 yếu tố “mức độ hài lòng về nhóm trưởng” và “hiệu quả làm
việc của nhóm”

Bảng thống kê cũng cho chúng ta thấy, mối quan hệ giữa mức độ hài lòng về nhóm
trưởng đối với cách thức hoạt động của nhóm cũng như mức độ hiệu quả của nhóm. Tỉ lệ
nhóm có hiệu quả làm việc thấp và cách thức hoạt động không tốt ở những nhóm có độ
hài lòng cao về nhóm trưởng là rất nhỏ, chỉ có 2%, và tỉ lệ nhóm có cách thức làm việc
tốt cũng như có hiệu quả làm việc cao ở những nhóm này là rất lớn, hơn 70%.

Thứ ba: Một yếu tố cũng không kém phần quan trọng đối với mức độ hiệu quả
làm việc của nhóm là quy mô của nhóm. Tuy quy mô của nhóm không tác động trực tiếp
vào hiệu quả làm việc của nhóm do nó còn tùy thuộc vào mức độ khó và lớn của công

46
việc chung mà nhóm phải làm nhưng xét trên phương diện quy mô một cách tương đối
thì quy mô nhóm cũng có những ảnh hưởng nhất định đến hiệu quả của làm việc nhóm.

Số liệu thu thập cụ thể như sau:

Hình 2.15. Biểu đồ kết hợp giữa 2 yếu tố “quy mô nhóm” và “hiệu quả làm việc của
nhóm”

Có thể nhận thấy được mức độ hiệu quả của quy mô nhóm nhỏ hơn 8 thành viên
sẽ nhỉnh hơn so với những nhóm trên 8 thành viên. Lý do dễ hiểu để giải thích cho vấn đề
trên chính là mức độ kết hợp năng lực giữa các thành viên trong nhóm lại, cũng như mức
độ tương tác giữa các thành viên trong nhóm. Theo John C.Maxwell (tác giả của “17
nguyên tắc vàng khi làm việc nhóm) thì nhóm có thể chấp nhận được trong khoảng nhỏ
hơn 16 thành viên, tuy nhiên để nhóm có thể phát huy hết được năng lực của mỗi cá
nhân, và có sự tương tác tốt thì nhóm chỉ nên có quy mô nhỏ hơn 8 thành viên mà thôi.
Đây là con số vừa đủ để có thể đảm nhận những công việc khó khăn và cũng là con số
phù hợp để có được sự tương tác tốt giữa các thành viên trong nhóm.

47
Thứ tư: Mỗi nhóm hoạt động đều có mục tiêu cho riêng nhóm mình, trong môi
trường đại học hiện nay nói chung và trong môi trường Khoa Kinh Tế nói riêng thì mục
tiêu thường thấy ở các nhóm học tập trong Khoa sẽ là:

- Kiến thức
- Kỹ năng
- Điểm số
- Sự đoàn kết, am hiểu nhau…
- …

Tùy từng mục tiêu hướng đến của từng nhóm mà mỗi nhóm sẽ có cách thức hoạt động
khác nhau nhằm đạt được những mục tiêu đã đề ra. Tuy nhiên theo thông kê, chúng ta có
thể thấy mục tiêu được đa số sinh viên Khoa Kinh Tế_Luật cho rằng là quan trọng đó là
mục tiêu điểm số và kiến thức thu nhận được. Tuy nhiên cũng có một số cho rằng mục
tiêu về kiến thức là không quan trọng, và đây là một định hướng hoàn toàn sai lầm của
sinh viên Khoa chúng ta. Bởi theo đúng với ý nghĩa của việc làm nhóm thì mục tiêu kiến
thức và kỷ năng là thực sự quan trọng, khi làm nhóm, chúng ta có thể học tập từ nhau, có
thể trao dồi và nâng cao vốn kiến thức cũng như những kỷ năng mềm cần thiết trong cuộc
sống và công việc sau này của sinh viên chúng ta.

Thứ năm: Đây được coi là yếu tố khó có thể định hình và đo lường một cách
chính xác được, nhưng theo các nhà khoa học thì nó lại là một yếu tố ảnh hưởng âm thầm
nhưng mạnh mẽ đến làm việc nhóm. Đó chính là yếu tố mức độ đoàn kết trong nội bộ
nhóm.

Theo kết quả đã trình bày ở phần thực trạng thì chúng ta đã biết mức độ thường xuyên
xảy ra mâu thuẩn chiếm 7%, và mức độ thỉnh thoảng xảy ra mâu thuẩn là 51%, 42% còn
lại cho rằng nhóm của mình ít khi và không bao giờ xảy ra mâu thuẩn.

Thế nhưng con số trên có phản ánh được mức độ đoàn kết trong nhóm của sinh viên
Khoa Kinh Tế-Luật hay không?

48
Để trả lời cho câu hỏi trên, nhóm chúng tôi tiếp tục phân tích và thông kê được số liệu
như sau:

Hình 2.16 Mức độ đoàn kết trong nội bộ nhóm của sinh viên Khoa Kinh Tế

Có đến 55% cho rằng mức độ đoàn kết của nhóm là không cao, thậm chí có 2% sinh viên
cho rằng nhóm mình không đoàn kết. Và chỉ có 45% sinh viên cho rằng mức độ đoàn kết
của nhóm là cao.

Đây là một thực trạng đáng lưu ý và cần được quan tâm nhiều hơn bởi theo nhận định của
hầu hết các nhà chuyên môn cũng như những nhà nghiên cứu thì mức độ đoàn kết trong
nhóm sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả làm việc nhóm. Thế nhưng nhận định trên có phù hợp
với sinh viên Khoa Kinh Tế-Luật hay không? Nhóm chúng tôi sẽ tiếp tục đi sâu phân tích
và kiểm định mối quan hệ trên để có thể trả lời cho câu hỏi này.

49
Hình 2.17 Biểu đồ thể hiện mối quan hệ giữa 2 yếu tố mức độ đoàn kết và hiệu quả làm
việc nhóm

Qua biểu đồ trên chúng ta có thể nhìn thấy rõ có sự khác biệt về hiệu quả làm việc của
từng nhóm. Những nhóm có sự đoàn kết cao thì có tỉ lệ đạt hiệu quả cao rất lớn 68%,
chiếm 1 tỉ lệ lấn át, trong khi đó những nhóm không có mức độ đoàn kết thì không có
nhóm nào đạt được hiệu quả cao trong công việc.

Áp dụng phương pháp kiểm định chi bình phương cho hai yếu tố định tính ta có kết quả
sau: Chi-Square Tests

Asymp. Sig.
Value df (2sided)
Pearson Chi-Square 19.787(a) 4 .001
Likelihood Ratio 21.665 4 .000
Linear-by-Linear Association 14.150 1 .000
N of Valid Cases
200

Bảng 2.13 Kiểm định chi bình phương 2 yếu tố giữa mức độ đoàn kết và hiệu quả làm
việc nhóm

50
Kết quả được xuất ra với giá trị p_value là 0.001, rất nhỏ so với 0.01 (độ tin cậy 99%),
nên chúng ta có thể kết luận 2 yêu tố trên là có mối quan hệ phụ thuộc chặt chẽ với nhau.
Do sinh viên Khoa Kinh Tế-Luật cần quan tâm nhiều hơn đến vấn đề đoàn kết trong
nhóm và cải thiện nó để có thể đạt đạt hiệu quả cao nhất trong khi làm việc nhóm.

2.3. Kết luận


Qua những phương pháp phân tích, kiểm định trên, nhóm chúng tôi đưa ra vài kết luận về
tình trạng làm việc nhóm của sinh viên Khoa Kinh Tế_Luật ĐHQG TPHCM như sau.

Về tình hình chung: Theo thống kê từ quá trình nghiên cứu của nhóm và theo nhận xét
của đa số các giảng viên đang công tác tại Khoa Kinh Tế_Luật ĐHQG, sinh viên Khoa
Kinh Tế đã biết và hiểu các phương pháp làm việc nhóm, do đó về mặt hiệu quả làm việc
nhóm là khá cao, tuy nhiên vẫn còn tồn tại trong đó những mặt hạn chế:

- Vẫn còn một số lượng không nhỏ các bạn sinh viên không có tinh thần tích cực làm
việc, dẫn đến hiện tượng ỷ lại, tạo ra tâm lý sức ì cho cả nhóm.

- Trong khi làm việc nhóm, có quá ít sinh viên chịu nêu ra ý kiến và bảo vệ ý kiến của
mình, từ đó hình thành sự uổng phí các ý tưởng hay và độc đáo.

- Quy mô nhiều nhóm quá lớn, không phát huy được hết năng lực của các thành viên, làm
giảm tính hiệu quả khi làm việc nhóm.

- Vẫn tồn tại nhiều nhóm không có sự am hiểu nhau và đoàn kết trong nội bộ mỗi nhóm.

- Nhóm làm việc không có kế hoạch, thường làm việc theo kiểu tự phát, cảm tính do đó
dẫn đến cách thức làm việc nhóm không được tốt. Sau khi hoàn thành công việc xong
sinh viên Khoa Kinh Tế-Luật ít khi họp lại để rút kinh nghiệm, vì vậy không thu nhận
được nhiều kiến thức và kỹ năng.

- Không có sự chọn lọc nhóm trưởng, không chịu thay đổi để phù hợp, hình thành nên
tình trạng một nhóm chỉ có duy nhất 1 nhóm trưởng. Do đó không phát huy hết được khả
năng lãnh đạo của mỗi thành viên trong nhóm.

51
Chương 3. GIẢI PHÁP KIẾN NGHỊ CHO VẤN ĐỀ LÀM VIỆC
NHÓM CỦA SINH VIÊN KHOA KINH TẾ -ĐHQG.TPHCM

3.1. Đề xuất giải pháp dành cho nhà trường

3.1.1. Sơ lược qua về môn Kỹ năng làm việc nhóm.


Hiện nay, trong chương trình đào tạo của Khoa kinh tế-luật ĐH Quốc gia
TP.HCM có giảng dạy môn học kỹ năng làm việc nhóm. Môn học này nằm trong hệ
thống những môn học tự chọn của ngành kế toán- kiểm toán trong học kì thứ 6 năm học
thứ 3 với số tín chỉ là 3. Theo thông tin nhóm chúng tôi thu thập từ 10 sinh viên đã từng
học lớp kỹ năng làm việc nhóm, nội dung môn học này rất hay và cung cấp nhiều kỹ
năng ứng dụng trong quá trình làm việc nhóm cho các sinh viên này. Về cách giảng dạy
môn học, ngoài sử dụng cách dạy truyền thống các giảng viên ứng dụng nhiều tình
huống thực tế trong quá trình giảng dạy, cho sinh viên nhiều bài tập thực hành và ngoài ra
còn giảng dạy thông qua những trò chơi tập thể ngoài trời. Tuy nhiên, số lượng sinh viên
đăng kí và tham gia học môn học này rất ít chỉ khoảng 30 sinh viên trong 1 lớp.

3.1.2. Giải pháp cho môn học Kỹ năng làm việc nhóm
Theo đánh giá của đa số các doanh nghiệp, kỹ năng làm việc nhóm là một
trong những kỹ năng được đòi hỏi nhất khi tuyển dụng. Vì vậy, ngoài việc học kiến thức
chuyên môn, sinh viên cần có kỹ năng làm việc nhóm hiệu quả. Tuy nhiên theo kết quả
điều tra của nhóm chúng tôi ở Khoa kinh tế-luật ĐH Quốc gia TP.HCM, tình hình môn
học kỹ năng làm việc nhóm đang không được quan tâm đúng mức từ cả hai phía nhà
trường và sinh viên. Vì thế, chúng tôi đề xuất một số giải pháp để cải thiện tình hình dạy
và học môn học này tại Khoa kinh tế - luật.

52
Mô hình giảng dạy và rèn luyện môn học Kỹ năng làm việc nhóm

Ngân hàng dữ liệu

Giảng dạy

Môi trường
học tập

Trung tâm quản Môi trường


lý sinh viên doanh nghiệp

Doanh nghiệp Công ty nhà


trường

53
Từ khi xuất hiện cho đến nay, môn học kỹ năng làm việc nhóm chỉ được dạy
cho sinh viên ngành kế toán-kiểm toán. Điều này không thể giúp cho sinh viên cả khoa
tiếp cận được với môn học vì nó không được phổ biến rộng rãi cho tất cả các ngành học
trong khoa. Hơn nữa, nó được xếp vào hệ thống những môn học tự chọn ở năm 3 cùng
với những môn tự chọn về kiến thức chuyên môn nên môn học kỹ năng làm việc nhóm
không được nhiều sinh viên chọn học (các sinh viên năm 3 thường có xu hướng chọn
những môn học về kiến thức chuyên môn).Và thời gian học của môn học này hoàn toàn
không hợp lý vì ngay từ năm nhất các sinh viên đã bắt đầu làm việc nhóm trong học tập.
Do đó, chúng tôi đề xuất đưa môn học kỹ năng làm việc nhóm vào hệ thống những môn
học bắt buộc của tất cả các ngành trong chương trình đào tạo và thời gian học là học kỳ
đầu tiên của năm nhất.

3.1.3. Mô hình giảng dạy và rèn luyện môn học Kỹ năng làm việc nhóm.
Đối với bất kì một môn học về kỹ năng nào, bên cạnh việc học lý thuyết cần phải rèn
luyện thường xuyên mới có thể đem lại kết quả tốt. Nhưng hiện nay, tại Khoa kinh tế-luật
việc rèn luyện kỹ năng làm việc nhóm thường xuyên cho sinh viên vẫn chưa được tiến
hành đồng bộ và hiệu quả. Nên nhóm chúng tôi đề xuất một mô hình giảng dạy và rèn
luyện môn học Kỹ năng làm việc nhóm cho Khoa kinh tế-luật.

3.1.3.1 Xây dựng ngân hàng dữ liệu.

Trong quá trình giảng dạy môn học kỹ năng làm việc nhóm và cho sinh viên bài tập
nhóm ở các môn học khác, giảng viên cần có một nguồn đề bài tập nhóm chất lượng, phù
hợp với khả năng của sinh viên. Việc xây dựng một ngân hàng dữ liệu nhằm thu thập và
lưu trữ những đề bài tập nhóm hay, bổ ích trong thời gian dài sẽ đáp ứng được yêu cầu
này.

Nguồn đề bài tập được tổng hợp từ:

Những đề bài tập nhóm của các giảng viên của khoa trong quá trình giảng dạy
từ trước tới nay.

54
Những đề bài tập nhóm được sưu tập từ các website, từ các trường khác giảng
dạy về kinh tế, từ các sách tham khảo, đặc biệt là từ các sách nước ngoài.

Những tình huồng thực tế từ phía các doanh nghiệp.

Những dữ liệu thu thập được có thể lưu trữ lại bằng văn bản hay các dạng file word,
pdf… trong một phần mềm lưu trữ của khoa (giống như dạng một thư viện điện tử).

Ngoài ra, cũng nên thu thập, lưu trữ những bài tập nhóm của các sinh viên và trưng bày
trên một website để các sinh viên có thể tham khảo và học hỏi cách giải quyết vấn đề của
nhau.

3.1.3.2 Thực hành kỹ năng làm việc nhóm trong môi trường doanh nghiệp.

Ngoài việc thực hành kỹ năng làm việc nhóm trong học tập, Nhà trường cần tạo điều
kiện cho sinh viên hoạt động, làm việc nhóm trong môi trường doanh nghiệp. Có thể giúp
sinh viên làm quen với việc làm việc nhóm trong môi trường công ty, doanh nghiệp theo
2 phương án sau.

Phương án 1: Sinh viên vừa học tại trường, vừa thực tập tại các doanh nghiệp.

Trong chương trình đào tạo của Khoa kinh tế-luật, sinh viên chỉ thực tập tại doanh nghiệp
trong học kì thứ 8 ở năm học thứ 4 với lượng thời gian thực tập quá ngắn tại doanh
nghiệp khoảng 3 tháng. Trong khi đó, việc rèn luyện kỹ năng làm việc nhóm trong môi
trường doanh nghiệp đòi hỏi phải thường xuyên, song song với việc học lý thuyết ở
trường và kéo dài trong suốt 4 năm học. Vì thế, chúng tôi đề xuất giải pháp tổ chức mô
hình liên kết giữa doanh nghiệp với nhà trường tạo điều kiện cho sinh viên thực tập và
rèn luyện kỹ năng làm việc nhóm trong suốt 4 năm học. Để làm được điều này cần có sự
phối hợp đồng bộ giữa nhà thường và các doanh nghiệp.

Về phía doanh nghiệp:

Cần có những doanh nghiệp tạo điều kiện cho sinh viên năm 1, 2, 3, 4 thực tập
tại công ty mình. Tuy sinh viên năm 1, 2, 3 chưa có nhiều kiến thức chuyên môn và
không thể làm nhiều việc cho doanh nghiệp nhưng việc hỗ trợ cho sinh viên các năm này
55
đối với doanh nghiệp không hẳn là không có lợi. Thông qua việc hỗ trợ sinh viên thực
tập, doanh nghiệp đã thu hút được nguồn nhân lực tương lai cho công ty mà không phải
tốn kém quá nhiều chi phí. Đơn cử một doanh nghiệp thực hiện chính sách thu hút nhân
lực rất tốt là Hoa Sen Group. Với sự kiện “Ngày hội nghề nghiệp” ngày 29/11/2008 mở
đầu cho chương trình “Vườn ươm tài năng quản trị”1, Hoa Sen Group đã tuyển sinh viên
năm 2, 3, 4 của Khoa kinh tế-luật ĐH Quốc gia TP.HCM vào thực tập tại doanh nghiệp
của mình. Mô hình “vườn ươm tài năng” là một mô hình định hướng nhân lực rất sáng
tạo mà nhóm chúng tôi đề xuất các doanh nghiệp tham khảo để phát triển nguồn nhân lực
trong tương lai.

Về phía Nhà trường:

Để thực hiện được mô hình sinh viên vừa học, vừa thực tập tại doanh nghiệp đòi hỏi về
phía nhà trường phải chủ động tìm những doanh nghiệp hỗ trợ. Sau đó, trung tâm quản lý
sinh viên của Khoa sẽ giới thiệu các sinh viên vào thực tập tại các doanh nghiệp.Việc duy
trì mô hình này trong dài hạn sẽ là rất khó khăn nên Nhà trường cần nỗ lực hợp tác chiến
lược với doanh nghiệp

1
Chương trình “Vườn ươm tài năng quản trị” là một chuỗi các hoạt động mang tính đánh giá học lực và bản lĩnh
của sinh viên, nhằm phát hiện, tìm kiếm và bổ sung cho những vị trí quản trị trung, cao cấp trong tương lai của Hoa
Sen Group. Các hoạt động của chương trình được đặt ra hết sức thực tế: ngày hội nghề nghiệp, tuyển thực tập, đào
tạo hội nhập, thực tập chuyên môn, đào tạo chuyên môn, đánh giá, tuyển dụng chính thức.

56
Phương án 2: Thành lập công ty trường học.

Mục đích.

Tạo điều kiện cho sinh viên của Khoa kinh tế-luật có điều kiện thực hành kỹ
năng làm việc nhóm trong môi trường doanh nghiệp.

Giúp sinh viên áp dụng những kiến thức đã học vào thực tế

Tạo thêm một khoản thu cho Khoa kinh tế-luật

Dựa trên những ngành học trong chương trình đào tạo và khả năng của sinh viên của
Khoa kinh tế-luật chúng tôi đề xuất mô hình công ty như sau.

Lĩnh vực hoạt động kinh doanh.

1. Bộ phận quản lý quỹ.


- Quản lý quỹ đầu tư: huy động, quản lý vốn và tài sản; tập trung đầu tư theo
danh mục đầu tư
- Tư vấn đầu tư và tư vấn tài chính: thực hiện việc tư vấn đầu tư và tư vấn về
quản trị cho các khách hàng; hỗ trợ khách hàng tối ưu hóa các khoản đầu tư thông qua
các công cụ tài chính; tối ưu hóa các nguồn vốn cho các nhà đầu tư.

57
- Nghiên cứu: thông qua việc phân tích đánh giá về thị trường, phân tích giá trị
tài chính, giá trị đầu tư và hỗ trợ cho các hoạt động quản lý đầu tư và các tư vấn như đã
nêu trên.
2. Bộ phận tổ chức sự kiện.
- Tổ chức những sự kiện theo yêu cầu của khách hàng.
- Thiết kế những công cụ POSM như poster, tờ rơi, bandroll,…
3. Bộ phận tư vấn pháp luật.
- Tư vấn cho khách hàng về luật dân sự, thương mại quốc tế, kinh doanh, tài chính-
ngân hàng chứng khoán.

Cơ cấu tổ chức

 Ban giám đốc

Các giảng viên của Khoa có nhiệm vụ chính là điều hành và kiểm duyệt kết
quả những công việc.

 Các bộ phận
- Trưởng bộ phận: cần là một người có nhiều kinh nghiệm tốt nhất là giảng viên
hoặc những sinh viên năm 4 xuất sắc.
- Nhân viên: các sinh viên của Khoa kinh tế-luật.

Cơ chế hoạt động

Sau khi nhận được công việc đặt hàng từ các khách hàng, các trưởng bộ phận phân
chia công việc phù hợp cho các nhóm sinh viên.

Việc phân chia công việc cụ thể như sau.

Sinh viên năm 1, 2 có thể đảm nhận những công việc không cần đòi hỏi nhiều những
kiến thức chuyên môn.

Sinh viên năm 3, 4 đảm nhận những công việc chuyên môn như phân tích thị trường,…

58
Một công việc nên giao cho nhiều nhóm sinh viên cùng làm việc, sau đó trưởng bộ
phận và ban giám đốc sẽ chọn kết quả của nhóm làm việc tốt nhất và giao cho khách
hàng. Như vậy, các nhóm sinh viên sẽ phấn đấu để ngày càng làm việc nhóm hiệu quả
hơn.

Để hỗ trợ cho tất cả sinh viên của Khoa kinh tế rèn luyện kỹ năng làm việc nhóm
trong môi trường doanh nghiệp, chúng tôi nghĩ cần phải thực hiện đồng thời hai phương
án trên vì số lượng sinh viên của Khoa kinh tế-luật khá nhiều, hơn 7000 sinh viên.

3.2. Đề xuất giải pháp dành cho giảng viên.


Các nhà nghiên cứu cho rằng “dù nội dung môn học như thế nào thì sinh viên làm
việc theo từng nhóm cũng có khuynh hướng học được nhiều hơn so với những gì được
dạy và nhớ lâu hơn so với các hình thức dạy học khác”. Nhóm chúng tôi đã phỏng vấn
một số giảng viên đang công tác tại Khoa kinh tế-luật, các giảng viên cũng cho rằng việc
giao cho các sinh viên làm việc nhóm thường dẫn đến kết quả học tập tốt hơn.

Tuy nhiên vẫn còn tồn tại một vài hạn chế về sự tương tác giữa giảng viên và sinh
viên. Có tình trạng giảng viên giao đề tài cho các nhóm sinh viên, nhận kết quả và không
có ý kiến đóng góp đánh giá cho sinh viên. Cách thức làm nhóm như vậy xét về khía
cạnh cả giảng viên và sinh viên đều không đạt được kết quả tốt. Tuy nhiên theo ý kiến
của nhiều thầy cô trong trường thì nhóm chúng tôi cũng đề ra những giải pháp tức là thay
vì nhiều giảng viên vẫn đưa ra những đề tài, những bài tập để sinh viên làm nhóm như
hiện nay thì hình thức làm việc nhóm ở đây là chỉ nói đến các đề tài thường kéo dài hàng
mấy tiếng đồng hồ trên giảng đường, hoặc trong nhiều buổi học hoặc vài tháng. Tất nhiên
bài tập hoặc đề tài thì đòi hỏi có sự phụ thuộc của nhiều người. Giảng viên đưa ra vấn đề
để sinh viên thảo luận nhằm tạo điều kiện hoặc giúp đỡ sinh viên trong quá trình học tập.

Làm việc theo nhóm theo phương pháp này đòi hỏi giảng viên phải có sự chuẩn bị kỹ
bài giảng, chuẩn bị những tình huống, đề tài, bài tập… và tất nhiên là những đề tài hay
bài tập này phải có một chút độ khó để thúc đẩy khả năng thảo luận, làm việc nhóm của
sinh viên. Lợi ích mà mỗi sinh viên đạt được rất đáng kể chẳng hạn như các sinh viên sẽ

59
tích cực tham gia thảo luận, làm việc nhóm, sẽ hiểu và nhớ bài lâu hơn, sẽ nắm vững
được các kỹ năng để có thể thành công trong môn học hoặc nghề nghiệp sau này. Vì giữa
các nhóm có sự thi đua thì trong nhóm tất nhiên có người giỏi và người không giỏi nên
đòi hỏi các bạn giỏi trong nhóm phải giúp đỡ, chia sẻ kiến thức với các bạn yếu hơn.
Ngoài ra thì sinh viên sẽ hăng hái hơn trong việc tự học, trong việc nghiên cứu độc lập.

Việc quyết định phân nhóm học tập thì trước hết giảng viên phải xem xét kỹ mục đích
của môn học. Các yếu tố quan trọng khác cần xem xét trước tiên là quy mô lớp học vì các
lớp đông sinh viên rất khó trong việc thực hiện và thường ít có hiệu quả và cả phương
pháp đánh giá nhóm để giảng viên có đủ thời gian và cho ý kiến phản hồi kịp thời đối với
các đề tài làm theo nhóm.

Một khó khăn đối với giảng viên là theo khuynh hướng tự nhiên thì trong nhóm
thường sẽ có một số sinh viên vượt trội, còn một số sinh viên kém hơn thì thường ít tham
gia phát biểu hoặc ít thảo luận. Điều này sẽ thường xuyên xảy ra nếu như có một cơ chế
buộc mọi người phải tham gia. Điều này thì giảng viên có thể hỏi trực tiếp từng sinh viên
mà giảng viên đánh giá qua quá trình nhóm thảo luận. Giảng viên có thể chọn những sinh
viên ít thảo luận trong nhóm, có thể sinh viên đó sẽ trả lời được hoặc nếu không được thì
giảng viên có thể góp ý. Hoặc đối với những đề tài lớn thì có thể giảng viên yêu cầu viết
lại mức độ đóng góp của mỗi người vào đề tài này hoặc sau những buổi thảo luận vào
trên giấy và có thể có sự phê bình các thành viên khác trong nhóm và trình bày những ý
kiến đóng góp của tất cả các thành viên vào trong những đề tài.

Hiện nay trong Khoa Kinh Tế - Luật có tình trạng một số giảng viên, mặc dù vẫn cho
sinh viên làm việc nhóm tức là giao đề tài cho mỗi nhóm và đưa ra thời hạn nhưng khi
các nhóm hoàn thành xong thì chỉ cần nộp đề tài cho giảng viên là xong chứ cũng không
có việc giảng viên đánh giá đề tài như thế nào, hoặc có đánh giá thì cũng ở một góc độ là
đa số chỉ có giảng viên đánh giá. Cho nên theo nhóm chúng tôi thì những đề tài khi almf
nhóm xong thì tốt nhất là để các nhóm được thuyết trình và các nhóm khác cũng có thể
học hỏi và chia sẻ quan điểm, ý kiến của mình đối với những đề tài khác. Và sau đó thực
hiện phần đánh giá theo kiểu có ý kiến phản hồi từ ba phía là các thành viên trong nhóm,
các nhóm khác và giảng viên nhằm giúp cho từng nhóm có thể điều chỉnh hoặc bổ sung
60
để đề tài đạt kết quả tốt hơn và đổng thời giúp xây dựng mối liên kết giữa các nhóm với
nhau. Chỉ có giảng viên mới là người có thể quyết định thực hiện những ý tưởng, đưa
những điều này vào trong giảng dạy. Và cuối cùng là ở khâu chấm điểm đề tài của cả
nhóm để áp lực giữa các thành viên trong nhóm thúc đẩy lẫn nhau cùng làm việc cho dù
là trong quá trình thực hiện cũng như đối với từng cá nhân có thể nảy sinh các khó khăn.
Hoặc thưởng điểm cho những nhóm giải quyết được vấn đề trong những buổi thảo luận
trên lớp. Nhưng giảng viên cũng nên thử thách để các sinh viên tập dần khả năng làm
việc nhóm nhằm giúp ích trong hiện tại lẫn sau này khi làm việc trong môi trường doanh
nghiệp.

Nhiều giảng viên thấy được lợi ích của làm việc theo nhóm theo hình thức thảo luận
trong lớp nhưng vẫn lưỡng lự khi vận dụng phương pháp này. Họ sợ rằng không thể hoàn
thành hết chương trình. Đồng thời phải bố cục lại môn học để thêm vào phần làm việc
theo nhóm cũng có nghĩa là phải mất thêm thời gian để giải quyết ít vấn đề hơn. Nhưng
“nghiên cứu đã cho thấy sinh viên làm việc theo nhóm có thể phát triển khả năng giải
quyết các vấn đề và chứng minh được sự hiểu biết” (Davis, 1993). Và giảng viên nên
thực hiện việc phân công làm việc theo nhóm và bổ sung các bài đọc thì có thể sẽ giải
quyết được một số vấn đề giữa việc hoàn thành chương trình và bảo đảm được chiều sâu
kiến thức cho sinh viên.

3.3. Giải pháp dành cho sinh viên


Với đề tài về vấn đề tài làm việc nhóm thì điều hiển nhiên, sinh viên chính là đối tượng
trung tâm và chất lượng học tập của sinh viên cũng là mục tiêu hướng tới . Những sinh
viên mà chúng tôi tiến hành nghiên cứu ở Khoa Kinh Tế - Luật thì mặc dù bề mặt chung
của hiệu quả làm việc nhóm là cao nhưng vẫn còn tồn tại những mặt hạn chế nhất định,
và cần có một giải pháp hữu hiệu để nâng cao kết quả làm việc. Dưới đây nhóm chúng tôi
xin đưa ra một số giải pháp, kiến nghị để sinh viên tối ưu hóa hơn nữa hiệu quả làm việc
của nhóm mình.

Qua phần phân tích ở trên, chúng ta có thể thấy vẫn còn tồn tại một số lượng không nhỏ
sinh viên Khoa Kinh Tế - Luật không tích cực làm việc, thường có tâm lý ỷ lại cho rằng
61
đây là công việc tập thể tạo nên sức ì cho nhóm. Bởi một khi các bạn không đóng góp
hay đóng góp ít thì bài tập, đề tài… vẫn được hoàn thành, vì chủ yếu là do nhóm trưởng
và một số thành viên tích cực cùng làm nên nhiều lần như thế các bạn thấy mình đóng
góp ít cũng có điểm và tạo ra sự ỷ lại, không lo lắng gì nhiều đến tiến trình khi làm việc
nhóm. Những sinh viên như thế do không thấy rõ được ích lợi khi làm việc nhóm, nếu
tình trạng kéo dài sẽ dẫn đến các bạn sẽ không tiếp thu được kiến thức và gây nên tâm lý
khó chịu cho những thành viên còn lại trong nhóm.

Vì vậy những thành viên đó cần phải thay đổi lại cách tư duy, cách suy nghĩ trong học
tập. Để làm được điều đó thì cần có sự nhìn nhận, đóng góp ý kiến thẳng thắn của nhóm
trưởng, các thành viên tích cực ở trong nhóm đối với những thành viên không tích cực
trong nhóm. Đa số là các bạn này sợ mất tình cảm bạn bè nên không dám nói ra ý kiến
phê bình của mình, tuy nhiên nếu không nói thì dẫn đến hiệu quả làm việc nhóm không
cao. Có nhiều biện pháp buộc những thành viên không tích cực phải tập trung làm việc
hơn, thay đổi thái độ làm việc, chẳng hạn như không cho bạn đó vào nhóm nữa sau khi đã
đóng góp ý kiến mà bạn đó không có tiến triển gì hết trong việc tích cực làm việc nhóm.
hoặc cho bạn đó biết tiến trình làm việc nhóm để bạn đó lo lắng mà phải tích cực làm…
Nhưng đa số hơn cả là trong nhóm giữa các thành viên với nhau nên có sự động viên, sự
khen ngợi khi ai đó làm được gì hay, kể cả các bạn không tích cực có đóng góp ít đi nữa
thì cũng tìm cách để khen ngợi, khích lệ bạn đó. Khi mà những mọi thành viên trong
nhóm đều tích cực làm việc thì hiệu quả làm việc nhóm sẽ cao hơn. Điều này đòi hỏi mỗi
sinh viên hãy tự tạo cho bản thân một lối tư duy, suy nghĩ đúng đắn.

Mặt khác hiện nay ở Khoa kinh Tế - Luật, sinh viên ít chịu đưa ra ý kiến và bảo vệ ý kiến
của bản thân khi làm việc nhóm.. Những bạn ít đưa ra ý kiến thì hầu như có học lực
không bằng các bạn khác nên ngại và khi có quan điểm, ý kiến riêng mặc dù muốn đưa ra
nhưng không có đủ tự tin khi trình bày. Hoặc có khi đưa ra rồi thì cũng không có đủ khả
năng để có thể bảo vệ ý kiến. Nên cứ nhiều lần ý kiến của bạn đó không được tiếp nhận
thì sẽ làm cho người ta không còn hứng thú, không còn tự tin để ra ý kiến khi làm việc
nhóm nữa.

62
Để khắc phục điều này thì trước hết mọi thành viên trong nhóm cần phải có một sự tôn
trọng khi ai đó trình bày quan điểm, ý kiến. Khi mọi người cùng đưa ra hết những ý kiến
hoặc có ai đưa ra ý kiến tới đâu thì phân tích tới đó thì hầu như nhóm trưởng là người
thực hiện việc phân tích này và đưa ra ý kiến riêng để xét xem ý kiến của bạn đó có mặt
nào được, mặt nào còn chưa được để ghi nhận và tổng hợp các ý kiến hay lại. Khi phân
tích tổng hợp lại trên tinh thần mọi người cùng bảo vệ ý kiến của bản thân mình. Nhưng
bảo vệ trên tinh thần lắng nghe và tiếp thu chứ không phải cứ khăng khăng bảo vệ tới
cùng ý kiến của mình mà không để ý những lời bác bỏ lại ý kiến của mình từ các thành
viên khác,sẽ rất dễ gây căng thẳng thậm chí xung đột, mất đoàn kết.

Mặt khác cũng có nhiều thành viên chỉ nêu ra quan điểm, ý kiến của bản thân thôi chứ
không bảo vệ ý kiến của mình.Và điều này cũng ảnh hưởng đến hiệu quả làm việc nhóm,
có thể đó sẽ là những ý tưởng hay mà không được tiếp nhận. Cho nên việc này đòi hỏi
mỗi thành viên trong nhóm phải chủ động hơn trong việc đưa ra ý kiến của bản thân, chủ
động hơn trong việc lắng nghe và bảo vệ ý kiến của mình. Để các thành viên có thể thực
hiện được điều này thì mỗi thành viên trong nhóm phải tự tin hơn, chủ động hơn khi đưa
ra quan điểm, ý kiến, cần phải tôn trọng một thành viên nào đó đang phát biểu hoặc đưa
ra ý kiến trong nhóm. Mọi người trong nhóm không nên coi trọng quá việc ai đó giỏi hơn
hay yếu hơn mình. Đây có lẽ là yếu tố chính mà các sinh viên thường không dám đưa ra ý
kiến của mình. Mỗi thành viên chỉ cần thay đổi cách suy nghĩ thì sẽ trở nên chủ động hơn
trong quá trình làm việc nhóm. Nếu việc này được cải thiện thì hiệu quả làm việc nhóm
của sinh viên Khoa kinh Tế - Luật sẽ được cải thiện đáng kể.

Đồng thời việc các sinh viên có đưa ra những quan điểm, ý kiến hay không thì ngoài việc
có thể giải quyết vấn đề được nhanh hơn, có thể hiểu được bản chất của vấn đề cần giải
quyết thì các sinh viên đóng góp càng nhiều sẽ tạo cho mỗi sinh viên sự tự tin, cải thiện
khả năng giao tiếp trước mọi người. Đây là một trong những kỹ năng mà sinh viên khối
ngành Kinh Tế hoặc Luật không thể thiếu. Chỉ cần các thành viên trong nhóm khi trình
bày ý kiến thì phải trình bày cho tất cả mọi người trong nhóm cùng nghe chứ không phải
cho một thành viên nào đó nghe.

63
Một tình trạng vẫn còn tồn tại trong Khoa Kinh Tế - Luật là đa số các bạn đều thích làm
nhóm trưởng nhưng rất số ít trong nhóm này là được làm nhóm trưởng. Bởi có rất nhiều
nguyên nhân để dẫn đến tình trạng này chẳng hạn nhóm trưởng thường là những người
học giỏi nhất trong nhóm, hay khi làm đề tài một môn nào đó thì nhóm thường chọn
người học giỏi môn này… Cho nên bạn đó thường xuyên phải đảm nhận vị trí nhóm
trưởng, trong đó nhiều bạn muốn làm lại không mạnh dạn xin được làm hoặc các thành
viên không tin tưởng lẫn nhau. Việc giao cho ai đó giỏi làm thường xuyên thì không phủ
nhận là kết quả hoàn thành tốt, điểm số nhận được cao nhưng xét về bản chất thực sự của
hiệu quả làm việc nhóm thì không thể cao được. Bởi vì thứ nhất, các bạn không có cơ hội
để thể hiện bản thân, biết đâu bạn đấy có thể làm tốt hơn người hiện tại hay làm, mọi
người trong nhóm không được tập làm kỹ năng lãnh đạo; thứ hai có thể việc không được
làm nhóm trưởng như mong muốn sẽ làm cho sinh viên đó không có tinh thần tích cực
lắm trong công việc; thứ ba, việc một thành viên nào thường xuyên làm nhóm trưởng có
thể sẽ cảm thấy công việc quá nhiều dẫn đến căng thẳng trong khi làm việc…

Bởi vậy trong quy tắc khi làm việc nhóm thì vị trí nhóm trưởng phải thường xuyên
xoay vòng để người nào trong nhóm cũng được làm nhóm trưởng hết, đồng thời nếu một
đề tài nào đó có thuyết trình thì tốt nhất là mọi thành viên trong nhóm cùng lên thuyết
trình. Như thế thì giảng viên sẽ đánh giá cao tinh thần làm việc nhóm của mọi người
trong nhóm.

Mặt khác trong nhóm thì bề mặt học lực chung của các thành viên là không đồng đều,
có thành viên tích cực và thành viên không tích cực. Nên khi vị trí nhóm trưởng được
giao cho những thành viên không tích cực này thì họ sẽ phải trở nên tích cực khi làm
việc. Tất nhiên là khả năng lãnh đạo của những sinh viên này không bằng những sinh
viên từng làm nhiều nhưng mọi người còn lại trong nhóm có thể hỗ trợ chứ không phải
mọi việc đều giao phó cho nhóm trưởng. Việc xoay vòng thường xuyên nhóm trưởng
chắc chắn sẽ cải thiện đáng kể bề mặt học lực chung của nhóm. Ngoài xoay vòng vị trí
nhóm trưởng thì còn có thể xoay vòng vị trí tổng hợp, vị trí làm Word, Powerpoint…Việc
một nhóm thực hiện những điều trên thì đa số sinh viên sẽ cải thiện được các kỹ năng
trong học tập như kỹ năng làm nhóm trưởng, kỹ năng thuyết trình…

64
Ngoài những yếu tố chính trên đây mà chúng tối đưa ra giải pháp thì còn rất nhiều yếu
tố phụ mà mỗi sinh viên phải cải thiện, phải thay đổi. Bởi trước hết là góp phần cải thiện
vào hiệu quả làm việc nhóm, sau đó là tạo cho bản thân một thói quen tích cực để khi ra
trường có thể hòa nhập vào môi trường Doanh Nghiệp được tốt..

KẾT LUẬN

Sau một thời gian cố gắng, nỗ lực hết mình, bằng tất cả niềm say mê, vận dụng tất
cả những kiến thức đã có, cùng với đó là sự tìm tòi khám phá, nhóm chúng tôi đã hoàn
tất đề tài. Xuyên suốt quá trình nghiên cứu về vấn đề làm việc theo nhóm tại Khoa Kinh
Tế, nhóm chúng tôi đã chỉ ra ích lợi hiệu quả khi làm việc nhóm, việc làm chịu tác động
của những yếu tố nào. Điểm mạnh mà sinh viên trong Khoa có được trong vấn đề này và
những điều còn tồn tại. Cùng với đó nhóm chúng tôi cũng đã đưa ra các biện pháp các
kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả làm việc nhóm. Các kiến nghị này dành cho cả hai
phía, đó là phía giảng viên và phía sinh viên. Như vậy sẽ tạo sự đồng bộ, sự hòa hợp
trong công tác giảng dạy và học tập của cả hai phía.

65
Tóm lại kỹ năng làm việc nhóm là một kỹ năng hết sức không chỉ trong quá trình học
tập mà đó còn là đòi hỏi của hầu hết các daonh nghiệp khi tuyển nhân sự. Tuy nhiên do
nhiều nguyên nhân dẫn đến hiệu quả làm việc nhóm của sinh viên Khoa Kinh Tế chưa
thất sự hiệu quả và còn nhiều điều cần phải đổi mới. Chính vì lẽ đó, chúng tôi mong
muốn qua đề tài này thì tình hình làm việc nhóm của sinh viên Khoa được cải thiện đáng
kể, từ đó nâng cao kết quả học tập cũng như công tác giảng dạy được tốt hơn, nâng cao
chất lượng đào tào, khẳng định vị thế của Khoa Kinh Tế- ĐHQG.TP Hồ Chí Minh.

PHỤ LỤC
Mẫu phiếu điều tra

BẢNG KHẢO SÁT

Đề tài: VẤN ĐỀ LÀM VIỆC NHÓM CỦA SINH VIÊN KHOA KINH TẾ LUẬT

Chào bạn, chúng tôi là các thành viên của nhóm KT 00328 đến từ lớp K08404T. Chúng
tôi đang thực hiện nghiên cứu khoa hoc với đề tài “VẤN ĐỀ LÀM VIỆC NHÓM CỦA
SINH VIÊN KHOA KINH TẾ LUẬT” nhằm nâng cao hiệu quả làm việc nhóm của
sinh viên. Để hoàn thành bài nghiên cứu của mình, chúng tôi rất cần sự hỗ trợ của các
bạn từ những câu trả lời cho bảng câu hỏi dưới đây. Chúng tôi cam đoan thông tin các
bạn cung cấp dưới đây chỉ để dùng phục vụ cho đề tài này.

Chân thành cảm ơn!

66
Các bạn vui lòng đánh dấu chọn () vào đáp án bạn nghĩ là đúng nhất hoặc cho
ý kiến riêng của các bạn vào bảng khảo sát.

I. Thông tin cá nhân

1. Bạn đang là sinh viên năm mấy?


 Năm 1  Năm 2  Năm 3  Năm 4
2. Ngành học của bạn: ……………………………………………………………..
3. Điểm trung bình tích lũy chung của bạn là: …………………………………

II. Phần câu hỏi nghiên cứu


4. Bạn có thích làm việc nhóm hay không?

 Rất không thích  Không thích  Bình thường  Thích  Rất thích

5. Bạn thích ở vị trí nào khi làm việc nhóm?


 Nhóm trưởng  Thành viên tích cực  Thành viên bình thường
6. Bạn thường làm việc nhóm trong môi trường nào?

Môi trường Mức độ thường xuyên tăng dần từ 1-


5

Học tập 1 2 3 4 5
Hoạt động CLB
1 2 3 4 5
Hoạt động
khác…………… 1 2 3 4 5

7. Khi làm việc nhóm bạn có thường nêu ra và bảo vệ ý kiến của mình hay
không?

67
Nội dung Mức độ thường xuyên tăng dần
từ 1 - 5

Nêu ra ý kiến của mình 1 2 3 4


Bảo vệ ý kiến của mình 5
1 2 3 4
5

8. Bạn nhận việc trong khi làm việc nhóm bằng hình thức nào?
 Tự nguyện nhận việc  Để nhóm tự phân việc  Khác (ghi rõ)……........

9. Bạn tự nhận thấy mức độ đóng góp của bạn trong thành quả của nhóm?
 Rất ít  Ít  Vừa phải  Nhiều  Rất nhiều

10. Mục tiêu hướng đến của nhóm bạn là gì? Đánh số từ 1-4 theo mức độ ưu tiên
giảm dần

 Điểm số  Kiến thức Kỹ năng  Khác (ghi rõ)………………

11. Bạn đánh giá như thế nào về cách làm việc của nhóm bạn?

Không tốt
Tiêu chí
Tốt

- Nội quy làm việc của nhóm 1 2 3 4 5


- Đưa ra kế hoạch, thời gian biểu 1 2 3 4 5
- Triển khai kế hoạch, công việc 1 2 3 4 5
- Họp rút kinh nghiệm 1 2 3 4 5
(sau mỗi lần hoàn thành công
việc) 1 2 3 4 5

68
- Thái độ làm việc của nhóm
(không tích cực, tích cực)

12. Hiệu quả giải quyết công việc dự định sau mỗi lần họp nhóm?

 Không giải quyết được gì  Giải quyết được 1 phần công việc
 Giải quyết hết được công việc  Giải quyết vượt chỉ tiêu

13. Quy mô nhóm của bạn thường gồm bao nhiêu thành viên?
3–5 6–8  Trên 8
14. Bạn có hài lòng về cách làm việc của nhóm trưởng hay không?

Tiêu chí Không hài lòng Hài lòng

- Cách phân chia công việc 1 2 3 4 5


- Cách điều hành nhóm 1 2 3 4 5
- Trách nhiệm 1 2 3 4 5

15. Bạn nhận thấy mức độ đoàn kết trong nhóm của bạn?
 Không đoàn kết  Bình thường  Đoàn kết
16. Nhóm của bạn có thường xảy ra mâu thuẫn hay không?

 Không bao giờ  Ít khi  Thỉnh thoảng  Thường xuyên  Luôn luôn

17. Nhóm bạn giải quyết mâu thuẫn vào lúc nào?
 Giải quyết ngay khi xảy ra mâu thuẫn  Đợi xong việc mới giải quyết
 Giải quyết dần dần  Cho qua, không giải quyết
18. Nhóm bạn giải quyết mâu thuẫn theo cách nào?
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
19. Bạn đánh giá như thế nào về hiệu quả làm việc của nhóm bạn?

69
Tiêu chí Mức độ hiệu quả tăng dần từ 1-
5

- Chất lượng công việc (vd như điểm số) 1 2 3 4 5


- Cách thức hoạt động của nhóm 1 2 3 4 5
- Kiến thức mà các thành viên nhận được 1 2 3 4 5
- Kỹ năng mà các thành viên nhận được 1 2 3 4 5
- Những thứ khác mà thành viên nhận được 1 2 3 4 5
- Khác (ghi rõ)……………………………. 1 2 3 4 5

20. Những đề xuất của bạn để nhóm bạn có thể hoạt động hiệu quả hơn?
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………

Một lần nữa rất cảm ơn bạn đã giúp đỡ chúng tôi hoàn thành bảng khảo sát này. Những
câu trả lời của bạn sẽ giúp được rất nhiều trong đề tài nghiên cứu của chúng tôi!

Câu hỏi phỏng vấn sâu

Đối với giảng viên của Khoa kinh tế-luật.

1. Nhận xét chung của thầy (cô) về tình hình làm việc nhóm của sinh viên Khoa kinh
tế-luật. Đánh giá cụ thể tình hình làm việc nhóm của sinh viên Khoa kinh tế-luật
qua thang điểm.
Rất không tốt Rất tốt
1 2 3 4 5

70
2. Theo thầy (cô) những hạn chế nào còn tồn tại trong quá trình làm việc nhóm của
sinh viên Khoa kinh tế-luật ?
3. Theo thầy (cô) để sinh viên Khoa kinh tế-luật làm việc nhóm hiệu quả hơn cần có
những đổi mới, những giải pháp gì ?

Đối với những sinh viên đã và đang học môn Kỹ năng làm việc nhóm.

1. Số lượng sinh viên tham gia lớp học Kỹ năng làm việc nhóm ?
2. Nhận xét của bạn về cách giảng dạy môn học này của các giảng viên.
3. Những kiến thức bạn học trong môn học này có giúp bạn làm việc nhóm được
hiệu quả hơn không ? Mức độ thay đổi hiệu quả làm việc nhóm của bạn trước và
sau khi học môn học này.
4. Nhận xét của bạn về việc thực hành và rèn luyện môn học này.
5. Bạn có đề xuất gì để cải thiện tình hình dạy và học môn Kỹ năng làm việc nhóm
không ?

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nguyễn Thị Oanh. (2007). “ Làm việc thao nhóm”. NXB trẻ.
2. John C.Maxwell. (2008). “17 nguyên tắc vàng trong làm việc nhóm”. NXB Lao
động Xã hội.
3. First news. (2006). “Xây Dựng Nhóm Làm Việc Hiệu Quả - Cẩm Nang Kinh
Doanh Harvard”. NXB Tổng Hợp Tp. Hồ Chí Minh.
4. Robert B Maddux. (2008). “Xây dựng nhóm làm việc - Creating Success”. NXB
Tổng hợp TP.HCM.

71
5. Maginn, Michael. (2008). “ Thúc đẩy nhóm làm việc hiệu quả”. NXB Tổng Hợp
Tp. Hồ Chí Minh.
6. Don Hellriegel và John W.Slocum.(2004). “Organizational behavior”.
7. Stephen P. Robbins. “ Organizational Behavior”.
8. Stallard, Michael Lee.(2008). “ Fired up or burned out : How to reignite your
team's passion, creativity, and productivity”.
9. Maginn, Michael. (2008). “ Making teams work : 24 lessons for working together
successfully”
10. Maddux, Robert B. (2008). “ Teambuilding”
11. “Teamwork - Kỹ Năng Làm Việc Nhóm”.(27/7/2009). Được lấy về từ:
http://www.connectionvn.com/index.php?
option=com_content&view=article&id=909:teamwork-ky-nang-lam-viec-
nhom&catid=131:ky-nang-mem&Itemid=163

12. “Kỹ Năng Làm Việc Nhóm”. (6/10/2009). Được lấy về từ:
http://www.kynang.edu.vn/ky-nang-lam-viec-nhom/

72

You might also like