You are on page 1of 29

\BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN


ĐẠI HỌC VINH
------

TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN


KHOA HỌC QUẢN LÝ
Đề tài: Nguyên Tắc Lãnh Đạo Chính Trị Và Kinh Tế Và Cách Vận
Dụng Ở Giai Đoạn Hiện Nay

Nguyễn Thế Trung


Sinh viên thực hiện :
Đông

Lớp học phần : Khoa Học Quản Lý

MSSV : 205731020510002

Giảng viên hướng dẫn : Phan Văn Tuấn

Tp. Vinh, tháng 12/2023


MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN.............................................................................................5

I. MỞ ĐẦU.................................................................................................6

1. Lý do chọn đề tài.................................................................................6

2. Mục đích nghiên cứu. .........................................................................7

3. Kết cấu đề tài. .....................................................................................8

4. Phạm vi nghiên cứu.............................................................................8

5. Phương pháp nghiên cứu. ...................................................................8

5. 1. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết:............................................8

5. 2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn..............................................8

II. NỘI DUNG..........................................................................................10

CHƯƠNG I – Nguyên Tắc Lãnh Đạo Về Chính Trị................................10

1. Khái niệm và cơ sở của nguyên tắc quản lý......................................10

2. Hệ Thống Chính Trị..........................................................................11

3. Đặc Điểm Chính Trị..........................................................................12

CHƯƠNG II - Nguyên Tắc Lãnh Đạo Về Kinh Tế..................................16

1. Đặc Trưng Nguyên Tắc Lãnh Đạo Về Kinh Tế. ..............................16

2. Tồn Đọng Và Một Số Hạn Chế.........................................................16

CHƯƠNG III - CÁCH VẬN DỤNG NGUYÊN TẮC LÃNH ĐẠO VỀ


CHÍNH TRỊ VÀ KINH TẾ Ở GIAI ĐOẠN HIỆN NAY...................................18

1. Khái niệm .........................................................................................18

2. Vận Dụng Nguyên Tắc Lãnh Đạo Về Chính Trị..............................18

3.Vận Dụng Nguyên Tắc Lãnh Đạo Về Kinh Tế..................................20

4.Giải Pháp................................................................................................
III. KẾT LUẬN.........................................................................................22
IV. TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................23
LỜI CẢM ƠN
Trước tiên với tình cảm sâu sắc và chân thành nhất, cho phép chúng em
được bày tỏ lòng biết ơn đến những tập thể và cá nhân đã hết lòng giúp đỡ
chúng em trong quá trình học tập tại Trường nhân văn – Trường Đại học Vinh.
Chúng em xin trân trọng cảm ơn quý thầy cô khoa học xã hội và nhân văn
Trường Đại học Vinh với vốn tri thức và tâm huyết của mình đã truyền dạy cho
bọn em những kinh nghiệm và kiến thức quý giá trong quãng thời gian học tập
và rèn luyện vừa qua. Đó không chỉ là những kiến thức, kinh nghiệm để chúng
em áp dụng riêng cho đồ án lần này mà còn là những bài học bổ ích để chúng
em vững vàng hơn khi bước vào nghề, vào đời.
Và đặc biệt, chúng em xin gửi lời cảm ơn chân thành và tri ân sâu sắc nhất
tới thầy Phan Văn Tuấn - Giảng viên giảng dạy học phần “Khoa học quản lý”,
đã quan tâm, giúp đỡ và hướng dẫn, chỉ bảo chúng em tận tình trong suốt thời
gian nghiên cứu và thực hiện đồ án. Chúng em xin chân thành cảm ơn thầy.
Vì kiến thức còn hạn chế và thiếu kinh nghiệm thực tiễn, cho nên đồ án
này của chúng em chắc chắn sẽ không tránh khỏi những sai sót. Mong rằng sẽ
nhận được sự chỉ bảo, sửa chữa của giảng viên để chúng em có thể nhận ra
những lỗi sai và thiếu sót, giúp bản thân nâng cao kiến thức kinh nghiệm, tạo
tiền đề cho chúng em phát triển sau này.

Em xin chân thành cảm ơn


Vinh, ngày 25 tháng 12 năm 2023
I. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nhà nước Xã hội chủ nghĩa Việt Nam là tổ chức mà thông qua đó Đảng Cộng
sản thực hiện sự lãnh đạo của mình đối với tiến trình phát triển của xã hội. Sự
lãnh đạo của Đảng giữ vai trò quyết định đối với sự phát triển của nhà nước Việt
Nam.

Sự lãnh đạo đó đối với hoạt động của nhà nước nói chung và hoạt động quản lý
hành chính nhà nước nói riêng là nguyên tắc hiến định,được quy định rõ ràng
trong
hiến pháp của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
2. Mục đích nghiên cứu.
Nghiên cứu những vấn đề lý luận các nguyên tắc lãnh đạo chính trị và kinh tếc.
Nêu rõ cách vận dụng trong giai đoạn hiện nay.
3. Kết cấu đề tài.
Nội dung đề tài gồm 2 phần chính:
Chương I – Nguyên Tắc Lãnh Đạo Về Chính Trị
Chương II – Nguyên Tắc Lãnh Đạo Về Kinh Tế
Chương III - CÁCH VẬN DỤNG NGUYÊN TẮC LÃNH ĐẠO VỀ
CHÍNH TRỊ VÀ KINH TẾ Ở GIAI ĐOẠN HIỆN NAY.
4. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của bài này là: Cơ quan hành chính nhà nước Việt
Nam
5. Phương pháp nghiên cứu.
5. 1. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết:
Thông qua phân tích đọc tài liệu thu thập thông tin và hệ thống hóa các tài
liệu đã tham khảo
5. 2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Phương pháp quan sát: thông qua việc trực tiếp quan sát và trao đổi thông
tin với cơ quan tổ chức chính quyền để hiểu rõ hơn về nghệ thuật quản lý lãnh
đạo 1 tổ chức hoạt động chính quyền nhà nước.
Phương pháp phân tích: phương pháp này được áp dựng khi phân thích
nội dung tài liệu để đưa ra khái niệm hợp lý về quản lý.
Phương pháp tổng hợp: tổng hợp tài liệu đã thu được và sắp xếp 1 cách
hợp lý đưa ra kết luận.
II. NỘI DUNG
CHƯƠNG I – Nguyên Tắc Lãnh Đạo Về Chính Trị
1. Khái niệm Chính trị
Chính trị là lĩnh vực của đời sống xã hội, bao gồm các hoạt động và các mối
quan hệ liên quan đến các công việc và giải quyết các vấn đề chung của toàn xã
hội1. Đây là biểu hiện bề ngoài của chính trị. Thực chất, chính trị là mối quan
hệ, sự tương tác giữa chủ thể xã hội với toàn bộ các tổ chức và thành viên trong
xã hội với quyền lực chi phối chứa đựng bên trong đó, quyền lực chung (quyền
lực xã hội), gọi là quyền lực chính trị.
Trong các công việc chung của xã hội thì công việc của nhà nước chiếm vị trí
quan trọng hàng đầu. Trong xã hội có giai cấp, giai cấp chiếm ưu thế luôn luôn
muốn giành lấy vai trò thực hiện các công việc chung để xác lập và duy trì địa vị
thống trị của giai cấp mình. Chính vì vậy, chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng, thực
chất chính trị là quan hệ giữa các giai cấp, là những hoạt động xoay quanh vấn
đề giành, giữ chính quyền và sử dụng quyền lực nhà nước.
Tất nhiên, chính trị không chỉ bao gồm các công việc của nhà nước. Xã hội
muốn tồn tại và phát triển thì còn hàng loạt vấn đề chung khác cần giải quyết
như các vấn đề liên quan đến hệ tư tưởng, ý thức, đạo đức xã hội, các phương án
giải quyết các vấn đề chung của xã hội khác với giai cấp, tầng lớp nắm quyền...
Vì vậy, bên cạnh nhà nước trong xã hội còn tồn tại các tổ chức chính trị khác.
2.Hệ thống chính trị
Hệ thống chính trị bao gồm toàn bộ các tổ chức chính trị, được lập ra để
thực hiện quyền lực chung của xã hội - quyền lực chính trị.
Trong chế độ dân chủ, các thành viên của xã hội cũng như các tổ chức xã
hội đều được tham gia ở mức độ nhất định hoạt động chính trị. Nhưng không
phải vì thế mà các tổ chức xã hội đó đều được gọi là các tổ chức chính trị. Chỉ
những tổ chức được lập ra chủ yếu để thực hiện quyền lực chính trị thì mới gọi
là tổ chức chính trị. Tổ chức chính trị có thể thực hiện các hoạt động khác nhưng
đó không phải nhiệm vụ cơ bản của nó.
Trong xã hội có giai cấp, quyền lực của giai cấp cầm quyền được thực
hiện bằng một hệ thống thiết chế và tổ chức chính trị nhất định.
Hệ thống chính trị là một chỉnh thể các tổ chức chính trị hợp pháp trong
xã hội, bao gồm các đảng chính trị, nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội
được liên kết với nhau trong một hệ thống tổ chức nhằm tác động vào các quá
trình của đời sống xã hội; củng cố, duy trì và phát triển chế độ chính trị phù hợp
với lợi ích của giai cấp cầm quyền.
Hệ thống chính trị xuất hiện cùng với sự thống trị của giai cấp, nhà nước
nhằm thực hiện đường lối chính trị của giai cấp cầm quyền. Do đó, hệ thống
chính trị mang bản chất giai cấp. Trong các nước phát triển theo con đường xã
hội chủ nghĩa, giai cấp công nhân và nhân dân lao động là chủ thể của quyền lực
chính trị, tổ chức và quản lý xã hội, quyết định
3. Đặc điểm của Chính trị
- Tính nhất nguyên chính trị
+ Không có chính đảng đối lập: Chế độ chính trị ở Việt Nam là thể chế chính trị
một đảng duy nhất cầm quyền. Trong những giai đoạn lịch sử nhất định, ngoài
Đảng Cộng sản Việt Nam, còn có Đảng Dân chủ và Đảng Xã hội. Tuy nhiên, hai
đảng này được tổ chức và hoạt động như những đồng minh chiến lược của Đảng
Cộng sản Việt Nam, thừa nhận vai trò lãnh đạo và vị trí cầm quyền duy nhất của
Đảng Cộng sản Việt Nam. Hệ thống chính trị ở Việt Nam là thể chế nhất nguyên
chính trị, không tồn tại các đảng chính trị đối lập.
+ Nhất nguyên về tổ chức (các thành phần đều là “cánh tay nối dài” của Đảng):
Hệ thống chính trị ở Việt Nam gắn liền với vai trò tổ chức và lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam. Mỗi tổ chức thành viên của hệ thống chính trị đều do Đảng
Cộng sản Việt Nam sáng lập vừa đóng vai trò là hình thức tổ chức quyền lực của
nhân dân (Nhà nước), tổ chức tập hợp, đoàn kết quần chúng, đại diện cho ý chí
và nguyện vọng của quần chúng (Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã
hội), vừa là tổ chức mà qua đó Đảng Cộng sản thực hiện sự lãnh đạo chính trị
đối với xã hội.
+ Nhất nguyên về tư tưởng: Tính nhất nguyên chính trị của hệ thống chính trị
được thể hiện ở tính nhất nguyên tư tưởng. Toàn bộ hệ thống chính trị đều được
tổ chức và hoạt động trên nền tảng tư tưởng là chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh.
- Tính thống nhất
Hệ thống chính trị ở Việt Nam bao gồm nhiều tổ chức có tính chất, vị trí, vai trò,
chức năng khác nhau nhưng có quan hệ chặt chẽ, gắn bó với nhau, tạo thành một
thể thống nhất. Sự thống nhất của các thành viên đa dạng, phong phú về
chức, phương thức hoạt động trong hệ thống chính trị đã tạo điều kiện để phát
huy sức mạnh tổng hợp và tạo ra sự cộng hưởng sức mạnh trong toàn bộ hệ
thống.
Tính thống nhất của hệ thống chính trị ở nước ta được xác định bởi các yếu tố
sau:
+ Sự lãnh đạo thống nhất của một đảng duy nhất cầm quyền là Đảng Cộng sản
Việt Nam.
+ Sự thống nhất về mục tiêu chính trị của toàn bộ hệ thống là xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam với nội dung: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh.
+ Sự thống nhất ở nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động là tập trung dân
chủ.
+ Sự thống nhất của hệ thống tổ chức ở từng cấp, từ Trung ương đến địa
phương, với các bộ phận hợp thành.
- Gắn bó mật thiết với nhân dân, chịu sự kiểm tra, giám sát của nhân dân
Đây là đặc điểm có tính nguyên tắc của hệ thống chính trị ở Việt Nam. Đặc
điểm này khẳng định hệ thống chính trị Việt Nam không chỉ gắn với chính trị,
quyền lực chính trị, mà còn gắn với xã hội. Trong hệ thống chính trị, có các tồ
chức chính trị (như Đảng, Nhà nước), các tổ chức vừa có tính chính trị, vừa có
tính xã hội (như Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội khác). Do
vậy, hệ thống chính trị không đứng trên xã hội, tách khỏi xã hội (như những lực
lượng chính trị áp bức xã hội trong các xã hội có bóc lột), mà là một bộ phận của
xã hội, gắn bó với xã hội. Cầu nối quan trọng giữa hệ thống chính trị với xã hội
chính là Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội.
Sự gắn bó mật thiết giữa hệ thống chính trị với nhân dân được thể hiện trên các
yếu tố:
+ Đây là quy luật tồn tại của Đảng, là nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng
cầm quyền.
+ Nhà nước là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
+ Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội là hình thức tập hợp, tổ chức
của chính các tầng lớp nhân dân.
+ Hệ thống chính trị là trường học dân chủ của nhân dân. Mỗi tổ chức trong hệ
thống chính trị là phương thức thực hiện quyền làm chủ của nhân dân.
- Sự kết hợp giữa tính giai cấp và tính dân tộc của hệ thống chính trị
+ Đặc điểm nổi bật của hệ thống chính trị ở Việt Nam là hệ thống chính trị đại
diện cho nhiều giai cấp, tầng lớp nhân dân. Các giai cấp, tầng lớp nhân dân được
đại diện bởi các tổ chức thành viên trong hệ thống chính trị, đều thừa nhận vai
trò lãnh đạo của giai cấp công nhân. Do vậy, hệ thống chính trị ở nước ta mang
bản chất giai cấp công nhân và tính dân tộc sâu sắc.

+ Lịch sử nền chính trị Việt Nam là cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp gắn liền
và bắt đầu từ mục tiêu giải phóng dân tộc, bảo vệ nền độc lập dân tộc. Các giai
cấp, dân tộc đoàn kết trong đấu tranh giành và bảo vệ nền độc lập dân tộc, hợp
tác để cùng phát triển. Sự tồn tại của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với tư cách là
thành viên quan trọng của hệ thống chính trị là yếu tố quan trọng tăng cường sự
kết hợp giữa giai cấp và dân tộc.
+ Sự kết hợp giữa tính giai cấp và tính dân tộc được khẳng định trong bản chất
của từng tổ chức thuộc hệ thống chính trị. Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên
phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao
động và của dân tộc Việt Nam. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội đã gắn kết vấn đề dân tộc với vấn đề giai cấp, tạo nên sức
mạnh tổng hợp của toàn bộ hệ thống chính trị. Sự phân biệt giữa dân tộc và giai
cấp mang tính tương đối và không có ranh giới rõ ràng.
CHƯƠNG II - Nguyên Tắc Lãnh Đạo Về Kinh Tế
1. Đặc Trưng Nguyên Tắc Lãnh Đạo Về Kinh Tế
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập
quốc tế, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với lĩnh vực kinh tế khác xa thời kỳ
cơ chế kế hoạch hóa tập trung bao cấp, nên cần phải được nghiên cứu, tiếp tục
đổi mới. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với lĩnh vực kinh tế để
vừa bảo đảm tôn trọng các quy luật kinh tế thị trường, vừa phát huy đầy đủ, vai
trò, chức năng quản lý của Nhà nước và giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa
là những vấn đề lớn cần quan tâm và giải quyết.
Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với lĩnh vực kinh tế (hay phương
thức lãnh đạo kinh tế của Đảng) là sự thể hiện (hay vận dụng) phương thức lãnh
đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội nói chung vào lĩnh vực kinh tế.
Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với lĩnh vực kinh tế thực hiện đầy đủ nội
dung, yêu cầu của phương thức lãnh đạo của Đảng nói chung, đồng thời phải
phù hợp với tính đặc thù của lĩnh vực kinh tế, kiến tạo những đặc trưng (hay đặc
thù) cho phương thức lãnh đạo của Đảng đối với lĩnh vực này(1).

Một là, nền kinh tế mà chúng ta đang xây dựng, phát triển là nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Bởi vậy, yêu cầu đầu tiên đối với
phương thức lãnh đạo kinh tế của Đảng là các quan điểm, chủ trương, đường lối
của Đảng lãnh đạo lĩnh vực kinh tế phải được thể chế hóa thành luật pháp, cơ
chế, chính sách của Nhà nước một cách chính xác, kịp thời, công khai, minh
bạch để mọi người, mọi chủ thể kinh tế và cả cơ quan, cán bộ, công chức nhà
nước tuân thủ, thực hiện. Đây là đặc trưng, là yếu tố quan trọng hàng đầu trong
phương thức lãnh đạo kinh tế của Đảng. Đảng lãnh đạo kinh tế thông qua Nhà
nước, bằng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Thực hiện luật pháp, chính
sách của Nhà nước là thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng. Cán bộ, tổ
chức đảng và cả cán bộ, công chức, cơ quan nhà nước không được can thiệp trực
tiếp bằng mệnh lệnh hành chính vào hoạt động của các chủ thể sản xuất, kinh
doanh.
Hai là, kinh tế là nền tảng của xã hội, có vai trò quan trọng đối với sự ổn
định và phát triển của đất nước, của đời sống nhân dân, uy tín, vị thế của đất
nước trên thế giới; quan hệ kinh tế là cơ sở hạ tầng của kiến trúc thượng tầng
chính trị, văn hóa, tinh thần của xã hội. Đảng cầm quyền ở mọi quốc gia đều đặc
biệt quan tâm tới lãnh đạo lĩnh vực kinh tế; cùng với đề ra chủ trương, định
hướng cho phát triển kinh tế, đảng cầm quyền đưa đảng viên chủ chốt của đảng
vào nắm giữ các vị trí lãnh đạo, quản lý các ngành, sắp xếp lại tổ chức bộ máy
quản lý kinh tế để thực hiện chủ trương, đường lối của mình; chỉ khi kinh tế phát
triển mới giữ vững được địa vị cầm quyền, vai trò lãnh đạo. Do đó, đặc trưng
thứ hai trong phương thức quản lý kinh tế của Đảng là cùng với việc đề ra chủ
trương, đường lối, Đảng cần phải quan tâm tới tổ chức thực hiện. Để tổ chức
thực hiện, Đảng phải có tổ chức đảng và có những đảng viên ưu tú giữ các vị trí
lãnh đạo chủ chốt trong các cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế để thể chế hóa
và tổ chức thực hiện được chủ trương, đường lối phát triển kinh tế của Đảng.

Ba là, kinh tế là lĩnh vực trực tiếp quản lý, nắm giữ, sử dụng những nguồn
lực, tài sản to lớn của đất nước, của xã hội; là lĩnh vực mà vì lợi nhuận, các
doanh nghiệp có thể làm ăn gian dối, vi phạm pháp luật, làm tổn hại đến chất
lượng sản phẩm, lợi ích của người tiêu dùng, của Nhà nước và xã hội. Kinh tế
cũng là lĩnh vực có nhiều cơ hội, nhiều cám dỗ để những người lãnh đạo, quản
lý nhà nước có liên quan phát sinh lòng tham, suy thoái đạo đức, lạm dụng chức
vụ, quyền hạn mưu lợi cá nhân, sách nhiễu, tham ô, tham nhũng, làm giàu bất
chính. Do đó, đặc trưng thứ ba trong phương thức lãnh đạo lĩnh vực kinh tế của
Đảng là Đảng cần phải đặc biệt quan tâm tới công tác kiểm tra, giám sát, ngăn
ngừa và xử lý sai phạm trong lĩnh vực kinh tế, những sai phạm của doanh
nghiệp, cũng như của các cơ quan, cán bộ, công chức quản lý kinh tế nhà nước,
nhất là trong lĩnh vực quản lý tài chính, tài sản của Nhà nước, đất đai, dự án đầu
tư công, doanh nghiệp nhà nước..., làm sao để các doanh nghiệp, cán bộ, công
chức quản lý kinh tế “không thể, không dám, không muốn” tham nhũng, tiêu
cực.

Bốn là, kinh tế là lĩnh vực có quan hệ chặt chẽ, hằng ngày, hằng giờ với
mọi người, mọi gia đình. Mỗi người đều quan tâm đến tình hình kinh tế ở những
góc độ khác nhau liên quan đến mình, với tư cách nhà đầu tư, người quản lý hay
người lao động, người tiêu dùng. Bởi vậy, đặc trưng thứ tư trong phương thức
lãnh đạo lĩnh vực kinh tế của Đảng là vai trò hết sức quan trọng của công tác
thông tin, tuyên truyền.
2.Tồn Đọng Và Một Số Hạn Chế
Một là, phương thức Đảng lãnh đạo lĩnh vực kinh tế bằng Cương lĩnh,
chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương lớn.

Từ Cương lĩnh, nghị quyết đại hội Đảng, chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội 10 năm, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm, kế hoạch phát triển kinh
tế - xã hội và dự toán ngân sách hằng năm, các nghị quyết chuyên đề, chỉ thị, kết
luận về các vấn đề kinh tế, có thể thấy rằng, số lượng các văn bản chỉ đạo của
Đảng là khá nhiều, gây khó cho đảng viên, cán bộ trong tổ chức học tập, quán
triệt có chất lượng. Các cơ quan chức năng của Nhà nước cũng khó khăn trong
việc thể chế hóa, triển khai thực hiện được kịp thời, đầy đủ các quan điểm, nội
dung mà các nghị quyết của Đảng đề ra.

Nhiều nội dung, nhiệm vụ nghị quyết của Đảng đề ra, nhưng còn thiếu
quan tâm đến nguồn lực, kinh phí thực hiện, nên tính khả thi trong hiện thực hóa
chưa cao.

Thông qua Đảng đoàn Quốc hội, Ban Cán sự đảng Chính phủ, ban cán sự
đảng trong các bộ, ngành, cơ quan trung ương, việc thể chế hóa các chủ trương,
quan điểm của Đảng thành luật pháp, chính sách được quan tâm đẩy mạnh. Đây
là những đổi mới đem lại kết quả tích cực, đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, vẫn còn những vấn đề, như chức năng, nhiệm vụ,
thẩm quyền, trách nhiệm của các đảng đoàn, ban cán sự đảng và mối quan hệ
giữa đảng đoàn, ban cán sự đảng với lãnh đạo cơ quan (Đảng đoàn Quốc hội với
lãnh đạo Quốc hội, Ban Cán sự đảng Chính phủ với lãnh đạo Chính phủ, ban
cán sự đảng bộ với lãnh đạo bộ) thế nào cho phù hợp, hợp lý để cũng những cán
bộ ấy, khi ở những vị trí, vai trò khác nhau, khi là ban cán sự đảng, đảng đoàn,
khi là lãnh đạo Chính phủ, lãnh đạo bộ, lãnh đạo Quốc hội, làm đúng vai trò, vị
trí của mình, bảo đảm vai trò lãnh đạo chính trị của Đảng, đồng thời phát huy
đầy đủ vai trò của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; để không trùng lắp,
“làm nhầm” công việc của nhau.
Tình trạng không “đúng vai, thuộc bài”, Đảng “lấn sân”, bao biện làm thay, hay
buông lỏng lãnh đạo đối với chính quyền còn thường xảy ra ở các địa phương,
từ tỉnh, thành phố, quận, huyện đến xã, phường, thị trấn, mặc dù ở mỗi cấp, cấp
ủy, lãnh đạo chính quyền các cấp đều có quy định về chức năng, nhiệm vụ, thẩm
quyền và trách nhiệm, có quy chế hoạt động và các quy chế hoạt động này đã
nhiều lần được sửa đổi, bổ sung để đáp ứng tốt hơn yêu cầu của thực tiễn. Tình
trạng cấp ủy bao biện, làm thay chính quyền, quyết định những dự án đầu tư,
những nhiệm vụ sản xuất, kinh doanh cụ thể, không đúng vai trò, chức năng,
làm phát sinh mâu thuẫn trong nội bộ hay buông lỏng lãnh đạo để chính quyền
“tự tung, tự tác”, cán bộ, công chức lạm dụng chức vụ, quyền hạn để trục lợi,
tham nhũng, tiêu cực diễn ra kéo dài ở không ít địa phương. Điều này, ngoài
nguyên nhân do năng lực, phẩm chất của cán bộ, có nguyên nhân là “ranh giới”
giữa lãnh đạo của cấp ủy và quản lý của cơ quan chính quyền chưa được xác
định rõ; đã có nhiều cố gắng để làm rõ “ranh giới” này, nhưng vẫn còn lúng
túng.

Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, doanh nghiệp nhà
nước đóng vai trò làm nòng cốt của kinh tế nhà nước, công cụ vật chất góp phần
bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô nên vai trò lãnh đạo của Đảng rất quan trọng.
Mặc dù Đảng đã có nhiều văn bản chỉ đạo đổi mới hoạt động của tổ chức đảng
trong doanh nghiệp nhà nước, nhưng vẫn có không ít tổ chức đảng yếu kém,
không thực hiện được vai trò lãnh đạo của mình; tính chiến đấu, tinh thần tự phê
bình, phê bình yếu, buông lỏng quản lý đảng viên; thậm chí có tổ chức cơ sở
đảng ở doanh nghiệp tê liệt sức chiến đấu, để xảy ra nhiều vụ, việc tiêu cực, lạm
dụng chức quyền, vi phạm pháp luật, tham nhũng, lãng phí, làm thất thoát lớn tài
sản nhà nước, cán bộ lãnh đạo, quản lý bị xử lý kỷ luật, truy tố. Trong nhiều
doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, tuy đã có tổ
chức cơ sở đảng, nhưng còn lúng túng trong hoạt động, nội dung hoạt động và
sinh hoạt đảng còn nghèo nàn, vai trò của tổ chức đảng mờ nhạt cả đối với hoạt
động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, cũng như đối với việc tuyên
truyền, vận động, giáo dục chính trị, tư tưởng và bảo vệ lợi ích của người lao
động.

Hai là, phương thức Đảng lãnh đạo lĩnh vực kinh tế bằng công tác tổ chức, giới
thiệu đảng viên ưu tú để bầu, bổ nhiệm vào vị trí lãnh đạo các cơ quan quản lý
nhà nước về kinh tế, các tổ chức kinh tế để lãnh đạo thông qua tổ chức đảng và
đảng viên trong các cơ quan và tổ chức này. Trong những năm qua, phương thức
lãnh đạo này có nhiều đổi mới, đem lại những kết quả tích cực. Tuy nhiên, tổ
chức bộ máy các cơ quan Đảng và Nhà nước còn cồng kềnh làm tăng thêm khả
năng cả hai phía cấp ủy hay cơ quan nhà nước vượt quá vai trò, chức năng của
mình, dẫn tới cấp ủy bao biện, làm thay hay buông lỏng lãnh đạo, còn cơ quan
quản lý nhà nước thụ động, dựa dẫm, ỷ lại hay có mặt thoát ly sự lãnh đạo của
Đảng. Việc thành lập đảng bộ tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước có các
doanh nghiệp thành viên nằm phân tán ở nhiều tỉnh, thành phố trong cả nước
làm cho đảng bộ các doanh nghiệp thành viên thoát ly khỏi sự lãnh đạo, kiểm
tra, giám sát của đảng bộ địa phương, nơi diễn ra chủ yếu các hoạt động sản
xuất, kinh doanh, sinh sống của cán bộ, đảng viên, công nhân viên, người lao
động của doanh nghiệp; còn đảng ủy tập đoàn, tổng công ty không thể nắm sát
được những phức tạp diễn ra trong sản xuất, kinh doanh và cuộc sống hằng ngày
của người lao động trong các doanh nghiệp thành viên. Việc thành lập Đảng bộ
Khối Doanh nghiệp Trung ương bao gồm đảng bộ của tất cả các tập đoàn kinh
tế, tổng công ty nhà nước ở các ngành, lĩnh vực khác nhau, có điều kiện lãnh
đạo tập trung, thống nhất các doanh nghiệp, nhưng khó có thể sâu sát trước tính
đa dạng của thành viên, nên nhiều hoạt động chủ yếu mang tính hành chính,
đảng vụ.

Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ của cả hệ
thống chính trị, trong đó có các cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế và các
doanh nghiệp nhà nước. Tuy nhiên, vẫn còn không ít trường hợp “đúng quy
trình, nhưng không đúng người”; có những trường hợp cán bộ được bổ nhiệm,
đề bạt “thần tốc”. Năng lực không được đánh giá toàn diện theo nhiều yếu tố,
như thái độ, kỹ năng, kiến thức mà nhiều khi qua bằng cấp, giấy chứng nhận,
các chương trình đào tạo đã tham gia; phẩm chất được đánh giá theo chủ quan
của số ít người có thẩm quyền; còn thành tích, cống hiến, đóng góp cho xã hội,
cho đất nước, thước đo của năng lực, phẩm chất của cán bộ trong thực tế, tạo
nên uy tín của cán bộ đối với tập thể, với cộng đồng không được chú ý, coi
trọng.

Ba là, phương thức Đảng lãnh đạo kinh tế bằng kiểm tra, giám sát và hành động
nêu gương của đảng viên. Trong những năm qua, phương thức lãnh đạo kinh tế
của Đảng bằng công tác kiểm tra, giám sát và vai trò nêu gương của đảng viên
được coi trọng, tăng cường và có nhiều đổi mới, đưa đến nhiều kết quả tích cực.
Tuy nhiên, nhiều tổ chức đảng, cấp ủy còn buông lỏng việc quản lý đảng viên,
buông lỏng công tác kiểm tra, giám sát; nhất là khi người đứng đầu, thành viên
lãnh đạo chủ chốt trong cấp ủy năng lực yếu, không hoàn thành nhiệm vụ, suy
thoái đạo đức, vi phạm pháp luật, tham nhũng, lãng phí. Khi đó, cấp ủy, tổ chức
đảng mất sức chiến đấu, sinh hoạt tự phê bình, phê bình trở thành hình thức,
hoạt động kiểm tra, giám sát hầu như bị vô hiệu hóa. Chính vì vậy, có nhiều vụ,
việc tiêu cực, vi phạm Điều lệ, quy định của Đảng, luật pháp, chính sách của
Nhà nước, tham nhũng, lãng phí, làm thất thoát tài sản của Nhà nước, gây hậu
quả nghiêm trọng, nhưng các tổ chức đảng, cơ quan nhà nước ở đó đều không tự
phát hiện ra. Vụ, việc chỉ được phát hiện do liên quan đến vụ, việc khác đang
hay đã được xử lý, do đơn, thư tố cáo của nhân dân, thông tin từ báo chí hay do
thanh tra, kiểm tra của cấp ủy, cơ quan nhà nước cấp trên.

Trong khi đó, vai trò giám sát của nhân dân, của báo chí đối với hoạt động của
tổ chức đảng, đảng viên, cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức nhà nước ngày
càng được khẳng định, nhưng chưa được thể chế hóa đầy đủ thành luật pháp,
chính sách, quy định và hướng dẫn cụ thể, nên việc phát huy vai trò còn hạn chế.
Một số cán bộ trong cơ quan kiểm tra, giám sát của Đảng, thanh tra của Nhà
nước hạn chế về năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, thiếu chủ động, tích
cực trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao, suy thoái về đạo đức, lối
sống, lạm dụng chức vụ, quyền hạn làm sai lệch hồ sơ, kết luận thanh tra, kiểm
tra, nhận hối lộ để bao che cho những cán bộ có sai phạm.

Một số định hướng tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với lĩnh
vực kinh tế hiện nay

Thứ nhất, cần nâng cao và thống nhất nhận thức về ý nghĩa, tầm quan trọng của
việc đổi mới phương thức lãnh đạo lĩnh vực kinh tế của Đảng để có quyết tâm,
kế hoạch tích cực thực hiện; phải tập trung khắc phục những hạn chế, vướng
mắc hiện nay trong phương thức lãnh đạo kinh tế của Đảng, nhất là những vấn
đề cấp thiết do thực tiễn đặt ra, những hạn chế, yếu kém đã kéo dài nhiều năm;
việc đổi mới cần được thực hiện tích cực nhưng phải có cơ sở, căn cứ khoa học,
thực tiễn, không chủ quan, duy ý chí; việc đổi mới phải đạt yêu cầu để các cấp
ủy, tổ chức đảng và các cơ quan, tổ chức quản lý kinh tế của Nhà nước thực hiện
đúng chức năng, thẩm quyền, trách nhiệm của mình, “đúng vai, thuộc bài”, “dọc
ngang thông suốt”, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong giai đoạn mới.
Đồng thời, việc đổi mới phương thức lãnh đạo lĩnh vực kinh tế của Đảng trong
giai đoạn hiện nay cần ứng dụng, sử dụng các phương pháp, công cụ, công nghệ
hiện đại, nhất là công nghệ số phục vụ cho hoạt động lãnh đạo của cấp ủy.

Thứ hai, định hướng đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với lĩnh vực
kinh tế bằng Cương lĩnh, nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Đảng.

Điểm mấu chốt là cần phân biệt rõ vai trò, chức năng lãnh đạo của Đảng với vai
trò, chức năng quản lý của Nhà nước. Với vai trò của Đảng cầm quyền, lãnh đạo
chính trị, đại hội Đảng toàn quốc, Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính
trị, Ban Bí thư Trung ương thông qua Cương lĩnh, nghị quyết, chỉ thị, kết luận,
đưa ra các quan điểm, chủ trương, mục tiêu, nhiệm vụ lớn về phát triển kinh tế,
định hướng cho Nhà nước thể chế hóa thành luật pháp, chính sách, chiến lược,
quy hoạch, kế hoạch, định mức, tiêu chuẩn kỹ thuật,... của kinh tế đất nước trong
từng giai đoạn. Đảng không làm thay Nhà nước. Do đó, việc đổi mới cần bám
sát tinh thần của Cương lĩnh là Đảng lãnh đạo bằng “định hướng chính sách và
chủ trương lớn”, tức không sa vào những “định hướng chính sách và chủ trương
quá cụ thể” dễ lấn sân với Nhà nước, nhất là khi xác định chiến lược, kế hoạch 5
năm và hằng năm, định mức, tiêu chuẩn kỹ thuật. Cần đổi mới cách Trung ương
ra nghị quyết chuyên đề về các vấn đề kinh tế. Nội dung nghị quyết của Trung
ương cũng không đi sâu, quá chi tiết vào những giải pháp cụ thể cho vấn đề đặt
ra, mà chỉ đưa ra các quan điểm, chủ trương, mục tiêu, nhiệm vụ, định hướng
giải pháp lớn đối với các ngành, lĩnh vực, các vùng, các thành phần kinh tế.

Tiếp tục phân định rõ chức năng, thẩm quyền, trách nhiệm của Đảng đoàn Quốc
hội, Ban Cán sự đảng Chính phủ, các ban cán sự đảng các bộ, cơ quan ngang bộ
với lãnh đạo Quốc hội, lãnh đạo Chính phủ và lãnh đạo các bộ, cơ quan ngang
bộ trong lĩnh vực kinh tế. Đảng đoàn Quốc hội, Ban Cán sự đảng Chính phủ, các
ban cán sự đảng bộ chịu trách nhiệm trước Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí
thư việc lãnh đạo, thể chế hóa đúng đắn, kịp thời các đường lối, chủ trương, nghị
quyết, chỉ thị, nhiệm vụ lớn và kế hoạch tổ chức thực hiện do Trung ương đề ra,
phát huy đúng vai trò của Quốc hội, Chính phủ, các bộ theo quy định của pháp
luật; đồng thời, lãnh đạo Quốc hội, Chính phủ, các bộ tổ chức thực hiện nghiêm
túc có kết quả. Trong lãnh đạo tổ chức thực hiện, phương thức lãnh đạo của
đảng đoàn, ban cán sự đảng là giám sát, kiểm tra, đôn đốc các đảng viên ở vị trí
lãnh đạo Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, Chính phủ, các bộ để các cơ quan
này xem xét, giải quyết vấn đề theo đúng chức năng, thẩm quyền do luật pháp
quy định. Ban cán sự đảng, đảng đoàn không quyết định những vấn đề cụ thể
thuộc thẩm quyền của các cơ quan nhà nước.

Tiếp tục phân định rõ vai trò, chức năng lãnh đạo của cấp ủy với vai trò, chức
năng quản lý nhà nước về kinh tế của chính quyền địa phương. Đồng thời, cấp
ủy kiểm tra, giám sát, đôn đốc tổ chức đảng và đảng viên, nhất là đảng viên giữ
các vị trí lãnh đạo chủ chốt trong các cơ quan chính quyền tổ chức thực hiện các
chủ trương, quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ do tổ chức đảng, cấp ủy địa phương
đề ra, cũng như việc thực hiện luật pháp, chính sách, quy hoạch, kế hoạch phát
triển kinh tế đất nước của Trung ương. Cấp ủy không giải quyết, quyết định
những vấn đề thuộc thẩm quyền của chính quyền theo quy định của pháp luật.

Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo, hoạt động của tổ chức đảng trong doanh
nghiệp, phù hợp với từng loại hình doanh nghiệp để thực hiện và phát huy vai
trò hạt nhân chính trị ở cơ sở của tổ chức đảng.

Thứ ba, định hướng tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo lĩnh vực kinh tế của
Đảng thông qua tổ chức đảng và đảng viên, bằng công tác tổ chức, cán bộ trong
các cơ quan quản lý kinh tế, đơn vị kinh tế nhà nước.

Tiếp tục nghiên cứu, sắp xếp lại, tinh gọn tổ chức bộ máy quản lý nhà nước ở
Trung ương đối với lĩnh vực kinh tế. Sắp xếp lại tổ chức đảng phù hợp với tổ
chức hệ thống các cơ quan nhà nước mới từ Trung ương đến địa phương. Xem
xét lại việc tổ chức đảng bộ toàn tập đoàn kinh tế, tổng công ty và Đảng ủy Khối
Doanh nghiệp Trung ương theo hướng gắn đảng bộ các doanh nghiệp thành viên
với đảng bộ địa phương nơi doanh nghiệp hoạt động, đồng thời vẫn chịu sự lãnh
đạo của tập đoàn, tổng công ty về thực hiện nhiệm vụ sản xuất, kinh doanh và
công tác cán bộ, đối với những cán bộ thuộc diện tập đoàn, tổng công ty quản lý
(tương tự như các đảng bộ công an, quân sự, đảng bộ cục thuế, kho bạc ở các
tỉnh, thành phố vừa chịu sự lãnh đạo của đảng bộ tỉnh, thành phố, vừa chịu sự
lãnh đạo ngành dọc của Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, các quân khu, Tổng cục
Thuế, Bộ Tài chính...). Đặc điểm lớn nhất, quan trọng nhất của Đảng cầm quyền
là đưa đảng viên của Đảng vào nắm giữ các vị trí lãnh đạo chủ chốt của bộ máy
nhà nước. Vì vậy, phải lựa chọn được những người thật sự có năng lực, phẩm
chất, uy tín, có tính đảng cao, trung thành với sự nghiệp cách mạng của Đảng,
của dân tộc, của nhân dân, để nắm giữ các vị trí lãnh đạo chủ chốt của bộ máy
nhà nước ở các cấp.
Khi đánh giá, lựa chọn để quy hoạch, giới thiệu bầu, bổ nhiệm cán bộ vào vị trí
lãnh đạo các cơ quan đảng, nhà nước, cấp ủy và các cơ quan tham mưu giúp
việc cấp ủy, nhất là cơ quan tổ chức, cần phải xem xét đầy đủ cả về phẩm chất
và năng lực, đức và tài, cả quá trình công tác, thành tích, cống hiến của cán bộ
cho cơ quan, đơn vị, cho ngành, địa phương, tạo nên uy tín của cán bộ, trên cơ
sở có thông tin đa chiều, được tập hợp từ nhiều kênh, nhiều nguồn. Quản lý chặt
chẽ cán bộ, đảng viên, phát hiện và loại bỏ kịp thời những cán bộ, đảng viên suy
thoái tư tưởng, đạo đức, lối sống, vi phạm kỷ luật đảng, pháp luật của Nhà nước,
ảnh hưởng xấu đến uy tín của Đảng, Nhà nước.

Thứ tư, tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo lĩnh vực kinh tế của Đảng bằng
kiểm tra, giám sát và gương mẫu của đảng viên.

Cấp ủy, người đứng đầu cấp ủy cần nhận thức và xác định, kiểm tra, giám sát là
trách nhiệm, nhiệm vụ hàng đầu của cơ quan lãnh đạo, của người lãnh đạo. Hoạt
động của mọi tổ chức đảng, đảng viên đều phải có sự kiểm tra, giám sát; mọi
lĩnh vực, mọi công việc có sự lãnh đạo của Đảng đều phải được kiểm tra, giám
sát; đặc biệt lĩnh vực kinh tế là lĩnh vực rộng lớn, phức tạp, có nhiều cám dỗ,
làm cho cán bộ, đảng viên có chức, có quyền dễ dẫn đến sai phạm, do vậy, hoạt
động kiểm tra, giám sát lại càng cần thiết và quan trọng. Mọi tổ chức đảng, đảng
viên hoạt động trong lĩnh vực kinh tế đều phải tự giác, tự kiểm tra, giám sát
mình, chịu sự kiểm tra, giám sát của tổ chức đảng, sự kiểm tra, giám sát của
nhân dân.

Sau đại hội đảng bộ, trên cơ sở mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế của đảng
bộ trong cả nhiệm kỳ đã được đại hội thông qua, cấp ủy cần xây dựng kế hoạch
kiểm tra, giám sát của cấp ủy đối với lĩnh vực kinh tế trong cả nhiệm kỳ, có
phân chia cho từng năm, từng quý, bao gồm kiểm tra, giám sát thường kỳ, đột
xuất, vừa bảo đảm tính toàn diện, vừa có trọng tâm, trọng điểm, tập trung vào
những lĩnh vực, địa bàn quan trọng hay có nhiều vấn đề đang đặt ra; phân công
người phụ trách, tổ chức thực hiện, ban hành quy chế, hướng dẫn công tác kiểm
tra, giám sát; hằng năm, có đánh giá kết quả thực hiện, điều chỉnh, bổ sung kế
hoạch cho phù hợp với thực tiễn.

Tiếp tục đổi mới hoạt động kiểm tra, giám sát trong Đảng, cần cụ thể hóa, thể
chế hóa, quy chế hóa vai trò giám sát của nhân dân, của các cơ quan báo chí đối
với tổ chức đảng, cấp ủy, cán bộ, đảng viên. Cần có quy định cụ thể về việc cấp
ủy, tổ chức đảng cung cấp cho nhân dân, các cơ quan báo chí thông tin về chủ
trương, đường lối của Đảng, pháp luật, chính sách kinh tế của Nhà nước, về hoạt
động và kết quả hoạt động của cấp ủy, tổ chức đảng, của cán bộ, đảng viên, nhất
là của người đứng đầu, cán bộ lãnh đạo, quản lý trong lĩnh vực kinh tế; cần có
quy định và hướng dẫn cụ thể về nội dung, phương thức giám sát, về việc công
bố và sử dụng kết quả giám sát, về hiệu lực, giá trị ràng buộc của các đề xuất,
kiến nghị sau khi giám sát... Là Đảng cầm quyền, tổ chức đảng, cấp ủy trong các
cơ quan nhà nước cần quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo việc đổi mới, nâng cao chất
lượng hoạt động giám sát của Quốc hội (bao gồm cả các ủy ban, các đoàn đại
biểu, các đại biểu Quốc hội), của các cơ quan tư pháp, của Thanh tra Chính phủ
đối với lĩnh vực kinh tế.

Mọi cấp ủy, tổ chức đảng, mọi cán bộ, đảng viên cần quán triệt sâu sắc về sự cần
thiết, ý nghĩa quan trọng của sự gương mẫu, nêu gương của người cán bộ, đảng
viên để tự giác, chủ động phấn đấu thực hiện. Các cấp ủy, tổ chức đảng cần tăng
cường giáo dục, tuyên truyền, vận động, động viên, cổ vũ, xây dựng các tiêu chí,
tiêu chuẩn, hình mẫu người cán bộ, đảng viên gương mẫu trên các lĩnh vực, các
vị trí công tác, gương mẫu trong chấp hành chủ trương, đường lối của Đảng, luật
pháp, chính sách của Nhà nước, gương mẫu đi đầu trong đổi mới sáng tạo, sáng
kiến cải tiến, ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ, nâng cao năng suất, chất
lượng, hiệu quả sản xuất, kinh doanh, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao,
gương mẫu trong tác phong, lối sống khiêm tốn, giản dị, nếp sống lành mạnh,
xây dựng gia đình văn hóa, đấu tranh với các hành vi sai trái, tiêu cực... Thực
hiện những điều này một cách kiên trì, bền bỉ sẽ trở thành phong trào trong
Đảng và lan tỏa ra toàn dân, toàn xã hội./.
CHƯƠNG III - CÁCH VẬN DỤNG NGUYÊN TẮC LÃNH ĐẠO VỀ
CHÍNH TRỊ VÀ KINH TẾ Ở GIAI ĐOẠN HIỆN NAY.
1. Khái niệm
Nguyên tắc lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam về chính trị và kinh tế là
những quy định, nguyên tắc cơ bản mà Đảng phải tuân thủ trong quá trình lãnh
đạo đất nước. Nguyên tắc này được thể hiện trong Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011)
và các văn kiện của Đảng, Nhà nước.

Trong giai đoạn hiện nay, khi đất nước đang thực hiện công cuộc đổi mới toàn
diện, hội nhập quốc tế sâu rộng, việc vận dụng nguyên tắc lãnh đạo của Đảng về
chính trị và kinh tế cần được thực hiện một cách sáng tạo, phù hợp với tình hình
thực tế
2. Vận Dụng Nguyên Tắc Lãnh Đạo Về Chính Trị
Đề cao vai trò lãnh đạo của Đảng : Đây là nguyên tắc cơ bản, xuyên suốt
trong quá trình lãnh đạo của Đảng. Trong giai đoạn hiện nay, Đảng cần tiếp tục
nâng cao vai trò lãnh đạo đối với toàn bộ hệ thống chính trị, xã hội, đảm bảo cho
đường lối, chủ trương của Đảng được thực hiện thắng lợi.

Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng : Phương thức lãnh đạo của
Đảng cần được đổi mới theo hướng khoa học, dân chủ, thực sự dựa vào nhân
dân. Đảng cần phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, của toàn
dân tộc, tạo sự đồng thuận xã hội trong quá trình lãnh đạo đất nước.

Xây dựng Đảng vững mạnh : Đảng cần tiếp tục xây dựng, chỉnh đốn,
nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ
trong giai đoạn mới.
3. Vận Dụng Nguyên Tắc Lãnh Đạo Về Kinh Tế
Đề ra đường lối, chủ trương, định hướng phát triển kinh tế : Đảng cần tiếp
tục đề ra đường lối, chủ trương, định hướng phát triển kinh tế phù hợp với thực
tiễn của đất nước, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế. Đường lối, chủ trương,
định hướng phát triển kinh tế cần được thể chế hóa thành pháp luật, chính sách,
quy định cụ thể để thực hiện.

Tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương, định hướng phát triển kinh tế : Đảng
cần lãnh đạo, chỉ đạo các cơ quan, tổ chức thực hiện nghiêm túc đường lối, chủ
trương, định hướng phát triển kinh tế. Đảng cần phát huy vai trò của các tổ chức
kinh tế của Đảng, Nhà nước trong việc thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế.

Kiểm tra, giám sát việc thực hiện đường lối, chủ trương, định hướng phát triển
kinh tế : Đảng cần tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện đường lối, chủ
trương, định hướng phát triển kinh tế. Qua kiểm tra, giám sát, Đảng kịp thời
phát hiện những vấn đề bất cập, hạn chế trong quá trình thực hiện, đề ra giải
pháp khắc phục.

Việc vận dụng nguyên tắc lãnh đạo của Đảng về chính trị và kinh tế trong
giai đoạn hiện nay có ý nghĩa quan trọng đối với việc xây dựng, phát triển đất
nước. Đảng cần tiếp tục quán triệt, thực hiện nghiêm túc nguyên tắc này, góp
phần đưa đất nước phát triển nhanh, bền vững.

4.Giải pháp
Cụ thể để vận dụng nguyên tắc lãnh đạo của Đảng về chính trị và kinh tế
trong giai đoạn hiện nay:

Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục


Đảng cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục về nguyên tắc lãnh
đạo của Đảng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân. Qua đó, nâng cao nhận thức,
trách nhiệm của mọi người trong việc thực hiện nguyên tắc này.

Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng : Đảng cần tiếp tục
đổi mới phương thức lãnh đạo, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của
Đảng. Đảng cần xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên có phẩm chất, năng lực, uy
tín, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn mới.

Tăng cường vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã
hội : Đảng cần phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị -
xã hội trong việc thực hiện nguyên tắc lãnh đạo của Đảng. Mặt trận Tổ quốc và
các tổ chức chính trị - xã hội cần tích cực tham gia xây dựng Đảng, xây dựng hệ
thống chính trị vững mạnh, góp phần thực hiện thắng lợi đường lối, chủ trương
của Đảng.

Tăng cường hợp tác quốc tế :Đảng cần chủ động, tích cực hội nhập quốc
tế, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế.

III. KẾT LUẬN


Khoa học quản lý là một Chương trình đào tạo ngành Khoa học quản lý
cung cấp cho sinh viên một hệ thống kiến thức về lý luận và phương pháp lãnh
đạo, quản lý. Các kiến thức về chuyên ngành khoa học quản lý và những liên
ngành khác cần phải nắm rõ như: Kinh tế, tài chính, chính sách, tâm lý, thông
tin.Trang bị tầng kiến thức chuyên sâu về tư vấn quản lý, khả năng trình bày,
giao tiếp cộng tác trong công việc; có năng lực phân tích và giải quyết các vấn
đề quản lý; có khả năng tổ chức, huy động và thuyết phục đối tượng quản lý
thực hiện mục tiêu của tổ chức. Ngành quản lý khoa học thật sự phù hợp với
những cá nhân thích quản lý, quản trị, thích sự thách thức sáng tạo trong công
việc. Khoa học quản lý Ngành có cơ hội thăng tiến cao Ngành khoa học quản
lý là ngành chuyên đào tạo các hoạt động quản lý bao gồm: Phương pháp quản
lý, nguyên tắc quản lý, chức năng của quy trình quản lý và quyết định quản lý để
áp dụng vào thực tế cuộc sống, công việc đạt hiệu quả. Ngành học này giúp sinh
viên nắm vững quy luật quản lý, hiểu được các phạm trù của khoa học quản lý.
Từ đó, có cơ sở nhận thức một cách đúng đắn về ngành nghề mình học áp dụng
vào công việc sau khi ra trường.Chương trình đào tạo ngành Khoa học quản lý
cung cấp cho sinh viên một hệ thống kiến thức về lý luận và phương pháp lãnh
đạo, quản lý. Các kiến thức về chuyên ngành khoa học quản lý và những liên
ngành khác cần phải nắm rõ như: Kinh tế, tài chính, chính sách, tâm lý, thông
tin...Trang bị tầng kiến thức chuyên sâu về tư vấn quản lý, khả năng trình bày,
giao tiếp cộng tác trong công việc; có năng lực phân tích và giải quyết các vấn
đề quản lý; có khả năng tổ chức, huy động và thuyết phục đối tượng quản lý
thực hiện mục tiêu của tổ chức
IV. TÀI LIỆU THAM KHẢO
http://elearning.vinhuni.edu.vn/pluginfile.php/315653/mod_folder/content/
0/05.%20B%C3%80I%20GIANG%20H%E1%BB%8CC%20PH
%E1%BA%A6N%20KHQL%20-.pdf?forcedownload=1
http://elearning.vinhuni.edu.vn/mod/scorm/view.php?id=144045
https://career.gpo.vn/nganh-khoa-hoc-quan-ly-la-gi-hoc-nganh-khoa-hoc-quan-
ly-ra-truong-lam-gi-a2269.html
Giáo trình khoa học quản lý

You might also like