You are on page 1of 127

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA

HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN

ĐỖ HỮU HÒA

NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO CỦA ÐẢNG UỶ


KHỐI DOANH NGHIỆP TRUNG ƯƠNG HIỆN NAY

Ngành: Chính trị học


Mã số : 60 31 02 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS, TS. LƯU VĂN QUẢNG

HÀ NỘI - 2015
LỜI CẢM ƠN

Trước hết, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới các thầy cô trong
Khoa Chính trị học – Học viện Báo chí và Tuyên truyền, các thầy cô Viện
Chính trị học - Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Đặc biệt là Thầy
giáo PGS, TS Lưu Văn Quảng - người đã nhiệt tâm hướng dẫn em trong suốt
quá trình thực hiện đề tài.
Nhân dịp này, em cũng gửi lời cảm ơn tới gia đình, bạn bè và những
người thân luôn ở bên, động viên, giúp đỡ, khuyến khích em trong quá trình
học tập và nghiên cứu. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện luận văn sẽ không
thể tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được sự giúp đỡ từ thầy cô và
bạn bè.

Hà Nội, tháng 9 năm 2015


Tác giả

Đỗ Hữu Hòa
LỜI CAM ĐOAN

Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu và
tài liệu được sử dụng trong luận văn có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng. Các kết
quả nghiên cứu của Luận văn chưa được công bố ở bất cứ công trình nghiên
cứu khoa học nào.

NGƯỜI VIẾT CAM ĐOAN

Đỗ Hữu Hòa
MỤC LỤC

MỞ ĐẦU..................................................................................................1
Chương 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO CỦA
CẤP ỦY ĐẢNG.......................................................................................7
1.1. Vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của cấp ủy đảng.................7
1.2. Năng lực lãnh đạo của cấp ủy đảng và các yếu tố cấu thành
năng lực lãnh đạo của cấp ủy đảng..........................................13
1.3. Yêu cầu nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng ủy trực thuộc
Trung ương hiện nay................................................................26
Chương 2: NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG UỶ KHỐI
DOANH NGHIỆP TRUNG ƯƠNG HIỆN NAY - THỰC TRẠNG
VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA...........................................................33
2.1. Khái quát về Đảng uỷ Khối Doanh nghiệp Trung ương..........33
2.2. Thực trạng năng lực lãnh đạo của Đảng ủy Khối Doanh nghiệp
Trung ương...............................................................................42
2.3. Những vấn đề đặt ra về các yếu tố năng lực lãnh đạo của Đảng ủy
Khối Doanh nghiệp Trung ương..............................................70
Chương 3: MỘT SỐ QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO
NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG UỶ KHỐI DOANH NGHIỆP
TRUNG ƯƠNG.....................................................................................79
3.1. Quan điểm cơ bản về việc nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý
của Đảng uỷ Khối Doanh nghiệp Trung ương.........................79
3.2. Một số nhóm giải pháp chủ yếu..............................................86
KẾT LUẬN..........................................................................................103
TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................105
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
AFTA : Khu vực mậu dịch tự do ASEAN
ASEAN : Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á
BCH : Ban Chấp hành
BTV : Ban Thường vụ
CN : Công nghiệp
CNH, HĐH : Công nghiệp hóa – hiện đại hóa
CNXH Chủ nghĩa xã hội
CT : Chỉ thị
CTQG : Chính trị Quốc gia
ĐHĐB : Đại hội đại biểu
ĐT & PTVN : Đầu tư và phát triển Việt Nam
ĐUK : Đảng ủy Khối
KD : Kinh doanh
KL : Kết luận
KS VN : Khoáng sản Việt Nam
KTNN : Kinh tế Nhà nước
LHQ : Liên hợp quốc
NN : Nhà nước
NN & PTNTVN : Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam
NQ : Nghị quyết
Nxb : Nhà xuất bản
ROE : Tỷ xuất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu
ST : Sự thật
TCCSĐ : Tổ chức cơ sở đảng
TCT : Tổng công ty
TĐ : Tập đoàn
TMCP : Thương mại cổ phần
Tp.HCM : Thành phố Hồ Chí Minh
TW : Trung ương
VN : Việt Nam
WTO : Tổ chức thương mại thế giới
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
XL : Xây lắp
1

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Trong bất cứ giai đoạn nào, thời điểm nào của sự nghiệp cách mạng,
vấn đề cán bộ, công tác cán bộ, năng lực của đội ngũ cán bộ mà đặc biệt là
năng lực lãnh đạo của cấp ủy đảng, của tổ chức Đảng các cấp là vấn đề nổi
trội và có ý nghĩa quyết định tới sự thành bại của sự nghiệp cách mạng của
Đảng và dân tộc. Đảng muốn lãnh đạo cách mạng thì phải có đường lối đúng,
nhưng để cho đường lối đó trở thành hiện thực thì phải có một đội ngũ cán bộ
đảng viên, đội ngũ cấp ủy viên vững vàng, có phẩm chất tốt, bản lĩnh trí tuệ
và năng lực lãnh đạo tốt để giúp Đảng hoạch định và tổ chức đường lối đó.
Trong điều kiện hiện nay, khi mà công cuộc đổi mới dưới sự lãnh đạo
của Đảng đang đi vào chiều sâu, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế với đầy những biến động, khó khăn thách
thức và những vận hội mới, những mặt trái của của nền kinh tế thị trường …
đã tác động nhiều mặt đến công tác cán bộ, đến phẩm chất, năng lực lãnh đạo
của cấp ủy các tổ chức đảng. Mặt khác, tình trạng một bộ phận cán bộ đảng
viên kể cả một số cán bộ chủ chốt, một số đảng viên là cấp ủy viên các cấp
yếu kém về phẩm chất và năng lực, vừa thiếu tính tiên phong, gương mẫu vừa
không đủ trình độ hoàn thành nhiệm vụ đang ngày càng phổ biến và có chiều
hướng gia tăng… Điều đó đặt ra yêu cầu mới, nhiệm vụ mới, một cách bức
thiết nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo của cấp ủy đảng đáp ứng yêu cầu của
thời kỳ cách mạng mới. Sự nghiệp đổi mới và công nghiệp hoá, hiện đại hoá
có thành công hay không phụ thuộc vào năng lực lãnh đạo của tổ chức đảng
mà cốt lõi là tập thể cấp ủy.
Ðảng ủy Khối Doanh nghiệp Trung ương là cấp ủy trực thuộc Ban
Chấp hành Trung ương, chịu sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp và thường xuyên
của Bộ Chính trị, Ban Bí thư; là cấp ủy cấp trên trực tiếp của các đảng bộ tập
2

đoàn kinh tế, tổng công ty, ngân hàng, đơn vị trực thuộc Khối. Từ khi thành
lập đến nay Ðảng uỷ Khối Doanh nghiệp Trung ương luôn quan tâm đến công
tác nâng cao năng lực lãnh đạo của mình.
Trong bối cảnh thế giới còn nhiều diễn biến phức tạp: nền kinh tế thế
giới phục hồi chậm và có nhiều biến động khó lường. Sự bất ổn về tài chính -
tiền tệ và vấn đề nợ công tiếp tục gây ra những hiệu ứng bất lợi đối với nền
kinh tế thế giới và Việt Nam, thì một số Tập đoàn, Tổng công ty, đơn vị trong
Khối nhất là khối công nghiệp đóng tàu và vận tải biển, mặc dù có dấu hiệu
phục hồi sau khủng hoảng nhưng vẫn còn nhiều khó khăn, bất ổn. Điều này
liên quan một cách trực tiếp tới năng lực lãnh đạo của đội ngũ cán bộ lãnh
đạo, quản lý của các đơn vị nói chung, và năng lực lãnh đạo của Đảng ủy
Khối doanh nghiệp Trung ương nói riêng. Trong bối cảnh đó, với tư cách là
cơ quan lãnh đạo của Đảng đối với các Tập đoàn kinh tế, Tổng công ty, ngân
hàng thương mại, cổ phần thì yêu cầu nâng cao năng lực lãnh đạo của Ðảng
uỷ khối là rất quan trọng và vô cùng bức thiết. Với những suy nghĩ đó học
viên đã chọn đề tài: “Năng lực lãnh đạo của Ðảng uỷ Khối doanh nghiệp
Trung ương hiện nay” làm luận văn Thạc sĩ chuyên ngành chính trị học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong thời gian qua vấn đề năng lực lãnh đạo nói chung và nâng cao
năng lực lãnh đạo cho các cấp ủy đảng, đảng bộ đã được nhiều nhà nghiên
cứu quan tâm bàn luận. Đã có nhiều công trình, đề tài, bài viết nghiên cứu về
vấn đề này. Có thể nêu lên một số công trình sau:
- Bùi Thế Vĩnh (chủ biên), “Xây dựng đạo đức cán bộ, công chức Việt
Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc
tế, Nxb Thống kê, Hà Nội, 2003. Cuốn sách đã làm rõ nội dung xây dựng đạo
đức cán bộ, công chức trong hệ thống cơ quan nhà nước, đáp ứng đòi hỏi
trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
3

- Nguyễn Phú Trọng và Trần Xuân Sầm (Đồng chủ biên), “Luận cứ
khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đấ nước”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2003. Cuốn sách trình bày những quan điểm có tính chất nền tảng để năng cao
chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước.
- Trương Thị Thông (Chủ biên), “Những giải pháp chủ yếu nhằm nâng
cao năng lực tổ chức hoạt động thực tiễn của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp
huyện biên giới phía Bắc”, Đề tài khoa học cấp bộ, Hà Nội, 2001. Công trình
đã làm rõ những giải pháp nhằm nâng cao năng lực tổ chức trong các hoạt
động thực tiễn của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện trên địa bàn các huyện
biên giới phía Bắc nước ta.
- Lê Phương Thảo (Chủ biên) “Những giải pháp nhằm nâng cao năng
lực tổ chức thực hiện nghị quyết của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện ở các
tỉnh Bắc Trung Bộ”, Đề tài khoa học cấp bộ, Hà Nội, 2001. Các tác giả đã
luận giải những giải pháp cụ thể nhằm năng cao năng lực tổ chức, thực hiện
các nghị quyết đối với đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện ở các tỉnh Bắc
Trung Bộ. Từ lý luận đến các hoạt động thực tiễn.
- Trần hậu Thành, “Xây dựng đội ngũ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh, thành
phố”, Tạp chí Xây dựng Đảng, số 7, 2006.
- Hoàng Chí Bảo (2002), “Giáo dục và thực hành đạo đức, lối sống của
cán bộ, đảng viên theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa”, Tạp chí Lịch sử Đảng, (2).
- Dương Xuân Ngọc (2003), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về đào tạo và
huấn luyện cán bộ”, Tạp chí xây dựng Đảng, (7).
- Trần Minh Quế (2007), “Nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý của đội
ngũ cán bộ chủ chủ chốt xã, phường, thị trấn ở Bắc Giang”, Tạp chí xây dựng
Đảng (9).
4

- Trần Đình Thu (2007), “Bốn giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ
cán bộ chủ chốt cấp xã ở Kon Tum”, Tạp chí xây dựng Đảng, (9).
- Đậu Thế Biểu, “Nâng cao đạo đức cán bộ, đảng viên trong thời kỳ
mới”, Tạp chí Xây dựng Đảng, số 8/1996.
- Phạm Công Khâm (2000), “Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã
vùng nông thôn đồng bằng song Cửu Long”, Luận án tiến sĩ lịch sử, Học viện
Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
- Nguyễn Thị Lương Uyên (2007), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ
với việc nâng cao năng lực lãnh đạo của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở
tỉnh Bắc Giang”, Luận văn thạc sỹ khoa học chính trị, Học viện Chính trị
Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
- Nguyễn Văn Quyết (2000), “Xây dựng đạo đức mới cho cán bộ lãnh
đạo, quản lý trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay qua thực tế
tỉnh Kiên Giang”, Luận văn thạc sỹ Triết học, Hà Nội, …….
Các công trình nghiên cứu trên đã phân tích sâu sắc những vấn đề liên
quan đến năng lực lãnh đạo của đội ngũ cán bộ, năng lực lãnh đạo của tổ chức
cơ sở đảng, luận giải những vấn đề lý luận và thực tiễn đặt ra ở nhiều góc độ,
cách tiếp cận khác nhau. Nhưng có thể nói đến nay vẫn chưa có công trình
nghiên cứu nào đi sâu phân tích về năng lực lãnh đạo của Đảng uỷ Khối
Doanh nghiệp Trung ương. Vì vậy, trên cơ sở kế thừa có chọn lọc các kết quả
nghiên cứu đã được công bố, tôi hy vọng góp phần làm rõ thêm về thực trạng
năng lực lãnh đạo của Đảng uỷ Khối Doanh nghiệp Trung ương hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục tiêu nghiên cứu: Luận văn khảo sát thực trạng năng lực lãnh
đạo của Đảng ủy Khối Doanh nghiệp Trung ương, từ đó đề xuất các giải pháp
nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng uỷ cơ quan này trong bối cảnh
mới hiện nay.
5

- Nhiệm vụ nghiên cứu:


+ Luận văn hệ thống hóa những vấn đề lý luận về năng lực lãnh đạo.
+ Phân tích thực trạng năng lực lãnh đạo của Đảng ủy Khối Doanh
nghiệp Trung ương hiện nay.
+ Chỉ ra những vấn đề đang đặt ra trong việc nâng cao năng lực lãnh
đạo của Đảng uỷ Khối Doanh nghiệp Trung ương.
+ Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng ủy
Khối Doanh nghiệp Trung ương.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của luận văn là năng
lực lãnh đạo của Đảng uỷ Khối Doanh nghiệp Trung ương.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Đảng uỷ Khối Doanh nghiệp Trung ương.
+ Thời gian: giai đoạn từ 2009 đến 2015.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: Luận văn được nghiên cứu trên nền tảng lý luận của
chủ nghĩa Mác - Lênin, quan điểm duy vật lịch sử và duy vật biện chứng;
quan điểm tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác cán bộ; quan điểm của Đảng
Cộng sản Việt Nam về cấp ủy, cấp ủy viên và tổ chức cơ sở đảng.
- Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng các phương pháp
nghiên cứu cụ thể như: điều tra khảo sát, phân tích tài liệu, thống kê, phương
pháp chuyên gia.
6. Đóng góp mới của đề tài
Luận văn góp phần hệ thống hoá một số vấn đề lý luận về năng lực
lãnh đạo, và nâng cao năng lực lãnh đạo của cấp ủy đảng. Xây dựng hệ thống
các nhóm giải pháp mới, đột phá nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo của cấp ủy
đảng thuộc Đảng ủy Khối Doanh nghiệp Trung ương; chỉ ra những vấn đề
6

đang dặt ra trong việc nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng ủy Khối nói
chung. Những kết quả nghiên cứu của luận văn có thể tham khảo trong việc
giảng dạy, nâng cao năng lực lãnh đạo của các cấp bộ đảng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn
kết cầu gồm 03 chương và 08 tiết.
7

Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO
CỦA CẤP ỦY ĐẢNG

1.1. Vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của cấp ủy đảng

1.1.1. Vị trí, vai trò của cấp ủy đảng


Theo quy định tại Điều 9, Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XI: Cơ
quan lãnh đạo các cấp của Đảng do bầu cử lập ra, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá
nhân phụ trách. Cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng là Đại hội đại biểu toàn
quốc. Cơ quan lãnh đạo ở mỗi cấp là đại hội đại biểu hoặc đại hội đảng viên.
Giữa hai kỳ đại hội, cơ quan lãnh đạo của Đảng là Ban Chấp hành Trung ương,
ở mỗi cấp là ban chấp hành đảng bộ, chi bộ (gọi tắt là cấp ủy). Ban chấp hành
đảng bộ gọi tắt là đảng ủy, ban chấp hành chi bộ gọi tắt là chi ủy.
Cấp ủy đảng là một bộ phận hữu cơ của đảng bộ, nhưng là bộ phận hạt
nhân lãnh đạo chính trị của đảng bộ, là người đại biểu cho trí tuệ, năng lực và
phẩm chất đạo đức của đảng bộ.
Điều 10 (khoản 1) Điều lệ Đảng khóa XI: Hệ thống tổ chức của Đảng
được lập tương ứng với hệ thống tổ chức hành chính của Nhà nước, cấp xã,
phường, thị trấn; cấp huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh; cấp tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương và cấp Trung ương.
Tại Điều 10 (khoản 2): Ở Trung ương, lập các đảng bộ khối trực thuộc
Ban Chấp hành Trung ương. Đảng bộ khối trực thuộc Trung ương được tổ
chức theo các đơn vị cùng ngành hoặc các ngành có quan hệ với nhau về
nhiệm vụ chính trị được giao. Đảng ủy khối là cơ quan lãnh đạo của đảng bộ
giữa hai kỳ đại hội của đảng bộ, có cơ quan chuyên trách tham mưu giúp việc
và cán bộ chuyên trách giúp việc.
Cấp ủy đảng quyết định các chủ trương, chính sách, biện pháp quan
trọng để cụ thể hóa đường lối tổ chức chỉ đạo thực hiện các nghị quyết của đại
8

hội đại biểu toàn quốc của Đảng, của hội nghị Ban Chấp hành Trung ương và
các nghị quyết, chỉ thị của cấp trên; quyết định các chủ trương, biện pháp lớn
về tổ chức và cán bộ, về bố trí, đề bạt và thi hành kỷ luật đối với cán bộ thuộc
diện cấp ủy quản lý; thường xuyên chỉ đạo công tác xây dựng Đảng, công tác
vận động nhân dân, công tác xây dựng chính quyền, định kỳ nghe báo cáo và
chỉ đạo các cấp ủy đảng trực thuộc, các đảng đoàn, các ban của đảng thực hiện
chức trách, nhiệm vụ; xây dựng và điều hành bộ máy của cấp ủy đảng bảo đảm
sự lãnh đạo các mặt hoạt động của cấp ủy; chuẩn bị đại hội, thường xuyên báo
cáo với cấp trên và thông báo cho cấp dưới tình hình chung và công việc của
cấp ủy, bảo đảm việc thong tin tình hình trong và ngoài nước cho từng cấp ủy
trực thuộc một cách thường xuyên theo quy định của Điều lệ Đảng.
Cấp ủy các cấp báo cáo và chịu trách nhiệm về hoạt động của mình
trước đại hội cùng cấp, trước cấp ủy cấp trên và cấp dưới; định kỳ thông báo
tình hình hoạt động của mình đến các tổ chức đảng trực thuộc.
Trong hoạt động lãnh đạo của Đảng đối với mọi mặt của đời sống xã
hội, cấp ủy là cơ quan lãnh đạo tổ chức cơ sở Đảng, giúp các tổ chức cơ sở
Đảng triển khai, tổ chức thực hiện các nhiệm vụ chính trị.
Cấp ủy lãnh đạo tổ chức cơ sở đảng thực hiện đường lối, chủ trương
của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước, đồng thời cũng là nơi góp
phần phát triển hoàn thiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Là
một thành viên trong hệ thống chính trị ở cơ sở, song cấp ủy có vị trí, vai trò
là trung tâm đoàn kết, lãnh đạo tổ chức Đảng, lãnh đạo các tổ chức trong hệ
thống chính trị ở cơ sở.
Cấp ủy đảng lãnh đạo tổ chức Đảng gắn bó, liên hệ mật thiết với nhân
dân. Lãnh đạo tổ chức đảng giữ vững vai trò là “sợi dây chuyền” nối liền
Đảng với dân.
Đảng là một thành viên của hệ thống chính trị, nhưng là thành viên giữ
vị trí, vai trò lãnh đạo hệ thống đó, bảo đảm cho mọi hoạt động ở cơ sở theo
9

đúng định hướng của Đảng. Vị trí hạt nhân chính trị của cấp ủy đảng thể hiện
vai trò đoàn kết và lãnh đạo toàn diện Đảng bộ, các tổ chức chính trị - xã hội
ở cơ sở, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kiên định chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định nguyên tắc tập trung
dân chủ. Đồng thời cấp ủy đảng là cơ quan lãnh đạo của đảng bộ giáo dục, tổ
chức, động viên quần chúng thực hiện có hiệu quả Cương lĩnh, đường lối,
chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước, góp phần xây dựng một nước
Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Cấp ủy đảng sẽ không làm tròn vai trò hạt nhân chính trị, vai trò lãnh
đạo, tổ chức quản lý của mình nếu không quán triệt đầy đủ quan điểm, đường
lối của Đảng, vi phạm Điều lệ Đảng, không làm tốt công tác xây dựng Đảng,
quản lý đảng viên, nội bộ mất đoàn kết, xa rời quần chúng, bị lôi cuốn vào
những việc làm tự phát, coi thường kỷ cương, pháp luật; chất lượng sinh hoạt
đảng và chất lượng đảng viên yếu kém, sa sút.

1.1.2. Chức năng, nhiệm vụ của cấp ủy đảng


- Chức năng:
+ Chức năng chung: Là đội tiên phong chính trị của giai cấp công nhân,
của nhân dân lao động và của cả dân tộc.
+ Chức năng chủ yếu: Lãnh đạo và kiểm tra.
+ Phương pháp lãnh đạo của cấp ủy đảng chủ yếu là phương pháp dân
chủ, giáo dục thuyết phục, nêu gương và thông qua công tác tư tưởng và tổ
chức Đảng.
Cấp ủy đảng có ba chức năng quan trọng:
Một là: lãnh đạo thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng và chính
sách, pháp luật của Nhà nước ở cơ sở.
Hai là: quản lý cán bộ, đảng viên thuộc quyền quản lý theo quy định
của đảng, nhà nước.
10

Ba là: lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị của đơn vị, phát triển sản
xuất, kinh doanh, nâng cao hiệu quả công tác của cơ sở; chăm lo cải thiện đời
sống vật chất, tinh thần của nhân dân; động viên quần chúng nhân dân hoàn
thành đầy đủ nghĩa vụ của cơ sở, đơn vị đối với Nhà nước, cụ thể:
- Cấp ủy đảng có chức năng lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ và hoạt động ở
đơn vị theo đúng chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước; lãnh đạo sản xuất, kinh doanh, công tác chuyên môn, nghiệp vụ,
quốc phòng, an ninh, văn hóa - xã hội… đạt hiệu quả ngày càng cao, không
ngừng cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho cán bộ, đảng viên, công nhân
viên chức, người lao động và nhân dân; hoàn thành nghĩa vụ đối với Nhà nước.
Mọi chủ trương, giải pháp đề ra về quá trình lãnh đạo tổ chức thực hiện
các nhiệm vụ, cấp ủy đảng phải luôn luôn bảo đảm phương hướng chính trị,
giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa. Đồng thời phải tạo được sự phát triển
kinh tế, văn hóa - xã hội…, tích cực xoá đói giảm nghèo, cải thiện đời sống
của người lao động, chống quan liêu, lãng phí, tham nhũng, ức hiếp quần
chúng, kịp thời giải quyết những nguyện vọng, lợi ích chính đáng, thiết thực,
hợp pháp của người lao động, của nhân dân.
Trong thời kỳ quá độ ở nước ta, đấu tranh giai cấp vẫn tồn tại với nội
dung và biểu hiện mới. Vì thế, không có lĩnh vực hoạt động nào trong xã hội
không mang tính chính trị. Cấp ủy đảng phải rất nhạy cảm, nắm vững những
vấn đề chính trị chung của đất nước cũng như của địa phương, của đơn vị
mình. Buông lỏng lãnh đạo chính trị, tư tưởng sẽ dễ rơi vào chủ nghĩa duy kinh
tế, hoặc chuyên môn thuần tuý. Vì vậy, chúng ta phải thường xuyên suy nghĩ,
tìm mọi cách thực hiện tốt đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; chủ
động đề phòng và khắc phục mọi biểu hiện chệch hướng xã hội chủ nghĩa.
Cấp ủy đảng thực hiện chức năng là hạt nhân chính trị đối với tổ chức
Đảng, chính quyền, đoàn thể, các tổ chức kinh tế, các đơn vị hành chính sự
11

nghiệp, các mặt công tác và các tầng lớp nhân dân ở cơ sở. Do chức năng,
nhiệm vụ của các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Quân sự Trung
ương, Công an Trung ương, Đảng bộ ngoài nước và Đảng ủy Khối khác nhau
nên sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng cũng khác nhau. Tuy vậy bất cứ ở đâu,
cấp ủy đảng trong hoạt động lãnh đạo của mình cũng phải chấp hành nghiêm
chỉnh chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Mỗi cấp ủy đảng là một bộ phận không tách rời của tổ chức đảng, nên
hoạt động của cấp ủy diễn ra thường xuyên và chủ yếu ở các tổ chức đảng
này. Đây là nơi tập thể cấp ủy đảng thể hiện các hoạt động lãnh đạo của mình
tại tổ chức đảng và thông qua tổ chức đảng để lãnh đạo xã hội.
Để thực hiện đúng chức năng là hạt nhân lãnh đạo chính trị ở đơn vị
mình phụ trách, cấp ủy đảng phải đoàn kết và lãnh đạo các tổ chức và quần
chúng trong đơn vị chấp hành nghiêm chủ trương, đường lối của Đảng, chính
sách pháp luật của Nhà nước; thực hiện những nhiệm vụ của đảng bộ và giải
quyết những vấn đề do thực tiễn đơn vị đặt ra, làm cho đơn vị không ngừng đổi
mới và phát triển, góp phần xây dựng cấp ủy đảng ngày càng giữ vững vị trí,
vai trò là hạt nhân lãnh đạo chính trị ở đơn vị. Xem nhẹ chức năng của cấp ủy
đảng là hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng trong đơn vị được giao phụ trách.
- Nhiệm vụ chung của cấp ủy đảng:
+ Lãnh đạo các mặt công tác của đảng bộ trong thời gian giữa hai kỳ
đại hội mà trọng tâm là lãnh đạo kinh tế.
+ Quán triệt và tổ chức thực hiện các nghị quyết Đại hội đảng toàn
quốc, nghị quyết của các cấp trên và nghị quyết đại hội cùng cấp, vận dụng
đường lối, chính sách của đảng, quyết định những chủ trương, nhiệm vụ chính
trị của đảng bộ đúng đắn và sáng tạo.
+ Thường xuyên chăm lo xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư
tưởng và tổ chức, chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên trong sạch,
12

vững mạnh; thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ; nâng cao chất lượng
sinh hoạt đảng, thực hiện tự phê bình và phê bình, giữ gìn kỷ luật và tăng
cường đoàn kết thống nhất trong Đảng; thường xuyên giáo dục, rèn luyện và
quản lý cán bộ, đảng viên, nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng, tính chiến
đấu, trình độ kiến thức, năng lực công tác; làm công tác phát triển đảng viên.
+ Tham gia vào việc xây dựng và cụ thể hoá đường lối, chính sách của
Đảng, chuẩn bị nội dung và kế hoạch tiến hành đại hội theo quy định của
Điều lệ Đảng và sự chỉ đạo của cấp trên.
+ Xây dựng và thực hiện quy chế hoạt động của cấp uỷ, bảo đảm vai
trò lãnh đạo của Đảng trong hệ thống chính trị ở địa phương, đảm bảo sự
đoàn kết thống nhất trong cấp uỷ đảng, trước hết là đoàn kết trong ban thường
vụ, thường trực cấp uỷ, chỉ đạo thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ mà
Đại hội Đảng đề ra. Kiểm tra, giám sát việc thực hiện, bảo đảm các nghị
quyết, chỉ thị của Đảng và pháp luật của Nhà nước được chấp hành nghiêm
chỉnh; kiểm tra, giám sát tổ chức đảng trực thuộc chấp hành Điều lệ Đảng.
Năm nhiệm vụ trên là năm nội dung cơ bản, chung nhất để thực hiện
chức năng lãnh đạo của cấp ủy đảng. Năm nhiệm vụ có vị trí và yêu cầu
riêng, không thể coi nhẹ nhiệm vụ nào. Bất kỳ cấp ủy đảng nào cũng đều phải
thực hiện đầy đủ và thường xuyên các nhiệm vụ đó. Trong điều kiện đảng ta
là đảng cầm quyền, ngoài những nhiệm vụ lãnh đạo thực hiện đường lối,
chính sách, xây dựng Đảng thì nhiệm vụ về lãnh đạo xây dựng chính quyền
và các đoàn thể chính trị trong hệ thống chính trị, lãnh đạo các tổ chức kinh
tế, hành chính, văn hoá, xã hội và thường xuyên liên hệ mật thiết với nhân
dân, lãnh đạo quần chúng tham gia xây dựng và bảo vệ Đảng, chính quyền là
những nhiệm vụ có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Nhiệm vụ kiểm tra của cấp
ủy đảng cũng cần chú trọng đúng mức. Vì “kiểm tra là một trong những chức
năng lãnh đạo của Đảng”.
13

Thực hiện những chức năng, nhiệm vụ trên trong tình hình hiện nay cần
kiểm tra để phát hiện, bổ sung, hoàn thiện các quy định, quy chế hoạt động cụ
thể cho phù hợp với các loại hình tổ chức đảng, đúng Điều lệ Đảng và các quy
định của Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã ban hành, đúng pháp luật của Nhà nước.
Các cấp ủy phải bảo đảm sinh hoạt cấp ủy đúng theo quy định của Điều lệ
Đảng, nâng cao chất lượng sinh hoạt, thực hiện tốt việc phân công và kiểm tra
công tác đối với các cấp ủy viên. Thông qua các quy định của Đảng, thông
qua quy chế phối hợp công tác, cấp ủy cơ quan, doanh nghiệp, đơn vị sự
nghiệp phải thường xuyên giữ mối liên hệ với chi ủy, đảng ủy nơi cư trú theo
quy định của Bộ Chính trị để nắm bắt, kiểm tra chất lượng đội ngũ đảng viên
thuộc quyền quản lý. Đổi mới công tác phân tích chất lượng tổ chức đảng và
đảng viên hàng năm, để công tác đánh giá chất lượng tổ chức đảng, đảng viên
hàng năm đi vào nề nếp và đánh giá đúng thực chất.

1.2. Năng lực lãnh đạo của cấp ủy đảng và các yếu tố cấu thành
năng lực lãnh đạo của cấp ủy đảng

1.2.1. Về năng lực lãnh đạo


Khái niệm năng lực
Theo Từ điển tiếng Việt, năng lực là khả năng, điều kiện chủ quan hoặc
tự nhiên sẵn có để thực hiện một hoạt động nào đó.
Năng lực là một khái niệm chỉ mức độ, khả năng, kết quả và hiệu quả
hoạt động của con người. Năng lực không chỉ căn cứ vào tiềm năng, khả năng
hoạt động của con người, mà còn chủ yếu dựa vào kết quả, thành tích công
tác, sự đóng góp và cống hiến của họ cho sự phát triển của đất nước, xã hội.
Khái niệm năng lực được dùng theo hai nghĩa khác nhau: Theo nghĩa
hẹp, năng lực để phân biệt với phẩm chất - hai thành tố cơ bản của nhân cách.
Theo nghĩa rộng, năng lực bao gồm cả phẩm chất đạo đức vì trong con
người đức (tổng hợp các phẩm chất) là cái gốc của tài (năng lực), giữa chúng
thường thống nhất chặt chẽ với nhau, tạo tiền đề và điều kiện cho nhau phát triển.
14

Chủ tịch Hồ Chí Minh thường dùng khái niệm năng lực với nghĩa rộng
khi nhấn mạnh sự nghiệp cách mạng nước ta cần có những con người có nhân
cách toàn diện, có đầy đủ cả đức lẫn tài - vừa “Hồng” vừa “Chuyên” [48, tr.222].
Người nói, “kiến thiết nước nhà cần có nhân tài hay còn gọi là người tài đức -
kẻ hiền năng”. Đảng ta hiện nay cũng dùng khái niệm này theo nghĩa rộng khi
nêu ra yêu cầu, nhiệm vụ “Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng” nói chung,
của mỗi cán bộ, đảng viên nói riêng. Năng lực, nói một cách ngắn gọn, “là sức
mạnh, sức làm việc, sức giải quyết vấn đề, sức đảm đang một nhiệm vụ…”
Như vậy, năng lực là sự xã hội hóa tiềm năng, khả năng của con người.
Năng lực không chỉ là tiềm năng, khả năng của con người mà còn là mức độ
làm việc và đóng góp của họ cho xã hội. Kết quả và hiệu quả hoạt động là chỉ
báo cơ bản và quan trọng nhất để đánh giá năng lực của con người.
Năng lực không phải là những thuộc tính cá nhân riêng lẻ mà là một tổ
hợp các thuộc tính cá nhân đáp ứng yêu cầu của hoạt động. Tổ hợp các thuộc
tính đó không chỉ tồn tại song song, mà chúng còn có quan hệ và tác động lẫn
nhau thống nhất với nhau theo yêu cầu nhất định. Theo nhà Tâm lý học người
Nga, Cơvaliôp: “Năng lực là một tổ hợp, hoặc tổng hợp những thuộc tính cá
nhân con người đáp ứng những nhu cầu của hoạt động và bảo đảm cho hoạt
động có kết quả cao”. Mỗi con người có thể tích hợp nhiều năng lực tiềm ẩn,
những năng lực đó được bộc lộ ra hay không tùy thuộc vào những điều kiện
chủ quan hay khách quan. Đối với những người có tài năng đặc biệt và thiên
tài, năng lực của họ được phát triển và bộc lộ mạnh mẽ khiến họ đạt đến đỉnh
cao ở nhiều lĩnh vực khác nhau.
Năng lực vừa mang tính bẩm sinh có sẵn, vừa là kết quả của quá trình
học tập, rèn luyện, hoạt động thực tiễn của con người. C.Mác cho rằng: Đến
chủ nghĩa cộng sản con người làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu. Đó
chính là lúc con người từ vương quốc của tất yếu sang vương quốc của tự do.
15

Theo Hồ Chí Minh “Năng lực con người không phải hoàn toàn do tự
nhiên mà có, mà một phần lớn do công tác, do luyện tập mà có” [48, tr.222].
Vì thế, năng lực không chỉ là tư chất bẩm sinh thuần túy vốn có của con
người, mà là kết quả của sự phối hợp những tư chất bẩm sinh vốn có với sự
rèn luyện, tu dưỡng, học tập thông qua hoạt động thực tiễn của con người.
Người cán bộ lãnh đạo nói chung, cán bộ chủ chốt nói riêng dù ở cấp
nào cũng phải có năng lực nhất định. Năng lực đó thể hiện ở các quyết định
của tập thể mà trong trường hợp này là năng lực lãnh đạo của các tổ chức cơ
sở đảng. Trong đó năng lực tư duy lãnh đạo, đề ra phương hướng, chủ trương
phát triển và năng lực tổ chức thực hiện là hai nhân tố quan trọng nhất tạo nên
chất lượng, hiệu quả của công việc. Hai yếu tố này có mối quan hệ chặt chẽ
với nhau, không thể tách rời nhau, cái này hỗ trợ cho cái kia phát triển. Không
có năng lực tư duy lý luận nắm bắt chủ trương, đường lối, chính sách pháp
luật của Đảng, Nhà nước thì không thể nào có khả năng khai thác, sáng tạo và
vận dụng đúng đắn, linh hoạt. Trái lại, chỉ có năng lực nắm bắt, năng lực tư
duy mà không có năng lực tổ chức thực hiện, thì năng lực tư duy dần dần bị
sơ cứng, giáo điều, thoát ly thực tiễn, thoát ly cuộc sống, dễ rơi vào chủ nghĩa
chủ quan, duy ý chí.
Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, chủ chốt trong đảng, trong hệ thống chính trị
phải có năng lực toàn diện trên tất cả các lĩnh vực mới đáp ứng được yêu cầu,
nhiệm vụ được giao. Do vậy, ngoài những yếu tố trên, cán bộ công chức các
cấp còn phải có năng lực sáng tạo, tính quyết đoán, năng lực động viên, phát
huy nguồn lực con người.
Khái niệm lãnh đạo
Lãnh đạo là một phạm trù của chính trị học. Trong khoa học chính trị,
lãnh đạo là sự dẫn dắt xã hội bằng chính trị và đạo đức của người đứng đầu; là
một chức năng cơ bản của đảng cầm quyền, của giới lãnh đạo quốc gia, nhằm
16

đưa đất nước tới các mục tiêu nhất định bằng cương lĩnh, đường lối chính trị,
các chiến lược phát triển, công tác tổ chức - cán bộ… Chủ thể lãnh đạo là cá
nhân, tổ chức có quyền lực cao nhất trong hệ thống chính trị, hệ thống thể
chế. Chủ thể lãnh đạo có thẩm quyền cao hơn, lớn hơn các chủ thể quản lý.
Trong khoa học quản lý, khái niệm lãnh đạo được hiểu theo hai nghĩa:
Nghĩa hẹp, “lãnh đạo là một chức năng của quản lý, cùng các chức năng có
tính nghề nghiệp khác là hoạch định (dự báo lập kế hoạch), chức năng tổ chức
(nhân lực, vật lực, tài lực) và chức năng kiểm tra, giám sát”. Theo nghĩa rộng,
lãnh đạo được hiểu là thẩm quyền, chức năng của nhà quản lý đứng đầu một
tổ chức, là người chịu trách nhiệm toàn bộ và cuối cùng về hoạt động của tổ
chức đó.
Trong từ điển tiếng Việt, “Lãnh đạo là dìu dắt, dẫn đường” lãnh đạo là
đề ra chủ trương và tổ chức động viên thực hiện.
Trong Tâm lý học lãnh đạo, lãnh đạo là một dạng quản lý đặc thù (quản
lý con người - xã hội). Lãnh đạo được hiểu là phương thức ứng xử của một
hay một tập thể đứng đầu có ảnh hưởng tích cực đến mọi người xung quanh
trong quá trình thực hiện nhiệm vụ và xác định mục tiêu.
Lãnh đạo được quan niệm như một “phương thức ứng xử” của một tổ
chức nắm giữ quyền lực chính trị có vị thế đứng đầu. Nên đòi hỏi chủ thể lãnh
đạo cần có “ tầm nhìn xa, trông rộng” với một thế giới quan khoa học để định
hướng và hoạch định đường lối một cách đúng đắn. Với ý nghĩa đó, chức
năng chủ yếu của lãnh đạo được xác định là định hướng, xây dựng các mục
tiêu chiến lược, hình thành chủ trương và đề ra đường lối.
Như vậy có thể hiểu, lãnh đạo là đề ra chủ trương, đường lối chiến lược
và sách lược để phát triển một đơn vị, một ngành, một địa phương, một đất
nước và dẫn dắt, cổ vũ đơn vị, ngành, địa phương….thực hiện theo đúng chủ
trương, đường lối vạch ra.
17

Trong thực tế, lãnh đạo được phân biệt với quản lý ở hai điểm cơ bản:
Người lãnh đạo cần thực hiện tất cả các chức năng của quản lý trong khi đó,
nhà quản lý thường chỉ thực hiện một số chức năng mà lãnh đạo ủy quyền,
phân quyền. Lãnh đạo phải quản lý và chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động
của một tổ chức nhà nước, xã hội; trong khi đó, nhà quản lý chỉ có quyền và
trách nhiệm trong phạm vi công việc, nhân sự được lãnh đạo phân công.
Về tính chất công việc, lao động lãnh đạo cũng có sự khác biệt với lao
động quản lý. Quản lý có thể là tự quản lý (thời gian, công việc, tài chính…
của bản thân) hoặc tự mình làm một phần quản lý người khác làm một phần
công việc. Lãnh đạo về bản chất là việc thực hiện công việc thông qua những
người dưới quyền và chịu trách nhiệm toàn bộ, đến cùng về hoạt động của
một tổ chức”. Song có thể thấy một nan giải đó là sự đánh đồng giữa “Đảng
lãnh đạo” với “ Đảng cầm quyền”. Người quản lý tất yếu cần có quyền ( được
ủy quyền). Trong thực tế, trong nghiên cứu chính trị học, nan giải này được
phản ánh trong vấn đề về “tính chính đáng” của quyền lực (sức ép buộc).
Người nắm giữ quyền lực, khi không còn được coi là chính đáng, chính là
người có quyền nhưng đã đánh mất vai trò lãnh đạo. Tức là “người lãnh đạo”
chỉ còn là người cầm quyền mà không lãnh đạo trên thực tế. Để đạt được mục
tiêu chính trị, việc nắm giữ được các công cụ cưỡng chế (quyền lực) mới chỉ
là một phần. Phần quan trọng hơn đó là làm sao để toàn xã hội coi sự nắm giữ
và thực thi quyền lực là chính đáng.
Khái niệm năng lực lãnh đạo
Năng lực lãnh đạo là khả năng, mức độ kết quả và hiệu quả của chủ thể
đề ra chủ trương, đường lối chiến lược và sách lược để phát triển một đơn vị,
một ngành, một địa phương, một đất nước và dẫn dắt, cổ vũ đơn vị, ngành địa
phương… thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình trong một thể chế, hệ
thống chính trị nhất định.
18

Năng lực lãnh đạo của chủ thể phụ thuộc vào thái độ, tri thức và kỹ
năng lãnh đạo của cá nhân người lãnh đạo; phụ thuộc vào kinh nghiệm thực
tiễn, tác phong và phong cách lãnh đạo của họ; phụ thuộc vào mối quan hệ, cơ
chế hoạt động giữa các thành viên trong tổ chức lãnh đạo; phụ thuộc vào
khách thể của hoạt động lãnh đạo với các đối tượng khác nhau và quy mô
khác nhau; khách thể càng phức tạp, có quy mô càng lớn thì đòi hỏi chủ thể
phải có năng lực càng cao. Năng lực lãnh đạo còn bị phụ thuộc, chi phối bởi
các yếu tố môi trường tự nhiên và xã hội của nó. Đó là điều kiện, hoàn cảnh
kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa tại địa phương và hệ thống chính trị, xã hội
mà hoạt động lãnh đạo diễn ra.
Từ phân tích năng lực lãnh đạo trên có thể hiểu, năng lực lãnh đạo của
chủ thể lãnh đạo là tổ hợp các khả năng lãnh đạo, quản lý, điều hành hoạt
động của tổ chức với chất lượng và hiệu quả cao.

1.2.2. Các yếu tố cấu thành năng lực lãnh đạo của cấp ủy đảng
(Đảng ủy trực thuộc Trung ương)
Năng lực lãnh đạo của cấp ủy đảng là năng lực toàn diện bao gồm
nhiều yếu tố cấu thành. Chúng đan xen, có mối quan hệ tác động qua lại. Việc
phân biệt các yếu tố cấu thành chỉ mang tính chất tương đối. Các yếu tố cấu
thành cơ bản để đánh giá năng lực của cấp ủy đảng bao gồm:

1.2.2.1. Yếu tố tư duy lý luận, đề ra phương hướng, chủ trương phát triển
Tư duy lý luận, năng lực nắm bắt đúng đắn chủ trương đường lối, chính
sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước, giúp cấp ủy đảng có những phản ứng
sắc bén, khả năng vận dụng sáng tạo linh hoạt lý luận vào thực tiễn, nâng cao
hiệu lực, hiệu quả hoạt động lãnh đạo, quản lý ở cơ sở. Nó được biểu hiện
thông qua các nội dung cụ thể:
Thứ nhất, đó là khả năng tiếp thu lý luận, đường lối, chủ trương của
Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước một cách đúng đắn, khả năng phát
19

hiện những mâu thuẫn, những vấn đề mới, khả năng tổng kết thực tiễn và khả
năng vận dụng sáng tạo lý luận, đường lối, chủ trương, chính sách để xây
dựng chương trình, kế hoạch công tác, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội phù
hợp với thực tiễn ở cơ sở.
Thứ hai, là khả năng liên kết tri thức các lĩnh vực, các ngành nghề, các
bộ phận phong phú đa dạng thành một chỉnh thể ở mức độ khái quát cao.
Đồng thời, phân định được tính đặc thù, tính riêng biệt của các loại lĩnh vực,
bộ phận để khi lãnh đạo, chỉ đạo vừa mang tính lịch sử cụ thể, vừa mang tính
khái quát tổng hợp phù hợp với thực tiễn.
Thứ ba, đó là khả năng biến những tri thức đã lĩnh hội thành các chủ
trương, chương trình, kế hoạch hành động làm biến đổi hiện thực trực tiếp.
Nó thực hiện khả năng vận dụng lý luận vào thực tiễn, liên hệ lý luận với thực
tiễn, vận dụng cái chung một cách đúng đắn vào từng tình huống cụ thể. Đó
cũng là khả năng tổng hợp để có cái nhìn hệ thống, nắm được cái chủ yếu, cái
bản chất của sự vật, hiện tượng trong sự vận động của chúng, trên cơ sở đó
đưa ra những quyết định đúng đắn phù hợp với thực tiễn.
Như vậy, năng lực nắm bắt chủ trương, đường lối, chủ trương, chính
sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước của cấp ủy có giá trị định hướng đúng
đắn hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn cán bộ, đảng viên trong tổ
chức Đảng. Cơ sở của năng lực đó là tri thức lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh kho tàng trí thức của nhân loại, đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng và sự trải nghiệm thực tiễn địa phương cơ sở trong
phong trào cách mạng. Muốn vậy, các cấp ủy viên, các cán bộ lãnh đạo của tổ
chức, cán bộ công chức ở cơ sở cùng với việc rèn luyện trau dồi đạo đức cách
mạng thì phải nâng cao năng lực tư duy - một trong những yếu tố nền tảng cơ
bản nhất của năng lực lãnh đạo. Vì vậy, cấp ủy viên, cán bộ lãnh đạo nếu
không nâng cao năng lực tư duy lý luận thì cũng khó mà nâng cao được năng
lực lãnh đạo của tập thể cấp ủy, đáp ứng đòi hỏi của thời kỳ mới.
20

1.2.2.2. Yếu tố tổ chức thực hiện các chủ trương, chiến lược phát triển
Đây chính là năng lực tổ chức vận hành bộ máy trong tổ chức đảng,
trong đảng bộ, trong hệ thống chính trị của cấp ủy đảng, giúp các tổ chức này
hoạt động nhịp nhàng, có hiệu lực, hiệu quả nhằm hiện thực hóa những mục
tiêu, nhiệm vụ, chương trình, kế hoạch, nghị quyết đã đề ra. Biểu hiện cụ thể
năng lực của cấp ủy đảng trong tổ chức thực hiện các chủ trương, chiến lược
của tổ chức đảng như sau:
Một là, có khả năng thu thập và xử lý thông tin liên quan đến mọi mặt
của đời sống xã hội: chính trị, kinh tế, văn hoá, an ninh quốc phòng…ở cơ sở
một cách nhanh chóng và hiệu quả. Công tác lãnh đạo quản lý là biểu hiện
của mối quan hệ giữa chủ thể và khách thể. Nếu thiếu thông tin hoặc xử lý
thông tin không kịp thời, chính xác, người lãnh đạo, quản lý dễ rơi vào tình
trạng quan liêu, độc đoán, chuyên quyền xa rời thực tiễn.
Thu thập xử lý thông tin đầy đủ trước hết phải nắm vững chủ trương,
chính sách của Đảng, Nhà nước, Chỉ thị, Nghị quyết của cấp trên. Đồng thời
phải xây dựng phương pháp làm việc khách quan, khoa học, hình thành mạng
lưới cung cấp thông tin xác thực từ cơ sở kết hợp với việc đi sâu, đi sát cơ sở
nắm vững những diễn biến hoạt động kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng…
từ cơ sở, từ nhân dân. Sau khi có thông tin, các cấp ủy viên và tập thể cấp ủy
phải có khả năng tổng hợp, khái quát, phân tích để tham mưu cho tập thể rút
được những đặc điểm, nguyên nhân, đề ra được những giải pháp, quyết định
đúng đắn, giải quyết có hiệu quả những nhiệm vụ đặt ra.
Vì vậy, cấp ủy đảng gắn liền với thực tiễn. Đây chính là lãnh đạo, tổ
chức thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Trung ương Đảng, vừa phải bám
sát cơ sở, nắm chắc tình hình cơ sở để triển khai thực hiện nhiệm vụ, kế
hoạch công tác đúng đắn phù hợp với thực tiễn. Bên cạnh đó, trong quá trình
lãnh đạo cần nhận thức “chẳng những lãnh đạo quần chúng, mà phải học hỏi
21

quần chúng”. Bởi vì “Không học hỏi dân thì không lãnh đạo được dân. Có
biết làm học trò dân, mới làm được thầy học dân”, “dân chúng rất khôn khéo,
rất hăng say, rất anh hùng”; “dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách
đơn giản, mau chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn,
nghĩ mãi không ra” [47, tr.518].
Hai là, khả năng tổ chức bộ máy, phối hợp các cá nhân, tổ chức thực
hiện nhiệm vụ đặt ra. Các cấp ủy viên và tập thể cấp ủy phải có tư duy tổ chức
phối hợp các bộ phận trên cơ sở phát hiện ra những điểm mạnh, điểm yếu của
đội ngũ cán bộ dưới quyền, đội ngũ cán bộ, đảng viên trong đảng bộ để bố trí
công việc phù hợp với năng lực, sở trường của họ. Đây là trung tâm đoàn kết,
thu hút cán bộ cấp dưới và nhân dân tạo nên sức mạnh tổng hợp nhằm thực
hiện những nhiệm vụ đang đặt ra. Thực hiện đúng chức năng công tác cán bộ
là của Đảng.
Ba là, khả năng đề ra các quyết định phù hợp với điều kiện cụ thể, phù
hợp với nhu cầu, lợi ích mục đích. Đây là khả năng chuyên biệt của người
đứng đầu cấp ủy và tập thể cấp ủy, của tổ chức lãnh đạo bao gồm tổ hợp
những đặc điểm, thuộc tính tâm lý đáp ứng quá trình ra quyết định của người
lãnh đạo được chính xác, kịp thời và có hiệu quả. Do vậy, đòi hỏi người đứng
đầu cấp ủy, các cấp ủy viên và tập thể cấp ủy phải có trí thức tổng hợp, toàn
diện về một vấn đề cụ thể; có khả năng quan sát nhanh nhạy, chính xác, khả
năng linh cảm, trực giác, khả năng dự báo, biến thông tin đa dạng, nhiều
chiều thành các quyết định có tính khoa học, khả thi.
Bốn là, khả năng, năng lực triển khai làm tốt công tác kiểm tra, giám
sát để duy trì, điều chỉnh việc thực hiện các quyết định trong công tác lãnh
đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện nhiệm vụ chính trị. Phát hiện kịp thời những
vấn đề mới nảy sinh để giải quyết; tìm ra những lệch lạc, sai sót để sửa chữa;
điều chỉnh những vấn đề thực tế đặt ra là những vấn đề có ý nghĩa rất quan
22

trọng. V.I.Lênin chỉ rõ: “Khi mục tiêu và nhiệm vụ đã được xác định, quyết
định đã được thông qua, bộ máy con người đã được sắp xếp thì trọng tâm của
sự lãnh đạo, quản lý phải chuyển sang lĩnh vực kiểm tra và gắn với kiểm tra là
đôn đốc, uốn nắn, tổ chức thực hiện đến cùng quyết định” [83, tr.197 - 199].
Công tác kiểm tra, giám sát làm tăng hiệu quả các quyết định lãnh đạo,
quản lý, đảm bảo cho việc hoàn thành nhiệm vụ một cách triệt để, tránh được
các căn bệnh vốn có như qua loa, đại khái, hạn chế các tiêu cực có thể nảy
sinh trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, hoặc sai lệch chủ trương, đường lối,
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Nếu chỉ lo khai hội, thảo nghị
quyết, đánh điện và gửi chỉ thị…. Quên mất kiểm tra là một sai lầm rất lớn.
Hồ Chí Minh phê phán lãnh đạo theo kiểu: “ Đầy túi quần thông cáo, đầy túi
áo chỉ thị” mà công việc vẫn không chạy. Người ví công tác kiểm tra chu đáo
thì cũng như “ngọn đèn pha”, bao nhiêu tình hình, bao nhiêu ưu điểm và
khuyết điểm trong công việc chúng ta đều thấy rõ [49, tr. 520 - 521]. Do vậy,
đa phần khuyết điểm trong công việc của chúng ta là do thiếu sự kiểm tra đến
nơi đến chốn.

1.2.2.3. Yếu tố sáng tạo và tính quyết đoán


Ngoài khả năng tư duy lý luận, nắm bắt thực tiễn, cấp ủy đảng còn phải
sáng tạo trong chỉ đạo và tổ chức thực hiện nhiệm vụ, có như vậy mới đạt
hiệu quả lãnh đạo cao nhất. Dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vụ
trước những quyết định của mình là một trong những yêu cầu cơ bản đối với
đảng viên nói chung và đặc biệt đối với đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý
trong đảng, chính quyền các cấp nói riêng.
Năng lực sáng tạo là khả năng vận dụng tri thức lý luận và khoa học
vào thực tiễn mà không rập khuôn máy móc, tìm ra những con đường mới
những phương pháp mới, giải quyết những vấn đề mà thực tiễn đặt ra phù hợp
với đòi hỏi khách quan. Với tư duy năng động, người cán bộ chủ chốt phải
23

nắm bắt được sự vận động biến đổi không ngừng trên quan điểm khách quan,
toàn diện, lịch sử, cụ thể và phát triển để đưa ra những quyết sách đúng.
Bên cạnh đó phải tìm ra cái mới, phân tích được nguyên nhân phát sinh,
xu hướng vận động của các vấn đề đặt ra để có những giải pháp phù hợp. Thực
tiễn hết sức phong phú, vì vậy các cấp ủy viên (đảng ủy viên), người đứng đầu
cấp ủy (Bí thư Đảng ủy, Thường trực Đảng ủy) và tập thể cấp ủy đảng (Ban
Chấp hành Đảng bộ) phải có khả năng phân loại, hệ thống hóa vấn đề, xác định
được trọng tâm, mâu thuẫn cơ bản để có phương án quyết sách đúng, ra những
quyết định nhanh nhạy, phát huy được nguồn lực, tiềm năng của đơn vị để ổn
định chính trị xã hội, phát triển kinh tế. Đi cùng với tính sáng tạo là tính quyết
đoán, đó là khả năng nắm bắt vấn đề, đưa ra những quyết định quyết đoán,
chuẩn xác, đúng thời điểm. Trên cơ sở nắm vững cơ sở khoa học của vấn đề,
nắm vững phương pháp luận trong giải quyết vấn đề, tính quyết đoán tăng thêm
hiệu lực, hiệu quả quản lý, tạo được niềm tin cho người thực hiện, đảm bảo sự
nhất quán trong việc ra quyết định lãnh đạo. Nó là sản phẩm của tính chủ động,
tư duy sáng tạo, sự thận trọng và niềm tin khoa học. Tính quyết đoán khác hẳn
với bệnh hách dịch, cửa quyền, quan liêu, mệnh lệnh, liều lĩnh và phiêu lưu.
Tính quyết đoán thể hiện trước hết ở khả năng phán đoán chính xác tình hình,
đưa ra được quyết định chỉ đạo ngay lập tức, chính xác trong những tình huống
bất ngờ mà không đòi hỏi thời gian chờ đợi để phân tích dữ kiện hoặc chưa có
đủ dữ kiện cần thiết để phân tích. Quyết định này có được do sự nhạy cảm của
trực giác, khả năng phán đoán, phân tích, tổng hợp nhanh nhạy trên cơ sở tri
thức phong phú đã được tích lũy.
Trong thực tiễn tổ chức và thực thi đường lối chính sách của Đảng và
Nhà nước sẽ xảy ra những vấn đề hết sức phong phú, phức tạp, đòi hỏi tổ
chức đảng phải giải quyết kịp thời, đúng đắn những vấn đề do thực tiễn đặt ra.
Nếu không giải quyết kịp thời sẽ không đạt được hiệu quả trong công tác lãnh
24

đạo; mất thời cơ, công việc dồn ép, làm chậm tốc độ phát triển kinh tế - xã
hội, kìm hãm, cản trở…. Nếu quyết định sai, võ đoán sẽ gây mất lòng tin, có
thể là ngòi nổ bùng phát xung đột hoặc tăng thêm bùng phát xung đột, gây
mất ổn định trật tự xã hội. Nếu không quyết đoán, trông chờ ỷ lại cấp trên,
dựa dẫm vào tập thể thì hiệu quả công tác sẽ kém.
Năng lực quyết định là một trong những yếu tố đặc trưng của cấp ủy
đảng, trong đó vai trò quan trọng thuộc về các cán bộ lãnh đạo chủ chốt của
đảng, mà cụ thể ở đây là bí thư, phó bí thư cấp ủy, ban thường vụ, ban chấp
hành. Nếu thiếu yếu tố này, công việc sẽ bị tê liệt, tình trạng vô kỷ luật sẽ xảy ra.
Người cán bộ lãnh đạo chủ chốt có tính quyết đoán thì sự tuân phục của tổ chức
sẽ trở nên dễ dàng. Trong giải quyết công việc, nếu cán bộ lãnh đạo chần trừ,
thoái thác trách nhiệm, ỷ lại vào tập thể thì hiệu quả công việc sẽ không cao, ảnh
hưởng trực tiếp đến uy tín, vai trò lãnh đạo của cá nhân người lãnh đạo.

1.2.2.4. Yếu tố động viên, phát huy nguồn lực con người
Môi trường hoạt động của các tổ chức đảng luôn gắn liền với con người
mà trực tiếp là các cán bộ, đảng viên và nhân dân trên địa bàn. Công tác lãnh
đạo của tổ chức đảng tác động đến con người bằng nhiều phương thức khác
nhau. Vì thế khả năng giao tiếp vừa để thể hiện năng lực lãnh đạo vừa là một
nghệ thuật để nâng cao năng lực lãnh đạo. Phần lớn thời gian làm việc của
cán bộ lãnh đạo chủ chốt cơ sở là giao tiếp với cấp trên (để nhận chỉ đạo), với
cấp dưới (để triển khai công việc) và đặc biệt là với nhân dân. Chất lượng
công tác phụ thuộc rất nhiều vào khả năng giao tiếp, làm việc với con người.
C.Mác nói: “Sự phát triển của mỗi cá nhân được quy định bởi sự phát triển
của tất cả các cá nhân khác mà nó quan hệ trực tiếp hoặc gián tiếp”.
Năng lực làm việc với con người được thể hiện qua phong cách làm việc
với quần chúng. Đây là tác phong gần gũi nhân dân của người cán bộ chủ chốt
trong HTCT. Là khả năng nắm bắt được tâm lý tư tưởng của đối tượng thông
25

qua giao tiếp để chuyển được chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước vào
cuộc sống thông qua con người. Người cán bộ lãnh đạo chủ chốt phải xây dựng
được các mối quan hệ, phải thu hút mọi người tham gia vào việc chung xuất phát
từ lợi ích chung. Có thái độ điềm tĩnh cư xử nhã nhặn, lịch sự, tế nhị, khiêm tốn
với nhân dân, tôn trọng hiểu rõ tâm tư tình cảm lợi ích của nhân dân, thông cảm
lắng nghe ý kiến nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phê phán một số cán bộ
“miệng thì nói dân chủ nhưng làm việc theo lối “quan” chủ. Miệng thì nói
“phụng sự quần chúng”, nhưng họ làm ngược lại với lợi ích của quần chúng, trái
ngược với phương châm và chính sách của Đảng và chính phủ. Chủ tịch Hồ Chí
Minh khẳng định: “Nước ta là nước dân chủ”, nghĩa là dân là chủ và dân làm
chủ do đó cách lãnh đạo phải dân chủ. Làm sao cho cán bộ cấp dưới và nhân dân
có ý kiến thì dám nói ra, dám phê bình không sợ bị trù dập.
Năng lực làm việc với con người, động viên con người tham gia vào
các hoạt động nhằm đạt mục tiêu lãnh đạo đòi hỏi các cán bộ lãnh đạo tổ chức
đảng cần luôn thật thà, khiêm tốn, thực hiện tự phê bình và phê bình. Hồ Chí
Minh thường xuyên phải nhắc nhở mỗi cán bộ, mỗi ngày phải tự kiểm điểm,
tự phê bình, tự sửa chữa, như hàng ngày rửa mặt. Tự phê bình và phê bình
chân thành là vũ khí sắc bén để rèn luyện phong cách làm việc của cán bộ.
Người yêu cầu mỗi cán bộ phải tự kiểm điểm và kiểm điểm đồng chí mình.
Phải thực hiện nói đi đôi với làm. Nói đi đôi với làm là một truyền thống, một
chuẩn mực hành vi đạo đức của đội ngũ đang lãnh đạo chủ chốt. Muốn hướng
dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước. Nói đi đôi
với làm của người cán bộ làm sao cho dân tôn, dân yêu, dân phục, một thái độ
“tâm phục” và “khẩu phục” thật sự qua lời nói và hành động của cán bộ.
Không chỉ thực hiện nói đi đôi với làm, người cán bộ phải biết sắp đặt kế
hoạch trong công việc. Làm có kế hoạch và biết sắp xếp công việc hợp lý là
phong cách, là năng lực lãnh đạo của người cán bộ chủ chốt.
26

Do vậy, cán bộ lãnh đạo chủ chốt ở tổ chức đảng cơ sở phải có khả
năng đoàn kết, giải quyết các mâu thuẫn trong nội bộ, phải biết phê bình và tự
phê bình, nói đi đôi với làm, biết phát huy sức mạnh của đội ngũ cán bộ trong
hệ thống chính trị, sức mạnh của toàn dân, phát huy quyền làm chủ của nhân
dân để thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương.

1.3. Yêu cầu nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng ủy trực thuộc
Trung ương hiện nay

1.3.1. Yêu cầu của hội nhập quốc tế và sự nghiệp công nghiệp hóa -
hiện đại hóa đất nước
Chúng ta đang sống và bị ảnh hưởng bởi xu thế toàn cầu hóa với những
đặc điểm: (1) cách mạng khoa học - công nghệ bùng nổ với những thành tựu kỳ
diệu, đẩy lực lượng sản xuất xã hội phát triển nhanh và mạnh; (2) từ những năm
cuối thế kỷ XX xuất hiện nhiều vấn đề lớn toàn cầu, trở thành những vấn đề an
ninh phi truyền thống - như an ninh lương thực, biến đổi khí hậu, cạn kiệt tài
nguyên, suy thoái môi trường… mà bất cứ một nước đơn lẻ nào, dù mạnh đến
đâu cũng không thể giải quyết được nếu không có sự gắn kết, hợp tác giữa các
quốc gia. Đây là một hiện tượng khách quan, một xu thế lớn của thế giới hiện
đại, tác động mạnh mẽ đến sự phát triển cũng như quan hệ quốc tế của các quốc
gia, mang lại cả cơ hội lẫn thách thức, cả tác động tích cực lẫn tác động tiêu cực.
Thực tiễn cho thấy hội nhập quốc tế diễn ra chủ yếu trên bốn lĩnh vực
chính: hội nhập kinh tế là trọng tâm, là đòn bẩy thúc đẩy các lĩnh vực khác
hội nhập; hội nhập trên các lĩnh vực khác lại tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy
hội nhập kinh tế phát triển và thành công; hội nhập chính trị bằng cách tham
gia các tổ chức chính trị sẵn có như việc gia nhập LHQ, hay Việt Nam tham
gia ASEAN để hoạt động vì nghĩa vụ quốc tế và nhằm nâng cao vai trò vị thế
của quốc gia ở khu vực và trên thế giới; hội nhập an ninh-quốc phòng nhằm
góp phần củng cố hòa bình, ổn định cho nước mình và cho khu vực; góp phần
27

bảo vệ Tổ quốc... với nhiều hình thức đa dạng; và hội nhập văn hóa-xã hội là
hợp tác để chia sẻ giá trị, giới thiệu bản sắc của đất nước và dân tộc mình,
tranh thủ những ưu việt của văn hóa và văn minh nhân loại để làm giàu thêm
nền văn hóa của nước mình
Chính sự phát triển của toàn cầu hóa đã đặt các quốc gia, bất kể giàu
hay nghèo, lớn hay nhỏ trước yêu cầu phải hội nhập quốc tế để tranh thủ điều
kiện cho phát triển. Đối với nước ta, toàn cầu hóa ảnh hưởng trực tiếp đến yêu
cầu nâng cao năng lực lãnh đạo của tổ chức đảng các cấp, sự quản lý điều
hành của chính quyền.
Bên cạnh đó, chúng ta đang bước vào thời kỳ CNH - HĐH đất nước.
Mục tiêu của thời kỳ này là: phấn đấu cơ bản đưa nước ta trở thành nước công
nghiệp, có nền kinh tế tăng trưởng mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X ( tháng 4 năm 2006) khi khẳng định
đường lối tiếp tục đẩy mạnh CNH - HĐH đất nước theo định hướng XHCN,
đảng ta chỉ rõ “mục tiêu trực tiếp” mà chúng ta cần phấn đấu thực hiện trong 5
năm 2006 - 2010 là “sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, tạo nền
tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trử thành một nước công nghiệp hóa theo
hướng hiện đại”. Để thực hiện “mục tiêu trực tiếp” này, chúng ta phải có được
một lực lượng sản xuất đạt trình độ phát triển cao, một cơ sở vật chất, kĩ thuật
hiện đại dựa trên sự phát triển mạnh mẽ với tốc độ ngày càng gia tăng của khoa
học và công nghệ hiện đại. Phải “tranh thủ cơ hội thuận lợi do bối cảnh quốc tế
tạo ra và tiềm năng, lợi thế của nước ta để rút ngắn quá trình CNH - HĐH đất
nước”. Đảng uỷ Khối Doanh nghiệp Trung ương là Đảng bộ lớn cấp tỉnh, có
vai trò to lớn trong lãnh đạo sự phát triển của các doanh nghiệp quốc doanh,
các tổng công ty, tập đoàn lớn. Sự phát triển của Đảng uỷ Khối Doanh nghiệp
Trung ương có tác động rất lớn đến sự phát triển chung của cả nước, góp phần
quan trọng tới sự tăng trưởng kinh tế và sự giàu có của đất nước. Hơn nữa,
28

cách thức lãnh đạo của cấp ủy đảng cần phải đổi mới, năng lực lãnh đạo phải
được nâng cao để thích ứng với xu thế phát triển chung.

1.3.2. Xuất phát từ yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa
Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, từ khi ra đời đến
nay, Nhà nước ta ngày càng thể hiện rõ những phẩm chất và đặc trưng của
một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân. Đó là một nhà nước hợp hiến, hợp pháp, được xây dựng, tổ
chức và hoạt động trên cơ sở những quy định của hiến pháp, pháp luật và vận
hành trong khuôn khổ hiến pháp, pháp luật. Hiến pháp và hệ thống pháp luật
của chúng ta ngày càng được xây dựng, bổ sung và hoàn thiện để không
những đáp ứng kịp thời những yêu cầu phong phú và sinh động của công cuộc
đổi mới toàn diện đất nước mà còn để phù hợp với hệ thống công ước, thông
lệ và pháp luật quốc tế trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày
càng sâu rộng của đất nước.
Ở nước ta, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Ba quyền lập
pháp, hành pháp và tư pháp trong Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam
không độc lập, càng không đối lập, mà thống nhất với nhau trên cơ sở đường
lối lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Trong nhà nước pháp quyền, đòi hỏi các quyết định của nhà nước phải
công khai, minh bạch; trao quyền gắn với kiểm soát quyền lực, gắn với trách
nhiệm giải trình. Bộ máy hành chính thực hiện chức năng phục vụ nhân dân
chứ không phải là cai trị nhân dân. Do đó, hoạt động trong môi trường này,
các doanh nghiệp nhà nước cũng sẽ phải tuân thủ các nguyên tắc pháp quyền,
đặc biệt là vấn đề về tính minh bạch và trách nhiệm giải trình trong các hoạt
động của mình.
Cải cách hành chính được coi là khâu đột phá để đi vào đổi mới quản
lý, tăng cường hiệu quả quản lý, tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà
29

nước, góp phần phát triển kinh tế - xã hội và chăm lo đời sống nhân dân. Nền
hành chính nhà nước là sản phẩm của xã hội có nhà nước, là một bộ phận của
bộ máy nhà nước, cùng với các bộ phận cơ quan cùng với các bộ phận khác
(cơ quan quyền lực, toà án, kiểm sát) tạo thành bộ phận trụ cột của hệ thống
chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng. Nền hành chính nhà nước mang nội
dung chính trị, phục vụ cho mục tiêu chính trị, đó không phải là bộ máy
chuyên môn thuần tuý tách rời chính trị, phục vụ cho chính trị để thực hiện thi
quyền hạn. Các nguyên nhân do cải cách hành chính chậm chễ, kém hiệu quả
có sự đan xen, chi phối lẫn nhau trong đó có một nguyên nhân cơ bản là một
số cán bộ, công chức kém về đạo đức, phẩm chất, yếu về nghiệp vụ. Vai trò
lãnh đạo, giám sát của các tổ chức Đảng trong lĩnh vực này còn chưa được coi
trọng, chưa được thực hiện thường xuyên, hiệu quả.
Bằng hành động thực tiễn, nền hành chính quan tâm đảm bảo các
quyền và lợi ích của công dân, bảo đảm an sinh xã hội, bảo đảm công bằng,
bình đẳng, tạo điều kiện cần thiết để mọi thành viên xã hội với những địa vị,
điều kiện, thể chất,… khác nhau nhưng có cơ hội như nhau để phát triển; bù
đắp cho những người được hưởng lợi ít nhất; quan tâm giúp đỡ, cung cấp dịch
vụ cho nhân dân vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện khó khăn và những
nhóm đối tượng yếu thế, có vị thế bất lợi trong nền kinh tế thị trường.
Do vậy, cần tăng cường hơn nữa năng lực lãnh đạo của các tổ chức
đảng để chỉ đạo tập trung, thống nhất, thường xuyên và kịp thời đối với công
tác cải cách hành chính. Đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị cần thiết để đẩy
nhanh tiến trình hiện đại hóa nền hành chính. . Do vậy, yêu cầu nâng cao năng
lực lãnh đạo của các cấp ủy đảng là yêu cầu cấp thiết, lâu dài, phù hợp với sự
phát triển tất yếu khách quan của các tổ chức đảng. Đây cũng là một trong
nhưng nhiệm vụ vô cùng cần thiết trong công tác xây dựng cấp ủy đảng ngày
càng trong sạch và vững mạnh.
30

1.3.3. Xuất phát từ yêu cầu xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh,
nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng
Cụ thể hóa thực hiện Nghị quyết Đại hội XI của Đảng về công tác xây
dựng Đảng, Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI đã
thảo luận và thống nhất rất cao việc ban hành Nghị quyết “Một số vấn đề cấp
bách về xây dựng Đảng hiện nay”. Quá trình thực hiện Nghị quyết Trung
ương 4 đã đạt được những kết quả bước đầu quan trọng, góp phần siết lại kỷ
luật, kỷ cương, có tác dụng cảnh báo, răn đe, cảnh tỉnh và ngăn chặn các hành
vi tiêu cực, tạo tiền đề đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng, đưa tự phê bình và
phê bình trở thành công việc thường xuyên trong Đảng.
Tuy nhiên, việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 chưa đạt kết quả
như mong đợi. Trong quá trình kiểm điểm, nhiều cấp ủy, tổ chức đảng và tập
thể lãnh đạo cơ quan, đơn vị góp ý cho cấp trên (nhất là cho cá nhân), chất
lượng còn hạn chế. Một số đồng chí chưa nhìn nhận đúng mức khuyết điểm
và trách nhiệm của mình trước những hạn chế, khuyết điểm trong lĩnh vực
được giao phụ trách. Nhìn chung, khuyết điểm khá phổ biến là tình trạng nể
nang, né tránh, ngại va chạm. Trên một số vấn đề, qua kiểm điểm của cấp ủy,
tổ chức đảng các cấp từ Trung ương đến cơ sở vẫn chưa làm rõ thực chất,
mức độ nghiêm trọng của tình hình, xảy ra ở đâu, ai chịu trách nhiệm, như:
tình trạng suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; tình trạng chạy chức,
chạy tội, chạy lợi ích nhóm…. Một số quy định, quy chế để triển khai thực
hiện nghị quyết chậm được ban hành, một số vụ việc phức tạp gây bức xúc
trong nhân dân chậm được xem xét, xử lý.
Việc cụ thể hóa, xây dựng chương trình hành động và tổ chức thực hiện
các nghị quyết, chỉ thị, quy định, kết luận của Đảng chưa kịp thời, đồng bộ, cụ
thể và hiệu quả chưa cao. Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của không ít
cấp ủy đảng, tổ chức đảng còn thấp; công tác quản lý, giáo dục, rèn luyện
31

đảng viên ở một số nơi chưa được quan tâm thường xuyên, sinh hoạt đảng
chất lượng chưa cao, tự phê bình và phê bình yếu. Chất lượng và hiệu quả
công tác tư tưởng, lý luận chưa cao.
Việc triển khai thực hiện nội dung các nghị quyết, chỉ thị, chủ trương,
chính sách của Đảng về rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống, nâng cao năng
lực, trình độ của cán bộ, đảng viên chưa thực sự tích cực, đồng bộ, thường
xuyên, một số nơi thực hiện chưa nghiêm túc. Việc học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh chưa đều, chưa đi vào chiều sâu ở một số cơ
quan, đơn vị; một số nơi thực hiện còn mang tính hình thức.
Việc đổi mới công tác cán bộ chưa có đột phá lớn. Đánh giá cán bộ vẫn
là khâu yếu, chưa có những tiêu chí cụ thể và giải pháp khoa học để khắc
phục. Tình trạng chạy chức, chạy quyền, chạy tuổi, chạy bằng cấp, chưa được
ngăn chặn, đẩy lùi. Công tác quy hoạch ở một số nơi còn khép kín, chưa bảo
đảm sự lien thông, gắn kết.
Chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát và xử lý tổ chức đảng
và đảng viên vi phạm chưa cao, chưa đủ sức góp phần ngăn chặn, đẩy lùi
tham nhũng, lãng phí, tiêu cực trong Đảng bộ. Nhiều khuyết điểm, sai phạm
của tổ chức đảng, đảng viên chậm được phát hiện, kiểm tra, xử lý, hoặc xử lý
kéo dài, nên kỷ cương, kỷ luật ở một số nơi chưa nghiêm; chưa phát huy đầy
đủ vai trò, trách nhiệm của cấp ủy đảng trong công tác kiểm tra, giám sát.
Nhiều cấp ủy đảng chưa thực hiện tốt vai trò lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý,
thực hiện công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí; chưa phát huy được
sức mạnh của cả hệ thống chính trị trong phòng chống tham nhũng, lãng phí.
Vẫn còn tình trạng ban hành nhiều nghị quyết; có nội dung thiếu tính
khả thi, chưa tính kỹ nguồn lực và điều kiện thực hiện. Chưa tập trung lãnh
đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện, kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết việc thực
hiện nghị quyết. Còn có biểu hiện quan lieu, cửa quyền, chưa thực sự sâu sát
32

thực tế, cơ sở. Tình trạng nói không đi đôi với làm, nói nhiều làm ít chậm được
khắc phục.
33

Tiểu kết chương 1

Trên cơ sở nghiên cứu, tác giả đã phân tích để làm rõ vị trí, vai trò,
chức năng, nhiệm vụ của cấp ủy đảng, khái niệm năng lực lãnh đạo nói chung
và năng lực lãnh đạo của cấp ủy đảng nói riêng. Trên cơ sở đó đưa ra và phân
tích các yếu tố cấu thành năng lực lãnh đạo của cấp ủy đảng trực thuộc Trung
ương, bao gồm: Yếu tố tư duy lý luận, đề ra phương hướng, chủ trương phát
triển; Yếu tố tổ chức thực hiện các chủ trương, chiến lược phát triển; Yếu tố
sáng tạo và tính quyết đoán; Yếu tố động viên, phát huy nguồn lực con người.
Trong quá trình lãnh đạo tổ chức các nhiệm vụ chính trị của đảng bộ,
cấp ủy đảng cơ bản phải hội tụ đủ các yếu tố đó mới đảm bảo vai trò lãnh
đạo toàn diện của Đảng tại đơn vị. Đây là cơ sở lý luận để khảo sát, đánh
giá thực trạng và phát hiện những vấn đề mới phát sinh, những vấn đề còn
tồn tại về năng lực lãnh đạo của cấp ủy đảng trong đó có Đảng ủy Khối
Doanh nghiệp Trung ương.
34

Chương 2
NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG UỶ
KHỐI DOANH NGHIỆP TRUNG ƯƠNG HIỆN NAY -
THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA

2.1. Khái quát về Đảng uỷ Khối Doanh nghiệp Trung ương

2.1.1. Vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Đảng uỷ Khối Doanh
nghiệp Trung ương
Ngày 11-4-2007, Bộ Chính trị đã ban hành Quyết định số 48-QĐ/TW
về việc thành lập Đảng bộ Khối Doanh nghiệp Trung ương. Đến nay, trực
thuộc Đảng bộ Khối Doanh nghiệp Trung ương có 35 đảng bộ các tập đoàn,
tổng công ty, ngân hàng, đơn vị (Xem bảng 1)
Bảng 2.1: Danh sách các đảng bộ trực thuộc Đảng bộ khối Doanh
nghiệp trung ương
Stt Đảng bộ
1 Đảng bộ Tập đoàn Bảo việt
2 Đảng bộ Tập đoàn Bưu chính viễn thông Việt Nam
3 Đảng bộ Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam
4 Đảng bộ Tập đoàn Công nghiệp than - Khoáng sản Việt Nam
5 Đảng bộ Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam
6 Đảng bộ Tập đoàn Dệt may Việt Nam
7 Đảng bộ Tập đoàn Điện lực Việt Nam
8 Đảng bộ Tập đoàn Hóa Chất Việt Nam
9 Đảng bộ Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam
10 Đảng bộ Tổng công ty Bưu điện Việt Nam
11 Đảng bộ Tổng công ty Công nghiệp Tàu thủy
35

Stt Đảng bộ
12 Đảng bộ Tổng công ty Công nghiệp Xi măng Việt Nam
13 Đảng bộ Tổng công ty Đường sắt Việt Nam
14 Đảng bộ Tổng công ty Giấy Việt Nam
15 Đảng bộ Tổng công ty Hàng hải Việt Nam
16 Đảng bộ Tổng công ty Hàng không Việt Nam
17 Đảng bộ Tổng công ty Lương thực Miền Bắc
18 Đảng bộ Tổng công ty Lương thực Miền Nam
19 Đảng bộ Tổng công ty Phát triển Nhà & Đô thị (HUD)
20 Đảng bộ Tổng công ty Sông Đà
21 Đảng bộ Tổng công ty Thép Việt Nam - CTCP
22 Đảng bộ Tổng công ty Thuốc lá Việt Nam
23 Đảng bộ Tổng công ty Truyền thông đa phương tiện
24 Đảng bộ Tổng công ty Viễn thông MobiFone
25 Đảng bộ Ngân hàng Chính sách Xã hội Trung ương
26 Đảng bộ Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam
27 Đảng bộ Ngân hàng Phát triển Việt Nam
28 Đảng bộ Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Việt Nam
29 Đảng bộ Ngân hàng thương mại cổ phần Đầu tư và phát triển Việt Nam
30 Đảng bộ Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam
31 Đảng bộ Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam
32 Đảng bộ Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam
33 Đảng bộ Tổng công ty Cà phê Việt Nam
34 Đảng bộ Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh vốn Nhà nước
35 Đảng bộ Cơ quan Đảng ủy Khối Doanh nghiệp Trung ương
(Nguồn: Báo cáo chính trị của Đảng ủy Khối Doanh nghiệp Trung ương)
36

Các doanh nghiệp trong Khối là các doanh nghiệp nhà nước lớn, có vai
trò hết sức quan trọng, là lực lượng nòng cốt giữ các cân đối lớn của nền kinh
tế về lương thực, xăng dầu, than điện, phân bón, thép, xi măng, dịch vụ vận tải
và các mặt hàng thiết yếu, các ngân hàng và tổ chức tài chính nhà nước lớn.
Trong những năm qua, hệ thống doanh nghiệp nhà nước đã được sắp
xếp, đổi mới, từ trên 12.000 nay còn trên 1.700 doanh nghiệp. Đã hình thành
các tổng công ty nhà nước, một số tập đoàn kinh tế (được tổ chức thí điểm)
hoạt động đa ngành, đa lĩnh vực, trong đó có ngành chính, theo đúng Nghị
quyết của Đảng, phù hợp với quy định của pháp luật. Các doanh nghiệp nhà
nước, nhất là các tập đoàn và tổng công ty đã được cơ cấu lại, thích ứng tốt
hơn với cơ chế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế, hiệu quả và khả năng
cạnh tranh được nâng lên, đóng góp lớn vào phát triển kinh tế xã hội của đất
nước (khoảng 40% GDP). Hệ thống doanh nghiệp nhà nước đang giữ vai trò
chủ lực trong phát triển kết cấu hạ tầng, sản xuất tư liệu sản xuất và kinh
doanh những dịch vụ quan trọng, nhiều lĩnh vực đã mang lại hiệu quả chung
cho nền kinh tế. Doanh nghiệp nhà nước còn phải đầu tư những công trình ở
vùng sâu, vùng xa, kinh doanh những lĩnh vực bảo đảm an sinh xã hội lợi
nhuận thấp. Trong điều kiện khó khăn, phức tạp vừa qua, nhiều tập đoàn, tổng
công ty nhà nước thực sự là công cụ quan trọng của Nhà nước để điều hành,
thực hiện các giải pháp kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì tăng
trưởng và bảo đảm an sinh xã hội. Thích ứng tốt hơn với cơ chế thị trường và
hội nhập kinh tế quốc tế.
* Vị trí, vai trò của Đảng uỷ Khối doanh nghiệp trung ương:
Đảng ủy Khối Doanh nghiệp Trung ương là cấp ủy trực thuộc Ban
Chấp hành Trung ương, chịu sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp và thường xuyên
của Bộ Chính trị, Ban Bí thư; là cấp ủy cấp trên trực tiếp của các đảng bộ tập
đoàn kinh tế, tổng công ty, ngân hàng, đơn vị trực thuộc Khối.
37

Khi thành lập, Đảng bộ Khối Doanh nghiệp Trung ương bao gồm 31
đảng bộ trực thuộc, trong đó có 29 đảng bộ tập đoàn, tổng công ty, đơn vị, 02
đảng bộ cơ quan, với 23 đảng bộ cấp trên cơ sở và trên 47.000 đảng viên.
Đến cuối năm 2009, Đảng bộ Khối bao gồm gồm 31 Đảng bộ trực
thuộc, trong đó có 25 đảng bộ cấp trên cơ sở, 6 đảng bộ cơ sở với trên 52.000
đảng viên là các tập đoàn, tổng công ty lớn và tổng công ty hạng đặc biệt hoạt
động theo mô hình công ty mẹ - công ty con, trong đó các thành viên gắn kết
với nhau thông qua mối liên hệ về quyền sở hữu vốn, tính thống nhất về mục
tiêu chiến lược kinh doanh, thị trường, thương hiệu...; có 4 đảng bộ xuyên
suốt toàn tập đoàn, tổng công ty; 25 đảng bộ tập đoàn, tổng công ty là đảng bộ
công ty mẹ hoặc đảng bộ công ty mẹ mở rộng (gồm tổ chức cơ sở đảng ở
công ty mẹ và tổ chức cơ sở đảng ở một số công ty thành viên).
Đến tháng 5 năm 2010, thực hiện quy định của Ban Bí thư (số 196 -
QĐ/TW), Đảng uỷ Khối đã tiếp nhận Đảng bộ Tập đoàn Phát triển Nhà và Đô
thị Việt Nam (HUD) và Tập đoàn Công nghiệp Xây dựng Việt Nam (Tập
đoàn Sông Đà), đưa tổng số đảng bộ trực thuộc Khối lên 33 với tổng số đảng
viên lên trên 65.000.
* Chức năng, nhiệm vụ của Đảng uỷ Khối doanh nghiệp Trung ương
Chức năng của Đảng uỷ Khối Doanh nghiệp Trung ương:
Lãnh đạo, kiểm tra, giám sát các Đảng bộ trực thuộc chấp hành nghiêm
chỉnh Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng, Pháp
luật của Nhà nước; hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị và công tác tổ chức, cán
bộ; doanh nghiệp, đơn vị, đoàn thể chính trị-xã hội, xây dựng Đảng bộ trong
sạch vững mạnh. Tham gia nghiên cứu, đề xuất với Trung ương về công tác
Đảng, công tác tổ chức, cán bộ và nhiệm vụ chính trị cuả các tập đoàn kinh tế,
tổng công ty, đơn vị thuộc Khối có vị trí then chốt trong nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa.
38

Nhiệm vụ của Đảng uỷ Khối Doanh nghiệp Trung ương:


+ Lãnh đạo các Đảng bộ trực thuộc thực hiện nhiệm vụ chính trị:
Quán triệt đường lối, quan điểm, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, pháp luật
của nhà nước và xây dựng chương trình hành động sát hợp với doanh nghiệp.
Lãnh đạo triển khai nhiệm vụ chính trị để các doanh nghiệp, đơn vị tổ
chức thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ sản xuất, kinh doanh; kiểm tra giám sát
tổ chức Đảng và đảng viên trong việc thực hiện nhiệm vụ được giao.
Đề xuất với các cơ quan Đảng, Nhà nước có thẩm quyền về cơ chế,
chính sách nhằm tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, nâng cao hiệu quả và sức
cạnh tranh trong sản xuất, kinh doanh.
Lãnh đạo thực hiện các chủ trương của Đảng về kết hợp phát triển kinh
tế-xã hội với quốc phòng, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và bí
mật quốc gia.
+ Công tác chính trị, tư tưởng :
Lãnh đạo các tổ chức Đảng thường xuyên làm tốt công tác giáo dục
chính trị tư tưởng cho cán bộ, đảng viên, công nhân và người lao động thực
hiện đúng đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước, hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị của doanh nghiệp, đơn vị.
Giáo dục phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống; xây dựng văn hoá
doanh nghiệp, giữ gìn bản sắc dân tộc trong hội nhập kinh tế quốc tế.
Bồi dưỡng nâng cao trình độ, kiến thức, năng lực hoạt động thực tiễn, ý
thức tổ chức kỷ luật cho cán bộ, đảng viên.
+ Công tác xây dựng tổ chức Đảng :
Lãnh đạo việc xây dựng Đảng bộ, chi bộ trong sạch vững mạnh; thực
hiện đúng Điều lệ Đảng và các quy định của Trung ương về nguyên tắc tổ
chức sinh hoạt Đảng và quản lý đảng viên; bồi dưỡng cấp uỷ viên, cán bộ
chuyên trách công tác Đảng ; thực hiện tốt công tác phát triển đảng viên; đánh
39

giá chất lượng khen thưởng, kỷ luật tổ chức Đảng và đảng viên theo quy định
của Trung ương.
Đề xuất với Trung ương về hệ hệ thống tổ chức Đảng trực thuộc phù
hợp với hệ thống tổ chức doanh nghiệp.
Lãnh đạo Đảng bộ thực hiện tốt công tác bảo vệ chính trị nội bộ.
+ Công tác cán bộ:
Lãnh đạo, kiểm tra, hướng dẫn các Đảng uỷ trực thuộc trong việc thực
hiện các nghị quyết, chỉ thị, quy chế, quy định, quyết định về cán bộ và công
tác cán bộ. Lãnh đạo các Đảng uỷ trực thuộc thực hiện việc nhận xét, đánh
giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, điều động, luân chuyển , bổ nhiệm, miễn
nhiệm, giới thiệu, ứng cử đối với cán bộ theo phân cấp quản lý.
Tham gia với các Ban Đảng, Đảng đoàn, Ban cán sự Đảng trong công
tác cán bộ và quản lý cán bộ đối với đảng viên là cán bộ thuộc diện Khối quản
lý. Tham gia ý kiến về bổ nhiệm, miễn nhiệm đối với đảng viên là Uỷ viên hội
đồng quản trị của các tập đoàn kinh tế, tổng công ty, đơn vị trong Khối và cán
bộ thuộc diện Hội đồng quản trị các tập đoàn, tổng công ty, đơn vị quyết định.
Quyết định về tổ chức bộ máy và cán bộ chuyên trách công tác Đảng
thuộc thẩm quyền theo phân cấp quản lý. Đề nghị với các cơ quan có thẩm
quyền về chế độ, chính sách đối với cán bộ chuyên trách công tác đảng.
+ Công tác kiểm tra giám sát:
Lãnh đạo và tổ chức thực hiện công tác kiểm tra, giám sát theo quy
định của Điều lệ Đảng; giữ nghiêm kỷ luật Đảng, pháp luật của Nhà nước; giữ
vững đoàn kết nội bộ.
Chống suy thoái về tư tưởng, phẩm chất, đạo đức, lối sống; phòng
chống tham nhũng, lãng phí có hiệu quả.
Chủ động phát hiện, kịp thời ngăn chặn tổ chức Đảng, cán bộ và đảng
viên có biểu hiện vi phạm; xử lý nghiêm minh tổ chức Đảng, cán bộ và đảng
viên vi phạm các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
40

+ Công tác dân vận :


Chỉ đạo các Đảng uỷ trực thuộc về việc lãnh đạo các đoàn thể chính trị-
xã hội, các tổ chức nghề nghiệp thuộc Khối theo quy định của Trung ương.
Lãnh đạo xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, phát huy
quyền làm chủ của người lao động để thực hiện đúng đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng và phảp vệ quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của
người lao động, của nhà đầu tư. Động viên, khuyến khích, tạo điều kiện để các
đoàn thể tham gia xây dựng Đảng và quản lý doanh nghiệp; đẩy mạnh phong
trào thi đua hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chính trị của doanh nghiệp, đơn vị.
Lãnh đạo Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh Khối Doanh nghiệp
Trung ương về phương hướng, nhiệm vụ, tư tưởng, tổ chức và cán bộ.

2.1.2. Tình hình hoạt động của Đảng uỷ Khối Doanh nghiệp Trung
ương trong những năm vừa qua
Trong những năm qua, thực hiện nghị quyết đại hội XI của Đảng,
Nghị quyết Đại hội của Đảng bộ khối lần thứ nhất trong bối cảnh trong
nước và quốc tế vừa có những thuận lợi và khó khăn, thách thức đan xen.
Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử đạt được sau gần 30 năm đổi
mới đã tạo thế và lực mới cho sự phát triển của đất nước. Nhiều tiềm năng,
thế mạnh về kinh tế, kỹ thuật và những thành tựu đã đạt được trong giai
đoạn trước, cùng với truyền thống đoàn kết, trách nhiệm, năng động, sáng
tạo của cán bộ, đảng viên, người lao động trong toàn Đảng bộ được phát
huy, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp, thường xuyên của Ban chấp hành
Trung ương, Bộ chính trị, Ban bí thư, Quốc hội, Chính phủ, đã tạo động lực
để các doanh nghiệp trong Đảng bộ khối tiếp tục giữ vũng ổn định và phát
triển, khẳng định được vai trò nòng cốt của doanh nghiệp nhà nước trong
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Bên cạnh đó, tình hình kinh tế chính trị thế giới và khu vực có nhiều
diễn biến phức tạp. Kinh tế thế giới phục hồi chậm hơn dự báo. Khủng hoảng
41

nợ công diễn ra trầm trọng ở Châu Âu. Nhiều nước tăng cường bảo hộ thương
mại và sản xuất. Các nước lớn cạnh tranh quyết liệt, giành ảnh hưởng trong
khu vực. Tình hình biển Đông, biển Hoa Đông diễn biến phức tạp. Trong
nước, tác động của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu cùng
những yếu kém nội tại của nền kinh tế đã bộc lộ rõ hơn. Đầu nhiệm kỳ lạm
phát tăng cao, kinh tế vĩ mô có nhiều biến động, sản xuất kinh doanh gặp
nhiều khó khăn. Thiên tai dịch bệnh gây thiệt hai nặng nề.
Trong bối cảnh đó, Đảng ủy Khối Doanh nghiệp Trung ương đã chủ
động nắm vững và vận dụng sáng tạo chủ trương, đường lối của Đảng, nỗ lực
phấn đấu vượt qua khó khăn, thách thức, lãnh đạo thực hiện thắng lợi Nghị
quyết Đại hội Đảng bộ Khối đề ra, đạt được những thành tựu quan trọng và
khá toàn diện.
Trong thời gian qua, hầu hết các doanh nghiệp thuộc Đảng bộ Khối đều
kinh doanh có lãi; tiếp tục đi đầu trong thực hiện chủ trương của Đảng, chính
sách của Nhà nước về ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát, thực hiện an
sinh xã hội, tái cấu trúc nền kinh tế và tăng trưởng ổn định, đóng góp lớn vào
nguồn thu ngân sách quốc gia, thực hiện tốt công tác an sinh xã hội và giữ gìn
biển đảo của Tổ quốc và trật tự an toàn xã hội. Tổng doanh thu của các tập
đoàn, tổng công ty ước đạt trên 1,797 triệu tỷ đồng, tăng 1% so với năm 2013;
Vốn huy động của các ngân hàng thương mại nhà nước đạt gần 2,2 triệu tỷ
đồng, tăng 16,4% so với năm 2013, dư nợ tín dụng đạt gần 1,9 triệu tỷ đồng,
tăng 14,4% so với 2013. Tổng lợi nhuận trước thuế của tất cả các đơn vị trong
Khối ước đạt trên 124 nghìn tỷ đồng; nộp ngân sách Nhà nước ước đạt trên
282 nghìn tỷ đồng, ước chiếm trên 33,5% tổng thu ngân sách quốc gia; đảm
bảo việc làm và thu nhập ổn định cho khoảng 1,3 triệu lao động. Có 30/33
(90%) đơn vị trong Khối hoạt động hiệu quả, tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ
sở hữu (ROE) trung bình toàn Khối đạt khoảng 8,54% [5, tr.12].
42

Công tác xây dựng Đảng có chuyển biến tích cực; công tác quy hoạch,
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ; quản lý, phát
triển, nâng cao chất lượng đảng viên được quan tâm; công tác kiểm tra, giám
sát, thi hành kỷ luật đảng, giải quyết đơn thư tố cáo được tăng cường; công
tác tư tưởng được chú trọng; hoạt động của các đoàn thể chính trị - xã hội
trong doanh nghiệp đi vào nề nếp, thiết thực, hiệu quả phục vụ nhiệm vụ
chính trị; Năm thanh niên tình nguyện 2014 được triển khai có hiệu quả.
Phương thức lãnh đạo của cấp uỷ Đảng tiếp tục đổi mới; xây dựng, bổ sung,
sửa đổi và ban hành quy chế về mối quan hệ công tác giữa cấp ủy - Hội đồng
thành viên/ Hội đồng quản trị - tổng giám đốc góp phần khắc phục khó khăn
trong công tác lãnh đạo, điều hành. Đảng ủy Khối đã lãnh đạo các tổ chức
đảng trong Khối tập trung lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ sản xuất kinh doanh,
tái cơ cấu, cổ phần hóa, thoái vốn và đẩy mạnh công tác xây dựng đảng.
Nhiều hoạt động mới, thiết thực, hiệu quả trong lãnh đạo của Ban chấp hành,
Ban Thường vụ Đảng ủy Khối năm 2014 có dấu ấn rõ nét, tiếp tục khẳng định
vị thế, vai trò của Đảng ủy Khối Doanh nghiệp Trung ương.
Đảng uỷ Khối đã đề ra phương hướng, nhiệm vụ công tác năm 2015
của Đảng bộ Khối, mà trọng tâm là: Tập trung mọi nỗ lực để lãnh đạo,
kiểm tra, đôn đốc, quyết liệt thực hiện thắng lợi các chỉ tiêu sản xuất, kinh
doanh, đầu tư của năm 2015 và cả nhiệm kỳ 2010-2015; đảm bảo đúng tiến
độ, hoàn thành các mục tiêu của đề án tái cơ cấu doanh nghiệp đã được phê
duyệt; tổ chức thành công Đại hội Đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2015-2020,
tiến tới Đại hội đại biểu Đảng bộ Khối lần thứ II và Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XII của Đảng, gắn với tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung
ương 4 về xây dựng Đảng, Chỉ thị 03 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh việc
học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, tạo sự chuyển biến
mạnh mẽ hơn nữa trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; năm 2015 là
năm cuối thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XI của Đảng, Kế hoạch phát
43

triển kinh tế-xã hội 5 năm 2011-2015; là năm có nhiều ngày lễ lớn của dân
tộc, cũng là năm Việt Nam thực hiện lộ trình cam kết AFTA, cơ bản xoá bỏ
thuế quan đối với hàng nhập khẩu từ ASEAN, mở cửa hoàn toàn thị trường
bán lẻ theo cam kết WTO, ký kết và thực hiện một số hiệp định thương mại
tự do. Kinh tế nước ta tiếp tục hội nhập sâu rộng trong bối cảnh cạnh tranh
gay gắt hơn; kinh tế thế giới dự báo tiếp tục phục hồi, nhưng còn chậm,
tình hình chính trị thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường; bất ổn
chính trị, tranh chấp lãnh thổ, xung đột vũ trang còn xảy ra ở nhiều nơi...
Tình hình quốc tế và trong nước tạo ra nhiều thời cơ, thuận lợi, nhưng cũng
đặt ra không ít khó khăn, thách thức, đòi hỏi các tập đoàn, tổng công ty,
ngân hàng, đơn vị trong Khối Doanh nghiệp Trung ương phải nỗ lực phấn
đấu rất cao, quyết tâm rất lớn, bám sát tình hình, đưa ra những giải pháp
quyết liệt, sáng tạo để hoàn thành thắng lợi các nhiệm vụ của năm 2015.
Qua đó tiếp tục nâng cao vị thế, vai trò của Đảng ủy Khối cũng như các
đảng ủy trực thuộc trong lãnh đạo bảo đảm thực hiện nhiệm vụ chính trị và
công tác xây dựng Đảng trong doanh nghiệp nhà nước.
Từ đó có những đóng góp hiệu quả vào việc tổng kết lý luận và thực
tiễn phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đặc biệt là đánh giá chính xác
đóng góp của doanh nghiệp nhà nước, tham mưu, đề xuất với Bộ Chính trị,
Ban Bí thư, Chính phủ, Quốc hội những giải pháp đúng đắn để tiếp tục phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

2.2. Thực trạng năng lực lãnh đạo của Đảng ủy Khối Doanh nghiệp
Trung ương

2.2.1. Yếu tố về năng lực tư duy lý luận, đề ra phương hướng, chủ


trương phát triển
Năng lực tư duy lý luận là tổng hợp các phẩm chất trí tuệ của chủ thể đáp
ứng yêu cầu phát hiện, nhận thức nhanh, nhạy, đúng đắn đối với hiện thực ở
44

trình độ lý luận, nhờ vậy, có những đề xuất sắc bén, sáng tạo, thiết thực góp phần
nâng cao hiệu quả hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người.
Thực chất, năng lực tư duy lý luận được hiểu là khả năng nhận thức, hiểu
về Chủ nghĩa Mác - Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, con đường đi lên CNXH
nước ta, về nền kinh tế thị trường và nhà nước pháp quyền XHCN, về vai trò
lãnh đạo của Đảng, quyền và nghĩa vụ của công dân. Bên cạnh đó, tổ chức quán
triệt và thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà
nước. Trên cơ sở đó, lãnh đạo xây dựng chương trình, kế hoạch phát triển doanh
nghiệp. Đó là sự nắm bắt sâu sắc của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, những quan điểm của Đảng, dựa vào hệ thống lý luận ấy mà cụ thể hóa
các chính sách vào doanh nghiệp, đơn vị. Đồng thời, trong lãnh đạo, Đảng ủy
Khối Doanh nghiệp Trung ương còn phải thu nhận kịp thời những thông tin từ
hoạt động thực tiễn, xử lý các thông tin ấy một cách nhanh chóng chính xác.
Trên những cơ sở ấy mà vận dụng cái chung một cách đúng đắn chính xác cho
những lĩnh vực cụ thể ở phạm vi doanh nghiệp. Đó chính là năng lực vận dụng
sáng tạo trong quản lý. Cũng trong quá trình lãnh đạo yêu cầu về năng lực tư duy
lý luận của Đảng ủy Khối Doanh nghiệp Trung ương còn thể hiện ở năng lực tư
duy về con người, hiểu biết về con người để thu hút tập hợp họ, động viên, lôi
cuốn họ để họ hoạt động tích cực. Lãnh đạo ở cấp Đảng ủy Khối vừa mang tính
định hướng chung vừa mang tính thực tiễn cụ thể, cho nên trong quá trình hoạt
động của mình, Đảng ủy Khối Doanh nghiệp Trung ương còn phải có năng lực
tổng kết thực tiễn, đúc rút kinh nghiệm để có cơ sở hình thành các giải pháp cho
việc giải quyết các vấn đề ở quá trình thực tiễn tiếp theo.
Để đạt được những mục đích, yêu cầu nội dung của hoạt động lãnh đạo
một cách hiệu quả nhất, để có được năng lực tư duy lãnh đạo nhất định, người
cán bộ lãnh đạo nói chung, Đảng ủy Khối Doanh nghiệp Trung ương nói riêng
phải có không chỉ phẩm chất đạo đức cách mạng, mà cả năng lực tư duy lý luận
45

nhất định. “Vì lý luận như cái kim chỉ nam, nó chỉ phương hướng cho chúng ta
trong việc thực tế. Không có lý luận thì lúng túng như nhắm mắt mà đi”. Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Vì kém lý luận nên gặp mọi việc không biết xem
xét rõ, cân nhắc cho đúng, xử lý cho khéo, không biết nhận rõ điều kiện hoàn
cảnh khách quan ý mình nghĩ thế nào làm thế ấy. Kết quả thường thất bại”.
Năng lực tư duy lý luận của cấp ủy Đảng ủy Khối Doanh nghiệp Trung
ương có giá trị định hướng cho hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn
của Khối. Chất liệu trực tiếp tạo nên năng lực đó là những tri thức lý luận tiếp
thu từ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, từ đường lối, chủ
trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước và từ sự trải nghiệm trong hoạt
động thực tiễn của chính người cán bộ.
Năng lực tư duy lý luận, đề ra phương hướng, chủ trương phát triển tại
doanh nghiệp thể hiện trước hết ở năng lực, trình độ của đội ngũ Ban chấp
hành Đảng bộ Khối.
Nhiệm kỳ 2010-2015, số lượng ủy viên Ban chấp hành Đảng bộ Khối
Doanh nghiệp trung ương là 43 người (tăng 11 người so với nhiệm kỳ 2005 -
2010). Trong đó: 14 người có trình độ cử nhân (chiếm 32,6%), 18 người có
trình độ thạc sỹ (chiếm 41,9%), 09 người có trình độ tiến sỹ (chiếm 20,9%),
trong đó 03 người là nữ (chiếm 6,98%). Về trình độ Lý luận chính trị: 43
người có trình độ cao cấp, đại học (đạt 100%). Về trình độ tin học, hầu hết
mọi người có trình độ tin học cơ bản [5, tr.5]. Như vậy, về cơ bản đội ngũ cán
bộ chủ chốt có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, trình độ lí luận chính trị, trình
độ tin học cơ bản đạt chuẩn và đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Cơ cấu về thành
phần, lứa tuổi, giới đảm bảo quy định.Tuy nhiên, trong đội ngũ ban chấp
hành, độ tuổi trung bình cao, một số cán bộ không được đào tạo cơ bản mà
hợp thức hóa bằng cấp trong quá trình công tác.
Vai trò hoạch định, định hướng xây dựng chủ trương, kế hoạch, chương
trình phát triển của doanh nghiệp phụ thuộc rất lớn vào người đứng đầu cấp ủy,
46

chính quyền mà điển hình là Bí thư đảng ủy, Chủ tịch Hội đông quản trị, Chủ
tịch Hội đồng thành viên, Tổng giám đốc, Giám đốc các doanh nghiệp. Qua rà
soát, 35 người giữ chức danh Bí thư Đảng ủy, chủ tịch Hội đồng quản trị, chủ
tịch Hội đồng thành viên thì 100% số người có trình độ đại học và trên đại học,
có trình độ lí luận chính trị cao cấp, 5 người có trình độ Trung cấp. Trong đó 23
bí thư đảng ủy đồng thời là chủ tịch Hội đồng thành viên, Hội đồng quản trị, 09
đồng chí bí thư đảng ủy kiêm Tổng Giám Đốc. Đứng dưới góc độ giới, tỷ lệ bí
thư đảng ủy là nữ là 1/35 đồng chí, cơ bản là cân đối, hài hòa. Tuy nhiên, 34/35
chủ tịch Hội đồng thành viên, chủ tịch Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc các
doanh nghiệp là nam dẫn đến mất cân đối về giới, trong chỉ đạo điều hành nên
phân công thêm các vị trí có thể sử dụng vai trò của nữ giới để tăng tính mềm
mại, khéo léo, linh hoạt trong quản lý của các doanh nghiệp, thuận lợi trong quá
trình rút kinh nghiệm trong quá trình lãnh đạo, quản lý chung.
Để nâng cao năng lực tư duy lý luận, khả năng nhận thức và xây dựng
phương hướng, chủ trương xây dựng doanh nghiệp, các cấp ủy Đảng trực
thuộc đã tập trung tổ chức học tập, quán triệt Nghị quyết Đại hội Đảng các
cấp. Cụ thể trong những năm vừa qua đã tổ chức học tập và triển khai thực
hiện Nghị quyết Đại hội X, XI của Đảng gắn với việc triển khai Nghị quyết
Đại hội Đảng bộ Khối. Đặc biệt, Đảng bộ các đơn vị trực thuộc đã nghiêm túc
tổ chức học tập, quán triệt, triển khai thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung
ương 4, Nghị quyết và kết luận tại Hội nghị TW 5, TW 6, TW 7, TW 8, TW
9, TW 10 của Đảng (khóa XI) trong toàn Đảng bộ.
Trên cơ sở nắm bắt rõ các chủ trương chính sách của Đảng và nhà
nước, tình hình của doanh nghiệp, Ban chấp hành Đảng bộ khối đã xây dựng
Nghị quyết của Đảng bộ các nhiệm kỳ, Chương trình, kế hoạch hàng năm
phù hợp với thực tế phát triển của doanh nghiệp, được cán bộ, đảng viên và
người lao động đồng tình ủng hộ. Các chỉ tiêu kinh tế - xã hội, các giải pháp
trong công tác xây dựng Đảng đều thiết thực, tính khả thi cao. Việc xây
47

dựng Chương trình hành động của ban chấp hành sau các kỳ Đại hội, quy
chế hoạt động của ban chấp hành thể hiện rõ trách nhiệm của tập thể cấp ủy,
của từng cá nhân trong tham mưu xây dựng chủ trương, chính sách với
nhiệm vụ trung tâm là lãnh đạo phát triển kinh tế, chăm lo cải thiện đời sống
và bảo đảm quyền làm chủ của người lao động, phát triển kinh tế, giữ vững
ổn định chính trị - xã hội.
Bên cạnh việc tập trung xây dựng phát triển kinh tế - xã hội, đảng bộ
các doanh nghiệp vận dụng, cụ thể hóa các chủ trương, chính sách, nghị
quyết, chỉ thị của Đảng phù hợp với tình hình của doanh nghiệp. Đề cao tinh
thần cảnh giác cách mạng bảo vệ nội bộ, bảo vệ tài sản nhà nước, của tập thể,
tài sản và tính mạng của nhân dân. Phát huy được tiềm năng, thế mạnh, hạn
chế được những khó khăn, tồn tại của doanh nghiệp; Tranh thủ sự lãnh
đạo, chỉ đạo, giúp đỡ của Đảng, đoàn thể cấp trên để xác định phương
hướng, nhiệm vụ, mục tiêu phấn đấu từng thời kỳ để đạt kết quả tốt nhất.
Năng lực tư duy lý luận, đề ra phương hướng, chủ trương phát triển tại
Đảng bộ Khối còn thể hiện ở năng lực, trình độ của đội ngũ cấp ủy chi bộ. Tuy
nhiên đội ngũ cấp ủy có trình độ không đồng đều. Một số đã từng kinh qua nhiều
vị trí lãnh đạo quan trọng của đảng, chính quyền, mặt trận tổ quốc, các đoàn thể
các cấp, các cơ quan, đơn vị, xí nghiệp…nên rất am hiểu pháp luật, nhưng một
số cấp ủy chi bộ chưa được đào tạo bài bản hoặc có đào đạo nhưng chuyên khác,
làm việc chủ yếu trên cơ sở kinh nghiệm và uy tín. Đội ngũ này có vai trò quan
trọng trong việc triển khai các nhiệm vụ của doanh nghiệp tới đảng viên.
Từ thực trạng về năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ Đảng ủy
Khối Doanh nghiệp Trung ương đã trình bày ở trên cho thấy còn bộc lộ nhiều
hạn chế. Những hạn chế đó cần phải được khắc phục kịp thời và triệt để nhằm
đáp ứng những yêu cầu của sự phát triển sản xuất ở các tập đoàn, tổng công
ty, ngân hàng trong điều kiện đất nước đang đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp
48

hóa, hiện đại hóa. Để góp phần vào công việc đó cần có những giải pháp, tập
trung vào nhân tố trung tâm là con người, cụ thể là:
Trau dồi khả năng tư duy lý luận, bồi dưỡng chuyên môn cho đội ngũ cán
bộ Đảng ủy Khối Doanh nghiệp Trung ương. Cùng với quá trình học tập và tự
học tập để thực sự có được phương pháp tư duy khoa học thì việc rèn luyện, trau
dồi phương pháp tư duy qua nghiên cứu tổng kết thực tiễn cũng đóng vai trò
quan trọng trong việc nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ Đảng
ủy Khối Doanh nghiệp Trung ương. Qua nghiên cứu, tổng kết thực tiễn trong
phạm vi doanh nghiệp được phân công phụ trách, đội ngũ cán bộ Đảng ủy Khối
Doanh nghiệp Trung ương sẽ nâng cao được năng lực tư duy lý luận của mình.
Tiếp tục đổi mới công tác đào tạo cán bộ nói chung, cán bộ lãnh đạo
Đảng ủy Khối Doanh nghiệp Trung ương nói riêng, đồng thời phát huy tính
tích cực, chủ động sáng tạo của đội ngũ cấp ủy Đảng ủy Khối trong việc tự
phấn đấu rèn luyện nâng cao năng lực tư duy lý luận.

2.2.2. Yếu tố về năng lực tổ chức thực hiện các chủ trương, chiến
lược phát triển
*Đảng ủy Khối và các cấp uỷ trong Đảng bộ tập trung lãnh đạo, tổ
chức thực hiện nhiệm vụ chính trị
Quán triệt và tổ chức triển khai thực hiện nghiêm túc các chủ trương,
Nghị quyết, kết luận của Trung ương, Trên cơ sở các Nghị quyết, Chương
trình, kế hoạch hoạt động đã đề ra, ban chấp hành Đảng bộ Khối đã tổ chức
triển khai Nghị quyết, chương trình, kế hoạch tới các đảng bộ, chi bộ trực
thuộc biết để thực hiện. Về cơ bản, các chương trình, kế hoạch, nghị quyết
của Đảng bộ đều được tổ chức thực hiện bài bản, đúng tiến độ.
Ngay từ đầu nhiệm kỳ, Ban Chấp hành Đảng bộ Khối và các Đảng ủy
trực thuộc đã chủ động nghiên cứu xây dựng và ban hành Chương trình hành
động thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu lần thứ XI của Đảng và Nghị
49

quyết Đại hội Đảng bộ Khối lần thứ nhất. Cụ thể hóa các Nghị quyết, chỉ thị,
kết luận của Trung ương bằng 3.483 nghị quyết, chỉ thị, kết luận, quy định, kế
hoạch, chương trình hành động, hướng dẫn của Đảng ủy Khối để lãnh đạo và
tổ chức thực hiện đạt kết quả tốt.
Nhiều hội nghị chuyên đề đã được tổ chức để tham khảo kinh nghiệm,
phát huy trí tuệ của chuyên gia, nhà khoa học, lãnh đạo các bộ, ban, ngành,
doanh nghiệp, để giải quyết những vấn đề cấp bách, qan trọng nhằm nâng cao
vai trò và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước.
Việc kiểm tra giám sát thực hiện các củ trương của Trung ương, Đảng
ủy Khối được thực hiện thường xuyên, qua đó đôn đốc, nhắc nhở việc triển
khai các chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của nhà nước.
Đảng ủy Khối và các Đảng ủy trực thuộc đã thường xuyên phối hợp
công tác chặt chẽ, kịp thời, có hiệu quả với ban cán sự Đảng các bộ, ban,
ngành Trung ương và các cấp ủy doanh nghiệp trong việc lãnh đạo thực hiện
nhiệm vụ chính trị, công tác xây dựng Đảng; đánh giá, tham mưu đề xuất về
cơ chế, chính sách, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong sản xuất, kinh doanh,
công tác tổ chức nhân sự, công tác kiểm tra, giám sát các doanh nghiệp thuộc
Đảng bộ khối. Quá trình phối hợp công tác đã giúp các bên nắm bắt kịp thời,
đầy đủ, chính xác thông tin về doanh nghiệp, tạo sự đồng thuận cao trong xử
lý, giải quyết công việc; kịp thời tham mưu, đề xuất với Bộ chính trị, Ban bí
thư, Chính phủ xem xét, bổ sung, sửa đổi cơ chế chính sách, tháo gỡ khó khăn
vướng mắc cho doanh nghiệp.
Thực hiện hiệu quả công tác lãnh đạo, tổ chức thực hiện nhiệm vụ sản
xuất kinh doanh, cơ bản đạt và vượt các chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng bộ
lần thứ nhất đề ra. Trong 5 năm qua, sản xuất kinh doanh của các doanh
nghiệp thuộc Đảng bộ Khối được giữ vững, có mức tăng trưởng khá, cơ bản
hoàn thành và vượt các chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội đề ra. Sản xuất kinh doanh
50

có hiệu quả, sử dụng hợp lý, tiết kiệm các nguồn lực, cơ bản bảo toàn và phát
triển được vốn, tài sản nhà nước giao.
Trong điều kiện nền kinh tế còn gặp nhiều khó khăn, song các doanh
nghiệp thuộc Đảng bộ khối luôn giữ vững vai trò để Đảng, Nhà nước cân đối,
điều tiết kịp thời về xăng dầu, than, điện, phân bón, thép, xi măng, dịch vụ
bưu chính viễn thông, hàng không, hàng hải, đường sắt, và hàng tiêu dùng
thiết yếu, điều tiết lãi suất ở các ngân hàng thương mại nhà nước, là công cụ
để Đảng, nhà nước thực hiện các chính sách ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm
an sinh xã hội, góp phần đưa nền kinh tế phục hồi, có mức tăng trưởng khá.
Các doanh nghiệp trong khối đã tích cực, đi đầu trong nghiên cứu, đầu
tư các dự án phát triển sản xuất, kinh doanh tại các địa bàn, vùng đặc biệt khó
khăn, biên giới, hải đảo, góp phần quan trọng vào xây dựng nông thôn mới,
phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn, nông dân thực hiện tốt các nhiệm vụ
chính trị mà Đảng, nhà nước, bảo đảm yêu cầu về quốc phòng, an ninh.
Các tập đoàn, tổng công ty, ngân hàng trong khối có sức tăng trưởng khá
cao cả về quy mô và giá trị gia tăng, một số chỉ tiêu kinh tế cơ bản của nhiệm
kỳ 2010-2015 tăng so với giai đoạn 2007-2010: doanh thu trên 1.733.000 tỷ
đồng, tăng trên 85%; lợi nhuận sau thuế gần 92.000 tỷ đồng, tăng trên 36%;
nộp ngân sách nhà nước trên 274.000 tỷ đồng, tăng trên 63%. Vốn chủ sở hữu
tính hết năm 2014 đạt trên 1.081.000 tỷ đồng, tăng trên 58% và tổng tài sản đạt
gần 5.377.000 tỷ đồng, tăng trên 60% so với năm 2010 [5, tr.7].
Các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp vượt qua rất nhiều khó khăn để
duy trì và phát triển sản xuất. Một số đơn vị đầu tư mở rộng quy mô sản xuất,
cải tiến mẫu mã, nâng cao chất lượng sản phẩm, đáp ứng nhu cầu ngày càng
tăng về hàng hóa, tư liệu cho sản xuất, tiêu dùng của xã hội và xuất khẩu như:
dầu khí, điện, than, xi măng, sắt, thép, hóa chất, hàng may mặc...Các doanh
51

nghiệp trong ngành năng lượng đảm bảo tốt về an ninh năng lượng quốc gia
với một số trụ cột chính: điện lực, dầu khí và than luôn đáp ứng kịp thời nhu
cầu ngày càng tăng về năng lượng cho phát triển kinh tế xã hội, phục vụ đời
sống nhân dân và quốc phòng an ninh.
Mức tăng về vốn chủ sở hữu: Tập đoàn Dầu khí tăng 66%, tập đoàn điện
lực tăng 177%, tập đoàn hóa chất tăng 31%, Tổng công ty công nghiệp xi măng
tăng 44%, Tập đoàn công nghiệp Than và Khoáng sản tăng 46%. Tổng tài sản
các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp năm 2014 so với đầu nhiệm kỳ (năm
2010): Tập đoàn dầu khí tăng 62%; Tập đoàn điện lực tăng 82%; Tập đoàn Hóa
chất tăng 27%; Tổng công ty công nghiệp Xi măng tăng 5%; Tập đoàn Than-
Khoáng sản tăng 75%...tốc độ tăng trưởng bình quân trên năm về doanh thu
trong kỳ đạt cao nhất 15,2%. Tốc độ tăng trưởng bình quân trên nămvề lợi nhuận
trong kỳ cao nhất là Tổng công ty Công nghiệp Xi măng đạt 29,29% [5, tr.7].
Các doanh nghiệp giao thông vận tải gặp nhiều khó khăn nhưng vẫn nỗ
lực mở rộng thị trường và nâng cao chất lượng dịch vụ, đã tích cực sắp xếp,
đổi mới doanh nghiệp, tìm nhiều giải pháp duy trì và phát triển sản xuất. Lĩnh
vực vận tải hàng không dân dụng vẫn khẳng định được vai trò của doanh
nghiệp nhà nước: Chiếm 51% thị trường nội địa, tiếp tục giữ vững và mở rộng
thị trường quốc tế, đồng thời đẩy mạnh phát triển thị trường hàng không nội
địa giá rẻ với thị phần khoảng 13%. Vận tải đường sắt với nhiều giải pháp
đồng bộ về sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp, đã chấn chỉnh nâng cáo chất
lượng dịch vụ, ngày càng thân thiện với khách hàng. Vận tải tiếp tục tháo gỡ
những khó khăn về tài chính, thị trường, đổi mới công tác quản trị, kinh
doanh giảm bớt thua lỗ. Công nghiệp tàu thủy có nhiều cố gắng trong việc
giảm lỗ, phục hồi sản xuất kinh doanh
Các doanh nghiệp thương mại và dịch vụ đẩy mạnh tái cấu trúc doanh
nghiệp, tăng cường đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, không ngừng đổi mới
52

công nghệ và thiết bị, nâng cao chất lượng dịch vụ phục vụ khách hàng. Các
doanh nghiệp trong lĩnh vực viễn thông đã đầu tư lớn vào sự án viễn thông
Vinasat 2 với trên 260 triệu USD; cung cấp dịch vụ internet băng thông rộng
chiếm hơn 51% thị phần; dịch vụ viễn thông của hai nhà mạng di động
Mobifone và Vinaphone chiếm trên 31,7% và trên 17,4% thị phần. Vốn chủ
sở hữu, tài sản một số doanh nghiệp thương mại và dịch vụ tăng so với năm
2011, như tập đoàn xăng dầu tăng 11% và 10%, cung ứng xăng dầu đạt trên
48% thị phần trong nước. Tập đoàn bưu chính viễn thông và Tổng công ty
bưu điện sau khi sắp xếp lại doanh nghiệp đã nhanh chóng ổn định lại bộ
máy, tập trung phát triển sản xuất, kinh doanh, đa dạng hóa các loại hình dịch
vụ. Các doanh nghiệp đẩy mạnh thu mua, chế biến, xuất khẩu lúa gạo hàng
hóa của nông dân. Giá trị xuất khẩu lúa gạo thuộc 10 nhóm mặt hàng có kim
ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD/năm [5, tr.9].
Bốn ngân hàng thương mại nhà nước luôn tiên phong trong việc thực hiện
chủ trương, chính sách tiền tệ của Đảng, nhà nước, góp phần vào việc điều chỉnh
lãi suất, tỷ giá, kiểm soát lạm phát, đảm bảo cán cân thanh toán, bình ổn thị
trường tiền tệ, giữ vai trò chủ đạo trong ngân hàng; tài trợ vốn các dự án kinh tế,
công trình trọng điểm quốc gia. Trong 5 năm qua, vốn và tài sản của các ngân
hàng thương mại nhà nước không ngừng tăng trưởng. Kinh doanh dịch vụ có
hiệu quả, đóng gớp lớn cho ngân sách nhà nước. Giảm mạnh lãi suất cho vay,
cung ứng vốn cho nền kinh tế; tích cực trách nhiệm cao trong việc tham gia các
hoạt động xã hội. Thị phần tín dụng giữ vị trí chi phối với tỷ lệ trên 52%.
Các ngân hàng chính sách đã có rất nhiều cố gắng tổ chức thực hiện tốt
có hiệu quả nhiệm vụ chính phủ giao, huy động và cung cấp đủ vốn để thực
hiện các chương trình, mục tiêu quốc gia, quản lý tốt nguồn vốn trong và
ngoài nước; vốn tín dụng chính sách đầu tư hàng năm chiếm 2,3% tổng vốn
đầu tư toàn xã hội, bằng 0,8% GDP.
53

Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam triển khai sâu rộng các
hoạt động xúc tiến thương mại đầu tư, hỗ trợ thúc đẩy phát triển doanh
nghiệp, đánh giá, xếp loại năng lực cạnh tranh cấp tỉnh, thành trong cả nước.
Đảng ủy Khối tập trung lãnh đạo, tổ chức thực hiện nghiêm túc nhiệm
vụ tái cơ cấu, trọng tâm là cổ phần hóa, thoái vốn ngành nghề kinh doanh
chính, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, Đảng ủy Khối đã tập trung
lãnh đạo, chỉ đạo các Đảng bộ thực hiện nghiêm túc nội dung tinh thần nghị
quyết TW3 (khóa XI) và kết luận số 50 KL/TW của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng các cấp ủy đảng trong Khối đã đặc biệt coi trọng công tác sắp xếp,
đổi mới, tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, tạo sự chuyển biến rõ rệt về nhận
thức và quyết tâm hành động trong xây dựng, triển khai đề án tái cơ cấu. Toàn
bộ 28 doanh nghiệp, ngân hàng trong Đảng bộ khối thuộc đối tượng phải tiến
hành tái cơ cấu lại doanh nghiệp đã nghiêm túc triển khai, nghiên cứu, xây
dựng đề án và tổ chức thực hiện đảm bảo yêu cầu cả chính phủ.
Kế hoạch cổ phần hóa các công ty mẹ, ngân hàng thương mại nhà nước
cơ bản đã hoàn thành mục tiêu đề ra. Công tác cổ phần hóa doanh nghiệp nhà
nước bước đầu đã tạo sự chuyển biến rõ nét, hiệu quả trong huy động các
nguồn lực trong xã hội vào phát triển doanh nghiệp. Sau đó cổ phần hóa, hoạt
động doanh nghiệp có nhiều đổi mới, bộ máy gọn, nhẹ; tài chính minh bạch;
tiết kiệm chi phí năng suất lao động, doanh thu, lợi nhuận, thu nhập người lao
động tăng lên...hiệu quả doanh nghiệp có nhiều chuyển biến tích cực
Tái cơ cấu ngành nghề kinh doanh, tái cơ cấu sản phẩm, thị trường
trong nước và nước ngoài được một số đảng bộ chỉ đạo, nghiên cứu, tổ chức
thực hiện có kết quả, góp phần tăng năng lực sản xuất, cạnh tranh, tham gia
hội nhập vào thị trường khu vực và thế giới.
Công tác thực hành tiết kiệm, chống lãng phí được hầu hết các Đảng bộ
quan tâm lãnh đạo, hàng năm các doanh nghiệp, đơn vị tiết kiệm được hàng trăm
54

tỷ đồng, góp phần xây dựng ý thức thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, nâng cao
hiệu quả sản xuất kinh doanh và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Đảng ủy Khối tiếp tục nâng cao chất lượng công tác chính trị - tư tưởng,
nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên, Đảng bộ đã chủ động bám sát yêu
cầu, nhiệm vụ chính trị của mình để xây dựng chương trình, kế hoạch công tác.
Thường xuyên đổi mới nội dung công tác tư tưởng và hoạt động tuyên giáo của
Đảng bộ nhằm nâng cao chất lượng công tác thông tin tuyên truyền. Tổ chức
học tập, quán triệt và triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội X, Nghị quyết
TW 4, TW 5, TW 6, TW 7, TW8 (khoá XI); Nghị quyết 11 của Bộ Chính trị
(khóa XI); Triển khai thực hiện Đề án về Giáo dục, rèn luyện đạo đức cách
mạng, đấu tranh chống các biểu hiện suy thoái trong đội ngũ cán bộ, đảng viên
thuộc Đảng bộ. Tiếp tục quan tâm công tác giáo dục lý luận chính trị, khoa
giáo, văn hoá, văn nghệ, nắm bắt dư luận xã hội; tuyên truyền định hướng về
tình hình Biển Đông; xây dựng, kiện toàn đội ngũ báo cáo viên của Khối.
* Đổi mới và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, khả năng tổ chức
bộ máy, phối hợp các cá nhân, tổ chức thực hiện nhiệm vụ đặt ra
- Công tác tổ chức, cán bộ:
Tiếp tục thực hiện việc rà soát, bổ sung quy hoạch nhiệm kỳ 2010-2015
theo hướng dẫn của Trung ương, đạt hệ số theo quy định. Công tác bổ nhiệm,
giới thiệu bầu cử; điều động, luân chuyển cán bộ được thực hiện nghiêm túc,
đúng quy trình, đảm bảo chặt chẽ, công khai, dân chủ, khoa học và có nhiều
đổi mới; đã bổ nhiệm, Các cấp uỷ cơ sở đã quan tâm hơn đến công tác luân
chuyển, sắp xếp, bố trí cán bộ; đội ngũ cán bộ sau khi được bổ nhiệm, luân
chuyển cơ bản phát huy tốt năng lực, sở trường, thực hiện tốt chức trách,
nhiệm vụ được giao.
Thực hiện mục tiêu đổi mới, nâng cao chất lượng công tác đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ, Đảng bộ đã cử nhiều lượt cán bộ tham gia các lớp đào
55

tạo cán bộ nguồn Trung ương, Đảng bộ Khối tổ chức, cử cán bộ đi đào tạo
nâng cao trình độ lý luận chính trị, chuyên môn nghiệp vụ tại các cơ sở đào
tạo. Tổ chức tập huấn các văn bản quy định, hướng dẫn thi hành Điều lệ
Đảng tới các cấp uỷ trực thuộc;
Những năm qua, thực hiện các nghị quyết, kết luận, quy định, quy chế
của Trung ương, nghị quyết Đại hội Đảng bộ Khối, công tác cán bộ và đội
ngũ cán bộ trong Đảng bộ khối có nhiều biến chuyển trên các mặt:
Công tác cán bộ đã bám sát nhiệm vụ chính trị, cụ thể hóa nhiều chủ
trương quan điểm, giải pháp lớn trong chiến lược cán bộ của Đảng; chú trọng
xây dựng quy chế, quy định đảm bảo sự lãnh đạo trực tiếp và toàn diện của
Đảng trong công tác cán bộ sát với tình hình doanh nghiệp; cách làm có nhiều
đổi mới, dân chủ công khai, gắn công tác cán bộ với công tác công tác chính
trị tư tưởng, cổ phần hóa, sắp xếp, đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của
doanh nghiệp nhà nước, tái cơ cấu doanh nghiệp và đổi mới phương thức lãnh
đạo của Đảng; đã chú trọng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản
lý cả về lý luận chính trị và quản trị doanh nghiệp, chuyên môn, nghiệp vụ, cơ
bản đáp ứng yêu cầu đổi mới và phát triển doanh nghiệp; quan tâm thực hiện
chế độ, chính sách đối với cán bộ; chú trọng công tác quy hoạch, luân chuyển,
bố trí, quản lý sử dụng đội ngũ cán bộ Đảng, cán bộ chuyên môn, cán bộ các
đoàn thể chính trị - xã hội các cấp.
Tuy nhiên, trong quá trình thực thi nhiệm vụ, một số cán bộ lãnh đạo
cấp cơ sở mặc dù được đào tạo bài bản nhưng thiếu kinh nghiệm thực tế, hoặc
ngại đi tập huấn nâng cao nghiệp vụ công tác hàng năm. Bên cạnh đó, không
cập nhật kịp thời các văn bản chỉ đạo mới nên chất lượng công việc không
cao. Một số cán bộ lãnh đạo khác chưa thực hiện hết thẩm quyền được giao
hoặc có tình trạng đổ trách nhiệm cho cấp trên. Thực tế hiện nay, quan niệm
về vai trò quản lý của chính quyền địa phương dường như được coi trọng hơn
vai trò lãnh đạo của Đảng. Nhiều cán bộ lãnh đạo thích được phân công sang
công tác chính quyền hơn là công tác Đảng.
56

- Phân quyền, ủy quyền:


Trong tập thể Ban chấp hành, Ban thường vụ Đảng ủy luôn có sự phân
công, phân nhiệm rõ ràng. Mỗi đồng chí ủy viên ban chấp hành, ủy viên ban
thường vụ đều được giao một nhiệm vụ nhất định, cụ thể:
+ Đảng uỷ là cơ quan lãnh đạo của Đảng bộ Khối giữa 2 nhiệm kỳ Đại
hội, có trách nhiệm lãnh đạo toàn diện trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn
hoá, xã hội, công tác tư tưởng, công tác xây dựng Đảng, công tác vận động
quần chúng và công tác tổ chức cán bộ. Tổ chức quán triệt Nghị quyết của
Đảng và các Chỉ thị của Trung ương, và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ. Đảng
uỷ tiến hành thảo luận và quyết định những đề án chuyên đề về kinh tế, văn
hoá, xã hội, công tác xây dựng Đảng, công tác vận động quần chúng…
+ Ban thường vụ Đảng ủy tổ chức thực hiện các nghị quyết của Đảng
uỷ các Nghị quyết, Chỉ thị của BCH Trung ương, Bộ Chính trị, Lãnh đạo, chỉ
đạo phối hợp giữa các tổ chức như Đảng. Bí thư đảng ủy là người chịu trách
nhiệm cao nhất trong Đảng bộ, Ban Thường vụ và Thường trực đảng ủy; cùng
Đảng bộ, Ban Thường vụ và Thường trực Đảng bộ chịu trách nhiệm trước
Trung ương, Ban Thường vụ Đảng ủy, trước Đảng bộ và cán bộ đảng viên
trong Khối về sự lãnh đạo của Đảng trên mọi lĩnh vực. Nắm vững chủ trương,
đường lối, Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng để quán triệt trong ban chấp hành và
vận dụng sáng tạo, phù hợp với tình hình thực tế ở doanh nghiệp.
* Khả năng ra quyết định phù hợp với điều kiện cụ thể
Về khả năng ra quyết định, trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện
các nhiệm vụ chính trị, tập thể ban chấp hành, ban thường vụ luôn bàn và
quyết định những nhiệm vụ mang tính chiến lược phục vụ cho cả nhiệm vụ
trước mắt và lâu dài. Những quyết định của tập thể ban chấp hành, ban
thường vụ luôn bám sát thực tiễn của phong trào, gắn chặt với nhiệm vụ phát
triển kinh tế - xã hội của Khối cũng gắn với việc nâng cao đời sống vật chất,
tinh thần của cán bộ đảng viên.
57

Trong thực tiễn quá trình thực hiện nhiệm vụ, cá nhân các ủy viên ban
chấp hành luôn kiểm tra, bám sát việc triển khai thực hiện các mảng, nội dung
công tác được tổ chức phân công, kịp thời điều chỉnh, bổ sung và tháo gỡ
những khó khăn, vướng mắc và đề xuất kiến nghị với các cấp, các ngành có
chức năng liên quan để tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của Đảng bộ.
Duy trì tốt việc tổng kết, đánh giá, rút kinh nghiệm trong quá trình lãnh đạo
thực hiện nhiệm vụ công tác
Trong quá trình xây dựng Nghị quyết, chương trình, kế hoạch hàng
năm của Đảng bộ, vai trò xây dựng và mang tính quyết định các chỉ tiêu,
nhiệm vụ, giải pháp chính vẫn tập trung chủ yếu vào thường trực Đảng ủy.
Ban chấp hành tuy có họp để bàn và tham gia góp ý kiến nhưng chất lượng
tham mưu chưa cao. Chủ yếu các ý kiến chỉ tập trung vào ngành, lĩnh vực của
mình, chưa có tầm nhìn chiến lược, tư duy hoạch định mang tính tổng thể,
trong thời gian dài. Có lúc, có nơi, có cán bộ còn mang nặng tư duy nhiệm kỳ,
ỷ lại vào ý kiến, quyết định của tập thể.
Thông qua thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành
Trung ương Đảng (khoá XI), nhiều nhiệm vụ trọng tâm của Đảng bộ và cơ sở
còn tồn tại, hạn chế đã được tập trung chỉ đạo khắc phục, đạt được những kết
quả bước đầu.
* Năng lực triển khai làm tốt công tác kiểm tra, giám sát để duy trì,
điều chỉnh việc thực hiện các quyết định trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo
và tổ chức thực hiện nhiệm vụ chính trị.
Để tăng cường lãnh đạo công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật
Đảng, trong những năm vừa qua Đảng bộ Khối đã ban hành nghị quyết
chuyên đề số 04-NQ/ĐUK về nâng cao chất lượng hiệu quả công tác kiểm tra,
giám sát của cấp ủy và ủy ban kiểm tra các cấp. Trên cơ sở đó, các cấp ủy
đảng đã lãnh đạo tổ chức thực hiện tốt công tác kiểm tra, giám sát và thi hành
kỷ luật Đảng trong Đảng bộ.
58

Bên cạnh đó, các cấp ủy xây dựng và ban hành chương trình, kế hoạch
kiểm tra, giám sát có trọng tâm, trong điểm, xử lý kịp thời những vụ việc mà
đảng viên và người lao động quan tâm, công tác kiểm tra, xem xét thi hành kỷ
luật tổ chức đảng và đảng viên thực hiện đúng quy định, quy trình đã góp
phần tăng cường công tác xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh
Công tác kiểm tra, giám sát tập trung vào các nội dung: Thực hiện điều lệ
Đảng, nghị quyết Đại hội đảng các cấp; các chỉ thị, nghị quyết, kết luận của
trung ương; công tác lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng trong thực hiện
nhiệm vụ chính trị; thực hiện quy chế làm việc; công tác tổ chức cán bộ; xây
dựng quy chế phối hợp công tác giữa cấp ủy, hội đồng thành viên; ban điều hành
doanh nghiệp; thực hiện chỉ thị 03-CT/TW của Bộ Chính trị; thực hiện nghị
quyết Trung ương 4 (khóa XI) và nghị quyết Trung ương 3 (khóa X) về tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng với công tác phòng chống tham nhũng, lãng phí.
Ủy ban kiểm tra các cấp ban hành và tổ chức thực hiện quy chế làm
việc, chủ động tham mưu giúp cấp ủy lãnh đạo tổ chức thực hiện có hiệu quả
công tác kiểm tra, giám sát. Cấp ủy đã tiến hành giám sát 10.647 lượt tổ chức
đảng và 74.355 lượt đảng viên. Ủy ban kiểm tra các cấp đã tiến hành kiểm tra
giám sát 11.415 lượt tổ chức đảng và 15.182 đảng viên, kiểm tra khi có dấu
hiệu vi phạm đối với 53 tổ chức đảng và 418 đảng viên [5, tr.25].
Trong giai đoạn từ 2010 đến năm 2015 Đảng bộ khối đã nhận được 125
lá thư tố cáo, phản ánh với tổ chức đảng và đảng viên. Cấp ủy và ủy ban kiểm
tra các cấp đã quan tâm, xem xét, giải quyết kịp thời theo quy định của Đảng,
có tác dụng đảm bảo quyền dân chủ của đảng viên, công dân; chấn chỉnh,
khắc phục những khuyết điểm, hạn chế của tổ chức đảng, đảng viên.
Công tác thi hành kỷ luật nghiêm túc, thận trọng theo đúng phương châm,
phương hướng, nguyên tắc, trình tự, thủ tục quy định. Cấp ủy và ủy ban kiểm tra
các cấp đã thi hành 830 trường hợp tổ chức đảng và đảng viên có vi phạm và
giải quyết 10 trường hợp khiếu nại kỷ luật của tổ chức Đảng và đảng viên.
59

Cấp ủy và ủy ban kiểm tra các cấp duy trì nề nếp, chế độ giao ban định
kỳ, sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm công tác. Thường xuyên kiểm tra, giám
sát thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát thi hành kỷ luật, việc thu nộp, quản
lý và sử dụng các loại phí của đảng viên và người lao động. kịp thời kiểm tra
cán bộ quản lý và tổ chức khi có dấu hiệu vi phạm. Định kỳ kiểm tra, giám sát
chuyên đề đối với tổ chức Đảng và đảng viên.
Công tác kiểm tra giám sát được thực hiện theo đúng điều lệ Đảng, quy
định và hướng dẫn của Trung ương. Kịp thời phát hiện, nhắc nhở, cảnh báo,
ngăn ngừa các thiếu sót, khuyết điếm của tổ chức Đảng và đảng viên; giáo
dục; giữ gìn kỷ luật, kỷ cương trong đảng, góp phần tăng cường đoàn kết, ổn
định chính trị nội bộ các doanh nghiệp, đơn vị và xây dựng Đảng bộ trong
sạch, vững mạnh. Ban Chấp hành Đảng bộ Khối đã ban hành nghị quyết
chuyên đề và Ban Thường vụ Đảng ủy Khối ban hành Quy trình thực hiện
công tác kiểm tra giám sát.
Nhận thức và hành động về đấu tranh, chống tham nhũng, lãng phí
được nâng cao trong các cấp ủy, các doanh nghiệp, đơn vị, đội ngũ cán bộ,
đảng viên, người lao động. Một số vụ việc, vụ án tham nhũng trong một số
doanh nghiệp được phát hiện, điều tra, xử lý nghiêm minh tạo được sự đồng
tình ủng hộ của dư luận có tác dụng răn đe và phòng ngừa tham nhũng.

2.2.3. Yếu tố năng lực sáng tạo và tính quyết đoán


Thực tế trong quá trình lãnh đạo của Đảng qua các thời kỳ đã vận dụng
sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh cho phù hợp với tình
hình cách mạng nước ta. Bên cạnh đó, đưa ra những chủ trương chính sách có
tính chất quyết định như thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, nước ta
chuyển nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Kết quả sau 29 năm thực hiện đường lối đổi mới đã
khẳng định tính đúng đắn trong sáng tạo và đưa ra các chủ trương chính sách
phù hợp với quy luật phát triển và điều kiện thực tế của Việt Nam.
60

Đảng bộ đã sáng tạo trong chỉ đạo việc Học tập và làm theo tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh thực hiện Chỉ thị 03-CT/TW của Bộ Chính trị. Tại các
đảng bộ đã xây dựng kế hoạch thực hiện việc học tập theo chuyên đề hàng
năm và triển khai rộng khắp trong hệ thống chính trị. Mỗi đảng bộ đều thành
lập tổ giúp việc để tham mưu, hỗ trợ cho đảng ủy trong việc xây dựng, theo
dõi và tổ chức các hoạt động. Tổ chức rà soát, xây dựng nội quy, quy chế cơ
quan gắn với các chuẩn mực, tiêu chí làm theo các đức tính “cần, kiệm, liêm,
chính” của Bác.
Bên cạnh đó các cấp uỷ đã chú trọng nâng cao bản lĩnh chính trị, trình
độ chuyên môn nghiệp vụ và tác phong lề lối làm việc của cán bộ, công chức,
viên chức, đặc biêt là tăng cường giáo dục lý tưởng cho thế hệ trẻ, ý chí tự
lực, tự cường cho đoàn viên thanh niên và tạo mọi điều kiện để tuổi trẻ học
tập, rèn luyện và cống hiến.
Đảng ủy Khối Doanh nghiệp Trung ương không ngừng đổi mới và nâng
cao năng lực lãnh đạo, quản trị doanh nghiệp theo hướng hiện đại; chú trọng
phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao; tăng cường nghiên cứu, ứng dụng
khoa học công nghệ phục vụ sản xuất, kinh doanh; từng bước nâng cao nang
lực cạnh tranh của doanh nghiệp đáp ứng yêu cầu thời kỳ công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, hội nhập kinh tế quốc tế. trong quá trình tái cơ cấu doanh nghiệp,
việc đổi mới nâng cao năng lực quản trị doanh nghiệp được các đảng bộ đặc
biệt coi trọng. Phương thức quản trị có nhiều đổi mới theo hướng hiện đại, hiệu
quả được áp dụng ở nhiều doanh nghiệp. Việc xây dựng, bổ sung, hoàn thiện
quy chế quản lý nội bộ được tăng cường. Phân công khoa học, rõ chức năng,
nhiệm vụ, trách nhiệm của cán bộ các cấp quản trị trong doanh nghiệp. Xác
định tầm quan trọng, vai trò quyết định của nguồn lực con người trong hoạt
động sản xuất kinh doanh, nhiều doanh nghiệp, đơn vị trong khối đã lãnh đạo
xây dựng và triển khai đề án phát triển nguồn nhân lực đến 2020, tầm nhìn
61

2030. Xây dựng bộ tiêu chuẩn chức danh cho từng vị trí công việc. Quan tâm
cho công tác đào tạo, đào tạo lại nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực
chất lượng cao. Nguồn nhân lực các doanh nghiệp, đơn vị thuộc khối đã có sự
chuyển biến quan trọng, tăng về số lượng, đa dạng hơn về cơ cấu, trình độ
được nâng lên, phong cách làm việc ngày càng khoa học, chuyên nghiệp, cơ
bản đáp ứng yêu cầu sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Nhận thức sâu
sắc tầm quan trọng của ứng dụng khoa học công nghệ trong nâng cao năng suất
lao động, các đảng bộ đã đặc biệt coi trọng lãnh đạo công tác nghiên cứu, ứng
dụng các tiến bộ khoa học công nghệ vào quản lý, sản xuất, kinh doanh và đầu
tư. Nhiều công trình nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ mới đã được
triển khai đưa vào sản xuất kinh doanh, tăng năng suất lao động, đem lại hiệu
quả tốt. Điển hình như việc đầu tư đống các giàn khoan lớn, công nghệ chuyển
mạch sử dụng cho mạng thế hệ mới, công nghệ truyền dẫn vệ tinh Vinasat,
công nghệ cơ giới hóa đồng bộ khai thác than hầm lò bằng giàn chống tự hành,
công nghệ xử lý nước thải chế biến cao su, công nghệ sản xuất bông lai kháng
sâu rầy, công nghệ đóng tàu kiểu block...Đổi mới, nâng cao năng lực lãnh đạo,
quản trị, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao và chú trọng ứng dụng khoa
học công nghệ và sản xuất kinh doanh đã tạo chuyển biến, nâng cao hiệu quả
hoạt động của mỗi doanh nghiệp, sức cạnh tranh của các tập đoàn, tổng công
ty, ngân hàng trong khối được nâng lên.
Trong những năm qua, Đảng ủy Khối đã ban hành nhiều nghị quyết,
kết luận, chỉ thị nhằm lãnh đạo công tác xây dựng đảng: Nghị quyết số 02-
NQ/ĐUK, ngày 27/09/2013 về tiếp tục nâng cao sinh hoạt chi bộ; Nghị quyết
số 04-NQ/ĐUK, ngày 06/12/2013 về nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra,
giám sát; Nghị quyết số 05-NQ/ĐUK, ngày 06/12/2013 về đấu tranh ngăn
chặn, đẩy lùi suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ,
đảng viên; Nghị quyết số 06-NQ/ĐUK, ngày 06/12/2013 về chiến lược cán bộ
62

đến năm 2020; Kết luận số 03-KL/ĐUK, ngày 15/08/2011 về nâng cao chất
lượng hiệu quả công tác tuyên truyền; Kết luận số 06-KL/ĐUK, ngày
08/06/2012 về xây dựng và thực hiện văn hóa doanh nghiệp; Kết luận số 10-
KL/ĐUK, ngày 14/11/2013 về đẩy mạnh công tác, nắm bắt nghiên cứu phản
ánh tư tương và dư luận xã hội; Kết luận số 11-KL/ĐUK, ngày 06/12/2013 về
nâng cao chất lượng hiệu quả hoạt động của cơ quan chuyên trách tham mưu,
giúp việc của đảng trong Đảng bộ Khối; Kết luận số 17-KL/ĐUK, ngày
19/08/2014 về đẩy mạnh công tác phát triển đảng viên trẻ.
Ban hành và lãnh đạo, triển khai thực hiện một số Nghị quyết, Chỉ thị,
Kêt luận chuyên về lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị: Nghị quyết số 08-
NQ/ĐUK, ngày 08/04/2014 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong đổi
mới, nâng cao năng lực quản trị doanh nghiệp của các tập đoàn, tổng công ty,
ngân hàng trong khối Doanh nghiệp trung ương; Nghị quyết số 09-NQ/ĐUK,
ngày 12/11/2014 về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chiến lược phát triển nguồn
nhân lực các tập đoàn, tổng công ty, ngân hàng, đơn vị trong khối đáp ứng
yêu cầu thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế; Nghị
quyết số 10-NQ/ĐUK ngày 04/12/2014 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng
trong nghiên cứu, phát triển, ứng dụng các tiến bộ khoa học và công nghệ vào
sản xuất kinh doanh và quản trị doanh nghiệp trong Khối Doanh nghiệp
Trung ương; Chỉ thị số 08-CT/ĐUK, ngày 14/05/2014 về tăng cường sự lãnh
đạo của Đảng tong đẩy mạnh tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước Khối DNTW
giai đoạn 2014-2015; Kết luận số 05-KL/ĐUK, ngày 10/11/2011 về một số
nhiệm vụ trọng tâm chủ yếu thực hiện kêt luận Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khóa XI; Kết luận số 13-KL/ĐUK, ngày 03/01/2014
của Đảng ủy Khối về tái cơ cấu tập đoàn, tổng công ty, ngân hàng thương mại
nhà nước trong khối Doanh nghiệp Trung ương; Kết luận số 16-KL/ĐUK,
ngày 26/06/2014 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong đổi mới toàn diện
Tổng công ty Đường sắt Việt Nam.
63

Phổ biến, quán triệt, giáo dục cán bộ, đảng viên nhât là cán bộ chủ chốt
trong doanh nghiệp nêu cao tinh thần trách nhiệm, gương mẫu trước quần
chúng; xây dựng cơ chế phối hợp công tác giữa cấp ủy đảng với hội đồng
thành viên (hội đồng quản trị), ban điều hành doanh nghiệp tạo điều kiện
thuận lợi trong lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy; ban hành các quy định, quy trình
công tác để đảm bảo vai trò lãnh đạo toàn diện của Đảng trong doanh nghiệp,
phát huy vai trò, tính chủ động sáng tạo và trách nhiệm của các tổ chức Đảng
trong doanh nghiệp.Thực hiện chế độ tập thể lãnh đạo đi đôi với phat huy tính
chủ động, sáng tạo và tinh thần trách nhiệm của cán bộ, nhất là người đứng
đầu cấp ủy, doanh nghiệp, đơn vị. Bổ sung, điều chỉnh, hoàn thiện các quy
định về chức năng, nhiệm vụ, quy chế, lề lối làm việc tại các đơn vị.
Tổ chức nhiều Hội nghị chuyên đề nhằm tham khảo kinh nghiệm, phát
huy trí tuệ của các chuyên gia, nhà khoa học, lãnh đạo các bộ, ban, ngành, địa
phương để giải quyết vấn đề cấp bách, hệ trọng nhằm nâng cao vai trò và hiệu
quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước.
Qua các việc cụ thể, đảng ủy đã sáng tạo trong chỉ đạo và tổ chức thực
hiện nhằm đảm bảo vai trò lãnh đạo toàn diện của đảng, đồng thời nâng cao
hiệu quả, chất lượng thực hiện các chỉ tiêu kinh tế - xã hội trong các năm.
Việc sáng tạo mới dừng lại ở một số việc cụ thể, tính bền vững chưa cao. Một
số đảng bộ cơ sở cũng chưa có sự thay đổi trong lãnh đạo, chỉ đạo, chủ yếu là
theo kế hoạch đã xây dựng sẵn. Một số vấn đề mới phát sinh tại địa phương
giải quyết còn lúng túng, chờ đợi vào ý kiến chỉ đạo của cấp trên.

2.2.4. Yếu tố năng lực động viên, phát huy nguồn lực con người
Trong quá trình lãnh đạo của đảng, ngoài việc lãnh đạo bằng chủ
trương, chính sách, chương trình, kế hoạch, chỉ thị, nghị quyết thì các cán bộ
lãnh đạo đảng các cấp phải trực tiếp trao đổi, quán triệt, giao tiếp bằng ngôn
ngữ của mình. Do vậy, để các chủ trương, chính sách, chương trình, kế hoạch,
64

chỉ thị, nghị quyết đi vào cuộc sống phụ thuộc rất lớn vào khả năng giao tiếp
của đội ngũ cán bộ lãnh đạo đảng với cấp dưới và quần chúng, người lao động
trong mối quan hệ giữa đảng với các tổ chức trong hệ thống doanh nghiệp các
cấp, giữa tập thể đảng với nhân dân, giữa các cán bộ lãnh đạo đảng riêng lẻ
với các đơn vị và từng người lao động cụ thể.
Bằng khả năng giao tiếp của mình, đội ngũ cán bộ lãnh đạo Đảng bộ
đã quán triệt đường lối, định hướng các nội dung, chiến lược phát triển của
doanh nghiệp để các tổ chức thực hiện, củng cố vai trò lãnh đạo toàn diện của
đảng. Bên cạnh đó, trong từng trường hợp cụ thể, phải giao tiếp với quần
chúng người lao động. Nhìn chung, đội ngũ cán bộ lãnh đạo đảng bộ các đơn
vị, doanh nghiệp, ngân hàng thương mại trong khối cơ bản đều có trình độ
giao tiếp nhất định. Nhiều người giao tiếp tốt, mang tính chuyên nghiệp cao,
hình thành kỹ năng kỹ xảo trong tổ chức, triển khai nhiệm vụ và trong việc
tuyên truyền, vận động người lao động hiểu và thực hiện theo sự chỉ đạo,
định hướng phát triển chung của đảng bộ. Nhiều cán bộ có khả năng diễn
thuyết trước đám đông rất tốt. Điều này vừa thể hiện bản lĩnh của người lãnh
đạo, vừa phản ánh trình độ tu duy lôgic, trình độ nhận thức về lý luận và thực
tiễn. Thực tế, đội ngũ cán bộ trong các đơn vị trong đó có cán bộ lãnh đạo
đảng cơ bản có năng lực giao tiếp tốt. Thường xuyên được rèn luyện thông
qua tiếp xúc với quần chúng người lao động. Tuy nhiên, giao tiếp là một nghệ
thuật nên phải có quá trình để hình thành, môi trường để rèn luyện, đúc rút
kinh nghiệm. Mỗi cán bộ có năng lực khác nhau nên khả năng giao tiếp không
đồng đều. Một số lãnh đạo do áp lực công việc và bản tính nóng nảy, trong
quá trình giao tiếp với cấp dưới. Một số cán bộ mới ngại phát biểu hay tiếp
xúc trực tiếp với người lao động. Cá biệt một vài cán bộ ngại va chạm, ngại
tham gia các cuộc họp trực tiếp tại các đơn vị, doanh nghiệp, các tổ, đội,
nhóm sản xuất trong khối… Trong góp ý đánh giá cán bộ lãnh đạo do Đảng
65

ủy khối bầu đều có nội dung người lao động yêu cầu cán bộ lãnh đạo phải
thường xuyên xuống cơ sở, tham dự họp trực tiếp với người lao động, bám sát
và lắng nghe ý kiến của quần chúng lao động nhiều hơn.
Đảng ta đã dày công nghiên cứu lý luận về dân chủ và các giải pháp
tích cực để phát huy dân chủ. Đảng ta xác định: “Dân chủ xã hội chủ nghĩa là
bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất
nước”. Do vậy, các cấp ủy đảng thường xuyên quan tâm phát huy dân chủ
trong đảng, trong quần chúng lao động. Huy động các thành viên trong hệ
thống quản trị và các tầng lớp người lao động cùng tham gia xây dựng Đảng
trong đoanh nghiệp khối ngày càng trong sạch, vững mạnh, thực hiện các
nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ Khối trong các năm.
Trước hết, Đảng bộ Khối đã phát huy vai trò của tổ chức dân vận ở
doanh nghiệp, đơn vị, ngân hàng thương mại trong khối, tập hợp các tổ chức
thành viên để tham gia ý kiến cho sự lãnh đạo của cấp ủy, tôn vinh và phê
bình những đảng viên, tổ chức đảng kịp thời và chính xác. Cấp ủy thường
xuyên kiểm tra, giám sát, quản lý chặt chẽ mọi hoạt động của đảng viên và tổ
chức của mình.
Cụ thể, Đảng ủy các doanh nghiệp, đơn vị, ngân hàng thương mại trong
khối đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo ban dân vận và các đoàn thể chính trị - xã
hội bám sát Nghị quyết của cấp uỷ và chỉ đạo của cấp trên, tham gia, phối hợp
chặt chẽ với đội ngũ cán bộ quản trị doanh nghiệp để thực hiện tốt các nhiệm
vụ chính trị của Đảng bộ khối và của đơn vị; triển khai chương trình phối hợp
công tác giữa ban dân vận với các tổ chức thành viên và các đơn vị trong
phạm vi doanh nghiệp nhằm đổi mới nội dung, phương thức hoạt động; kiện
toàn tổ chức, bồi dưỡng cán bộ, nâng cao chất lượng hoạt động, tăng cường
thu hút, tập hợp, phát triển hội viên, đoàn viên, động viên và phát huy năng
lực người lao động.
66

Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị tư tưởng, giáo dục
truyền thống, vận động các thành viên, hội viên, đoàn viên và quần chúng lao
động thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Phát
động phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động xã hội chào mừng Đại
hội Đảng bộ khối Doanh nghiệp Trung ương lần thứ II; hoàn thành tốt nhiệm
vụ “Tái cơ cấu tập đoàn, tổng công ty, ngân hàng trong Khối Doanh nghiệp
Trung ương”; Tổ chức Cuộc vận động “Hiến kế đổi mới cơ chế, chính sách
tạo động lực phát triển doanh nghiệp và kinh tế đất nước” của Đảng ủy Khối
Doanh nghiệp Trung ương. Việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh đã phát hiện và biểu dương 250 tập thể và cá nhân điển hình tiên
tiến; tích cực thực hiện phong trào đền ơn đáp nghĩa, các hoạt động từ thiện,
phòng chống các tệ nạn xã hội. Cán bộ, đảng viên, công nhân viên trong khối
tiếp tục quán triệt sâu sắc quan điểm gắn phát triển kinh tế gắn với tiến bộ,
công bằng xã hội; phát huy các kết quả đạt được trong sản xuất kinh doanh,
dịch vụ, thực hiện tốt Nghị quyết 11 của Chính phủ về các giải pháp kiềm chế
lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội; là lực lượng chủ lực,
đi đầu trong việc thực hiện chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền
vững đối với các huyện nghèo theo NQ 30a của Chính phủ. Nhiều câu lạc bộ
được thành lập và duy trì hoạt động có tổ chức như: Câu lạc bộ văn hóa công
nhân viên, câu lạc bộ lao động giỏi, lao động sáng tạo,các câu lạc bộ thể dục
thể thao, văn hóa văn nghệ…đã góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh
thần trong nhân dân.
Công tác dân vận tại đảng bộ các doanh nghiệp được đổi mới theo
hướng gần gũi và thấu hiểu quần chúng lao động, phát huy quyền làm chủ của
người lao động, tích cực vận động quần chúng lao động thực hiện tốt các chủ
trương, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước, nhiệm vụ chính trị của
doanh nghiệp. Đẩy mạnh phong trào quần chúng tham gia xây dựng Đảng,
67

doanh nghiệp; thực hiện tốt phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân
kiểm tra”... Từ đó mối quan hệ giữa Đảng và người lao động ngày càng gắn
bó, củng cố lòng tin đối với Đảng trong quần chúng người lao động. Các vấn
đề nhạy cảm phát sinh trong quá trình chỉ đạo đều lấy ý kiến quần chúng lao
động. Các dự án, chương trình, kế hoạch và các chỉ tiêu kinh tế đều được
công khai để người lao động biết và có ý kiến tham gia.
Các đảng bộ đã lãnh đạo đơn vị xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ
ở cơ sở. Công tác vận động quần chúng được quan tâm chú trọng gắn với việc
tạo thêm việc làm tăng thêm thu nhập nâng cao đời sống vật chất tinh thần
cho cán bộ, đảng viên người lao động. Việc xây dựng, ban hành và thực hiện
quy chế dân chủ ở cơ sở đi vào nề nếp, góp phấn để cán bộ, đảng vên, người
lao động tự giác thực hiện đúng chủ trương, đường lối của Đảng. Góp phần
xây dựng văn hóa doanh nghiệp, xây dựng tinh thần đoàn kết, tương trợ lẫn
nhau trong doanh nghiệp và địa bàn nơi đứng chân. Các tổ chức đoàn thể
chính trị xã hội nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao
trình độ chính trị, thực hiện tốt chức năng bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng
của người lao động. Tổ chức các phong trào thi đua yêu nước, tích cực xây
dựng, thực hiện quy chế dân chủ và văn hóa doanh nghiệp; xây dựng đoàn thể
vững mạnh. Hàng năm, công nhân viên chức và lãnh đạo doanh nghiệp đã tổ
chức ký kết và thực hiện tốt thỏa ước lao động tập thể theo quy định. Những
kiến nghị, vướng mắc của người lao động được các cấp ủy tập trung chỉ đạo
công đoàn giải quyết ngay từ cơ sở, kịp thời ngăn ngừa các dấu hiệu vi phạm,
hoặc biểu hiện mất đoàn kết nội bộ.
Tiếp tục chỉ đạo đổi mới nội dung, phương thức tiến hành công tác dân
vận của Đảng, trong đó đặc biệt quan tâm công tác dân vận quản trị, qua đó
đã phát huy được sức mạnh của cả hệ thống chính trị trong việc thực hiện các
nhiệm vụ chính trị trọng điểm của Trung ương và của Đảng bộ Khối; đẩy
68

mạnh và nâng cao chất lượng các phong trào thi đua yêu nước; tăng cường
nắm bắt tình hình hoạt động tôn giáo, quản lý tốt việc tổ chức các buổi sinh
hoạt văn hóa, chính trị, nắm bắt tư tưởng quần chúng lao động trong phạm vi
doanh nghiệp đảm bảo đúng quy định; tập trung chỉ đạo, kiểm tra, hướng dẫn
thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, làm tốt công tác dân vận quản trị doanh
nghiệp, nhất là vận động quần chúng chấp hành chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và thực hiện các nhiệm vụ phát
triển kinh tế - xã hội của Đảng bộ khối.
Quan tâm xây dựng, củng cố, nâng cao chất lượng đội ngũ dân vận; tổ
chức tốt việc tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ khối dân vận
từ quận tới cơ sở. Đảng bộ các doanh nghiệp đã tổ chức thành lập 260 tổ công
tác dân vận ở phạm vi doanh nghiệp, tổng công ty, ngân hàng thương mại
trong khối để thường xuyên nắm bắt và giải quyết các vấn đề mâu thuẫn phát
sinh trong quần chúng người lao động. Hiện nay, cán bộ làm công tác dân vận
chủ yếu là kiêm nhiệm nên chế độ phụ cấp hoặc là không có, hoặc là rất thấp
nên ít nhiều ảnh hưởng đến chất lượng hiệu quả công tác dân vận ở cơ sở.
Ban dân vận, các đoàn thể nhân dân, các chi bộ cơ sở tuy đã huy động được
đông đảo cán bộ, hội viên tham gia các hoạt động do Đảng, đơn vị doanh
nghiệp tổ chức nhưng tính chủ động chưa cao
Có thể nói trong những năm qua, đảng bộ các doanh nghiệp, ngân hàng
trong Khối đã đáp ứng tốt vai trò lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị, huy
động được đông đảo các tầng lớp quần chúng lao động tham gia. Tuy nhiên,
do là các đơn vị kinh tế đặc thù, tốc độ phát triển cao, nhiều dự án đầu tư phát
triển nên không trách khỏi việc một bộ phận người lao động còn thắc mắc với
chế độ và quyền lợi của người lao động dẫn đến đơn thư, khiếu kiện. Nhiều
vụ việc không thuộc thẩm quyền của doanh nghiệp, Đảng bộ Khối, tiến độ
giải quyết chậm làm ảnh hưởng đến vai trò lãnh đạo của đảng, sự quản lý của
69

bộ máy quản trị doanh nghiệp. Một số cán bộ cơ sở trong giao tiếp với người
lao động có thái độ chưa đúng mực do vậy ảnh hưởng đến uy tín và sự lãnh
đạo của Đảng. Một số vấn đề người lao động còn bức xúc, tuy đã có những
hướng giải pháp cụ thể song vẫn chưa được giải quyết một cách triệt để …
khiến người lao động không nhiệt tình tham gia các hoạt động sản xuất kinh
tế. Công tác kiểm tra, xử lý các vi phạm còn yếu, chậm, làm giảm lòng tin
trong quần chúng.
* Đánh giá năng lực lãnh đạo của Đảng uỷ khối Doanh nghiệp
Trung ương hiện nay
Về thành tựu
Đạt được những thành tựu trên là do đường lối đúng đắn của Đảng,
Nghị quyết Đại hội Đảng bộ khối lần thứ nhất đề ra phù hợp, kịp thời với
yêu cầu phát triển của doanh nghiệp. Sự lãnh đạo quyết liệt có hiệu quả của
cấp ủy, tổ chức đảng các cấp, sự quản lý, điều hành hiệu quả của đội ngũ
lãnh đạo doanh nghiệp, đặc biệt là người đứng đầu; sự tham gia tich cực,
có hiệu quả của các tổ chức đoàn thể chính trị, cùng sự đoàn kết thống
nhất, tính tiền phong, gương mẫu, năng động, sáng tạo và phấn đấu bền bỉ
của toàn thể cán bộ, đảng viên, người lao động trong các doanh nghiệp,
đơn vị của Đảng bộ.
Các cấp ủy bám sát sự lãnh đạo, chỉ đạo của Bộ chính trị, Ban Bí thư; có
sự phối hợp với ban cán sự đảng Chính phủ, các bộ, ban, ngành Trung ương và
các địa phương, Các cấp ủy không ngừng tìm kiếm phương thức lãnh đạo thích
hợp, đồng thời phát huy trách nhiệm cao của hội đồng thành viên, người đứng
đầu các doanh nghiệp và sức manh của cả hệ thống chính trị trong doanh nghiệp
Các tập đoàn, tổng công ty, đơn vị trong khối là những doanh nghiệp có
tiềm lực, truyền thống đang nắm giữ nhiều lợi thế về vốn, tài sản, thị trường,
công nghệ, nguồn nhân lực được đào tạo cơ bản, có hệ thống.
70

Về hạn chế, yếu kém


Về khách quan, thời gian vừa qua, hoạt động sản xuất kinh doanh của
các doanh nghiệp trong Khối bị ảnh hưởng rất lớn bởi biến động của tình hình
kinh tế thế giới; thị trường trong nước và quốc tế có nhiều diễn biến phức tạp,
thậm chí có sự thay đổi chính sách kinh tế vĩ mô đã tác động trực tiếp đến
hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Giá cả, thị trường xuất khẩu không ổn
định. Mô hình tổ chức doanh nghiệp có nhiều thay đổi, nhưng các chính sách,
cơ chế, quy định của nhà nước còn thiếu, chậm, chưa đồng bộ; có nhiều điểm
vướng mắc nhưng chưa được bổ sung, sửa đổi
Một số văn bản quy định của Trung ương Đảng về công tác nhân sự, mô
hình tổ chức đảng chưa phù hợp, nhưng chậm được chỉnh sửa và bổ sung kịp thời;
nhiều thủ tục hành chính nhà nước chậm được cải tiến, nhiều vướng mắc trong cơ
chế, chính sách đối với doanh nghiệp, người lao động chậm được giải quyết.
Đội ngũ cán bộ lãnh đạo giỏi về điều hành doanh nghiệp, lao động có
tay nghề cao còn thiếu; vốn thiếu, công nghệ còn lạc hậu, cơ sở hạ tầng thấp
kém, quý đất hạn hẹp, tình hình giải phóng mặt bằng khó khăn
Về chủ quan, việc quán triệt các Nghị quyết của Đảng chưa được đổi
mới, một số cấp ủy thiếu kịp thời giải quyết những vướng mắc, bức xúc về tư
tưởng của cán bộ, đảng viên. Một số cấp ủy, tổ chức đảng chưa nhận thức đầy
đủ về tái cơ cấu, cổ phần hóa, thoái vốn ngoài ngành nghề kinh doanh chính
tại doanh nghiệp. Nhận thức về vai trò của công tác xây dựng đảng, xây dựng
đội ngũ cán bộ làm công tác xây dựng đảng chưa được coi trọng.
Kiến thức về kinh tế thị trường, hội nhập kinh tế quốc tế và trình độ
quản trị doanh nghiệp hiện đại của một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý chưa
đáp ứng yêu cầu. Nhiều quy định nội bộ như mối quan hệ giữa đảng ủy và hội
đồng thành viên, quy định về công tác cán bộ, quy chế về tài chính, quản lý
đầu tư...chậm được bổ sung, sửa đổi.
71

Công tác tổ chức thực hiện và kiểm tra, giám sát chủ trương, nghị quyết
của Trung ương, của Đảng bộ khối ở một số đảng bộ trực thuộc thiếu quyết liệt,
chưa có sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ, tập trung cao. Phương thức lãnh đạo của
cấp ủy đảng tuy đã có đổi mới nhưng chưa đáp ứng với yêu cầu thực tiễn phát
triển doanh nghiệp; năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của một số tổ chức đảng
còn thấp; khả năng nắm bắt, xử lý thông tin, dự báo thông tin còn nhiều hạn chế.
Một số cán bộ, đảng viên nhận thức về nhiệm vụ xây dựng Đảng là
then chốt và sự lãnh đạo của Đảng trong doanh nghiệp chưa đầy đủ. Tính
chiến đấu của một số cấp ủy chưa cao. Một số quy định đối với tổ chức đang
trong các loại hình doanh nghiệp chưa phù hợp với mô hình và cơ chế quản trị
doanh nghiệp. Cấp ủy kiêm nhiều nhiệm vụ, bộ máy tham mưu còn có mặt
hạn chế. Phương thức lãnh đạo của một số cấp ủy trong lãnh đạo thực hiện
nhiệm vụ chính trị, công tác tổ chức và cán bộ còn lúng túng, nhất là các
doanh nghiệp nhà nước sau khi tiến hành cổ phần hóa.

2.3. Những vấn đề đặt ra về các yếu tố năng lực lãnh đạo của Đảng
ủy Khối Doanh nghiệp Trung ương

2.3.1 Các vấn đề


- Về yếu tố năng lực tư duy lý luận, đề ra phương hướng, chủ trương
phát triển
Trước yêu cầu của sự đổi mới và phát triển, các ủy viên ban chấp hành
đảng bộ Khối cơ bản được đào tạo đạt chuẩn cán bộ nhưng cần tăng cường
hơn nữa về tư duy lý luận, đặc biệt là lý luận về Đảng cộng sản, xây dựng nhà
nước pháp quyền, luật pháp, chính sách của Đảng và nhà nước. Một số cán bộ
chưa bám sát thực tế, chưa cập nhật các văn bản chỉ đạo mới.
Đội ngũ cán bộ trình độ chưa đồng đều, độ tuổi trung bình cao. Ngoài
cấp ủy, nhiều người còn kiêm nhiệm một hoặc một vài vị trí công tác khác
nên ảnh hưởng đến chất lượng công tác.
72

Một số chủ trương, chính sách, nghị quyết, chương trình, kế hoạch của
đảng, còn chậm. Việc đề ra các chủ trương, nhiệm vụ của Đảng bộ còn phụ thuộc
vào đảng bộ cấp trên, tính chủ động chưa cao. Nhiều chi bộ, đảng bộ trực thuộc
trong nhiều năm liền không kết nạp được đảng viên mới vì không có nguồn.
Một số đảng bộ tổ chức học tập quán triệt các nghị quyết, kết luận, chỉ
thị của Trung ương Đảng và của cấp ủy cấp trên có lúc, có nơi còn chậm, chất
lượng hạn chế. Một số cấp ủy chưa chú trọng nghiên cứu xây dựng ban hành
các nghị quyết chuyên đề tập trung lãnh đạo, chỉ đạo những vấn đề chiến
lược. Chất lượng công tác tư tưởng của một số tổ chức đảng chưa cao, thiếu
sắc bén, tính thuyết phục còn hạn chế, phương pháp giảng và học lý luận
chính trị chưa có nhiều đổi mới. Giải quyết những vướng mắc, bức xúc về tư
tưởng của đảng viên, quần chúng lao động có nơi chưa được quan tâm kịp
thời. Việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh ở một số
doanh nghiệp, đơn vị còn mang tính hình thức.
- Về yếu tố năng lực tổ chức thực hiện các chủ trương, chiến lược phát triển
Bên cạnh kết quả đã đạt được trong công tác thực hiện các chủ trương
chiến lược phát triển, Đảng ủy khối cũng còn một số hạn chế, yếu kém như:
Công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị tư tưởng, nâng cao nhận thức
trong cán bộ, đảng viên chủ trương của đảng, chính sách pháp luật của nhà
nước chưa được thường xuyên. Chưa phát huy được tính chủ động của cán
bộ, đảng viên trong học tập, cập nhật thông tin lãnh đạo. Việc triển khai thực
hiện các nghị quyết của Đảng về công tác dân vận và xây dựng thực hiện quy
chế dân chủ ở cơ sở tại một số doanh nghiệp, đơn vị còn chưa được quan tâm
đầy đủ. Một số tổ chức công đoàn chưa chủ động phối hợp tốt với chính
quyền trong việc tham gia xây dựng doanh nghiệp. Hoạt động của Ban thanh
tra nhân dân ở nhiều đơn vị mang tính hình thức, hiệu quả thấp.
Tốc độ và chất lượng tăng trưởng các chỉ tiêu chủ yếu sản xuất kinh
doanh, đầu tư của một số doanh nghiệp còn thấp, chưa xứng với tiềm năng,
73

lợi thế, nguồn lực nhà nước giao quản lý và sử dụng. Bên cạnh đó, vẫn còn
doanh nghiệp sai phạm trong đầu tư, quản lý, xây dựng, mua sắm trang thiết
bị gây lãng phí, thất thoát vốn và tài sản; tỷ lệ nợ trên vốn còn cao; một số
đơn vị thua lỗ kéo dài, thiếu việc làm, thu nhập giảm mạnh; một số cán bộ
lãnh đạo doanh nghiệp vi phạm pháp luật phải xử lý.
Công tác quy hoạch tuy đã thực hiện nhưng chưa được bổ sung hàng
năm, còn mang tính chắp vá. Nguồn quy hoạch gặp nhiều khó khăn do độ
tuổi, giới tính, năng lực chuyên môn, thực tiễn nắm bắt cơ sở. Công tác cán
bộ đôi khi chưa được quan tâm đúng mức. Chưa thực sự ưu tiên cho các cán
bộ trẻ, cán bộ được đào tạo đúng chuyên ngành. Việc thi tuyển cán bộ công
chức còn có tư tưởng hợp thức hóa cho đội ngũ cán bộ lâu năm chưa được thi
tuyển. Một số cán bộ trình độ, năng lực hạn chế, khả năng triển khai công
việc chuyên môn nhiều lúc còn chưa thực hiện hết thẩm quyền được giao.
Còn tồn tại tình trạng né tránh trách nhiệm. Một số cán bộ công chức thiếu
trách nhiệm trước yêu cầu nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Việc giải
quyết công việc ở một số lĩnh vực còn để kéo dài, gây phiền hà. Công tác cải
cách hành chính đã được quan tâm nhưng việc giải quyết các thủ tục vẫn còn
nhiều rườm rà, bất cập. Một số cán bộ, đảng viên thái độ trách nhiệm phục vụ
nhân dân chưa cao.
Nhìn chung, năng lực lãnh đạo, tổ chức thực hiện nhiệm vụ của đảng
bộ Khối ngày càng được nâng cao nhưng chưa toàn diện và vững chắc. Nội
dung, phương thức lãnh đạo chưa được đổi mới. Thực thi các nhiệm vụ kinh
tế - xã hội trong năm còn chậm, chủ yếu tập trung vào những tháng cuối năm.
Khả năng vận dụng chủ trương, chính sách của cấp trên vào điều kiện cụ thể
của doanh nghiệp còn hạn chế. Trong thực hiện nhiệm vụ tính năng động
chưa cao, còn trông chờ ỷ lại vào cấp trên.
Việc chỉ đạo, kiểm tra đôn đốc thực hiện các Nghị quyết, Chỉ thị của
một số cấp ủy doanh nghiệp chưa thường xuyên, chưa có nhiều giải pháp
74

quyết liệt mang tính đột phá vì vậy trong công tác lãnh đạo phát triển kinh tế,
xã hội, xây dựng đội ngũ cán bộ, nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động của
hệ thống chính trị còn nhiều bất cập, cụ thể: Tốc độ tăng trưởng kinh tế chưa
tương xứng với tiềm năng lợi thế, sức cạnh tranh chưa cao. Công tác quy
hoạch, quản lý dự án còn nhiều bất cập. Trách nhiệm của người đứng đầu một
số cấp ủy chưa được đề cao, còn thiếu sót trong chỉ đạo triển khai thực hiện,
phân công trách nhiệm chưa rõ ràng, chưa sâu sát kiểm tra phát hiện và xử lý
kịp thời các vi phạm. Việc đánh giá phân loại tổ chức cơ sở Đảng và đảng
viên chưa thật chính xác, vẫn còn tình trạng nể nang, đánh đồng.
Công tác kiểm tra, giám sát ở một số tổ chức đảng chưa được quan tâm
đúng mức, thiếu kịp thời. Chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra giám sát và
xử lý tổ chức đảng, đảng viên vi phạm chưa cao, chưa đủ sức góp phần ngăn
chặn, đẩy lùi tham nhũng, tiêu cực. Một số khuyết điểm vi phạm của tổ chức
đảng, đảng viên chậm được phát hiện, việc xử lý kỷ luật đảng còn có biểu
hiện né tránh, ngại va chạm, đùn đẩy lên cấp trên. Một số cấp ủy đảng chưa
thực hiện tốt vai trò lãnh đạo, chỉ đạo thực hành tiết kiệm, chống tham nhũng,
lãng phí. Tham nhũng, lãng phí vẫn còn xảy ra ở một số doanh nghiệp, đơn
vị, cản trở sự phát triển và gây bức xúc trong dư luận xã hội, vẫn là thách thức
đối với vai trò lãnh đạo của cấp ủy đảng. Nhìn chung công tác kiểm tra của
Đảng ủy, chi ủy tuy đã quan tâm nhưng chưa thường xuyên, hiệu quả chưa
cao. Nhiều việc phát sinh rồi mới tiến hành kiểm tra. Một số đảng viên thiếu
gương mẫu vi phạm chủ trương, chính sách, vi phạm Điều lệ Đảng, pháp luật
của Nhà nước, có trường hợp chưa được xử lý nghiêm túc, kịp thời, việc thực
hiện và giữ gìn kỷ cương, quy chế làm việc có nơi thực hiện chưa tốt, nên có
sự thiếu thống nhất trong nội bộ.
- Yếu tố năng lực sáng tạo và tính quyết đoán
Đảng bộ Khối đã rất cố gắng trong tổ chức thực hiện nhiệm vụ chính trị
hàng năm. Tuy nhiên, việc sáng tạo trong chỉ đạo mới dừng lại ở một số việc
75

cụ thể, tập trung ở một vài đảng bộ trực thuộc và tính bền vững chưa cao.
Chưa có những giải pháp mang tính chất đột phá, lâu dài. Sự lãnh đạo chủ yếu
là theo sự chỉ đạo của cấp ủy cấp trên. Một số vấn đề mới phát sinh tại địa
phương giải quyết còn lúng túng, đùn đẩy trách nhiệm.
Công tác nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật công nghệ
mới vào sản xuất kinh doanh, quản trị doanh nghiệp còn hạn chế, trình độ
khoa học công nghệ của một số doanh nghiệp còn ở mức trung bình. Công tác
quản trị doanh nghiệp chậm đổi mới, tính chuyên nghiệp, khả năng nắm bắt,
xử lý thông tin, dự báo thị trường còn nhiều hạn chế. Tính chủ động hội nhập
quốc tế còn hạn chế, yếu kém. Năng suất lao động nhìn chung còn thấp so với
khu vực. Năng lực cạnh tranh yếu, chưa xây dựng nhiều thương hiệu mạnh
trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Việc tổ chức thực hiện chủ trương đề án tái cơ cấu của Đảng ủy Khối ở
một số doanh nghiệp còn chậm so với yêu cầu đề ra, tiến độ cổ phần hóa,
thoái vốn đầu tư ngoài ngành nghề kinh doanh, thậm chí còn chưa thu hút
nhiều nhà đầu tư trong và ngoài nước có năng lực tài chính tốt, có khả năng
chuyển giao kỹ thuật, công nghệ mới vào phát triển doanh nghiệp
- Yếu tố năng lực động viên, phát huy nguồn lực con người
Trong quá trình hoạt động, bên cạnh kết quả đã đạt được, Đảng ủy
Khối vẫn gặp một số khó khăn trong động viên và phát huy nguồn lực con
người; bất cập về cơ chế và chính sách trọng dụng nhân tài. Công tác đào tạo
bồi dưỡng, đặc biệt là công nhân kỹ thuật lành nghề, thợ bậc cao; bồi dưỡng
nâng cao trình độ lý luận chính trị, rèn luyện đạo đức lối sống; xây dựng văn
hóa doanh nghiệp chưa được quan tâm đúng mức. Vấn đề phát triển nguồn
lực con người ở hầu hết các đơn vị còn phó mặc, thậm chí còn cho là trách
nhiệm của các cấp quản lý; một số tập đoàn cho rằng đào tạo nguồn lực con
người là việc bỏ chi phí, chưa coi là hoạt động đầu tư; một số tập đoàn có
76

quan tâm tới việc đầu tư phát triển nguồn lực con người nhưng chưa gắn với
chiến lược mà đầu tư nhất thời hoặc theo xu thế thời cuộc nên hiệu quả sử
dụng nguồn lực con người không cao.
Cấp ủy trong một số đơn vị còn bị động và chưa có những hành động
hữu hiệu về mặt chiến lược trong xây dựng cơ chế, chính sách thu hút, trọng
dụng nhân tài; hiện tượng “Chảy máu chất xám” diễn ra ngay tại các doanh
nghiệp nhà nước, tỷ lệ chuyển công tác sang khu vực khác từ 15 đến 20%
Một số đơn vị cơ chế lương thưởng chưa thực sự tạo động lực cho
người lao động phát huy hết khả năng của mình; vấn đề quan tâm chăm sóc,
bồi dưỡng sức khỏe và điều kiện làm việc, cho người lao động chưa thực sự là
đòn bẩy mạnh mẽ để kích thích việc nâng cao năng suất lao động.
Năng lực quản trị của cán bộ, trình độ chuyên môn kỹ năng nghề
nghiệp của đội ngũ lao động kỹ thuật ở một số doanh nghiệp chưa đáp ứng
yêu cầu. Chưa có nhiều doanh nghiệp triển khai chiến lược phát triển nguồn
nhân lực chất lượng cao cho trung và dài hạn.
Do có vị trí đặc biệt trong quá trình thực hiện các nghị quyết của Đảng,
đề ra đường lối và tham gia lãnh đạo, chỉ đạo các doanh nghiệp Trung ương
nên năng lực và vai trò lãnh đạo của cán bộ lãnh đạo rất quan trọng, đặc biệt
là cấp ủy Đảng ủy Khối. Ngoài quá trình tự rèn luyện, đúc rút kinh nghiệm,
học hỏi từ đồng nghiệp thì đảng bộ các doanh nghiệp chưa tổ chức được
nhiều lớp bồi dưỡng kỹ năng quản lý, giao tiếp gắn với nắm bắt tâm lý tình
cảm của con người. Nhiều cán bộ ngại va chạm với một số việc cụ thể còn
làm cho quần chúng hiểu sai, đánh giá sai về năng lực lãnh đạo của Đảng bộ.
Việc phát huy dân chủ trong nội bộ đã được thực hiện. Tuy nhiên, một
vài cá nhân lợi dụng dân chủ để viết đơn thư, khiếu kiện liên quan đến việc
lãnh đạo của cán bộ Đảng ủy Khối, các chủ trương chính sách cụ thể áp dụng
với từng trường hợp đặc biệt là các chủ trương, chính sách trong tái cơ cấu
77

doanh nghiệp dẫn đến mất đoàn kết trong một số bộ phận đảng viên, giảm sút
uy tín của Đảng ủy Khối, lãnh đạo đứng đầu các doanh nghiệp.

2.3.2. Bài học kinh nghiệm


Từ thực trạng năng lực lãnh đạo của các Đảng ủy Khối Doanh nghiệp
Trung ương và nguyên nhân, có thể rút ra một số kinh nghiệm:
Một là: Nghiêm túc tổ chức thực hiện sáng tạo hiệu quả các nghị quyết
của Đảng và Nhà nước. Kiên trì và có quyết tâm cao trong lãnh đạo thực hiện
mục tiêu đổi mới, tái cơ cấu, phát triển toàn diện doanh nghiệp. Tuyệt đối
chấp hành và vận dụng sáng tạo, có hiệu quả các Nghị quyết của Đảng và
lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị. Báo cáo phản ánh kịp thời, đầy đủ với
cấp ủy cấp trên và cơ quan quản lý nhà nước về thực trang doanh nghiệp và
đề xuất các giải pháp tháo gỡ khó khăn, vướng mắc.
Hai là: Thường xuyên quan tâm đổi mới phương thức lãnh đạo của
Đảng đáp ứng yêu cầu phát triển của doanh nghiệp. Xây dựng mô hình tổ
chức đảng phù hợp; xây dựng, bổ sung, hoàn thiện quy chế làm việc của cấp
ủy, xác định mối quan hệ công tác; xây dựng và ký quy chế phối hợp công tác
với cấp ủy địa phương. Kịp thời ban hành các nghị quyết, kêt luận lãnh đạo
nhiệm vụ chính trị và công tác xây dựng Đảng. Phối hợp chặt chẽ với Ban cán
sự các đảng bộ, ban, ngành, Trung ương, các tỉnh, thành ủy để kịp thời tham
mưu, đề xuất giải quyết các khó khăn, vướng mắc của doanh nghiệp.
Ba là: Giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của đảng đối với doanh
nghiệp. Luôn coi trọng, đảm bảo vai trò lãnh đạo toàn diện của Đảng trong
doanh nghiệp, các cấp ủy đảng nhất là người đứng đầu doanh nghiệp cần có
nhận thức đúng vai trò lãnh đạo của tổ chức đảng; kết hợp chặt chẽ giữa công
tác xây dựng Đảng với lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị và công tác
nhân sự. Gắn hiệu quả sản xuất kinh doanh với nâng cao đời sống vật chất
tinh thần của cán bộ, đảng viên, người lao động.
78

Bốn là: Thường xuyên giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng bộ
và cả hệ thống chính trị, tạo sự đồng thuận cao trong doanh nghiệp, đơn vị.
Giữ vững nguyên tắc tập trung, dân chủ, thực hiện tốt chế độ tập thể lãnh đạo,
cá nhân phụ trách; chủ động giải quyết những vấn đề phát sinh phức tạp trong
hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo trên cơ sở phát huy dân chủ gắn với kỷ luật, kỷ
cương, ý thức trách nhiệm của các cá nhân, nhất là người đứng đầu, nói và
làm theo nghị quyết của cấp ủy và tổ chức Đảng. Coi trọng công tác chính trị
tư tưởng, nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát; giữ
vững sự lãnh đạo của Đảng với các tổ chức chính trị, xã hội.
Năm là: Không ngừng chăm lo công tác xây dựng đảng bộ trong sạch
vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức. Tăng cường công tác tư tưởng,
công tác dân vận tạo sự nhất trí cao trong đảng bộ, hệ thống chính trị và sự
đồng thuận của cán bộ, đảng viên trong sạch, có phẩm chất, năng lực,sức
chiến đấu cao, đặc biệt là người đứng đầu cấp ủy, cơ quan, đơn vị. Xây dựng
đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý và cấp ủy tuyệt đối trung thành với mục tiêu,
lý tưởng của Đảng, có năng lực tham mưu và tổ chức thực hiện thành công
đường lối, nghị quyết của Đảng và Nhà nước; thực sự là trung tâm đoàn kết
và có tín nhiệm cao, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm.
Thực hiện tốt công tác kiểm tra giám sát, phát hiện và xử lý kịp thời, triệt để
những sai phạm.

Tiểu kết chương 2

Tình hình quốc tế và trong nước trong thời gian qua có ảnh hưởng lớn
đến sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng, các khối doanh nghiệp, trong đó có đảng
bộ Khối doanh nghiệp Trung ương. Trong quá trình xây dựng đảng thời kỳ
công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước chắc chắn gặp nhiều khó khăn, thách
thức đòi hỏi các cấp ủy đảng các đơn vị phải luôn đoàn kết, sáng tạo trong chỉ
đạo, tổ chức, đổi mới trong tư duy lãnh đạo, phát huy các nguồn lực của địa
79

phương để phát triển kinh tế, nâng cao đời sống dân sinh, giữ gìn an ninh
chính trị, trật tự an toàn xã hội.
Bên cạnh đó, nhu cầu phát triển ngày càng cao của khoa học công nghệ
tiên tiến với xu thế khu vực hóa, toàn cầu hóa đòi hỏi chúng ta phải đáng giá
được đầy đủ thực trạng năng lực lãnh đạo của các tổ chức đảng trong đó có
đảng bộ cơ sở. Đặc biệt, với vai trò là các doanh nghiệp đầu tầu kinh tế của cả
nước, các đảng bộ của cả nước nói chung, đảng bộ Khối Doanh nghiệp Trung
ương nói riêng cũng phải thường xuyên được nâng cao năng lực để đáp ứng với
sự phát triển chung, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng các
cấp, vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh”.
80

Chương 3
MỘT SỐ QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC
LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG UỶ KHỐI DOANH NGHIỆP TRUNG ƯƠNG

3.1. Quan điểm cơ bản về việc nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý
của Đảng uỷ Khối Doanh nghiệp Trung ương

3.1.1. Nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý của đội ngũ lãnh đạo cấp
ủy Đảng ủy Khối phải đảm bảo đáp ứng được các nhiệm vụ chính trị của
Khối Doanh nghiệp Trung ương
Trong những năm qua, tình hình thế giới diễn biến phức tạp, kinh tế
toàn cầu phục hồi chậm, có nhiều tác động tiêu cự tới nền kinh tế nước ta.
Tình hình kinh tế trong nước có nhiều khó khăn, tốc độ tăng trưởng kinh tế
tuy có dấu hiệu phục hồi nhưng còn rất chậm, hoạt động sản xuất kinh doanh
của các doanh nghiệp còn gặp nhiều khó khăn.
Bám sát các Nghị quyết, Kết luận, của Trung ương, Đảng ủy Khối đã
lãnh đạo, chỉ đạo các đảng ủy trực thuộc vượt mọi khó khăn, thực hiện có kết
quả nhiều chỉ tiêu đã đề ra.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI tiếp tục khẳng định: “nâng cao năng lực
lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng là nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa sống còn đối
với Đảng và sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta hiện nay” [86, tr.56].
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương 6 (khóa XI) khẳng định: cần tiếp tục
sắp xếp, đổi mới mạnh mẽ Doanh nghiệp nhà nước, giữ vững vai trò nòng cốt, là
lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước điều tiết nền kinh tế, ổn định kinh tế
vĩ mô. Phải khẩn trương hoàn thành việc sắp xếp các Doanh nghiệp 100% vốn
nhà nước hiện có, tập trung vào các ngành, lĩnh vực then chốt và địa bàn quan
trọng, bao gồm: công nghiệp quốc phòng, công nghiệp độc quyền tự nhiên, lĩnh
vực cung cấp hàng hóa dịch vụ công thiết yếu và một số ngành công nghiệp nền
81

tảng, công nghệ có sức lan tỏa cao. Chấm dứt tình trạng đầu tư dàn trải ngoài
ngành và hoàn thành việc thoái vốn nhà nước tại các Doanh nghiệp có dưới 50%
vốn nhà nước vào năm 2015. Khẩn trương bổ sung, hoàn thiện thể chế quản lý
Doanh nghiệp nhà nước; áp dụng chế độ quản trị tiên tiến phù hợp với kinh tế thị
trường và thực hiện nghiêm chế độ kiểm toán, kiểm tra, giám sát, công khai,
minh bạch. Kết thúc giai đoạn thí điểm Tập đoàn kinh tế nhà nước; xem xét
chuyển một số Tập đoàn kinh tế nhà nước thành Tổng công ty. Đồng thời, với
việc mở rộng quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của Doanh nghiệp, phải tăng
cường vai trò và sự giám sát, kiểm tra của đại diện chủ sở hữu nhà nước, nhất là
trong việc phê duyệt điều lệ, quyết định chiến lược phát triển sản xuất, kinh
doanh, quản lý vốn, tài sản nhà nước tại Doanh nghiệp. Tăng cường công tác xây
dựng Đảng, nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức, năng lực quản lý của đội ngũ
cán bộ lãnh đạo, đặc biệt là lãnh đạo chủ chốt các Doanh nghiệp. Nghiên cứu
hình thành cơ quan nhà nước thực hiện thống nhất chức năng đại diện chủ sở
hữu đối với Doanh nghiệp nhà nước. Trước mắt, tập trung soát xét, điều chỉnh sự
phân cấp, phân công, phối hợp trong việc thực hiện chức năng đại diện chủ sở
hữu Doanh nghiệp nhà nước. Ban Chấp hành Trung ương đã ra Kết luận về tiếp
tục sắp xếp, đổi mới, nâng cao hiệu quả Doanh nghiệp nhà nước.
Trong giai đoạn 2011-2020, Đảng ta đã chú trọng hơn vào các mục tiêu
phát triển kinh tế, trong đó đặc biệt quan tâm đến vai trò của cấp ủy Đảng ủy
khối Doanh nghiệp Trung ương, điều này có ý nghĩa chiến lược rất quan trọng vì
họ là lực lượng lãnh đạo nòng cốt của Khối Doanh nghiệp Trung ương, là người
chịu trách nhiệm và có ảnh hưởng không nhỏ tới các mục tiêu kinh tế nước nhà.
Việc nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng ủy Khối cần phải mang tính thiết
thực, nghĩa là phải trên cơ sở nhiệm vụ chính trị phù hợp với từng lĩnh vực
doanh nghiệp hoạt động mà có các biện pháp cụ thể, bảo đảm cho họ có thể phát
huy hết nguồn lực để hoàn thành mục tiêu kinh tế, chính trị ở đơn vị. Trong tình
82

hình hiện nay, phải thực hiện đồng bộ các giải pháp để nâng cao năng lực lãnh
đạo, quản lý của đội ngũ lãnh đạo cấp ủy Đảng ủy khối, xây dựng tổ chức đảng
phải kết hợp chặt chẽ với xây dựng doanh nghiệp, nâng cao chất lượng đội ngũ
cán bộ đảng viên, trước hết là người đứng đầu cấp ủy, các ủy viên.
Trên cơ sở những quan điểm các kỳ Đại hội của Đảng về xây dựng,
củng cố Đảng bộ. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI tiếp tục phát triển cụ thể
hóa quan điểm này là: “Mỗi Đảng bộ có trách nhiệm tổ chức và quy tụ sức
mạnh của toàn đơn vị hoàn thành nhiệm vụ chính trị được giao; luôn làm tốt
công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, quản lý và giám sát đảng viên về năng
lực hoàn thành nhiệm vụ và phẩm chất đạo đức, lối sống, đấu tranh chống chủ
nghĩa cá nhân và những biểu hiện tiêu cực trong Đảng… Chú ý xây dựng
Đảng bộ trong các doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài, vùng sâu, vùng xa; tập trung giải quyết cơ sở yếu kém”.
Đảng ủy Khối Doanh nghiệp Trung ương đã ban hành nhiều văn bản chỉ
đạo về nâng cao năng lực và sức chiến đấu của Đảng ủy Khối Doanh nghiệp
Trung ương và các khối đảng ủy trực thuộc, qua đó đã nêu rõ quan điểm,
phương hướng chung xây dựng các cấp ủy đảng trong thời gian tới là: Đổi mới
phương thức lãnh đạo của cấp ủy, tổ chức đảng. Xây dựng quy định về quyền
hạn, trách nhiệm của người đứng đầu và mối quan hệ giữa tập thể cấp ủy,, tổ
chức đảng với người đúng đầu. Đẩy mạnh việc phân cấp, phân quyền; xây
dựng các quy định để phát huy được quyền chủ động, sáng tạo gắn với đề cao
trách nhiệm, đồng thời đảm bảo sự lãnh đạo, quản lý thống nhất của đảng.
Nâng cao chất lượng ban hành nghị quyết của cấp ủy Đảng đảm bảo thiết thực,
khả thi; đổi mới cách thức quán triệt, sơ kết, tổng kết việc thực hiện nghị quyết,
chỉ thị của Đảng, bảo đảm tính hiệu quả. Thực hiện quy chế phối hợp công tác
tốt với các cơ quan đảng, cơ quan quản lý nhà nước, đoàn thể chính trị - xã hội,
cấp ủy doanh nghiệp trong việc thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm. Cấp ủy cụ
thể hóa bằng các nghị quyết chuyên đề lãnh đạo thực hiện những chủ trương
83

lớn, quan trọng về sản xuất kinh doanh và công tác cán bộ. Bổ sung hoàn thiện
và thực hiện tốt mối quan hệ công tác giữa cấp ủy với các cơ quan quản lý nhà
nước, cơ quan điều hành trong doanh nghiệp. Trong điều lệ của doanh nghiệp
cần quy định rõ trách nhiệm của cấp ủy và mối quan hệ giữa cấp ủy với Hội
đồng quản trị một cách cụ thể. Tổ chức giao ban hội thảo, trao đổi kinh nghiệm
giữa các cấp ủy và giữa các lãnh đạo các doanh nghiệp. Xây dựng chương trình
làm việc định kỳ của cấp ủy cấp trên với cấp dưới, chế độ báo cáo của cấp ủy
viên về nhiệm vụ sản xuất kinh doanh.
Tiếp tục sơ kết, rút kinh nghiệm đánh giá chất lượng hiệu quả của công
tác phối hợp giữa Đảng ủy khối với các ban đảng, ban cán sự đảng bộ, ngành
và giữa cấp ủy doanh nghiệp với cấp ủy địa phương, kịp thời trao đổi, bổ sung
các vấn đề liên quan đến cơ cấu lại doanh nghiệp và công tác cán bộ, trên cơ
sở đó tiếp tục ký kết với các ban đảng, ban cán sự đảng bộ, ngành quản lý
doanh nghiệp trong Khối và cấp ủy doanh nghiệp với cấp ủy địa phương.
Bởi vậy, cấp ủy Đảng uỷ Khối Doanh nghiệp Trung ương phải thường
xuyên quan tâm tới vấn đề nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức tác phong
và năng lực chuyên môn nghiệp vụ; yêu cầu người của người lãnh đạo cấp ủy
Đảng ủy Khối phải không ngừng học tập và rèn luyện về chuyên môn nghiệp
vụ cũng như lý luận chính trị xứng đáng là đầu tầu của cả hệ thống, đủ khả
năng lãnh đạo, quản lý các cấp ủy đảng trực thuộc thực hiện và hoàn thành tốt
mục tiêu kinh tế. Đúng như Hồ Chí Minh nói “bất cứ công tác gì nếu có cán
bộ tốt thì thành công”.

3.1.2. Phải coi việc nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý của đội ngũ
lãnh đạo cấp ủy Đảng ủy Khối là một nhiệm vụ của quá trình đổi mới và
hội nhập kinh tế quốc tế
Quá trình nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý đội ngũ của Khối Doanh
nghiệp Trung ương phải được thực hiện đồng thời với quá trình đổi mới và
nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, phát huy vai trò nòng cốt của kinh tế
84

nhà nước, là lực lượng vật chất để Chính phủ điều tiết và ổn định nền kinh tế
vĩ mô. Chất lượng, hiệu quả hoạt động của Khối Doanh nghiệp Trung ương
và năng lực lãnh đạo, quản lý cúa Đảng ủy Khối Doanh nghiệp Trung ương
luôn có mối quan hệ chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau, nằm trong một chỉnh
thể thống nhất. Khối Doanh nghiệp Trung ương hoàn thiện sẽ tạo môi trường
khách quan quy định chất lượng đội ngũ cấp ủy. Nó đặt ra yêu cầu nâng cao
năng lực lãnh đạo, quản lý cho từng chức danh cán bộ trong hệ thống ấy: Nó
quy định cơ cấu, số lượng cán bộ cần thiết để hệ thống đó hoạt động có hiệu
quả. Sự vận hành của Khối Doanh nghiệp Trung ương luôn gắn liền với cơ
chế, nguyên tắc, điều lệ nhất định. Quá trình đổi mới Khối Doanh nghiệp
Trung ương sẽ tạo ra cơ chế thích hợp, mở đường thúc đẩy hoạt động có hiệu
quả của người lãnh đạo, quản lý làm cho họ phát huy hết tài năng và sức sáng
tạo của mình, không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo của họ. Khối Doanh
nghiệp Trung ương được sắp xếp cơ cấu hoàn thiện còn có khả năng ngăn
chặn và loại bỏ các biểu hiện tiêu cực, quan liêu, sai lệch của cán bộ, cán bộ
phải hành động theo một chuẩn mực khách quan, một trình tự khoa học, đồng
thời loại bỏ dần những người không đủ phẩm chất, trình độ và năng lực lãnh
đạo, quản lý ra khỏi Khối Doanh nghiệp Trung ương. Ngược lại nếu các đơn
vị trong Khối Doanh nghiệp Trung ương chưa được tổ chức một cách hợp lý,
quy chế hoạt động thiếu đồng bộ, không phù hợp với sự vận động của thực
tiễn thì cán bộ trong hệ thống đó không có cơ hội thể hiện năng lực của mình,
thiếu cơ chế khách quan buộc họ phải vươn lên. Đó là nguyên nhân làm suy
giảm chất lượng cán bộ. Vì vậy nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý của đảng
ủy Khối Doanh nghiệp Trung ương phải không tách rời với yêu cầu nâng cao
chất lượng của bộ máy tổ chức.
Đảng và nhà nước ta đã xác định trong Chiến lược phát triển kinh tế -
xã hội giai đoạn 2011-2020: “Phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở
thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại; chính trị - xã hội ổn định, dân
85

chủ, kỷ cương, đồng thuận; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được
nâng lên rõ rệt; độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ được giữ
vững; vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế tiếp tục được nâng lên; tạo tiền
đề vững chắc để phát triển cao hơn trong giai đoạn sau”. Để thực hiện được
mục tiêu trên, phải coi việc nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý của đội ngũ
lãnh đạo cấp ủy Đảng ủy Khối là một nhiệm vụ của quá trình đổi mới và nâng
cao hiệu quả hoạt động của Khối Doanh nghiệp Trung ương vì đó là lực
lượng lãnh đạo của Khối, là lực lượng chịu trách nhiệm và có ảnh hưởng
không nhỏ đến các mục tiêu kinh tế - xã hội đã được Đảng ta đề ra.

3.1.3. Nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý của đội ngũ Đảng uỷ
Khối Doanh nghiệp Trung ương phải gắn với việc tăng cường trau dồi
phẩm chất đạo đức cách mạng
Năng lực lãnh đạo, quản lý của đảng ủy Khối Doanh nghiệp Trung
ương giữ vai trò hết sức quan trọng đối với quá trình lãnh đạo các doanh
nghiệp thực hiện các nhiệm vụ đảm bảo hiệu quả cao nhất của khối doanh
nghiệp nhà nước trung ương. Tuy nhiên đó chỉ là tiền đề, là điều kiện cần để
hoạt động lãnh đạo, điều hành đạt hiệu quả cao nhất. Năng lực lãnh đạo, quản
lý có được phát huy hay không và phát huy theo xu hướng nào, phần lớn phụ
thuộc vào phẩm chất đạo đức cách mạng và nhân cách của người cán bộ. Nếu
chỉ có đạo đức thuần túy mà không có năng lực lãnh đạo, quản lý thì khó hoàn
thành nhiệm vụ hoặc hoàn thành nhưng kết quả không cao. Ngược lại người
lãnh đạo cấp ủy Đảng ủy Khối có năng lực lãnh đạo, quản lý mà không có đạo
đức cách mạng thì dễ bị chủ nghĩa cá nhân chi phối, họ đặt lợi ích cá nhân lên
trên lợi ích tập thể, lợi ích của cộng đồng; kéo bè; kéo cánh, gây thiệt hại đến
lợi ích tập thể và ảnh hưởng đến thanh danh uy tín của Đảng. Hồ Chí Minh đã
từng nói: có đức mà không có tài làm việc gì cũng khó. Có tài mà không có
đức sẽ trở nên vô dụng.
86

Đội ngũ cán bộ cấp ủy Đảng uỷ Khối Doanh nghiệp Trung ương có
phẩm chất đạo đức tốt sẽ có điều kiện phát triển tài năng và đem tài năng đó
cống hiến cho sự phát triển bền vững và hiệu quả của khối ngành kinh tế
trung ương, phụng sự lợi ích của nước nhà, của nhân dân. Bởi vì năng lực
lãnh đạo, quản lý của Đảng ủy Khối Doanh nghiệp Trung ương xét cho đến
cùng phải được đánh giá từ yêu cầu của nhiệm vụ, của mục tiêu phát triển
kinh tế - xã hội trong tình hình mới, giai đoạn mới.
Đảng ủy Khối Doanh nghiệp Trung ương hàng ngày, hàng giờ chịu sự
tác động nhiều chiều, cả mặt tốt lẫn mặt xấu của cơ chế thị trường. Để giữ
vai trò tiên phong, đòi hỏi đội ngũ này chẳng những phải có năng lực toàn
diện, mà còn phải có đạo đức cách mạng để “miễn dịch” với sự tác động tiêu
cực của kinh tế thị trường, giữ vững và xây dựng sự bền vững Khối Doanh
nghiệp Trung ương trong tình hình mới.
Đồng thời với việc nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý đòi hỏi đảng
ủy Khối Doanh nghiệp Trung ương còn phải làm tốt công tác vận động cán
bộ, đảng viên, người lao động nâng cao tinh thần trách nhiệm, tích cực
tham gia các phong trào thi đua trong thực hiện nhiệm vụ chính trị và công
tác xây dựng đảng, xây dựng doanh nghiệp, cần thực hiện tốt quy chế dân
chủ cơ sở để phát huy tinh thần phê bình và tự phê bình, đấu tranh ngăn
chặn, đẩy lùi những biểu hiện về sự suy thoái đạo đức cách mạng của cán
bộ, đảng viên trong khối. Cán bộ cấp ủy, lãnh đạo doanh nghiệp cần nâng
cao đạo đức cách mạng, tinh thần trách nhiệm đối với doanh nghiệp và đối
với người lao động, tôn trọng, lắng nghe ý kiến, đề xuất của người lao
động, phát huy trí tuệ và những sáng kiến, kinh nghiệm của người lao động
để nâng cao hiệu quả sản xuất. Như vậy phẩm chất đạo đức của đội ngũ cán
bộ cấp ủy đảng ủy Khối Doanh nghiệp Trung ương được đánh giá rất cao
và là tiêu chuẩn tiên quyết. Chính vì vậy đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý
87

nói chung và Đảng ủy Khối Doanh nghiệp Trung ương nói riêng phải đồng
thời rèn luyện cả đạo đức và tài năng, rèn luyện đạo đức cũng chính là nâng
cao năng lực lãnh đạo, quản lý, tạo lập điều kiện để phát huy năng lực vốn
có, nâng cao uy tín, nhân cách của người cán bộ. Tạo bước chuyển biến mới
về lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị của đảng ủy các đơn vị trực thuộc
góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội đại biểu đảng bộ Khối
Doanh nghiệp Trung ương lần thứ II, chuẩn bị các điều kiện cần thiết tạo thế
và lực bước vào thực hiện nhiệm vụ chính trị của đảng bộ các phường trong
nhiệm kỳ mới 2015 - 2020
Năng lực tổ chức thực hiện nhiệm vụ chính trị trong thời kỳ mới cũng
đòi hỏi chủ thể lãnh đạo, quản lý tính chủ động, sáng tạo rất cao trong lãnh
đạo, điều hành công việc. Hoạt động của người lãnh đạo cấp ủy như bộ não
điều khiển, có ảnh hưởng trực tiếp đến rất nhiều người, nhiều tổ chức nếu họ
kém năng lực, không tự giác, chủ động, năng động, sáng tạo mà thụ động,
trông chờ, ỷ lại vào cấp trên, dựa dẫm vào tập thể sẽ không thể hoàn thành
được những nhiệm vụ phức tạp hiện nay.

3.2. Một số nhóm giải pháp chủ yếu

3.2.1. Nâng cao tư duy lý luận, kết hợp lý luận với thực tế để xây
dựng các chủ trương, phương hướng đúng đắn phát triển doanh nghiệp
Nâng cao năng lực tư duy lý luận là yêu cầu không thể thiếu đối với
công tác lãnh đạo của đảng, góp phần hình thành và phát triển năng lực ở
người cán bộ lãnh đạo đảng các cấp. Tư duy lý luận là tư duy biện chứng (biết
suy nghĩ, xem xét các vấn đề, sự kiện, quan hệ, tình huống một cách khoa
học). Và được thể hiện ở năng lực suy nghĩ, khả năng phân tích, tổng hợp và
khái quát từ những hiện tượng sinh động, đa dạng của đời sống thực tiễn, từ
thành lý luận.
88

Do vậy, để nâng cao tư duy lý luận, kết hợp lý luận với thực tế để xây
dựng các chủ trương, phương hướng đúng đắn phát triển doanh nghiệp, cần
tập trung thực hiện một số giải pháp sau:
Thứ nhất, thường xuyên tổ chức, hoặc cử cán bộ tham gia các khóa đào
tạo bồi dưỡng lý luận. Việc đào tạo bồi dưỡng phải theo quy hoạch và được
thực hiện một cách đa dạng: trong nhà trường, trong công tác lãnh đạo, quản
lý, trong hoạt động thực tiễn.
Khuyến khích và ưu tiên việc đào tạo bồi dưỡng trong các trường vì
đây là môi trường học tập nghiêm túc nhất, hệ thống lý luận có tính lôgic, bài
bản; phương pháp lãnh đạo, quản lý chặt chẽ, khoa học. Học viên được tham
gia học tập trung, dứt ra khỏi công việc, ưu tiên để học tập, nghiên cứu. Một
số trường hợp bất khả kháng phải vừa làm vừa học, nhưng mô hình học tập
này hiệu quả thường không cao. Do đó, việc học chỉ dừng lại ở việc chuẩn
hóa chức danh của các cán bộ chứ không phải coi học tập là nhu cầu hoàn
thiện tư duy, trình độ và nhân cách của người cán bộ. Cần xây dựng kế hoạch
đào tạo giai đoạn 2015 - 2020 cho cán bộ đang giữ các chức danh và cán bộ
trong nguồn quy hoạch. Ưu tiên đào tạo cán bộ trẻ, cán bộ nữ.
Bên cạnh đó, tập trung hướng tới hình thành kỹ năng của người lãnh
đạo như kỹ năng giao tiếp, kỹ năng diễn thuyết, trình bày trước quần chúng,
kỹ năng chủ tọa, điều hành các hội nghị; kỹ năng soạn thảo nghị quyết, kỹ
năng kiểm tra, giám sát các hoạt động của doanh nghiệp….Việc đào tạo nâng
cao năng lực cho đội ngũ cán bộ các doanh nghiệp không phải là nhồi nhét
kiến thức mà chủ yếu là hình thành phương pháp tư duy khoa học, phương
pháp xử lý tình huống, phương pháp lãnh đạo quản lý ở tầm khoa học và nghệ
thuật. Công tác đào tạo phải hướng tời đào tạo phương pháp cho người học để
khi ra trường có khả năng vận dụng sáng tạo lý luận vào thực tiễn một cách
hiệu quả nhất.
89

Thứ hai, tùy từng đối tượng cụ thể để lựa chọn hình thức đào tạo cho
phù hợp. Có thể đào tạo tập trung, có thể là tại chức. Đối với cán bộ trẻ, trong
diện quy hoạch yêu cầu phải đào tạo tập trung là chủ yếu. Đào tạo tại chức chỉ
nên áp dụng cho số cán bộ lớn tuổi, cán bộ đương chức đã qua công tác lâu
năm để có điều kiện điều hành, quản lý ở địa bàn doanh nghiệp mình phụ trách
Thực tế, trong đảng ủy các doanh nghiệp, đơn vị, nhiều cán bộ không
được đào tạo chính quy. Trong quá trình vừa làm việc vừa học tại chức để
hợp thức hóa bằng cấp. Nhiều cán bộ có từ hai đến ba bằng đại học nhưng đều
là đào tạo tại chức, tư duy lý luận về cơ bản không đáp ứng được yêu cầu,
nhiệm vụ. Bên cạnh đó, thường xuyên mở các lớp bồi dưỡng theo chuyên đề
hoặc theo chức danh. Đối với Bí thư, Phó Bí thư đảng ủy thì chú ý các khóa
đào tạo nâng cao kiến thức về xây dựng đảng, công tác dân vận, kiểm tra,
tuyên giáo, công tác điều hành trong hệ thống chính trị, nắm bắt tình hình dư
luận trong nhân dân. Đối với Chủ tịch, phó chủ tịch hội đồng thành viên (hội
đồng quản trị), cần bồi dưỡng nâng cao kiến thức về quản lý hành chính, quản
lý kinh tế, quản lý nhà nước, thực thi pháp luật… cần tăng cường năng lực
kiểm tra, giám sát, sáng tạo, quyết đoán trong xử lý các vấn đề phát sinh trong
quá trình quản lý, điều hành. Đối với tổng giám đốc, giám đốc các tập đoàn,
tổng công ty, ngân hàng trong Khối cần quan tâm bối dưỡng công tác quản lý
nhà nước, các chủ trương, chính sách mới, khoa học lãnh đạo, quản lý, kỹ
năng kiểm tra, giám sát, khảo sát, chất vấn, kỹ năng giao tiếp trong công việc.
Ngoài ra, đảng bộ các doanh nghiệp thường xuyên khuyến khích đội
ngũ cán bộ chủ chốt thường xuyên tự học tập, nghiên cứu tài liệu hoặc tự đầu
tư kinh phí đi học các lớp đào tạo, bồi dưỡng mà đảng cho phép. Việc học tập
trong các trường hay các lớp đào tạo ngắn hạn, dài hạn, chuyên đề cũng chỉ là
những kiến thức ban đầu. Đội ngũ cán bộ tự mình phải trang bị thêm các kiến
thức mới, phương pháp làm việc, phương pháp tu duy khoa học mới để đáp
ứng với sự phát triển của đảng bộ trong giai đoạn hiện nay.
90

3.2.2. Nâng cao năng lực tổ chức thực hiện các chủ trương, chiến
lược phát triển
Tiếp tục đổi mới nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất, kinh doanh,
phát huy vai trò là lực lượng nòng cốt của kinh tế nhà nước, là lực lượng quan
trọng để chính phủ điều tiết, ổn định kinh tế vĩ mô. Lãnh đạo các doanh
nghiệp xây dựng, điều chỉnh, bổ sung, hoàn chỉnh chiến lược sản xuất kinh
doanh giai đoạn 2015 - 2020 trên cơ sở bám sát qui hoạch phát triển ngành,
phát triển vùng đã được duyệt; đánh giá, dự báo thuận lợi, khó khăn, thời cơ,
thách thức, lựa chọn hướng phát triển phù hợp, khâu đột phá, tập trung phát
huy mọi nguồn lực thực hiện. Chỉ đạo các đơn vị thành viên triển khai cụ thể
hóa, phát triển đồng bộ. Hoàn thành các nhiệm vụ tái cơ cấu doanh nghiệp
nhà nước, gắn trách nhiệm của người đứng đầu với kết quả tổ chứ thực hiện
đề án tái cơ cấu, sắp xếp, cổ phần hóa doanh nghiệp. Nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực, năng suất lao động, năng lực quản trị doanh nghiệp, tăng
cường hiệu quả nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ và đầu tư phục vụ
sản xuất kinh doanh.
Nâng cao năng lực lãnh đạo, thực hiện nhiệm vụ chính trị của cấp ủy
đảng trong doanh nghiệp. Các cấp ủy đảng tiếp tục đổi mới, nâng cao năng
lực lãnh đạo kinh tế, phát triển sản xuất kinh doanh. Tham gia có chất lượng,
hiệu quả vào quá trình xây dựng quy hoạch, chiến lược phát triển.
Xây dựng đội ngũ cán bộ trước hết phải quan tâm tới chất lượng cấp ủy
và từng cấp ủy viên. Chọn cấp ủy viên phải đảm bảo tiêu chuẩn và phải đảm
bảo quyền dân chủ của đảng viên trong quá trình lựa chọn, bầu cấp ủy.
Trước hết, chất lượng lãnh đạo, điều hành thể hiện ở đội ngũ cán bộ
chủ chốt mà trong đó tập trung ở các đồng chí là Bí thư cấp ủy, chủ tịch hội
đồng thành viên (hội đồng quản trị), tổng giám đốc, giám đốc các tập đoàn,
tổng công ty, ngân hàng trong Khối. Đối với Bí thư đảng ủy trục thuộc Khối,
91

ngoài tiêu chuẩn chung của cấp ủy còn phải là người tiêu biểu cho tập thể cấp
ủy và đảng bộ, có kiến thức tương đối toàn diện, am hiểu công tác Đảng, công
tác quần chúng, là người có khả năng đoàn kết, phối hợp điều hành hoạt động
tập thể, có uy tín đối với tập thể. Đối với chủ tịch hội đồng thành viên, tổng
giám đốc các tập đoàn, tổng công ty, ngân hàng trong khối, ngoài tiêu chuẩn
về bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống, cần chú ý đến năng lực,
kinh nghiệm quản lý kinh tế - xã hội, năng lực tổ chức điều hành bộ máy, cán
bộ doanh nghiệp, làm việc tập thể, quyết đoán, có trách nhiệm, tôn trọng kỷ
cương phép nước. Đối với Hội đồng thành viên (hội đồng quản trị), đây là cơ
quan lãnh đạo, quản lý cao nhất ở các doanh nghiệp do vậy, tổng giám đốc,
giám đốc các tập đoàn, tổng công ty, ngân hàng trong Khối cũng phải là
người có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao, được quần chúng tập thể tín
nhiệm, làm việc theo nguyên tắc tập trung dân chủ, công tâm , khách quan,
góp phần giám sát và quyết định các chỉ tiêu kinh tế xã hội hàng năm và
nhiệm kỳ, quyết định việc thu chi ngân sách của đơn vị, giám sát hoạt động
điều hành của doanh nghiệp theo đúng chức năng , thẩm quyền được quy định
bởi cấp Đảng ủy Khối.
Các ủy viên ban chấp hành Đảng bộ trong đó có các đồng chí là lãnh
đạo ban dân vận, các đoàn thể, đại diện cán bộ đảng viên, bí thư cấp ủy các
cấp... phải là những cá nhân tiêu biểu, có trình độ về chuyên môn nghiệp vụ,
trình độ lý luận chính trị nhất định, có năng lực tham mưu cho cấp ủy về
mảng mình phụ trách đảm bảo quyền lợi cho đông đảo các tầng lớp người lao
động, phản ảnh ý kiến, tâm tư nguyện vọng của người lao động với các cấp ủy
đảng, lãnh đạo doanh nghiệp.
Trong thời gian tới, để nâng cao năng lực tổ chức thực hiện các chủ
trương, chiến lược phát triển doanh nghiệp cần tập trung hơn nữa vào công
tác cán bộ, một số giải pháp cụ thể sau:
92

Thứ nhất tiếp tục quán triệt và triển khai thực hiện các chỉ thị, nghị
quyết của Đảng về công tác cán bộ theo hướng chuẩn hoá đối với từng chức
danh. Gắn việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở với việc triển khai và thực
hiện nghị quyết hội nghị Trung ương 3 và nghị quyết hội nghị Trung ương 4
khoá XI. Tăng cường công tác tuyên truyền để nâng cao nhận thức của các
cấp ủy Đảng, Ban dân vận và các đoàn thể chính trị - xã hội về vị trí, vai trò
của cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp trong quá trình phát triển kinh tế - xã
hội, đảm bảo an ninh trật tự, an toàn xã hội và sự nghiệp phát triển đất nước.
Nâng cao tinh thần trách nhiệm, ý thức tự vươn lên của đội ngũ cán bộ lãnh
đạo, quản lý các cấp, phát huy tinh thần tiền phong gương mẫu gắn với tiếp
tục đẩy mạnh việc Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
Thứ hai, thực hiện tốt công tác đánh giá cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp
hàng năm đảm bảo thực chất, tạo động lực cho cán bộ thi đua phấn đấu. Tăng
cường công tác quy hoạch và quản lý quy hoạch cán bộ cơ sở theo tinh thần nghị
quyết số 42-NQ/TW và Kết luận số 24-KL/TW của Bộ chính trị. Coi việc xây
dựng quy hoạch và thực hiện quy hoạch cán bộ là một nội dung hoạt động quan
trọng của cấp ủy, trong đó phải thường xuyên rà soát, bổ sung quy hoạch nhằm
chủ động nguồn cán bộ lãnh đạo, quản lý đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, có
tư duy và tầm nhìn chiến lược, quan tâm đến cán bộ trẻ, cán bộ nữ.
Thứ ba, chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý
các cấp, hướng vào trọng tâm, trọng điểm, đúng đối tượng, có địa chỉ trên cơ
sở đa dạng hoá về phương thức và loại hình đào tạo, phù hợp với trình độ và
khả năng tiếp thu kiến thức, kỹ năng của cán bộ cơ sở. Tăng cường đào tạo kỹ
năng tuyên truyền vận động quần chúng cho đội ngũ cán bộ dân vận, các đoàn
thể và cán bộ tham mưu chuyên trách nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ vừa “nói
được, vừa làm được”. Tổ chức và tập hợp quần chúng trong thực hiện các
nhiệm vụ chính trị - kinh tế xã hội tạo thành phong trào thi đua rộng khắp.
93

Giữ vững nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Khi bàn, quyết định
phương phướng, kế hoạch phải nhấn mạnh vai trò lãnh đạo của tập thể nhưng
khi tổ chức thực hiện phải nhấn mạnh vai trò của cá nhân phụ trách. Do vậy,
đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp phải nắm bắt và phán đoán tình hình,
đưa ra dược những quyết định kịp thời, chính xác trong từng tình huống cụ
thể, đồng thời chịu trách nhiệm với quyết định của bản thân. Bên cạnh đó phải
biết giữ vững mối đoàn kết trong tập thể lãnh đạo, giải quyết mâu thuẫn trong
nội bộ, xử lý các điểm nóng trên địa bàn doanh nghiệp.
Thứ năm, xây dựng tiêu chuẩn chức danh đối với cán bộ lãnh đạo, quản
lý các cấp phù hợp với định hướng phát triển kinh tế, đặc điểm của doanh
nghiệp. Rà soát số cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp để phân loại, sắp xếp,
phân loại, quy hoạch.
Thứ sáu, tuyển chọn cán bộ vào các chức danh chủ chốt cần ưu tiên cán
bộ được đào tạo bài bản, đúng chuyên ngành, đúng sở trường. Có chính sách
ưu đãi thu hút cán bộ, công chức có chất lượng, tập trung vào các đối tượng
sinh viên tốt nghiệp các học viện, trường đại học, chính quy loại khá, giỏi về
làm việc tại đơn vị.
Thực hiện hiệu quả, đồng bộ công tác kiểm tra của Đảng ủy, của cấp
ủy chi bộ. Tăng cường công tác kiểm tra, chỉ đạo của Đảng ủy khối, công tác
kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng có vị trí, vai trò và tầm quan trọng đặc
biệt trong công tác xây dựng Đảng nhằm nâng cao năng lực tổ chức thực hiện
các chủ trương, chiến lược phát triển. Đây là công cụ đắc lực có hiệu quả hạn
chế những yếu kém trong công tác xây dựng Đảng, nhất là trong việc đẩy lùi
tình trạng suy thoái chính trị đạo đức, lối sống của cán bộ, Đảng viên như
trong Nghị quyết Hội nghị trung ương 4 khóa XI đã đề ra… Muốn vậy phải
tăng cường công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng nhằm nâng cao
phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng cho cán bộ, Đảng viên.
94

Để thực hiện nhiệm vụ mục tiêu quan trọng đó, các Đảng bộ cần quan
tâm thực hiện tốt một số nội dung sau:
Thứ nhất, tiếp tục nâng cao nhận thức của cấp ủy Đảng bộ Khối, người
đứng đầu cấp ủy rõ vị trí, vai trò, ý nghĩa, tác dụng của công tác kiểm tra,
giám sát, kỷ luật của Đảng trong việc thực hiện nhiệm vụ chính trị, trong công
tác xây dựng đảng nói chung và đấu tranh chống suy thoái, nâng cao phẩm
chất chính trị, đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên nói riêng.
Thứ hai, không ngừng nâng cao tính tự giác, tự phê bình, tự kiểm tra
của tổ chức dảng và đảng viên. Tự phê bình và phê bình là quy luật phát triển
và là một trong những nguyên tắc hoạt động của Đảng. Tự phê bình và phê bình
tốt thì trong đảng mới lành mạnh. Bên cạnh đó, công tác kiểm tra, giám sát của
đảng cần phải dựa vào quần chúng người lao động để giám sát đội ngũ đảng viên
và tổ chức đảng.
Thứ ba, lựa chọn cán bộ làm công tác kiểm tra phải có đủ trình độ, tâm
huyết, đạo đức nghề nghiệp để tránh những trường hợp bị chi phối bởi các
yếu tổ khác quan, bởi quan hệ, né tránh trách nhiệm...
Người làm công tác kiểm tra, giám sát phải có bản lĩnh, uy tín, khi giải
quyết các vụ việc phải công tâm, trung thực, khách quan, thận trọng và kiên
quyết, phải có kiến thức tương đối toàn diện về các lĩnh vực pháp luật, kinh
tế, an ninh, quốc phòng và công tác Đảng. Đồng thời phải là những người
kiên định, vững vàng về lập trường tư tưởng, chính trị, không thể chống suy
thoái khi bản thân mình suy thoái.
Thứ năm, Ủy ban kiểm tra các cần thực hiện nhiều phương pháp kiểm
tra: kiểm tra trực tiếp, kiểm tra gián tiếp bằng văn bản, kiểm tra định kỳ kết
hợp với kiểm tra đột xuất; tập trung giải quyết các những vấn đề nổi cộm, tồn
đọng, bức xúc mà cán bộ, đảng viên và người lao động quan tâm; Công tác
kiểm tra phải tiến hành thường xuyên, toàn diện; Thực hiện tái kiểm tra khi có
95

yêu cầu. Giải quyết kịp thời đơn thư tố cáo tổ chức đảng và đảng viên có vi
phạm; Kiên quyết xử lý những tổ chức đảng và đảng viên có vi phạm;
Trên cơ sở công tác xây dựng đảng ở Đảng bộ Khối, một lần nữa khẳng
định vai trò của kiểm tra, giám sát trong công tác đổi mới, chỉnh đốn Đảng,
năng cao năng lực lãnh đạo của Đảng bộ Khối. Đây vừa là trách nhiệm của
cấp ủy Đảng vừa là yêu cầy tất yếu khách quan của công tác xây dựng Đảng
trong sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước.

3.2.3. Nâng cao năng lực sáng tạo và tính quyết đoán
Trong tổ chức thực hiện nhiệm vụ chính trị cần có những giải pháp
mang tính chất đột phá, lâu dài. Tiếp tục hoàn thiện, cụ thể hóa, xây dựng hệ
thống các quy chế về sự lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị, các cơ
quan nhà nước và đoàn thể ; các nguyên tắc tổ chức sinh hoạt đảng. Xây
dựng hệ thống các quy chế thống nhất về các mặt hoạt động của Đảng, nhất là
bảo đảm thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, đi đôi với tăng cường kỷ
cương, kỷ luật. Cải cách phong cách lãnh đạo, phương pháp ra nghị quyết
theo hướng ngắn, gọn, rõ ràng. Tăng cường công tác kiểm tra, sát dân, sát cơ
sở, sát thực tế, tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng trong cán bộ,
đảng viên và người lao động.
Đổi mới phương thức lãnh đạo của cấp ủy, tổ chức đảng. Xây dựng quy
định về quyền hạn, trách nhiệm của người đứng đầu, và mối quan hệ giữa tập
thể cấp ủy, tổ chức đảng với người đứng đầu. Đẩy mạnh việc phân cấp, phân
quyền, xây dựng các quy định để phát huy quyền chủ động, sáng tạo gắn với
đề cao trách nhiệm, đồng thời bảo đảm sự lãnh đạo, quản lý thống nhất của
Đảng. Nâng cao chất lượng ban hành nghị quyết của cấp ủy đảng đảm bảo
thiết thực, khả thi; đổi mới cách thức quán triệt, sơ kết, tổng kết việc thực hiện
nghị quyết, chỉ thị của đảng, đảm bảo tính hiệu quả.
Chú trọng tuyển chọn, bồi dưỡng cán bộ, nâng cao trình độ về mọi mặt
cho đội ngũ cán bộ cấp ủy. Phối hợp công tác tư tưởng, công tác, công tác tổ
96

chức, kiểm tra, dân vận tạo thành sức mạnh tổng hợp phục vụ sự lãnh đạo của
cấp ủy. Đẩy mạnh công tác giáo dục, bồi dưỡng, nâng cao trình độ, kiến thức
cho đảng viên nhất là những đảng viên trẻ về lý luận chính trị, kiến thức pháp
luật, quản lý doanh nghiệp, công tác xây dựng Đảng trong giai đoạn hiện nay.
Tăng cường công tác phát triển đảng viên mới.
Xây dựng, củng cố tổ chức, bộ máy, đội ngũ cán bộ dân vận, và các
đoàn thể chính trị xã hội các cấp vững mạnh, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo
các đoàn thể chính trị xã hội phát huy vai trò của đoàn viên, hội viên...nhằm
thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ sản xuất, kinh doanh, tích cực tham gia xây
dựng Đảng, xây dựng doanh nghiệp vững mạnh.
Cán bộ đảng viên và người lao động ở các doanh nghiệp nhà nước, cơ
quan, đơn vị trong Khối là lực lượng nòng cốt, tiên phong thực hiện vai trò
lãnh đạo của đảng bộ và doanh nghiệp. Vì vậy Đảng bộ Khối, trong tình hình
hiện nay cần tập trung vào những vấn đề cơ bản sau:
Một là, giáo dục nâng cao bản lĩnh chính trị, lập trường quan điểm, xây
dựng lòng tin vào sự lãnh đạo đúng dắn của Đảng. Thường xuyên tổ chức học
tập Nghị quyết của Đảng. Nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ trí tuệ, tính chiến
đấu và vai trò tiên phong gương mẫu của cán bộ đảng viên, trước hết là cán bộ
cấp ủy Đảng ủy Khối, cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, Kiên định đường lối đổi
mới, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, chủ động đấu tranh làm thất
bại âm mưu: “Diến biến hòa bình, bạo loạn lật đổ, của các thế lực thù địch”, phát
hiện và đấu tranh với biểu hiện “tự diễn biến”' “tự chuyển hóa”.
Hai là, giáo dục nâng cao sự hiểu biết về kiến thức chuyên môn, pháp
luật, kiến thức về kinh tế để tổ chức cho các cá nhân và tập thể cấp cơ sở hoàn
thành các nhiệm vụ kinh tế cũng như nhiệm vụ chính trị Đảng ủy Khối đề ra.
Phối hợp, chỉ đạo và tổ chức nhiều hoạt động phố biến giáo dục pháp luật
bằng nhiều hình thức đa dạng phong phú như: tập huấn, giao lưu, tọa đàm, nói
97

chuyên chuyên đề, tư vấn, phát tờ gấp tuyên truyền,… Nâng cao chất lượng
phổ biến, tuyên truyền, chất lượng tin bài, xây dựng các chuyên mục riêng về
hoạt động của Đảng, hoạt động của đơn vị, cập nhật văn bản chỉ đạo mới của
Đảng ủy Khối, cũng như các cấp Trung ương, kiến thức lý luận, kiến thức về
lao động trong doanh nghiệp… Bên cạnh đó, tạo điều kiện và khuyến khích
cho cán bộ, đảng viên học tập nâng cao trình độ hiểu biết pháp luật, trình độ
chuyên môn và các kiến thức lý luận chính trị khác.
Ba là, quan tâm chỉ đạo ban dân vận, các đoàn thể, các cấp chi bộ cơ sở
tập trung nhiều biện pháp để tuyên truyền, giáo dục cho người lao động bằng
các hoạt động cụ thể, dễ hiểu, dễ nhớ với nội dung và hình thức phù hợp.
Quan tâm thường xuyên giáo dục pháp luật cho người lao động coi đây là
điểm mấu chốt để xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị ở các doanh
nghiệp nhà nước, cơ quan, đơn vị trong Khối vì các vụ tố cáo, khiếu kiện và
những vấn đề kinh tế xã hội cũng xuất phát từ thiếu hiểu biết pháp luật. Duy
trì và tổ chức hoạt động các mô hình nhóm sản xuất.

3.2.4. Nâng cao năng lực động viên, phát huy nguồn lực con người
Thực hiện cơ chế phát huy dân chủ ở cơ sở, khuyến khích, động viên phát
huy nguồn lực con người, Các cấp ủy Đảng các doanh nghiệp nhà nước, cơ
quan, đơn vị trong Khối thường xuyên chỉ đạo tuyên truyền sâu sộng trong
doanh nghiệp về những nội dung công khai để người lao động biết, những nội
dung công khai thông qua đó có thể bàn, biểu quyết, trách nhiệm của các cấp
ủy đảng, doanh nghiệp về những nội dung người tập thể bàn và quyết định.
Để Đảng bộ Khối thực hiện hiệu quả công tác động viên, phát huy
nguồn lực con người trong thời gian tiếp theo cần quan tâm một số vấn đề cụ
thể sau:
Thứ nhất, chỉ đạo các doanh nghiệp nhà nước, cơ quan, đơn vị trong
Khối công khai những nội dung theo quy định cho cán bộ, đảng viên, người
98

lao động biết bằng nhiều hình thức như: thông qua các kỳ họp, các cuộc tiếp
xúc người lao động, các cuộc họp tổ, nhóm lao động, niêm yết trên các bảng
tin tại trụ sở các doanh nghiệp, cơ quan, đơn vị trong Khối tuyên truyền phổ
biến rộng rãi. Công khai nội quy cơ quan, các văn bản quản lý nhà nước theo
thẩm quyền, các thủ tục hành chính, hòm thư góp ý....để tăng cường giám sát
của người lao động với Đảng, doanh nghiệp, với cán bộ, đảng viên...Ngoài ra,
các Chỉ thị Nghị quyết của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước cũng
được ban dân vận và các đoàn thể tuyên truyền rộng rãi trong tổ.
Trong số những nội dung được công khai, nhiều vấn đề quan trọng liên
quan trực tiếp đến đời sống người lao động được đưa ra cho tập thể góp ý, đề
xuất cho đảng ủy các cấp xem xét, quyết định như: kế hoạch phát triển kinh tế -
xã hội, chương trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phương án tái cơ cấu doanh
nghiệp, quy trình giải quyết chế độ, chính sách…
Thứ hai, Đảng ủy các doanh nghiệp, cơ quan, đơn vị trong Khối lãnh
đạo Hội đồng thành viên, ủy ban dân vận và các đoàn thể phối hợp, hỗ trợ ủy
ban kiểm tra, các tổ giám sát thực hiện tốt chức năng giám sát việc thực hiện
quy chế dân chủ tại các đơn vị. Quan tâm thực hiện cải cách thủ tục hành
chính, xây dựng hệ thống quản lý chất lượng; tổ chức hướng dẫn thủ tục cặn
kẽ, tạo thuận lợi cho người lao động.
Đổi mới phương thức lãnh đạo của cấp uỷ, quản lý điều hành của
doanh nghiệp, cơ quan, đơn vị trong Khối theo hướng ngày một dân chủ hơn,
bám sát thực tiễn. Trong quá trình lãnh đạo thường xuyên lắng nghe ý kiến
của cán bộ, đảng viên và người lao động, xác định lý tưởng cán bộ lãnh đạo,
quản lý các cấp là vì tập thể. Thông qua hoạt động triển khai quy chế dân chủ
tại các doanh nghiệp, cơ quan, đơn vị trong Khối , năng lực hoạt động thực
tiễn được nâng lên, tăng thêm uy tín của hệ thống chính trị, góp phần xây
dựng hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh.
99

Thực hiện dân chủ đã góp phần huy động sức mạnh của tập thể tham
gia vào công cuộc đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh
doanh, xây dựng doanh nghiệp, cơ quan, đơn vị trong Khối. Đặc biệt là việc
huy động xã hội hóa kinh phí trong tập thể để xây dựng hệ thống phúc lợi xã
hội trong Đảng bộ Khối; Tham gia đóng góp các ý kiến liên quan đến vấn đề
lãnh đạo, quản lý của Đảng ủy Khối. Qua đó nhiều ý tưởng mới, nhiều cách
làm sáng tạo được bắt nguồn từ ý kiến của tập thể
Thứ ba, hoạt động của ban dân vận, các đoàn thể tăng cường hướng về
cơ sở. Nhiều phong trào thi đua, nhiều quy định và chính sách của doanh
nghiệp, cơ quan, đơn vị trong Khối đã phát huy được sức mạnh tổng hợp của
tập thể và trở thành phong trào sâu rộng... Qua thực hiện các phong trào, đời
sống vật chất và tinh thần của người lao động từng bước được cải thiện, vai
trò lãnh đạo, quản lý của đảng ủy, doanh nghiệp, cơ quan, đơn vị trong Khối
ngày càng được tin tưởng, ghi nhận và đánh giá cao. Công tác đối ngoại
được quan tâm, tăng cường công tác giao lưu, trao đổi, học tập kinh
nghiệm giữa các tổ chức cơ sở Đảng trong Đảng bộ Khối và các doanh
nghiệp, cơ quan, đơn vị trong Khối .
Thứ tư, thử nghiệm các phương pháp mới, cách làm mới. Thường
xuyên rút kinh nghiệm trong quá trình chỉ đạo. Trong công việc, kết hợp
nguyên tắc xây dựng đảng một cách mềm dẻo trong quản lý, đặc biệt là
nguyên tắc dân chủ. Vận dụng các chủ trương của Đảng theo hướng có lợi
cho người lao động, phù hợp với đặc điểm tình hình doanh nghiệp, cơ quan,
đơn vị trong Khối. Kiên quyết đấu tranh chống lại các biểu hiện sai trái, cục
bộ, quan liêu trong lãnh đạo.
Thực hiện hiệu quả công tác dân vận của Đảng, công tác dân vận trong
doanh nghiệp nhà nước, cơ quan, đơn vị trong Khối, trong quá trình lãnh đạo
100

cách mạng, Đảng ta luôn xác định công tác dân vận là nhiệm vụ có ý nghĩa
chiến lược đối với sự nghiệp cách mạng của nước ta; coi đây là điều kiện
quan trọng bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, để củng cố và tăng cường mối
quan hệ máu thịt giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân.
Hội nghị Trung ương 7 khóa XI đã ban hành Nghị quyết “Về tăng cường
và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình
mới”. Đây là một nghị quyết có giá trị lịch sử, mang ý nghĩa sâu sắc và toàn
diện về sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận. Để thực hiện Nghị
quyết này cũng như công tác dân vận tạo đảng bộ các doanh nghiệp nhà nước,
cơ quan, đơn vị trong Khối, cần tập trung thực hiện tốt các nội dung sau:
Thứ nhất, nhận thức đúng, thống nhất về công tác dân vận. Đổi mới
nhận thức của các cấp ủy, các tổ chức trong hệ thống chính trị, của cán bộ,
đảng viên, người lao động về vị trí, vai trò của công tác dân vận và trách
nhiệm của từng tổ chức, từng người lao động trong công tác dân vận của thời
kỳ mới. Đây là vấn đề có ý nghĩa xuyên suốt trong quá trình tổ chức thực hiện
nghị quyết Đảng. Công tác dân vận là một bộ phận trong công tác xây dựng
Đảng bộ Khối Doanh nghiệp Trung ương trong sạch - vững mạnh.
Vì vậy, cần đổi mới nhận thức, ý thức trách nhiệm của các tổ chức
trong hệ thống chính trị về công tác dân vận. Trước hết, đổi mới về nhận thức
và trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy Đảng ủy Khối. Đổi mới nhận thức
phải được thể hiện ngay từ khi tổ chức nghiên cứu, quán triệt, tuyên truyền,
giáo dục và phổ biến nghị quyết. Làm cho mỗi cán bộ, đảng viên, người lao
động thấy rõ vị trí, vai trò của tập thể; nắm vững, nhất trí với mục tiêu, quan
điểm, nhiệm vụ công tác dân vận trong tình hình mới.
Tuyên truyền, quán triệt nghị quyết làm chuyển biến nhận thức sâu sắc
hơn về mối quan hệ máu thịt giữa cấp ủy Đảng với người lao động trong tình
101

hình mới. Mục đích của Đảng là vì dân tộc, vì hạnh phúc của người lao động;
ngoài lợi ích của tập thể, của dân tộc, Đảng ta không mưu cầu lợi ích nào khác.
Quán triệt và tổ chức thực hiện nghị quyết phải làm chuyển biến từ nhận
thức và hành động của mỗi cán bộ, đảng viên; trước hết là người lãnh đạo, người
có chức, có quyền để làm gương và nêu gương. Kiên quyết chống quan liêu, vi
phạm quyền làm chủ của người lao động, tham nhũng, lãng phí; ngăn chặn suy
thoái về đạo đức, lối sống, những tiêu cực và các tệ nạn xã hội, củng cố vững
chắc lòng tin của người lao động đối với các cấp ủy Đảng.
Thứ hai, đổi mới nội dung, phương pháp lãnh đạo của Đảng ủy Khối
đối với công tác dân vận trong tình hình mới, đưa nội dung công tác dân vận
vào chương trình công tác hàng năm của đáng bộ. Đồng thời, đổi mới nội
dung lãnh đạo ngay từ khâu ra nghị quyết; ban hành chủ trương, chính sách
phải thuận với lòng dân, đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng của người lao động.
Thường xuyên quan tâm chỉ đạo và tổ chức thực hiện nghiêm túc quy trình
lấy ý kiến của tập thể tham gia góp ý vào các đề án, chương trình kinh tế, xã
hội trước khi cơ quan có thẩm quyền ký ban hành.
Đảng bộ Khối, chi bộ và mỗi đảng viên phải làm tốt trách nhiệm về công
tác dân vận của mình với vai trò là chủ thể tổ chức quán triệt và triển khai thực
hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 khóa XI về công tác dân vận;
Coi trọng công tác kiểm tra, sơ kết, tổng kết việc tổ chức thực hiện nghị
quyết về công tác dân vận trong các cơ quan Đảng bộ Khối. Kiểm tra, đánh
giá việc xây dựng và thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở; công khai các quy
trình, các chế độ, chính sách đối với người lao động.
Quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi để phát huy vai trò của ban dân vận,
các đoàn thể trong thực hiện tốt các chủ trương, nghị quyết, kêt luận, các
chương trình kinh tế, xã hội của Đảng bộ khối; vai trò là người đại diện, bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động.
102

Thứ ba, quan tâm củng cố bộ máy tổ chức và chính sách cán bộ, bảo
đảm đội ngũ cán bộ dân vận đủ năng lực, trình độ và kỹ năng làm công tác
dân vận trong tình hình mới. Coi trọng định hướng cho ban dân vận và các
đoàn thể trong tập hợp, vận động các tổ chức thành viên, hội viên chấp hành
tốt chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, thực
hiện các chương trình, các chủ trương, nghị quyết, kêt luận, các chương trình
kinh tế, xã hội của Đảng bộ khối; Ra sức phát triển sản xuất, kinh doanh, thi
đua tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng tham góp ý kiến cho đảng,
các doanh nghiệp nhà nước, cơ quan, đơn vị trong Khối.
Tăng cường và đẩy mạnh sự phối hợp hoạt động giữa các lực lượng
quần chúng trên địa bàn doanh nghiệp; phát huy vai trò của công tác dân vận,
các tổ chức, các cá nhân có uy tín, các cá nhân có kinh nghiệm trong tham
góp các ý kiến giải quyết các vấn đề phát sinh trong lao động sản xuất, trong
các quyết sách của các cấp ủy đảng, đảm bảo đúng định hướng và phù hợp
với thực tiễn.

Tiểu kết chương 3

Trên cơ sở lý luận và thực trạng năng lực lãnh đạo của Đảng ủy khối
Doanh nghiệp Trung ương trong giai đoạn hiện nay, cần thiết phải có
những phương hướng, nhiệm vụ nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo của
Đảng ủy Khối trong thời gian tới, đồng thời, đưa ra các nhóm giải pháp để
nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng ủy Khối các cơ quan trung ương. Về
cơ bản, tập trung vào 7 nhóm giải pháp cụ thể nhằm giải quyết được những
vấn đề đặt ra trong việc nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng ủy Khối
Doanh nghiệp Trung ương.
Thực tế, việc nâng cao năng lực của Đảng ủy Khối Doanh nghiệp
Trung ương phải được thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp, đồng thời đòi hỏi
103

các cấp, các ngành, các thành viên trong hệ thống chính trị cùng tham gia
thực hiện. Bên cạnh đó, chất lượng hoạt động của Đảng ủy Khối Doanh
nghiệp Trung ương không chỉ đánh giá trên các chỉ tiêu kinh tế - xã hội đơn
thuần mà còn ở mức độ tin tưởng, uy tín của lãnh đạo trong con mắt của các
tầng lớp nhân dân, người lao động. Thông qua đó, các chủ trương chính sách
của Đảng và nhà nước luôn có tính hai chiều, được thẩm định trong đời sống
xã hội của cộng đồng về tính đúng đắn và ý nghĩa chiến lược của sự lãnh đạo.
104

KẾT LUẬN

Như vậy, qua khảo sát nghiên cứu về Đảng ủy Khối Doanh nghiệp
Trung ương, ta thấy được tầm quan trọng của các cấp ủy đảng trong quá trình
xây dựng và phát triển Khối Doanh nghiệp Trung ương. Đây là nền tảng kinh
tế của đất nước, là hạt nhân kinh tế, giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, có vị trí đặc biệt quan trọng trong hệ
thống tổ chức của Đảng. Vì vậy coi trọng và nâng cao năng lực lãnh đạo của
Đảng ủy Khối Doanh nghiệp Trung ương là nội dung cần thiết, là vấn đề có
tính quy luật, tất yếu trong xây dựng Đảng nói chung, đổi mới và chỉnh đốn
Đảng, tăng cường sức mạnh và uy tín của Đảng trong đời sống xã hội.
Đất nước ta đang vận hành nên kinh tế theo cơ chế thị trường, định
hướng xã hội chủ nghĩa, điều này ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng lãnh đạo
của các tổ chức Đảng, đặc biệt trong đó có Đảng ủy Khối Doanh nghiệp
Trung ương. Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng ủy Khối Doanh nghiệp
Trung ương nhằm phát huy vai trò lãnh đạo của các đảng bộ trong khối ngang
tầm với nhiệm vụ cách mạng hiện nay. Có như vậy, các Đảng bộ Khối mới
thực sự phát huy được vai trò, vị trí lãnh đạo của tổ chức đối với sự tồn tại,
phát triển của các doanh nghiệp, cơ quan, đơn vị trong khối; thực hiện đầy đủ,
có hiệu quả chức năng nhiệm vụ chính trị của đảng bộ, đảm bảo sự lãnh đạo
toàn diện, mọi mặt của Đảng với các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa xã
hội, quốc phòng, an ninh…
Trước sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, không chỉ
trông chờ vào sự giúp đỡ của Đảng và Nhà nước mà các doanh nghiệp phải
biết phát huy tối đa nội lực, lợi thế và sức mạnh của mình, tranh thủ ngoại lực
từ bên ngoài. Từ những yêu cầu đòi hỏi đó phải nâng cao năng lực lãnh đạo
cho Đảng ủy Khối Doanh nghiệp Trung ương là hết sức quan trọng, cấp thiết.
Đảng ủy Khối Doanh nghiệp Trung ương cần tích cực đổi mới, chỉnh đốn đi
105

vào chiều sâu, xây dựng hệ thống chặt chẽ, nâng cao chất lượng cả về lý luận
chính trị, tư tưởng đạo đức, trình độ chuyên môn nghiệp vụ về mọi mặt trong
đó có cả quản trị doanh nghiệp; không ngừng nâng cao năng lực toàn diện cho
cán bộ, đảng viên. Phát huy tinh thần đấu tranh tự phê bình và phê bình nhưng
vẫn bảo đảm nguyên tắc trong sinh hoạt Đảng, không vi phạm những điều
Đảng viên không được làm.
Hơn bao giờ hết, thời kỳ lịch sử mới cần phải có một đội ngũ cán bộ
đặc biệt là đội ngũ Đảng uỷ Khối Doanh nghiệp Trung ương phải có đầy đủ
năng lực phẩm chất đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp cách mạng. Người
lãnh đạo cấp ủy Đảng uỷ Khối Doanh nghiệp Trung ương phải luôn cập nhật
trình độ chính trị, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và trau dồi các phẩm chất,
năng lực khác đáp ứng tình hình và yêu cầu chung.
Trong những năm vừa qua, Đảng uỷ Khối Doanh nghiệp Trung ương
đã có nhiều cố gắng đạt được những thành tích đáng kể. Song, vẫn chưa đáp
ứng được những đòi hỏi khách quan của sự nghiệp cách mạng trong giai đoạn
mới đang đặt ra.
Để nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý cho Đảng uỷ Khối Doanh nghiệp
Trung ương cần phải có những giải pháp toàn diện, đồng bộ với sự phối hợp có
hiệu quả của các cấp, các ngành. Với khả năng và thời gian có hạn qua cơ sở lý
luận và thực trạng đề tài đã đề xuất các giải pháp cơ bản nhằm nâng cao năng lực
lãnh đạo của Đảng uỷ Khối Doanh nghiệp Trung ương. Nếu những giải pháp đã
nêu được thực hiện sẽ góp phần nâng cao năng lực, phẩm chất cho đội ngũ Đảng
uỷ Khối Doanh nghiệp Trung ương. Góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Cùng với cả nước thực hiện thắng lợi
nhiệm vụ xây dựng thành công và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN,
tiến tới mục tiêu một nước Việt Nam XHCN: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh.
106

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Phạm Hoàng Anh (2011), Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo, vấn đề
sống còn của Đảng ta, Tạp chí Xây dựng Đảng, số 4.
2. Nguyễn Đức Ái (2001), Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
TCCSĐ nông thôn vùng cao phía Bắc trong thời kỳ đẩy mạnh CNH,
HĐH đất nước, Luận văn Tiến sĩ Xây dựng Đảng, Hà Nội.
3. Nguyễn Văn Ba (2002), Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
TCCSĐ xã, thị trấn ở Huyện Giao Lộc - Tỉnh Hải Dương trong giai
đoạn hiện nay, Luận văn tốt nghiệp Đại học chính trị, Hải Dương.
4. Báo cáo của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa X về các văn kiện tại
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng (2011)
5. Báo cáo kết quả thực hiện các nhiệm vụ chính trị của Đảng ủy Khối
Doanh nghiệp Trung ương giai đoạn 2010 - 2014 (2015)
6. Ban Tổ chức Thành ủy Hà Nội (1997), Nâng cao năng lực lãnh đạo của
TCCSĐ trong doanh nghiệp Nhà nước, Nxb CTQG, Hà Nội.
7. Bộ Tài chính (BC số 262 /BC-CP ngày 23/11/2011), Báo cáo thực trạng
hoạt động của tập đoàn, tổng công ty nhà nước giai đoạn 2006 -2010
và phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp giai đoạn 2011 - 2015, Hà Nội.
8. Hoàng Chí Bảo (2007), Bản chất của Đảng cộng sản cầm quyền và vấn đề
xây dựng, chỉnh đốn Đảng ở nước ta hiện nay, Nxb CTQG, Hà Nội.
9. Hoàng Chí Bảo (2004), Tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cộng sản
cầm quyền và vận dụng tư tưởng đó vào công tác xây dựng Đảng hiện
nay, Hà Nội.
10. Hoàng Chí Bảo (2005), Đổi mới hệ thống chính trị với xây dựng và chỉnh đốn

Đảng ở nước ta hiện nay - những vấn đề lý luận và thực tiễn, Hà Nội.
11. Chu Văn Cấp (2010), Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động, phát
triển tập đoàn kinh tế ở Việt Nam, Hà Nội.
107

12. Công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật trong Đảng (2007), Nxb
Lao động - xã hội, Hà Nội.
13. Nguyễn Hồng Dân (2001), Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của TCCSĐ Bệnh viện Nguyễn Trãi - Tp HCM trong giai đoạn hiện
nay, Luận văn tốt nghiệp Đại học Chính trị, Tp. HCM.
14. Ngô Văn Dụ - Hồng Hà - Trần Xuân Giá (2006), Tìm hiểu một số thuật
ngữ trong văn kiện Đại hội X của Đảng, Nxb CTQG, Hà Nội.
15. Phạm Việt Dũng (2011), Nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước bảo
đảm vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, Tạp chí cộng sản, số 824.
16. Phạm Việt Dũng (2011), Tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, Tạp chí cộng
sản số 830.
17. Nguyễn Văn Dũng (2011), Vai trò của tập đoàn, tổng công ty nhà nước Việt
Nam trong đầu tư phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số và
miền núi, Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Thực trạng hoạt động của các Tập
đoàn KTNN ở Việt Nam và định hướng phát triển”, Hà Nội.
18. Nguyễn Văn Dũng (2000), Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của TCCSĐ nông thôn tỉnh Long An hiện nay, Long An.
19. Bùi Hữu Dược (2003), Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của TCCSĐ
nông thôn vùng đồng bào công giáo ở tỉnh Nam Định trong giai đoạn
hiện nay - Thực trạng và giải pháp, Nam Định.
20. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận -
thực tiễn qua 20 năm đổi mới (1986-2006), Nxb CTQG, Hà Nội.
21. Đảng ủy Khối Doanh nghiệp Trung ương (2012), Báo cáo kết quả 3 năm
thực hiện Quy định số 287, 288/QĐ-TW ngày 08/2/2010 của Ban Bí thư.
22. Đảng ủy Khối Doanh nghiệp Trung ương (2012), Báo cáo chuyên đề tiếp tục đổi
mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của tập đoàn, tổng công ty, ngân hàng
trong Khối doanh nghiệp Trung ương góp phần đảm bảo vai trò chủ đạo của
nền kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa.
108

23. Đảng ủy Khối Doanh nghiệp tỉnh Hải Dương (2011), Đề án nâng cao năng lực
lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng ủy Khối Doanh nghiệp tỉnh Hải Dương.
24. Đảng ủy Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam (17/01/2012), Báo cáo kết
quả công tác năm 2011, phương hướng nhiệm vụ năm 2012, Hà Nội.
25. Đảng ủy Khối DNTW (01/02/2012), Báo cáo sơ kết 3 năm thực hiện Kết
luận 37-KL/TW Hội nghị TW9 (KX) về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện
Chiến lược cán bộ từ nay đến năm 2020, Hà Nội
26. Đảng ủy Khối DNTW (2010), Nâng cao chất lượng công tác kiểm tra,
giám sát ở Đảng bộ Khối Doanh nghiệp Trung ương, Hà Nội.
27. Đảng ủy Khối DNTW (2012), Các chỉ tiêu kinh tế 6 tháng đầu năm 2012
khối tập đoàn, tổng công ty, Hà Nội.
28. Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Nxb CTQG - ST, Hà Nội.
29. Đặng Trọng Khánh (2012), Một khâu quan trọng nâng cao hiệu quả lãnh
đạo của Đảng,Tạp chí Xây dựng Đảng, số 5, t46-48.
30. Nguyễn Đức Hà (2010), Một số vấn đề xây dựng tổ chức cơ sở đảng hiện

nay, Nxb CTQG, Hà Nội.


31. Dương Phú Hiệp (2011), Quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị
là mối quan hệ cơ bản, cốt lõi, Tạp chí cộng sản số 824.
32. Hồ sơ sự kiện số 237 (Chuyên san của Tạp chí cộng sản) (9/2012), chuyên
đề Tập đoàn kinh tế.
33. Trần Đình Huỳnh, Mạch Quang Thắng (1993), Tư tưởng Hồ Chí Minh về

Đảng của chúng ta, Nxb Lao Động, Hà Nội.


34. Võ Đức Huy (2010), Tăng cường vai trò và đổi mới phương thức lãnh đạo
của Đảng đối với Tập đoàn, Tổng công ty Nhà nước, Kỷ yếu Hội thảo
khoa học “Lý luận và phương pháp luận nghiên cứu về mô hình Tập
đoàn KTNN ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới”, Hà Nội.
109

35. Đoàn Thị Lệ Huyền (2011), Xây dựng đội ngũ cán bộ trong điều kiện phát
triển kinh tế thị trường định hướng XHCN, Tạp chí Xây dựng Đảng, số
8, t45-47.
36. Nguyễn Thế Hưởng (2011), Mô hình và cơ chế giám sát các tập đoàn kinh
tế nhà nước ở Việt Nam hiện nay, Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Thực
trạng hoạt động của các Tập đoàn KTNN ở Việt Nam và định hướng
phát triển”, Hà Nội.
37. Đỗ Tiến Khang (2011), Về mô hình tổ chức đảng trong các Tập đoàn kinh
tế, tổng công ty nhà nước, Tạp chí Xây dựng Đảng số 6.
38. Nguyễn Xuân Kiên (2011), Đổi mới tư duy chiến lược và phương thức
điều hành, quản lý nhằm nâng cao sức cạnh tranh của các tập đoàn
kinh tế nhà nước trong bối cảnh suy thoái kinh tế toàn cầu, Kỷ yếu Hội
thảo khoa học “Thực trạng hoạt động của các Tập đoàn KTNN ở Việt
Nam và định hướng phát triển”, Hà Nội.
39. Chu Xuân Lai (04/01/2012), Vai trò của TCCSĐ trong doanh nghiệp,
Website: http://doanhnghieptrunguong.vn
40. Bùi Đức Lại (2012), Vai trò của bí thư cấp ủy trong công tác cán bộ, Tạp
chí Xây dựng Đảng, số 3, t48-50.
41. V.I.Lênin (2006), Toàn tập, tập 41, Nxb CTQG, Hà Nội.
42. Anh Minh (2011), Nâng cao năng lực lãnh đạo, hiệu quả hoạt động của
tổ chức đảng trong các loại hình doanh nghiệp, Tạp chí Xây dựng
Đảng số 9.
43. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 5, Nxb CTQG, Hà Nội.
44. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 8, Nxb CTQG, Hà Nội.
45. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 11, Nxb CTQG, Hà Nội.
46. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 12, Nxb CTQG, Hà Nội.
47. Hoàng Văn Nam (2003), Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
các đảng bộ phường ở thành phố Hạ Long hiện nay, Quảng Ninh.
48. Nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở đảng và đảng viên (2006), Tạp chí Xây
dựng Đảng.
110

49. Nâng cao sức cạnh tranh của tập đoàn kinh tế nhà nước (2011), Tạp chí
cộng sản số 827.
50. Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương 6 (khóa X) (2008), Nxb
CTQG, Hà Nội.
51. Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương 3 (khóa IX) (2003), Nxb
CTQG, Hà Nội.
52. Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương 4 (khóa XI) (2012), Nxb
CTQG-ST, Hà Nội.
53. Đỗ Ngọc Ninh (1995), Nâng cao chất lượng TCCSĐ nông thôn (cấp xóm)
vùng đồng bằng sông Hồng, Hà Nội.
54. Nguyễn Ngọc (2001), Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
TCCSĐ của các chi bộ phân đội chiến đấu phòng không thuộc Quân
chủng phòng không - không quân trong giai đọan hiện nay, Hà Nội.
55. Trần Đình Nghiêm (2002), Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, Nxb

CTQG, Hà Nội.


56. Đỗ Tuấn Nghĩa (2011), Giải pháp nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở
đảng, đảng viên trong các tập đoàn, tổng công ty nhà nước, Tạp chí
Xây dựng Đảng số 7.
57. Đỗ Tuấn Nghĩa (2011), Nâng cao chất lượng sinh hoạt Chi bộ trong doanh
nghiệp, Tạp chí Xây dựng Đảng số 11.
58. Đỗ Tuấn Nghĩa (2011), Về thí điểm giao quyền cấp trên cơ sở cho đảng ủy
cơ sở trong các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước, Tạp chí Xây
dựng Đảng.
59. Lê Hữu Nghĩa, Hoàng Chí Bảo, Bùi Đình Bôm (2008), Đổi mới quan hệ giữa

Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội, Nxb CTQG, Hà Nội.
60. Bùi Đình Phong - Phạm Ngọc Anh (2001), Công tác xây dựng Đảng trong

thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, Nxb Lao động, Hà Nội.
111

61. Vũ Văn Phúc (01/7/2011), Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của TCCSĐ, Tạp chí Cộng sản điện tử.
62. Nguyễn Duy Quý chủ biên (2008), Hệ thống chính trị nước ta trong thời
kỳ đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
63. Lâm Nghĩa Sỹ (2011), Về năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng,
Tạp chí Xây dựng Đảng số 7.
64. Lưu Văn Sùng (2011), Đảng cộng sản những vấn đề lý luận và mô hình tổ
chức bộ máy, Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội.
65. Nguyễn Văn Thạo - Nguyễn Viết Thông (đồng chủ biên) (2011), Tìm hiểu
một số thuật ngữ trong văn kiện Đại hội XI của Đảng, Nxb CTQG -
ST, Hà Nội.
66. Trần Đình Thiên - Vũ Thành Tự Anh (2011), Tái cơ cấu kinh tế để đổi mới
mô hình tăng trưởng, Tạp chí cộng sản số 829.
67. Nguyễn Xuân Thắng, Trần Quốc Việt (28/12/2011), Mô hình Tập đoàn kinh
tế - Thực tiễn và giải pháp, Webside TCty XL Dầu khí Nghệ An.
68. Phạm Tất Thắng (2011), Về công tác cán bộ trong các tập đoàn kinh tế ở
Việt Nam.
69. Trần Đình Thắng (2011), Tự phê bình và phê bình trong cán bộ, đảng viên,
Tạp chí Xây dựng Đảng, số 12, t37-39.
70. Trần Xuân Thiện (2010), Xây dựng tổ chức đảng và phát triển đảng viên
trong doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở Vĩnh Long, Tạp chí Xây dựng
Đảng, số 12, t29-30.
71. Nguyễn Phú Trọng (2011), Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát nhằm
nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, Tạp chí cộng
sản số 828.
72. Nguyễn Phú Trọng, Tô Huy Rứa, Trần Khắc Việt (đồng chủ biên) (2004),
Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng trong thời kỳ
mới, Nxb CTQG, Hà Nội.
112

73. Nguyễn Hữu Tri, TS Nguyễn Thị Phương Hồng (2004), Một số vấn đề đổi
mới tổ chức bộ máy Đảng cộng sản Việt Nam, Nxb CTQG, Hà Nội.
74. Ngô Văn Thạo (2010), Phát huy tính tự giác, tích cực của đội ngũ đảng
viên trong phòng, chống suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống,
Tạp chí Cộng sản, số 813, 50-54.
75. Minh Tuấn (2011), Để doanh nghiệp phát triển bền vững,Tạp chí Xây
dựng Đảng, số 1+2, t47-50.
76. Trương Thị Mỹ Trang (2011), Quảng Ngãi nâng cao chất lượng sinh hoạt
chi bộ trong doanh nghiệp Nhà nước, Tạp chí Xây dựng Đảng, số 11,
t30-32.
77. Phùng Đức Thái (2000), Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
TCCSĐ ở xã thuộc tỉnh Tây Ninh hiện nay, Tp. HCM.
78. Tập bài giảng Xây dựng Đảng (2007), Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
79. Tạp chí Báo cáo viên (9/2012), Tái cấu trúc tập đoàn kinh tế nhà nước ở
Việt Nam: thực trạng và giải pháp.
80. Tìm hiểu một số thuật ngữ trong Văn kiện Đại hội X của Đảng (2006), Nxb
CTQG, Hà Nội.
81. V.I. Lê-nin toàn tập, tập 44, Nxb TB. M 1978.
82. Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ VI (1986), Nxb Sự thật, Hà Nội.
83. Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ VII (1991), Nxb Sự thật, Hà Nội.
84. Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ VIII (1996), Nxb Sự thật, Hà Nội.
85. Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ IX (2001), Nxb Sự thật, Hà Nội.
86. Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ X (2006), Nxb Sự thật, Hà Nội.
87. Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ XI (2011), Nxb Sự thật, Hà Nội.
88. Dương Trung Ý (2002), Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
TCCSĐ của các Đảng bộ xã ở huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang trong
giai đoạn hiện nay, Hà Nội.
89. Trương Thị Bạch Yến (2011), Về khâu yếu nhất trong công tác cán bộ,
Tạp chí Xây dựng Đảng, số 9, t12-14.
PHỤ LỤC

Phụ lục số 1
TỔ CHỨC ĐẢNG VÀ ĐẢNG VIÊN CÁC ĐẢNG BỘ TRỰC THUỘC KHỐI DOANH NGHIỆP TRUNG ƯƠNG
Đảng
Tổng số
bộ cơ sở
TCĐ (đầu Chi Kết nạp
được Đảng Đảng Tổng số
mối) trực Chi bộ bộ Đảng viên
Stt Đảng bộ giao bộ cơ bộ bộ Đảng
thuộc cơ sở trực năm
quyền sở phận viên
ĐẢng ủy thuộc 2010 - 2014
cấp trên
TĐ, TCT
cơ sở
1 TĐ Bảo việt 7 0 5 0 6 35 585 223
2 TĐ Bưu chính viễn thông VN 52 2 5 2 13 299 3843 1180
3 TĐ Công nghiệp Cao su VN 35 0 52 0 23 66 1057 314
4 TĐ Công nghiệp than – KS VN 32 0 12 5 11 239 5108 1260
5 TĐ Dầu khí Quốc gia VN 27 11 121 15 57 852 14395 5087
6 TĐ Dệt may VN 23 0 13 5 10 127 1952 519
7 TĐ Điện lực VN 17 1 22 10 3 229 2924 569
8 TĐ Hóa Chất VN 18 0 5 4 6 66 820 247
9 TĐ Xăng dầu VN 39 0 12 7 6 134 1474 317
10 TCT Bưu điện VN 25 0 7 3 4 80 829 60
11 TCT Công nghiệp Tàu thủy 47 3 24 5 25 251 3306 935
12 TCT Công nghiệp Xi măng VN 16 1 13 4 3 172 2574 521
13 TCT Đường sắt VN 66 3 103 14 18 1086 10639 2126
14 TCT Giấy VN 29 0 8 0 7 52 1054 217
15 TCT Hàng hải VN 42 0 9 0 13 33 906 252
16 TCT Hàng không VN 57 0 24 17 14 287 4416 1016
17 TCT Lương thực Miền Bắc 10 0 8 0 2 52 527 108
18 TCT Lương thực Miền Nam 36 0 18 0 18 114 1806 547
19 TCT Phát triển Nhà & Đô thị (HUD) 34 0 7 1 19 60 1234 418
20 TCT Sông Đà 48 0 36 41 12 324 4956 1377
21 TCT Thép VN – CTCP 39 0 11 0 18 68 865 256
22 TCT Thuốc lá VN 22 0 19 1 3 105 1502 334
23 TCT Truyền thông đa phương tiện 9 0 5 0 4 26 510 301
24 TCT Viễn thông MobiFone 28 0 8 0 1 19 881 70
25 Ngân hàng Chính sách Xã hội TW 21 0 1 0 3 47 399 107
26 Ngân hàng NN & PTNT VN 67 0 27 1 13 198 2809 669
27 Ngân hàng Phát triển VN 25 0 3 0 1 21 542 121
28 Ngân hàng TMCP Công thương VN 71 0 30 0 14 200 2875 895
29 Ngân hàng TMCP Đầu tư & PT VN 88 0 31 2 23 172 2885 952
30 Ngân hàng TMCP Ngoại thương VN 29 0 6 0 23 75 1168 427
31 Phòng thương mại & CN VN 25 0 3 0 14 22 373 135
32 Bảo hiểm tiền gửi VN 19 0 0 0 6 13 304 75
33 TCT Cà phê VN 12 0 0 0 0 12 118 22
34 TCT Đầu tư & KD vốn NN 15 0 0 0 0 15 123 30
35 Cơ quan ĐUK Doanh nghiệp TW 7 0 0 1 0 10 87 13
TỔNG CỘNG 1137 21 664 138 393 5561 79846 21700

Nguồn: Báo cáo kết quả thực hiện các nhiệm vụ chính trị của Đảng ủy Khối Doanh nghiệp Trung ương giai đoạn 2010 - 2014
Phụ lục số 2
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU HỌC TẬP CÁC CHỈ THỊ, NGHỊ QUYẾT CỦA ĐẢNG NHIỆM KỲ 2010 – 2015
Số lượt (tỷ lệ) cán bộ, đảng viên tham gia nghiên cứu, Tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc
học tập các chỉ thị, nghị quyết của Đảng (Khóa XI) trong thực hiện Chỉ thị số 03-CT/TW
Stt Đảng bộ Trung ương khen Đảng ủy Khối khen
NQTW4 NQTW5 NQTW6 NQTW7 NQTW8 thưởng thưởng
Tập thể Cá nhân Tập thể Cá nhân
1 TĐ Bảo việt 97% 96% 97% 95% 96% 4 5
2 TĐ Bưu chính viễn thông VN 98% 96% 96% 96% 96% 1 8 8
3 TĐ Công nghiệp Cao su VN 92% 97% 98% 97% 1 4 6
4 TĐ Công nghiệp than – KS VN 98% 98.4% 98.5% 97.5% 98.4% 1 7 6
5 TĐ Dầu khí Quốc gia VN 98% 99% 98.5% 1 9 12
6 TĐ Dệt may VN 100% 98% 99.5% 95% 98% 9 10
7 TĐ Điện lực VN 90% 3 4
8 TĐ Hóa Chất VN 95% 95% 95% 95% 95% 2 2
9 TĐ Xăng dầu VN 94% 96% 91% 93% 97% 3 4
10 Ngân hàng Chính sách Xã hội TW 97% 4 3
11 Ngân hàng TMCP Công thương VN 98% 100% 98.6% 97% 95.5% 10 13
12 Ngân hàng TMCP Đầu tư & PT VN 98% 98.5% 98% 98.6% 98% 5 2
13 Ngân hàng TMCP Ngoại thương VN 98% 5 5
14 Ngân hàng NN & PTNT VN9898 98% 98% 98% 3 3
15 Ngân hàng Phát triển VN 95% 98% 98% 97.5% 98% 1
16 Bảo hiểm tiền gửi VN 97% 96% 96% 96% 96% 1
17 TCT Bưu điện VN
18 TCT Cà phê VN 97.8% 94.3% 98.5% 97% 97.5% 1 2
19 TCT Công nghiệp Tàu thủy 92% 93% 91% 89% 95%
20 TCT Phát triển Nhà & Đô thị (HUD) 95% 100% 3 6
21 TCT Đầu tư & KD vốn NN 97% 1 1
22 TCT Đường sắt VN 94% 96% 98% 98% 98% 1 4 4
23 TCT Giấy VN 96.3% 96% 96.5% 97%
24 TCT Hàng hải VN 95% 97% 98% 98% 97%
25 TCT Hàng không VN 97% 89% 92% 92.5% 97.5% 4 4
26 TCT Lương thực Miền Bắc 98% 1 2
27 TCT Lương thực Miền Nam 97% 98% 98% 97% 97.2% 5
28 TCT Sông Đà 95% 94.8% 95.7% 86.6% 98.5% 6 7
29 TCT Thuốc lá VN 99.3% >98% 98% 6 6
30 TCT Thép VN – CTCP 98.4% 94.27% 98.5% 3 3
31 TCT Truyền thông đa phương tiện 93% 94.5% 96.74% 97% 91.4% 1 2
32 TCT Công nghiệp Xi măng VN 96% 94% 93% 96% 94% 2 4 4 9
33 TCT Viễn thông MobiFone 98% 97% 96% 96% 97%
34 Phòng thương mại & CN VN 96% 94% 97% 92% 96% 2 3
35 Cơ quan ĐUK Doanh nghiệp TW 100% 100% 92.2% 100% 100%
Cộng (Tỷ lệ chung): 95.7% 97% 96.58% 97.2% 97.1% 5 9 114 137

Nguồn: Báo cáo kết quả thực hiện các nhiệm vụ chính trị của Đảng ủy Khối Doanh nghiệp Trung ương giai đoạn 2010 – 2014
Phụ lục số 3
PHÂN TÍCH CHẤT LƯỢNG BAN CHẤP HÀNH CÁC ĐẢNG BỘ TẬP ĐOÀN, TỔNG CÔNG TY, NGÂN HÀNG, ĐƠN VỊ
NHIỆM KỲ 2010 – 2015
Số Số Số PBT BT Cán Cán Trình độ chuyên môn Trình độ lý luận CT
UV UV PBT chuyên cấp ủy bộ bộ Tiến Thạc ĐH CĐ CN, TC SC
Stt Đảng bộ BCH BTV trách chuyên đoàn sĩ sĩ CC
trách thể
đảng
1 TĐ Bảo việt 18 4 1 1 CT 1 2 1 11 6 0 13 5 0
2 TĐ Bưu chính viễn thông VN 33 11 2 1 CT 2 2 3 22 8 0 31 1 1
3 TĐ Công nghiệp Cao su VN 25 7 2 0 TGĐ 1 2 2 4 19 0 25 0 0
4 TĐ Công nghiệp than – KS VN 27 7 2 1 CT 3 4 2 2 23 0 27 0 0
5 TĐ Dầu khí Quốc gia VN 44 14 2 1 CT 4 3 12 19 13 0 41 3 0
6 TĐ Dệt may VN 22 7 2 0 CT 0 2 5 9 8 0 17 5 0
7 TĐ Điện lực VN 29 9 2 1 CT 2 1 2 18 9 0 26 2 1
8 TĐ Hóa Chất VN 21 6 2 1 CT 2 2 1 9 11 0 20 1 0
9 TĐ Xăng dầu VN 27 9 2 1 CT 1 2 2 8 17 0 25 2 0
10 Ngân hàng Chính sách Xã hội TW 20 6 1 0 TGĐ 1 1 0 14 6 0 17 3 0
11 Ngân hàng TMCP Công thương VN 20 6 1 1 CT 2 2 4 11 5 0 14 6 0
12 Ngân hàng TMCP Đầu tư & PT VN 33 11 2 0 CT 2 1 1 20 12 0 26 5 2
13 Ngân hàng TMCP Ngoại thương VN 21 5 2 1 TGĐ 3 2 1 12 8 0 16 5 0
14 Ngân hàng NN & PTNT VN 19 4 1 1 CT 3 0 10 9 0 0 19 0 0
15 Ngân hàng Phát triển VN 23 7 2 0 CT 2 3 5 11 7 0 22 1 0
16 Bảo hiểm tiền gửi VN 11 3 0 0 CT 1 0 3 8 0 0 9 2 0
17 TCT Bưu điện VN 23 8 2 0 CT 1 2 0 10 13 0 16 5 2
18 TCT Cà phê VN 16 5 2 0 CT 1 1 1 1 14 0 10 5 1
19 TCT Công nghiệp Tàu thủy 32 10 2 0 CT 3 2 1 7 24 0 29 1 2
20 TCT Phát triển Nhà & Đô thị (HUD) 20 7 2 1 CT 2 1 0 10 10 0 17 3 0
21 TCT Đầu tư & KD vốn NN 9 3 1 0 TGĐ 1 0 0 8 1 0 8 1 0
22 TCT Đường sắt VN 38 12 2 1 CT 4 2 1 13 24 0 38 0 0
23 TCT Giấy VN 28 8 2 1 CT 3 3 1 10 17 0 27 0 1
24 TCT Hàng hải VN 26 8 1 0 CT 2 2 2 6 18 0 25 1 0
25 TCT Hàng không VN 33 10 1 0 CT 1 1 8 14 11 0 33 0 0
26 TCT Lương thực Miền Bắc 20 7 2 0 TGĐ 2 2 1 6 13 0 15 5 0
27 TCT Lương thực Miền Nam 24 8 2 0 CT 3 2 0 2 22 0 22 2 0
28 TCT Sông Đà 31 8 1 0 CT 2 1 0 18 13 0 24 1 6
29 TCT Thuốc lá VN 31 9 2 0 CT 1 0 2 14 15 0 24 4 3
30 TCT Thép VN – CTCP 28 6 1 0 CT 2 1 0 5 23 0 23 3 2
31 UV
TCT Truyền thông đa phương tiện 18 7 2 0 1 2 1 3 14 0 13 2 3
HĐTV
32 TCT Công nghiệp Xi măng VN 27 8 1 0 CT 2 2 1 3 23 0 24 2 1
33 TCT Viễn thông MobiFone 33 11 2 1 CT 2 2 3 22 8 0 31 1 1
34 Phòng thương mại & CN VN 20 6 0 0 CT 1 2 4 5 11 0 18 2 0
35 PBT
Cơ quan ĐUK Doanh nghiệp TW 12 3 1 0 0 0 1 5 6 0 12 0 0
ĐUK
26 BT
đồng
829 249 53 13 62 55 78 327 424 0 726 78 25
thời là
CT
Phụ lục số 4
KẾT QUẢ ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
NHIỆM KỲ 2010 – 2015
Cao Cấp ủy Chuyên
Đảng Nhận
cấp, và xây đề TT
TT Đảng bộ viên dự thức về
trung dựng Hồ Chí
bị Đảng
cấp Đảng Minh
1 TĐ Bảo việt 14 97 90 169 524
2 TĐ Bưu chính viễn thông VN 312 295 14,950 1,388 2,633
3 TĐ Công nghiệp Cao su VN 49 592 17,465 1,197 2,367
4 TĐ Công nghiệp than – KS VN 670 4,566 43,200 1,958 3,275
5 TĐ Dầu khí Quốc gia VN 780 756 90,000 1,992 4,555
6 TĐ Dệt may VN 21 587 12,450 1,015 2,225
7 TĐ Điện lực VN 55 126 686 284 598
8 TĐ Hóa Chất VN 31 220 2,850 189 377
9 TĐ Xăng dầu VN 41 600 5,000 450 650
10 Ngân hàng Chính sách Xã hội TW 7 22 1,926 88 74
11 Ngân hàng TMCP Công thương VN 75 630 31,000 1,050 1,703
12 Ngân hàng TMCP Đầu tư & PT VN 77 586 6,637 891 1,796
13 Ngân hàng TMCP Ngoại thương VN 35 615 7,100 424 718
14 Ngân hàng NN & PTNT VN 55 572 2,480 628 746
15 Ngân hàng Phát triển VN 40 189 2,719 186 269
16 Bảo hiểm tiền gửi VN 8 221 570 92 122
17 TCT Bưu điện VN 4 196 595 147 257
18 TCT Cà phê VN 45 56 145 32 85
19 TCT Công nghiệp Tàu thủy 152 709 7,758 896 1,582
20 TCT Phát triển Nhà & Đô thị (HUD) 17 391 3,326 383 443
21 TCT Đầu tư & KD vốn NN 9 31 529 28 71
22 TCT Đường sắt VN 175 455 31,810 1,807 4,039
23 TCT Giấy VN 54 594 815 180 270
24 TCT Hàng hải VN 49 24 800 200 310
25 TCT Hàng không VN 60 2,590 9,439 1,292 2,350
26 TCT Lương thực Miền Bắc 17 396 2,167 415 737
27 TCT Lương thực Miền Nam 37 112 2,657 522 563
28 TCT Sông Đà 118 656 9,202 978 1,793
29 TCT Thuốc lá VN 32 298 42,000 226 484
30 TCT Thép VN – CTCP 36 327 2,970 288 384
31 TCT Truyền thông đa phương tiện 33 215 900 607 967
32 TCT Công nghiệp Xi măng VN 49 250 3,892 350 420
33 TCT Viễn thông MobiFone 21 5,394 286 638
34 Phòng thương mại & CN VN 48 92 0 147 194
35 Cơ quan ĐUK Doanh nghiệp TW 10 65 305 12 19
Tổng cộng 3,215 18,131 357,193 20,511 37,600

Nguồn: Báo cáo kết quả thực hiện các nhiệm vụ chính trị của Đảng ủy
Khối Doanh nghiệp Trung ương giai đoạn 2010 – 2014
Phụ lục số 5
KẾT QUẢ ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CHUYÊN MÔN
NHIỆM KỲ 2010 – 2015
Đại
Trên Ng.vụ Ng.vụ
học, Ngoại Tin
TT Các đơn vị đại quản chuyên
cao ngũ học
học lý môn
đẳng
1 TĐ Bảo việt 128 499
2 TĐ Bưu chính viễn thông VN 260 3.270 6.094 116.269
3 TĐ Công nghiệp Cao su VN 15 5 35 30
4 TĐ Công nghiệp than – KS VN 65 234 1.091 717 59
5 TĐ Dầu khí Quốc gia VN 388 1.091 11.812 3.172 7.531
6 TĐ Dệt may VN
7 TĐ Điện lực VN 521 3.859 481 1.257
8 TĐ Hóa Chất VN 24 14 41 276 53
9 TĐ Xăng dầu VN 8 25 845
10 Ngân hàng Chính sách Xã hội TW 637 1552
11 Ngân hàng TMCP Công thương VN 2.093 72.494 742 610
12 Ngân hàng TMCP Đầu tư & PT VN 2.159 34.486 397
13 Ngân hàng TMCP Ngoại thương VN 29 493 3.006
14 Ngân hàng NN & PTNT VN 282 553 340 14.996 2006 803
15 Ngân hàng Phát triển VN 158 113 102 2966 53 2
16 Bảo hiểm tiền gửi VN 21 47 1.777 2 21
17 TCT Bưu điện VN 11 18 90 105 30 37
18 TCT Cà phê VN 45 31 251 41 33
19 TCT Công nghiệp Tàu thủy 82 508 2.423 9.058 310 2.074
20 TCT Phát triển Nhà & Đô thị (HUD) 43 137 64 53 392
21 TCT Đầu tư & KD vốn NN 4 16 923 10 1
22 TCT Đường sắt VN 57 322 71 3.112 135 44
23 TCT Giấy VN 56 37 8.075 1.094 179
24 TCT Hàng hải VN 3 717
25 TCT Hàng không VN 997 11.018 58.249 199
26 TCT Lương thực Miền Bắc
27 TCT Lương thực Miền Nam 43 2.448
28 TCT Sông Đà 356 548 230 1434 1070 1352
29 TCT Thuốc lá VN 73 782 311
30 TCT Thép VN – CTCP 10 84 526
31 TCT Truyền thông đa phương tiện 3 27 599 1.171 80
32 TCT Công nghiệp Xi măng VN 18 1.816 1.915
33 TCT Viễn thông MobiFone
34 Phòng thương mại & CN VN
35 Cơ quan ĐUK Doanh nghiệp TW 4 3 48 220
Tổng 2.535 16.799 48.817 329.930 12741 5.568
Nguồn: Báo cáo kết quả thực hiện các nhiệm vụ chính trị của Đảng ủy
Khối Doanh nghiệp Trung ương giai đoạn 2010 – 2014
Phụ lục số 6
KẾT QUẢ ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG
VÀ ĐẢNG VIÊN NHIỆM KỲ 2011 – 2014
2011 2012 2013 2014
CHỈ TIÊU
(Tỷ lệ %) (Tỷ lệ %) (Tỷ lệ %) (Tỷ lệ %)
I. Đánh giá chất lượng tổ chức cơ sở đảng
1. Số tổ chức cơ sở đảng được
100 100 100 100
đánh giá chất lượng
a) Trong sạch, vững mạnh 77.76 70.86 71.76 63.87
Trong đó trong sạch, vững mạnh
28.60 34.71 30.38 29.11
tiêu biểu
b) Hoàn thành tốt nhiệm vụ 11.21 16.37 17.02 25.42
c) Hoàn thành nhiệm vụ 9.30 10.97 9.75 9.66
d) Yếu kém 1.73 1.80 1.47 1.05
2. Số chi bộ trực thuộc đã được
100 100 100 100
đánh giá chất lượng
a) Trong sạch, vững mạnh 81.68 76.31 80.20 64.3
Trong đó trong sạch, vững mạnh
19.82 17.77 19.17 17
tiêu biểu
b) Hoàn thành tốt nhiệm vụ 13.32 17.41 14.36 28.7
c) Hoàn thành nhiệm vụ 4.81 5.90 4.94 6.9
d) Yếu kém 0.19 0.38 0.50 0.1
3. Số đảng bộ đã được đánh giá
100
chất lượng
a) Trong sạch, vững mạnh 77
Trong đó trong sạch, vững mạnh
30.6
tiêu biểu
b) Hoàn thành tốt nhiệm vụ 18
c) Hoàn thành nhiệm vụ 5
d) Yếu kém
II. Đánh giá chất lượng đảng viên
Số đảng viên đã được đánh giá
100 100 100 100
chất lượng
A- Đảng viên hoàn thành xuất sắc
14.28 13.21 13.7 13.71
nhiệm vụ
B- Đảng viên hoàn thành tốt
74.76 74.54 76.00 76.01
nhiệm vụ
C- Đảng viên hoàn thành nhiệm
10.42 11.67 9.77 9.68
vụ
D- Đảng viên không hoàn thành
0.53 0.57 0.52 0.6
nhiệm vụ
Nguồn: Báo cáo kết quả thực hiện các nhiệm vụ chính trị của Đảng ủy
Khối Doanh nghiệp Trung ương giai đoạn 2010 – 2014

You might also like