You are on page 1of 12

Họ và tên: Nguyễn Đức Lê Thành Mã sinhviên: 20CL73402010069

Khoá/Lớp (tín chỉ) : CQ58/06.03LT1 (Niên chế): CQ58/06.03

STT: 20 ID phòng thi: 581 058 3024

Ngày thi: 30/3/2022 Giờ thi: 9h15

BÀI THI MÔN: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Hình thức thi: Tiểu luận

Thời gian thi: 3 ngày

Chủ đề: Vận dụng quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ cán bộ trong
thời kì đầy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước hiện nay

BÀI LÀM
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: Lý luận chung về quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng đội
ngũ cán bộ và công nghiệp hoá, hiện đại hoá ................................................ 1
1.1. Lý luận chung về quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ cán
bộ 1
1.2. Tầm quan trọng của quan điểm Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ cán bộ
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước ................. 3
CHƯƠNG 2: Vận dụng quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ cán
bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước hiện nay
........................................................................................................................... 3
2.1. Thực trạng .............................................................................................. 3
2.1.1. Ưu điểm ........................................................................................... 4
2.1.2. Hạn chế............................................................................................ 5
2.2. Nguyên nhân .......................................................................................... 5
2.2.1. Nguyên nhân của ưu điểm .............................................................. 5
2.2.2. Nguyên nhân của hạn chế ............................................................... 6
2.3. Giải pháp ................................................................................................ 6
KẾT LUẬN ....................................................................................................... 8
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1

MỞ ĐẦU

Chủ tịch Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ vĩ đại, Người đã có công sáng lập, rèn
luyện và lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam hoàn thành nhiệm vụ giải phóng dân
tộc,thống nhất đất nước, đưa đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. “Tư tưởng Hồ Chí
Minh chính là kết quả sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin trong điều kiện
cụ thể của nước ta và trong thực tế tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành một tài sản
tinh thần quý báu của Đảng và của cả dân tộc” [1, tr.459]. Trong đó, tư tưởng Hồ
chí Minh về “xây dựng đội ngũ cán bộ” là một tư tưởng lớn, có giá trị lý luận và
thực tiễn vô cùng quan trọng trong sự nghiệp đổi mới của đất nước.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam đã nêu rõ: Đảng phải
trong sạch, vững mạnh. Trong mọi thời đại, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng
đội ngũ cán bộ luôn được Đảng ta áp dụng trong quản lý nhà nước. Đặc biệt là
trong thời kì công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện nay càng cần phải nêu cao vai trò
của đội ngũ này, giúp nước ta nhanh chóng phát triển nhanh và mạnh.

Trên cơ sở làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và thực tiễn xây dựng đội ngũ
cán bộ trong thời kì đầy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước hiện nay,
tiểu luận đề xuất các giải pháp cơ bản nhằm nâng cao năng lực của đội ngũ này.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, tiểu luận được chia làm hai chương:

Chương 1: Lý luận chung về quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ
cán bộ và công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

Chương 2: Vận dụng quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ cán bộ
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước hiện nay
2

CHƯƠNG 1: Những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về xây
dựng đội ngũ cán bộ và công nghiệp hoá, hiện đại hoá
1.1 Đội ngũ cán bộ, đảng viên
1.1.1 Vị trí vai trò cuả cán bộ, đảng viên
Hồ Chí Minh từng nói: Cán bộ là dây chuyền của bộ máy, là cầu nối giữa
Đảng, Chính phủ với nhân dân. Nhiệm vụ của cán bộ là đem đường lối của Đảng
và Nhà nước giải thích cho nhân dân hiểu để thi hành, thực hiện cho tốt. Cán bộ
là người “đem tình hình, nguyện vọng của dân chúng” báo cáo với Đảng và
Chính phủ để Đảng và Chính phủ đề ra chủ trương, chính sách phù hợp với
nguyện vọng và lợi ích chính đáng của nhân dân. Theo Người: “Có cán bộ tốt
việc gì cũng xong. Muôn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc
kém”. Người còn nhấn mạnh khẳng định vị trí, vai trò quan trọng của đội ngũ
cán bộ. Cán bộ là cái gốc của mọi công việc và là cái gốc của cán bộ chính là đạo
đức cách mạng.
1.1.2 Yêu cầu đối với cán bộ, đảng viên
Yêu cầu chung
Theo Người, phải gắn tài năng với đạo đức, “có tài mà không có đức là
hỏng”; đức phải đi đôi với tài, nếu không có tài thì không thể làm việc được.
Cũng như vậy, Người luôn gắn phẩm chất chính trị với trình độ học vấn, chuyên
môn, nghiệp vụ, trong đó “chính trị là linh hồn, chuyên môn là cái xác”. Hai mặt
đó gắn bó thống nhất trong một con người, tất cả mọi người đều phải luôn trau
dồi đạo đức và tài năng; vừa có đức, vừa có tài; vừa “hồng”, vừa “chuyên”. Mỗi
cán bộ, đảng viên phải cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Thuấn nhuần đạo
đức cách mạng để xứng đáng là cán bộ liêm khiết, tận trung với nước, tận hiếu
với dân.
Yêu cầu cụ thể
Đầu tiên, Cán bộ đảng viên phải tuyệt đối trung thành với Đảng. Phấn đấu
suốt đối cho lợi ích của Đảng. Phải kiên quyết hy sinh lợi ích của cá nhân, thậm
chí là cả cá tính mạng của mình cho lợi ích của Đảng.
3

Thứ hai, Cán bộ đảng viên phải là người nghiêm chỉnh thực hiện cương
lĩnh, đường lối quan điểm, chủ trương, nghị quyết của Đảng và các nguyên tắc
xây dựng Đảng.
Thứ ba, Cán bộ đảng viên phải luôn luôn tu dưỡng, rèn luyện, trau dồi đạo
đức cách mạng, không để cho đạo đức của mình bị suy thoái và phải luôn học
tập và nâng cao trình độ về mọi mặt.
Thứ tư, Cán bộ đảng viên phải có mỗi liên hệ mật thiết với nhân dân.
Theo chủ tịch Hồ Chí Minh, đội cũ cán bộ, đảng viên phải làm đầy tớ thật trung
thành cho nhân dân, phải làm tất cả để tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của
nhân dân.
Thứ năm, Cán bộ đảng viên phải luôn chịu trách nhiệm, năng động, sáng
tạo. Các cán bộ phải luôn năng động, sáng tạo tối đa, không ngừng đưa ra những
ý tưởng mới, những ý kiến đóng góp cho sự phát triển của Đảng và Nhà nước.
Thứ sáu, Cán bộ đảng viên phải là người luôn luôn phòng và chống các
tiêu cực. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rẳng các tiêu cực, đặc biệt là tham ô, lãng
phí, quan liêu là những tên giặc nội xâm, những kẻ địch từ bên trong.
1.2 Tầm quan trọng của quan điểm Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ cán
bộ, đảng viên
Hồ Chí Minh luôn đề cao vai trò của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Hồ Chí
Minh coi cán bộ nói chung "là cái mốc của mọi công việc", có thể thấy được tầm
quan trọng của đội ngũ cán bộ, đảng viên trong quản lý và xây dựng đất nước.
Người từng nói: “Lợi ích của cá nhân gắn liền với lợi ích của tập thể. Nếu lợi ích
cá nhân mâu thuẫn với lợi ích tập thể, thì đạo đức cách mạng đòi hỏi lợi ích riêng
của cá nhân phải phục tùng lợi ích chung của tập thể.” Trong thời kì nước ta
đang thực hiện việc đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, áp dụng
khoa học công nghệ hiệu quả cần có một đội ngũ cán bộ, đảng viên tiên tiến và
xuất sắc để thực hiện sứ mệnh điều này. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng
ngội ngũ cán bộ, đảng viên luôn là cơ sở lý luận phù hợp nhất đề Đảng ta kế
thừa, phát triển sáng tạo, từ đó đưa ra các giải pháp đúng đắn cho công tác cán
bộ, xây dựng một đội ngũ cán bộ, đảng viên thật chất lượng, với trình độ cao,
thái độ tốt, hết lòng vì dân, vì nước.
4

CHƯƠNG 2: Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ
cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước hiện
nay
2.1 Yêu cầu đổi mới về xây dựng đội ngũ cán bộ
Đại hội Đảng lần thứ VI đã đưa ra phương hướng, mục tiêu chủ yếu phát
triển kinh tế, xã hội 5 năm 1986 - 1990, cùng quyết tâm đổi mới công tác lãnh
đạo của Đảng theo tinh thần cách mạng và khoa học. Đến nay, tư duy mới của
Đảng ta: “Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược và
người đứng đầu đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. Xây
dựng, hoàn thiện chính sách thu hút, sử dụng nhân tài; có cơ chế bảo vệ những
cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm,... đồng thời, xử lý nghiêm các
trường hợp vi phạm”.
2.2 Thực trạng
2.2.1 Quan điểm chỉ đạo của Đảng
Trách nhiệm của cán bộ, đảng viên tận dụng mọi thời cơ, tiếp thu những
tác động tích cực từ xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế để tiếp tục đưa nước
ta trở thành một quốc gia phát triển, phồn vinh với một vị thế cao hơn, sánh vai
với các cường quốc năm châu. Có thể kể tới một vài thời cơ như:
Thứ nhất, cán bộ, đảng viên có cơ hội kế thừa, tiếp thu, sử dụng những
thành tựu to lớn của khoa học - công nghệ.
Thứ hai, cán bộ, đảng viên có cơ hội tiếp thu những giá trị tinh hoa của
nhân loại, tiếp tục phát huy những giá trị truyền thống của dân tộc trong xây
dựng con người xã hội chủ nghĩa
Thứ ba, những thành tựu mà Việt Nam đang có được trên con đường hội
nhập quốc tế cũng là những thuận lợi, những tác động tích cực đối với đội ngũ
cán bộ, đảng viên
Cùng với những thời cơ, vận hội trên thì cũng phải nhắc đến những Thách
thức mà cán bộ đảng viên phải đối mặt
Thứ nhất, nguy cơ phai nhạt lý tưởng, đánh mất bản sắc văn hóa, xói mòn
những giá trị truyền thống của dân tộc.
Thứ hai, nguy cơ suy thoái về đạo đức lối sống, tham ô, tham nhũng, lãng
phí.
5

Thứ ba, âm mưu thực hiện “diễn biến hòa bình” nhằm vào cán bộ, đảng
viên.
Thứ tư, tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực và trên
thế giới vẫn là nguy cơ thường trực và khó khắc phục.
2.2.2 Ưu điểm
Tính đến tháng 3/2017, tổng số cán bộ, công chức, viên chức ở nước ta là
2.726.917 người, trong đó: Cán bộ, công chức là 611.069 người; viên chức là
1.983.981 người.
Hiện nay, có thể nói Đảng ta đang có đội ngũ cán bộ, đảng viên với năng
lực khá cao. Trình độ lý luận chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ, tin học, ngoại
ngữ,... và năng lực, kinh nghiệm thực tiễn nhiều bước tiến, cơ bản bảo đảm tiêu
chuẩn, điều kiện theo Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 3 Khóa VIII. Số
cán bộ có trình độ đại học và trên đại học tăng nhanh chóng. Qua mỗi kỳ Đại hội
Đảng, cấp ủy các cấp đổi mới khoảng 40%. Đa số cán bộ có lập trường vững
vàng, đạo đức trong sáng, lối sống giản dị, gương mẫu, có ý thức phấn đấu, hòan
thành tốt nhiệm vụ năng động, sáng tạo, thích ứng nhanh với xu thế hội nhập, có
khả năng làm việc trong môi trường quốc tế.
Đa số cán bộ lãnh đạo Đảng, Nhà nước ở các cấp có năng lực, phẩm chất,
uy tín, nhất là cán bộ cấp chiến lược có tư duy đổi mới, có năng lực hoạch định
đường lối, chính sách và lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện. Hầu hết cán bộ
lãnh đạo lực lượng vũ trang được rèn luyện thử thách qua thực tiễn, trung thành
với Đảng, sẵn sàng hy sinh vì Tổ quốc. Nhiều cán bộ khoa học tâm huyết, say
mê nghiên cứu, có nhiều đóng góp tích cực cho đất nước. Một số lãnh đạo, quản
lý doanh nghiệp nhà nước thích ứng nhanh với cơ chế thị trường, tổ chức sản
xuất kinh doanh có hiệu quả, đóng góp vào sự phát triển kinh tế của đất nước
những năm qua
2.2.3 Hạn chế
Tuy nhiên, đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị đông nhưng chưa mạnh. Cơ
cấu giữa các ngành nghề, lĩnh vực, vùng miền chưa thật sự hợp lý; tình trạng vừa
thừa, vừa thiếu cán bộ còn xảy ra ở nhiều nơi; thiếu sự liên thông giữa các cấp,
các ngành; tỷ lệ cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ dân tộc thiểu số chưa đạt mục tiêu
đề ra. Độ tuổi bình quân của cán bộ lãnh đạo chủ chốt ở một số ban, bộ, ngành,
địa phương và trong lực lượng vũ trang còn cao. Số lượng sĩ quan, kể cả cấp
tướng trong lực lượng vũ trang tăng nhanh. Thiếu những cán bộ lãnh đạo, quản
6

lý, quản trị giỏi, nhà khoa học và chuyên gia đầu ngành trên một số lĩnh vực, tỷ
lệ cán bộ nghiên cứu khoa học trên tổng dân số còn thấp, tình trạng chạy theo
bằng cấp, học hàm, học vị còn nhiều; các công trình khoa học, dự án đóng góp
vào sự phát triển đất nước chưa xứng với học hàm, học vị. Năng lực của đội ngũ
cán bộ chưa đồng đều, có mặt còn hạn chế; một bộ phận cán bộ thiếu tính
chuyên nghiệp, làm việc không đúng chuyên môn, sở trường; trình độ ngoại ngữ
và kỹ năng giao tiếp, làm việc trong môi trường quốc tế còn yếu; chưa phát huy
tốt tiềm năng cán bộ; năng suất lao động, hiệu quả làm việc thấp; không ít cán bộ
trẻ còn thiếu bản lĩnh, ngại rèn luyện. Một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý,
trong đó có cả cán bộ cấp chiến lược uy tín thấp, năng lực, phẩm chất chưa
ngang tầm nhiệm vụ, không ít cán bộ vi phạm kỷ luật Đảng và bị xử lý theo pháp
luật.

Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí;
thiếu tu dưỡng, rèn luyện, thóai hóa, biến chất, không làm tròn bổn phận trước
Đảng, trước nhân dân. Một số cán bộ lãnh đạo, quản lý chưa gương mẫu thực
hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; thiếu
tinh thần trách nhiệm, vô cảm trước những khó khăn của người dân, cục bộ địa
phương.

Tình trạng cán bộ, đảng viên thóai hóa, biến chất, tham nhũng, tiêu cực... còn
diễn biến phức tạp, chậm được khắc phục; một số tính đảng kém, bộc lộ tham
vọng cá nhân, kèn cựa địa vị, gia trưởng, độc đoán, thiếu ý thức tổ chức kỷ luật,
chối bỏ trách nhiệm khi xảy ra sai phạm, không muốn từ chức khi không hòan
thành nhiệm vụ được giao; tùy tiện, bất chấp nguyên tắc tổ chức sinh hoạt đảng;
dao động, mất lòng tin, sa vào chủ nghĩa cá nhân, mê tín, dị đoan; có biểu hiện
suy thóai về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển
hóa”. Một số cán bộ lãnh đạo, quản lý thiếu gương mẫu, gia trưởng, quan liêu, xa
dân, chưa thật sự gắn bó máu thịt, mật thiết với nhân dân; tham nhũng, lãng phí,
tiêu cực, lợi ích nhóm. Không ít cán bộ quản lý doanh nghiệp nhà nước tính
Đảng yếu, suy thóai, lợi dụng sơ hở, cố ý làm trái làm thất thoát vốn, tài sản của
Nhà nước, gây hậu quả nghiêm trọng. Tình trạng chạy chức, chạy quyền, chạy
quy hoạch, chạy luân chuyển, chạy tội... còn xảy ra khá phổ biến ở các cấp, các
ngành, nhưng chậm được ngăn chặn và đẩy lùi, gây bức xúc trong dư luận xã
hội.
7

Nạn ô dù, bao che, sự phân hóa giàu - nghèo bất hợp lý diễn ra ngay trong đội
ngũ cán bộ, đảng viên; ở không ít nơi lợi ích cá nhân lấn át lợi ích tập thể, lợi ích
cục bộ lấn át lợi ích toàn cục; tham nhũng, lãng phí, lợi dụng chức vụ, quyền hạn
để thu vén cá nhân; để người thân trục lợi. Một số vụ tham nhũng, buôn lậu, tiếp
tay cho làm ăn phi pháp phát triển thành những “đường dây” có tổ chức. Cá biệt
có trường hợp do bất mãn dẫn đến phản bội lý tưởng của Đảng và lợi ích của
nhân dân. Số thoái hóa chính trị tuy ít nhưng hoạt động của họ gây hậu quả xấu.
2.3 Nguyên nhân
Nhận thức chưa đầy đủ và sâu sắc, có mặt chưa rõ, chưa thống nhất một số vấn
đề quan trọng ở tầm quan điểm, chủ trương của Đảng về đánh giá cán bộ. Chưa
có sự thống nhất về nhận thức đối với những điểm chủ yếu về tiêu chuẩn trong
đánh giá cán bộ, chưa thực sự lấy kết quả hoàn thành nhiệm vụ làm thước đo chủ
yếu về phẩm chất và năng lực cán bộ, cách đánh giá còn chung chung, thiếu cụ
thể, hình thức, máy móc.
- Do bí thư và các cấp ủy chậm đổi mới tư duy về công tác đánh giá cán bộ trong
điều kiện mới. Không ít tổ chức và người lãnh đạo nắm không chắc, đánh giá
không trúng; thiếu khách quan, thành kiến, hẹp hòi, định kiến. Vẫn còn tình
trạng bè phái, phe cánh, cục bộ, vụ lợi, đánh giá sai lệch những cán bộ trung
thực, có tinh thần đấu tranh thẳng thắn, nhưng không hợp với mình, ưu ái những
cán bộ có phẩm chất và năng lực kém nhưng do thân quen, nể nang, chạy chọt...
Nhiều cấp ủy đảng và bí thư cấp ủy chưa đầu tư đúng mức thời gian, công sức
cho công tác đánh giá cán bộ.
- Tinh thần phê bình và tự phê bình chưa cao. Cấp có thẩm quyền đánh giá cán
bộ và người đứng đầu cơ quan, đơn vị còn thiếu kiên quyết, có biểu hiện sự nể
nang, sợ mất lòng, ngại đưa ra chính kiến nhận xét, đánh giá của mình đối với
cấp dưới, kể cả cán bộ, công chức chuyên môn khi nhận xét, góp ý kiến đối với
cấp trên của mình.
- Nội dung đánh giá còn chồng chéo, thiếu thống nhất; chưa có hướng dẫn cụ thể
nên khi thực hiện còn lúng túng.
- Bệnh thành tích trong đánh giá cán bộ vẫn còn tồn tại ở một số ít cơ quan, đơn
vị; phương pháp, quy trình đánh giá chưa khoa học, còn qua loa, chiếu lệ; chưa
thật sự phát huy dân chủ trong Đảng, phát huy vai trò giám sát, tham gia của
nhân dân vào công tác cán bộ.
2.4 Giải pháp
8

Thứ nhất, nâng cao nhận thức, tăng cường hơn nữa công tác giáo dục chính trị,
tư tưởng, đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên, trong đó chú trọng nội dung
xây dựng Đảng về đạo đức, giữ gìn và phát huy truyền thống lịch sử, văn hóa
của dân tộc. Chỉ đạo thực hiện quyết liệt, có hiệu quả Nghị quyết Hội nghị Trung
ương 4 khóa XII; gắn kết chặt chẽ việc học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh với thực hiện nghiêm quy định về trách nhiệm nêu
gương của cán bộ, đảng viên; siết chặt kỷ luật, kỷ cương hành chính, đi đôi với
thường xuyên chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc cấp ủy, tổ chức đảng thực hiện nghiêm
túc việc rà soát, sàng lọc, đưa những đảng viên không còn đủ tư cách ra khỏi
Đảng theo tinh thần Chỉ thị số 28-CT/TW, ngày 21-1-2019, của Ban Bí thư, “Về
nâng cao chất lượng kết nạp đảng viên và rà soát, sàng lọc, đưa những đảng viên
không còn đủ tư cách ra khỏi Đảng”.
Thứ hai, xác định rõ hơn nữa tiêu chuẩn cho từng chức danh cán bộ, công chức,
gắn với rà soát, bổ sung, hoàn thiện đề án vị trí việc làm cho phù hợp với tình
hình mới hiện nay. Đây là yếu tố “đầu vào” quan trọng và là cơ sở để lựa chọn
cán bộ, công chức phù hợp với từng chức danh, từng vị trí việc làm. Việc xây
dựng tiêu chuẩn chức danh phải trên cơ sở đồng bộ, liên thông, nhất quán trong
hệ thống chính trị và các chức danh tương đương cần có khung tiêu chuẩn chung
giống nhau; tránh tình trạng mỗi ngành quy định một kiểu, không đồng bộ, thống
nhất với cấp ủy các cấp. Trong đó, chú trọng lấy năng lực công tác, uy tín cá
nhân, kết quả thực tiễn làm thước đo và là cơ sở trong tiêu chuẩn để lựa chọn, đề
bạt, bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử. Đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý, nhất là
cán bộ chủ chốt, cần có tiêu chuẩn rèn luyện, trưởng thành qua thực tiễn công tác
theo đúng tinh thần Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 19-5-2018, của Hội nghị
Trung ương 7 khóa XII: “Nói chung, cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp trên phải kinh
qua vị trí chủ chốt cấp dưới”.
Thứ ba, tiếp tục hoàn thiện các tiêu chí và phương pháp đánh giá, xếp loại cán
bộ, cụ thể hóa hơn nữa việc xử lý cán bộ sau đánh giá, bởi đánh giá cán bộ là
khâu then chốt của công tác cán bộ. Trong đánh giá, cần mở rộng dân chủ, bảo
đảm có nhiều thông tin khách quan, đa chiều về cán bộ. Đánh giá cán bộ phải có
quá trình, đặt trong hoàn cảnh cụ thể, có phương pháp đánh giá khoa học, khách
quan; đánh giá cán bộ cần gắn kết chặt chẽ với việc quy hoạch, bố trí, sử dụng
cán bộ. Phân định rõ giữa đánh giá cán bộ định kỳ với đánh giá cán bộ khi đưa
vào quy hoạch và khi đề bạt, bổ nhiệm; nhằm vừa bảo đảm tính thống nhất trong
đánh giá cán bộ nói chung, vừa phát huy được ý nghĩa, tác dụng của đánh giá
cán bộ trong từng trường hợp cụ thể.
9

Thứ tư, mở rộng công khai, dân chủ, để phát huy tốt hơn nữa trách nhiệm của
các cấp, các ngành và hệ thống chính trị trong xây dựng và thực hiện nghiêm
việc quy hoạch đội ngũ cán bộ. Công tác quy hoạch đội ngũ cán bộ phải được
xem trọng, từ đó có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, tạo nguồn một cách bài bản,
khoa học, chiến lược, đáp ứng nhiệm vụ chính trị trước mắt và lâu dài của từng
địa phương, cơ quan, đơn vị. Trong xây dựng quy hoạch, cần xác định rõ hơn
tiêu chuẩn cho từng chức danh quy hoạch, tránh đề ra tiêu chuẩn chung chung;
cần xác định rõ nguồn cán bộ giới thiệu quy hoạch, đồng thời lộ trình phát triển
của cán bộ trong quy hoạch phải có tính khả thi, có triển vọng phát triển, tránh
tình trạng quy hoạch “treo”. Sau khi đã quy hoạch, cần công khai quy hoạch và
xây dựng kế hoạch để đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, bố trí vào các vị trí công tác
khác nhau để thử thách, rèn luyện, nâng tầm cán bộ.

Thứ năm, tiếp tục đẩy mạnh thực hiện công tác luân chuyển cán bộ lãnh đạo,
quản lý trong hệ thống chính trị để rèn luyện qua thực tiễn ở các lĩnh vực, địa
bàn khác nhau; mở rộng việc thi tuyển để bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp
sở, cấp phòng; ban hành quy định về thẩm quyền, trách nhiệm của người đứng
đầu trong công tác cán bộ và quản lý cán bộ; trong đó, cần có cơ chế thí điểm để
người đứng đầu lựa chọn, giới thiệu cán bộ trong quy hoạch để thực hiện quy
trình bầu cử, bổ nhiệm cấp phó của mình.
Thứ sáu, chính sách cán bộ luôn là vấn đề quan trọng, nhạy cảm có tác động tới
chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị và chất lượng lãnh đạo của tổ chức
đảng. Từ thực tiễn cho thấy, cần thực hiện phân cấp mạnh hơn và rõ hơn trong
công tác chính sách cán bộ, tạo điều kiện để các địa phương căn cứ tình hình cụ
thể đề ra các chính sách cụ thể, sát hợp. Trong quy định chính sách cán bộ, ngoài
các phần quy định chung bắt buộc, cần có các điểm “mở” để cấp ủy các cấp có
thẩm quyền xem xét vận dụng đối với các trường hợp, đối tượng cụ thể. Việc bố
trí cán bộ (điều động, luân chuyển, đề bạt, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cho nghỉ
việc...) luôn phải gắn liền với việc thực hiện tốt chính sách cán bộ.
Thứ bảy, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra định kỳ, đột xuất về
công tác cán bộ; xử lý kịp thời, nghiêm minh những tổ chức, cá nhân vi phạm kỷ
luật của Đảng, pháp luật của Nhà nước, lợi dụng chức vụ được giao để thực hiện
những hành vi sai trái trong công tác cán bộ hoặc tiếp tay cho chạy chức, chạy
quyền. Thực hiện quản lý chặt chẽ, hiệu quả đội ngũ cán bộ các cấp; trong đó,
10

cần xây dựng và vận hành có hiệu quả hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia về cán bộ,
để bảo đảm tính đồng bộ, liên thông, nhất quán trong toàn bộ hệ thống chính trị.
Thứ tám, tiếp tục đổi mới, chỉnh đốn tổ chức bộ máy làm công tác cán bộ; nâng
cao phẩm chất, trình độ, kiến thức và năng lực của đội ngũ làm công tác cán bộ.
Từng cấp ủy cần quan tâm đến tính đặc thù và những tiêu chuẩn riêng cần có đối
với người làm công tác tổ chức, cán bộ; có biện pháp tích cực và chủ động trong
việc bảo vệ cán bộ làm đúng; xử lý nghiêm minh, kịp thời những cán bộ có sai
phạm, thoái hóa, biến chất, cơ hội.
KẾT LUẬN

You might also like