You are on page 1of 30

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI

KHOA QUẢN TRỊ NHÂN LỰC


----------

BÀI THẢO LUẬN

ĐỀ TÀI: Phân tích Tư tưởng của Hồ Chí Minh về đạo đức.


Liên hệ tới quá trình tu dưỡng đạo đức của sinh viên trường
Đại học Thương mại hiện nay.

Giáo viên hướng dẫn: Ngô Thị Huyền Trang


Giáo viên hướng dẫn: Ngô Thị Huyền Trang
Lớp HP: 2356HCMI0111
Lớp HP: 2356HCMI0111
Nhóm thảo luận: 9
Nhóm thảo luận: 9

Hà Nội, Ngày Tháng Năm


BẢNG PHÂN CÔNG CÔNG VIỆC
STT Họ và tên Nhiệm vụ Đánh giá
81 Lê Phạm Mai Phương - Nội dung
- Tham gia phản biện
82 Nguyễn Thị Thu Phương - Nội dung
- Tham gia phản biện
83 Vũ Thị Minh Phương - Nội dung
- Tham gia phản biện
84 Ngô Hồng Quyên - Nội dung
- Tham gia phản biện
85 Hà Như Quỳnh - Nội dung
- Tham gia phản biện
86 Hoàng Xuân Quỳnh - Nội dung
- Tham gia phản biện
87 Lê Thúy Quỳnh - PowerPoint
- Tham gia phản biện
88 Nguyễn Thị Quỳnh - Thuyết trình
- Tham gia phản biện
89 Lê Hải Tâm - Tổng hợp Word
- Tham gia phản biện
90 Bùi Phương Thảo - Nội dung
- Tham gia phản biện

2
MỤC LỤC
MỤC LỤC......................................................................................................................... 3

LỜI MỞ ĐẦU.................................................................................................................... 5

CHƯƠNG 1: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC.............................................6

1.1. Khái niệm và tầm quan trọng của đạo đức..............................................................6

1.1.1 Khái niệm......................................................................................................6

1.1.2 Tầm quan trọng của đạo đức.........................................................................6

1.2. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức...............................................7

1.3. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức...........................................................7

1.3.1. Đạo đức là gốc, là nền tảng tinh thần của xã hội, của người cách mạng.......7

1.3.2. Quan điểm về những chuẩn mực đạo đức cách mạng...................................8

1.3.3. Quan điểm về những nguyên tắc xây dựng đạo đức cách mạng.................13

CHƯƠNG II: LIÊN HỆ VỚI QUÁ TRÌNH TU DƯỠNG ĐẠO ĐỨC CỦA SINH VIÊN
ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI HIỆN NAY..........................................................................15

2.1. Thực trạng quá trình tu dưỡng đạo đức của sinh viên Đại học Thương mại..........15

2.1.1. Tích cực......................................................................................................15

2.1.2. Hạn chế......................................................................................................17

2.1.3. Nguyên nhân của những biểu hiện tiêu cực................................................18

2.2. Giải pháp thúc đẩy quá trình tu dưỡng đạo đức của sinh viên Đại học Thương mại
..................................................................................................................................... 19

2.2.1. Đối với các cấp lãnh đạo và nhà trường.....................................................19

2.2.2. Đối với bản thân sinh viên..........................................................................20

KẾT LUẬN...................................................................................................................... 22

ĐỀ CƯƠNG ĐỀ TÀI PHỤ: PHÂN TÍCH CÁC THỜI KỲ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG
HỒ CHÍ MINH................................................................................................................23

CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÝ THUYẾT.................................................................................23

1. Quá hình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh........................................23


3
1.1. Thời kỳ trước năm 1911: Hình thành tư tưởng yêu nước và chí hướng tìm
đường cứu nước mới............................................................................................23

1.2. Thời kỳ 1911 - 1920: Hình thành tư tưởng cứu nước, giải phóng dân tộc Việt
Nam theo con đường cách mạng vô sản...............................................................24

1.3. Thời kỳ 1920 - 1930: Hình thành những nội dung cơ bản tư tưởng về cách
mạng Việt Nam....................................................................................................25

1.4. Thời kỳ 1930 - 1941: Vượt qua thử thách, giữ vững đường lối, phương pháp
cách mạng Việt Nam đúng đắn, sáng tạo.............................................................25

1.5. Thời kỳ 1941 – 1969: Tư tưởng Hồ Chí Minh tiếp tục phát triển, soi đường
cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta..............................................26

TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................................28

4
LỜI MỞ ĐẦU
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vẫn
đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ
nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị
truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tỉnh hoa văn hóa nhân loại; là tài sản tinh thần
vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách
mạng của nhân dân ta giành thắng lợi. Đạo đức là một trong những vấn đề quan tâm hàng
đầu và xuyên suốt toàn bộ sự nghiệp cách mạng của Hồ Chí Minh. Người không những
để lại những tác phẩm lý luận về đạo đức, mà còn cố gắng trở thành một hình mẫu đạo
đức cho cấp dưới noi theo. Hồ Chí Minh coi đạo đức là nền tảng của người cách mạng,
cũng giống như gốc của cây, ngọn nguồn của sông, của suối. Chăm lo cái gốc, cái nguồn,
cái nền tảng ấy phải là công việc thường xuyên của toàn Đảng, toàn dân, của mỗi gia
đình và mỗi người trong xã hội ta. Thực tế hiện nay cho thấy, sinh viên là tầng lớp tri
thức cao của một quốc gia, là tương lai của đất nước, nắm giữ vận mệnh của đất nước, họ
có trong mình tuổi trẻ và sự nhiệt huyết để có thể làm những điều lớn lao. Nhưng để trở
thành một người giỏi về cả tài và đức thì không phải ai cũng làm được, nếu thiếu mất một
trong hai thứ thì cũng không thể chứng minh được điều gì, như Chủ tịch Hồ Chí Minh
cũng từng nói: “Có tài mà không có đức thì là người vô dụng, có đức mà không có tài thì
làm gì cũng khó". Nhận thức được sự quan trọng của đề tài này, chúng em xin lựa chọn
đề tải: “Phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức. Liên hệ tới quá trình tu dưỡng đạo
đức của sinh viên trường Đại học Thương Mại hiện nay.”

5
CHƯƠNG 1: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC
1.1. Khái niệm và tầm quan trọng của đạo đức
1.1.1 Khái niệm
Đạo đức là một từ Hán Việt, được dùng từ xa xưa để chỉ một thành tố trong tính cách
và giá trị của một con người. Đạo là con đường, đức là tính tốt hoặc những công trạng tạo
nên. Khi nói một người có đạo đức là ý nói người đó có sự rèn luyện thực hành các lời
răn dạy về đạo đức, sống chuẩn mực và có nét đẹp trong đời sống và tâm hồn.
Trước khi quan điểm đạo đức mới của Hồ Chí Minh xuất hiện, khái niệm “đạo đức”
bị ảnh hưởng triệt để bởi Nho giáo. Cụ thể là tư tưởng do Khổng Tử đề ra, Khổng Tử cho
rằng, trong xã hội có năm mối quan hệ đạo đức cơ bản gọi là “ngũ luân”, gồm quan hệ
vua - tôi, cha - con, chồng - vợ, anh - em, bạn bè. Mỗi quan hệ có những tiêu chuẩn riêng
cho từng đối tượng, như cha hiền, con thảo; anh tốt, em ngoan; chồng biết tình, vợ nghe
lẽ phải; bề trên từ hiếu, bề dưới kính thuận; vua nhân từ, tôi trung thành. Hệ tư tưởng này
trở thành công cụ sắc bén giúp củng cố quyền lực tối cao cho vua chúa và dòng họ. Tuy
nhiên, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: “Tuy Khổng Tử là phong kiến và trong học
thuyết của Khổng Tử có nhiều điều không đúng song những điều hay trong đó thì chúng
ta nên học”. Chính vì vậy, Bác đã tiếp thu những điểm tích cực trong quan điểm của
Khổng Tử và đưa ra khái niệm đạo đức mới.
Trong bài “Đạo đức cách mạng” năm 1958, Theo quan điểm của chủ tịch Hồ Chí
Minh, đạo đức cách mạng là quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng, đó
là điều chủ chốt nhất. Ra sức làm việc cho Đảng, giữ vững kỷ luật của Đảng, thực hiện
tốt đường lối, chính sách của Đảng. Đặt lợi ích của Đảng và của nhân dân lao động lên
trên, lên trước lợi ích riêng của cá nhân mình. Hết lòng hết sức phục vụ Nhân dân. Vì
Đảng, vì dân mà đấu tranh quên mình, gương mẫu trong mọi việc. Ra sức học tập chủ
nghĩa Mác – Lênin, luôn dùng tự phê bình và phê bình để nâng cao tư tưởng và cải tiến
công tác của mình và cùng đồng chí mình tiến bộ.
1.1.2 Tầm quan trọng của đạo đức
Đạo đức là nguồn gốc, là nền tảng của người cách mạng, cũng như gốc của cây, ngọn
nguồn của sông, của suối. Bởi vì, muốn làm cách mạng thì trước hết con người phải có
cái tâm trong sáng, cái đức cao đẹp đối với giai cấp công nhân, nhân dân lao động, với cả
dân tộc mình. Phải có tâm, có đức mới giữ vững được chủ nghĩa Mác - Lênin và đưa
6
được chủ nghĩa Mác - Lênin vào cuộc sống. Trong mối quan hệ giữa đạo đức và trí tuệ,
đức và tài, Bác Hồ đã nêu một số quan điểm lớn: Phải có đức để đi đến cái trí. Vì khi đã
có cái trí, thì cái đức chính là cái bảo đảm cho người cách mạng giữ vững chủ nghĩa mà
mình đã giác ngộ, đã chấp nhận, đã đi theo.
1.2. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh bắt nguồn từ truyền thống đạo đức của dân tộc Việt
Nam, đã được hình thành trong trường kỳ lịch sử, đồng thời kế thừa tư tưởng đạo đức
phương Đông, nổi bật là đạo đức Nho giáo, những tinh hoa đạo đức của nhân loại; đặc
biệt quan trọng là những tư tưởng đạo đức của Mác, Ăngghen, Lênin, cũng như những
tấm gương đạo đức trong sáng mà các ông đã để lại. Điều này đã được thể hiện trong
những dòng viết đầy xúc động của Người sau khi Lênin mất: Lênin là người "đã nêu cho
chúng ta một tấm gương sáng về sự giản dị vĩ đại và sự khiêm tốn cao độ". "Không phải
chỉ thiên tài của Người, mà chính là tính coi khinh sự xa hoa, tinh thần yêu lao động, đời
tư trong sáng, nếp sống giản dị, tóm lại là đạo đức vĩ đại và cao đẹp của người thầy, đã
ảnh hưởng lớn lao tới các dân tộc châu Á và đã khiến cho trái tim của họ hướng về
Người, không có gì ngăn nổi".
Hồ Chí Minh sử dụng những khái niệm, những phạm trù đạo đức đã từng quen thuộc
với dân tộc Việt Nam từ lâu đời đưa vào đó những nội dung mới, đồng thời bổ sung
những khái niệm, những phạm trù đạo đức của thời đại mới. Chính vì vậy mà những giá
trị đạo đức mới đã hòa nhập với những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc, làm cho
mỗi người Việt Nam đều cảm thấy gần gũi.
1.3. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức
1.3.1. Đạo đức là gốc, là nền tảng tinh thần của xã hội, của người cách mạng
Khi bàn về vai trò quan trọng của đạo đức, Hồ Chí Minh cho rằng, đạo đức là yếu tố
không thể thiếu trong đời sống xã hội loài người và đối với cá nhân con người. Đối với
người cách mạng, đạo đức là gốc, là nền tảng, là sức mạnh, là tiêu chuẩn hàng đầu.
Người chỉ rõ: “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn.
Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có
đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được Nhân dân” “... Người cách mạng
phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ
vang”.

7
Đạo đức trở thành nhân tố quyết định của sự thành bại của mọi công việc, phẩm chất
mỗi con người. “Có đạo đức cách mạng thì khi gặp khó khăn, gian khổ, thất bại, cũng
không sợ sệt, rụt rè, lùi bước…, khi gặp thuận lợi và thành công vẫn giữ tinh thần gian
khổ, chất phác, khiêm tốn”.
Trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, đức và tài, hồng và chuyên, phẩm chất và
năng lực phải thống nhất làm một. Trong đó, đạo đức là gốc, là nền tảng của người cách
mạng. Người đòi hỏi tài năng phải gắn chặt và đặt vững trên nền tảng đạo đức. Hồ Chí
Minh thường khuyên: “Dạy cũng như học phải biết chú trọng cả tài lẫn đức. Đức là đạo
đức cách mạng. Đó là cái gốc, rất quan trọng. Nếu không có đạo đức cách mạng thì có tài
cũng vô dụng”.
1.3.2. Quan điểm về những chuẩn mực đạo đức cách mạng
a. Trung với nước, hiếu với dân
Trung với nước, hiếu với dân là phẩm chất đạo đức bao trùm, quan trọng nhất và chi
phối các phẩm chất khác. Trung và hiếu là những phẩm chất đạo đức cũ nhưng được Hồ
Chí Minh sử dụng với những nội dung mới.
Trung và hiếu là những khái niệm đã có từ lâu trong tư tưởng đạo đức truyền thống
Việt Nam nói riêng và phương Đông nói chung: “Trung với vua, hiếu với cha mẹ”.
"Trung" là khái niệm chính trị - đạo đức, xuất hiện trong các tác phẩm kinh điển của Nho
giáo và thường được dùng để chỉ hành động hết lòng với vua, mà theo đó, khái niệm
"trung quân" (trung với vua) xuất hiện.
Theo dòng chảy của thời gian, Trung và Hiếu đã thâm nhập vào nước ta và đã trở
thành một trong những chuẩn giá trị của các triều đại phong kiến. Bác Hồ tiếp nhận trung
- hiếu ở một tầm nhận thức mới. Bác đã gọt bỏ nội dung cũ của Nho giáo là trung với vua
và đưa vào đó nội dung mới “Trung với nước, hiếu với dân”. Người chỉ rõ “Đạo đức,
ngày trước thì chỉ trung với vua, hiếu với cha mẹ. Ngày nay, thời đại mới, đạo đức cũng
phải mới. Phải trung với nước. Phải hiếu với toàn dân, với đồng bào. Người nói: “Đạo
đức cũ như người đầu ngược xuống đất chân chổng lên trời. Đạo đức mới như người hai
chân đứng vững được dưới đất đầu ngửng lên trời”.
Tư tưởng “trung với nước, hiếu với dân” của Hồ Chí Minh kế thừa và vượt qua hạn
chế của giá trị yêu nước truyền thống của dân tộc. Khi Hồ Chí Minh đưa ra quan niệm
rằng, Chính phủ là “đầy tớ nhân dân” chứ không phải “quan nhân dân để đè đầu cưỡi cổ

8
nhân dân”, quan niệm về nước và dân hoàn toàn đảo lộn so với trước, rất ít lãnh tụ cách
mạng nói về dân như vậy, điều này làm tư tưởng Hồ Chí Minh vượt xa lên phía trước.
Hồ Chí Minh cho rằng trung với nước phải gắn liền hiếu với dân. Trung với nước, là
phải yêu nước, tuyệt đối trung thành với tổ quốc, suốt đời phấn đấu cho Đảng, cho cách
mạng, phải làm cho “dân giàu, nước mạnh”. Hiếu với dân là phải thương dân, tin dân,
thân dân, học hỏi dân, lấy trí tuệ ở dân, kính trọng dân, lấy dân làm gốc, “hết lòng hết sức
phục vụ nhân dân, phải yêu kính nhân dân. Phải thật sự tôn trọng quyền làm chủ của nhân
dân. Tuyệt  đối không được lên mặt “quan cách mạng” ra lệnh ra oai. Người cũng khẳng
định: "Người kiên quyết cách mạng nhất lại là người đa tình chí hiếu nhất. Vì sao? Nếu
không làm cách mạng thì chẳng những bố mẹ mình mà hàng triệu bố mẹ người khác cũng
bị đế quốc phong kiến dày vò". Người cách mạng "không những cứu bố mẹ mình mà còn
cứu bố mẹ người khác, bố mẹ của cả nước nữa". Chính với ý nghĩa rộng lớn ấy, "hiếu
thảo" vẫn gắn liền với "hiếu trung", như trong bức điện gửi họ Nguyễn Sinh sau khi nghe
tin anh ruột qua đời, Hồ Chí Minh đã viết: "Một người con đã hy sinh tình nhà vì phải lo
việc nước".
Trong suốt quá trình xây dựng Ðảng, lãnh đạo cách mạng, Bác thường xuyên quan
tâm tới việc nâng cao tinh thần trung, hiếu ở mỗi người dân Việt Nam yêu nước nói
chung, cán bộ, đảng viên  nói riêng. Chúng ta có thể thấy rõ điều này ngay từ những ngày
đầu cách mạng. Khi mở lớp huấn luyện, đào tạo lớp cán bộ đầu tiên của Ðảng (ở Quảng
Châu, Trung Quốc), một trong những vấn đề đầu tiên đồng chí Nguyễn Ái Quốc quan
tâm là, đào tạo những người tự nguyện hy sinh phấn đấu suốt đời cho sự nghiệp giải
phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người; học tập, tìm hiểu chủ nghĩa Mác
- Lênin là để "giữ chủ nghĩa cho vững", tuyệt đối trung thành với sự nghiệp lớn của
Ðảng, biết đoàn kết và tổ chức quần chúng thực hiện.
b. Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư
Cần, kiệm, liêm, chính,  chí công vô tư là nội dung cốt lõi của đạo đức cách mạng,
đó là phẩm chất đạo đức gắn liền với hoạt động hàng ngày của mỗi người, là một biểu
hiện cụ thể của phẩm chất “trung với nước, hiếu với dân”.
“Cần tức là siêng năng, chăm  chỉ, cố gắng dẻo dai… Muốn cho chữ Cần có nhiều
kết quả hơn,  thì phải có kế hoạch cho mọi công việc”. Cần tức là lao động cần cù, siêng

9
năng; lao động có kế hoạch, sáng tạo, có năng suất cao; Lao động với tinh thần tự lực
cánh sinh, không lười biếng.
“Kiệm là thế nào? Kiệm là tiết kiệm, không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi.
CẦN với KIỆM phải đi đôi với nhau, như hai chân của con người. Kiểu tức là tiết kiệm
sức lao động,  tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của dân, của nước, của bản thân mình;
không phô trương hình thức, không liên hoan chè chén lu bù.
Liêm là trong sạch, không tham lam… Chữ LIÊM phải đi đôi với chữ KIỆM. Cũng
như chữ KIỆM phải đi đôi với chữ CẦN. Có KIỆM mới LIÊM được”. “Một dân tộc biết
cần, kiệm, biết liêm là một dân tộc giàu về vật chất, mạnh về tinh thần, là một dân tộc
văn minh, tiến bộ”.
“Chính nghĩa là không tà, nghĩa là thẳng thắn, đứng đắn. Điều gì không đứng đắn,
thẳng thắn, tức là tà”. Chính được thể hiện rõ trong ba mối quan hệ: “ĐỐI VỚI MÌNH -
Chớ tự kiêu, tự đại… ĐỐI VỚI NGƯỜI… Chớ nịnh hót người trên. Chớ xem khinh
người dưới. Thái độ phải chân thành, khiêm tốn… Phải thực hành chữ Bác - Ái… ĐỐI
VỚI VIỆC Phải để công việc nước lên trên, trước việc tư, việc nhà… việc thiện thì dù
nhỏ mấy cũng làm. Việc ác dù nhỏ mấy cũng tránh”.
Chí công vô tư là hoàn toàn vì lợi ích chung, không vì tư lợi; là hết sức công bằng,
không chút thiên tư, thiên vị, công tâm, luôn đặt lợi ích của Đảng  của  nhân dân, của dân
tộc lên trên hết, trước hết; Chỉ biết vì Đảng vì dân tộc “lo trước thiên hạ, vui sau thiên
hạ”. Chí công vô tư là chống chủ nghĩa cá nhân. 
Hồ Chí Minh coi cần, kiệm, liêm, chính là bốn đức tính cơ bản của con người, giống
như bốn mùa của trời, bốn phương của đất“ Thiếu một đức, thì không thành người”.
Có một lần Bác đến thăm và nói chuyện tại buổi lễ tổng kết lớp học chính trị của bộ
đội. Vừa bước lên bục, Bác lấy ra một cuốn sổ nhỏ, rồi thong thả đọc rõ những số liệu mà
Bác đã tìm hiểu được của nhà trường. Sau khi đọc xong, Bác hỏi: “Các chú xem, ở đây
chỉ có chừng này cán bộ mà đã lãng phí, tham ô như vậy. Thử hỏi nếu cán bộ trong toàn
quân mà cũng phạm khuyết điểm như các chú thì thiệt hại cho Nhà nước, cho nhân dân
biết bao nhiêu?”. Dừng lại một lát, như để cho mọi người suy nghĩ, Bác hỏi tiếp: “Ở đây
những chú nào có vợ rồi, giơ tay?”. Có đến một nửa số học viên giơ tay. Bác lại hỏi tiếp:
“Những chú nào có con rồi?”.  Lần này có khoảng một phần ba giơ tay. Bỗng Bác chỉ
một đồng chí cả hai lần đều giơ tay và nói: “Bác hỏi thật chú, chú có bao giờ ăn bớt phần

10
cơm của vợ con chú không?”. Đồng chí cán bộ nọ đứng lên cảm động thưa: “Dạ, thưa
Bác, không ạ!”. Không khí hội trường lắng xuống. Bác nhìn cả lớp rồi nói, giọng không
vui: “Thế thì tại sao có một số cán bộ thấy tài sản của nhân dân, tiêu chuẩn của chiến sĩ,
hễ sểnh ra một chút là tìm cách đút túi”.
Từ mẩu chuyện trên cho thấy không phải ngẫu nhiên mà người đứng đầu Đảng và
Chính phủ lại thẳng thắn, quyết liệt như thế. Chủ tịch Hồ Chí Minh hiểu rất rõ rằng, đây
là những lỗi lầm đặc biệt nghiêm trọng, có hại cho dân, cho nước, cần phải ra sức kiên trì
sửa chữa, để Đảng luôn trong sạch, vững mạnh, xây phải đi liền với chống, phải đấu
tranh, ngăn chặn, đẩy lùi những nguy cơ dẫn đến sự suy yếu của Đảng, trong đó có nạn
tham ô, tham nhũng là thứ giặc nội xâm, giặc ở trong lòng “ngấm ngầm phá hoại sự
nghiệp xây dựng của cách mạng”.
c. Thương yêu con người, sống có tình có nghĩa
Tình yêu thương con người là một trong những phẩm chất cao đẹp nhất. Theo Hồ Chí
Minh,  người Cách mạng là người giàu tình cảm, có tình cảm cách mạng mới đi làm cách
mạng. Vì yêu thương nhân dân,  yêu thương con người mà Hồ Chí Minh sẵn sàng chấp
nhận mọi gian khổ, hy sinh để đem lại độc lập cho dân tộc, tự do hạnh phúc cho con
người. Tình yêu thương con người là tình cảm nhân ái sâu sắc, rộng lớn, trước hết dành
cho những người nghèo khổ, những người bị mất quyền, bị áp bức, bóc lột không phân
biệt màu da, dân tộc.
Tình thương người, yêu đồng loại, yêu đồng bào, yêu đất nước mình là tư tưởng lớn,
là mục tiêu phấn đấu của Hồ Chí Minh, được thể hiện ở sự ham muốn tột bậc của người
là “làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai
cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hanh”. Đây là yếu tố cốt lõi đầu tiên tạo nên
nền tảng tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh. Đó cũng là lý tưởng chính trị, lý tưởng đạo đức
và là lý tưởng nhân văn của Người.
Tình yêu thương con người của Bác được thể hiện ở tác phong làm việc, cử chỉ quan
tâm, sự ân cần đối với các cán bộ được trực tiếp tiếp xúc với Bác nói riêng cũng như toàn
thể nhân dân nói chung. Điều ấy đã được bộc lộ rõ trong mẩu truyện ngắn sau:
Hồi Trường Đảng Nguyễn Ái Quốc còn ở căn cứ kháng chiến Việt Bắc, một lần Bác
Hồ đến dự lễ bế giảng của trường. Xuống thăm nhà bếp, Bác thấy làm cỗ có vẻ linh đình,
Bác nói với đồng chí phụ trách trường: “Này, bế mạc, chứ không phải ” Bế bụng” đâu

11
nhé! Kháng chiến còn khó khăn lắm đấy, các chú ạ”. Đến bữa ăn, thấy mâm cơm chỉ có
một bát, một đôi đũa, Bác hỏi: “Thế Bác ăn với ai?”. Đồng chí phụ trách gãi đầu gãi tai:
“Dạ, xin để Bác ăn riêng cho tiện…”. Bác ngắt lời: “Không tiện gì cả. Thế ra các chú
muốn cho Bác ăn trên ngồi trước à?”. Bác đòi phải bê các món ăn của cán bộ, nhân viên
nhà trường lên cho Bác xem, rồi Bác bảo kê thêm bàn ghế cho mọi người cùng ăn với
Bác. Bố trí xong xuôi cả rồi, Bác mới vui vẻ, bảo mọi người: “Ngồi cả vào đây, ăn chung
với Bác, ăn một mình thì Bác ăn sao được?” .Khi Bác lên nói chuyện với các học viên,
đồng chí phụ trách trường giới thiệu: “Bác Hồ sẽ huấn thị cho chúng ta”. Bác cười mà
bảo rằng: “Tôi nói chuyện với các đồng chí thôi, chứ có “huấn thị” gì đâu”. Sáng sớm
hôm sau, trước khi Bác chia tay trường, đồng chí phụ trách hỏi Bác có điều gì căn dặn
thêm về công việc của trường. Người nói: “Tôi chỉ mong là các đồng chí đừng quan tâm
đến tôi quá mà phải quan tâm đến mọi người hơn”.
d. Có tinh thần quốc tế trong sáng
Chủ nghĩa quốc tế là một trong những phẩm chất quan trọng nhất của đạo đức cộng
sản chủ nghĩa.
Hồ Chí Minh là biểu tượng cao đẹp của chủ nghĩa yêu nước chân chính kết hợp
nhuần nhuyễn với chủ nghĩa quốc tế vô sản. Nội dung chủ nghĩa quốc tế trong tư tưởng
Hồ Chí Minh rất rộng lớn và sâu sắc. Đó là sự tôn trọng, hiểu biết, thương yêu và đoàn
kết với giai cấp vô sản toàn thế giới, với các dân tộc bị áp bức, với tất cả các dân tộc và
nhân dân các nước, với những người tiến bộ trên toàn cầu, chống lại mọi sự chia rẽ, hằn
thù, bất bình đẳng và phân biệt chủng tộc; chống lại chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, sôvanh,
biệt lập và chủ nghĩa bành trướng bá quyền. 
Đoàn kết quốc tế của Hồ Chí Minh theo tinh thần quốc tế trong sáng:
“ Quan sơn muôn dặm một nhà
Bốn phương vô sản đều là anh em”.
Từ những năm 20 của thế kỷ XX, dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác- Lênin, từ thành
quả của Cách mạng tháng Mười Nga, Nguyễn Ái Quốc đã nhận ra giữa các quốc gia,
giữa các dân tộc ở các châu lục cần có sự hợp tác giúp đỡ và học hỏi lẫn nhau. Sức mạnh
của mỗi nước có một phần quan trọng tùy thuộc vào các mối liên kết và hiểu biết lẫn
nhau. Từ đó Người luôn khẳng định những cuộc cách mạng của các dân tộc bất kỳ gần
hay xa, to hay nhỏ đều có quan hệ với nhau. Từ năm 1924, Người đã trở thành một trong

12
những cán bộ châu Á đầu tiên thực thi nhiệm vụ liên kết giữa các dân tộc châu Á với
phong trào cách mạng vô sản thế giới. Trong những năm tháng nhân dân Việt Nam đấu
tranh giành độc lập và bảo vệ nền độc lập của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh hết sức quan
tâm chăm lo phát triển tình hữu nghị giữa Việt Nam với các nước ở châu Á, châu Phi,
châu Mỹ Latinh để mở rộng quan hệ quốc tế của Việt Nam và khẳng định sự ủng hộ của
nhân dân Việt Nam đối với cuộc đấu tranh của nhân dân các nước vì độc lập dân tộc và
tiến bộ xã hội. Đồng thời, Người còn luôn nhắc nhở nhân dân Việt Nam về những nhiệm
vụ đối với cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc của nhân dân các nước này. Cụ thể hơn,
trong thư gửi các đơn vị bộ đội có nhiệm vụ tác chiến ở Thượng Lào ngày 3/4/1953, Bác
viết: “Lần này là lần đầu tiên, các chú nhận một nhiệm vụ quan trọng và vẻ vang như
nhiệm vụ này, tức là giúp nhân dân nước bạn. Mà giúp nhân dân nước bạn tức là mình tự
giúp mình”.
1.3.3. Quan điểm về những nguyên tắc xây dựng đạo đức cách mạng
a. Nói đi đôi với làm, nêu gương đạo đức
Nói đi đôi với làm là nét đẹp trong đạo đức truyền thống của dân tộc được Hồ Chí
Minh nâng lên một tầm cao mới. Người coi đây là nguyên tắc quan trọng bậc nhất trong
xây dựng nền đạo đức mới. Nguyên tắc cơ bản này là sự thống nhất giữa lý luận và thực
tiễn, đã trở thành phương pháp luận trong cuộc sống và là nền tảng triết lý sống hết sức
bình dị mà vô cùng sâu sắc của Người. 
“Nói đi đôi với làm” là đặc trưng bản chất của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, đối
lập hoàn toàn với thói đạo đức giả, nói một đằng làm một nẻo, nói nhiều làm ít, thậm chí
nói mà không làm.
Nêu gương về đạo đức là một nét đẹp truyền thống văn hóa phương Đông. Vậy nên,
Hồ Chí Minh đã đào tạo các thế hệ cán bộ cách mạng Việt Nam không chỉ bằng lý luận
cách mạng tiền phong mà còn bằng chính tấm gương đạo đức cao cả của mình. Lời nói đi
đôi với việc làm phải gắn liền với nêu gương về đạo đức.
Theo Hồ Chí Minh, hơn bất cứ một lĩnh vực nào khác, trong việc xây dựng một nền
đạo đức mới, đạo đức cách mạng phải đặc biệt chú trọng “đạo làm gương”. Người nói:
“Lấy gương người tốt, việc tốt để hàng ngày giáo dục lẫn nhau là một trong những cách
tốt nhất để xây dựng Đảng, xây dựng các tổ chức cách mạng, xây dựng con người mới,
cuộc sống mới”.

13
b. Xây đi đôi với chống
Hồ Chí Minh cho rằng, nguyên tắc xây đi đôi với chống là đòi hỏi của nền đạo đức
mới, thể hiện tính nhân đạo chiến đấu vì mục tiêu của sự nghiệp cách mạng; “xây” là xây
dựng các giá trị, các chuẩn mực đạo đức mới; “chống” là chống các biểu hiện, các hành
vi vô đạo đức, suy thoái đạo đức.
Để xây dựng một nền đạo đức mới, cần phải kết hợp chặt chẽ giữa xây và chống. Xây
phải đi đôi với chống, muốn xây phải chống, chống nhằm mục đích xây, lấy xây làm
chính. Hồ Chí Minh quan niệm “Mỗi con người đều có thiện và ác ở trong lòng. Ta phải
biết làm cho phần tốt ở trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị
mất dần đi, đó là thái độ của người cách mạng”.
Hồ Chí Minh cho rằng, trên con đường đi tới tiến bộ và cách mạng, đạo đức mới chỉ
có thể được xây dựng thành công trên cơ sở kiên trì mục tiêu chống chủ nghĩa đế quốc,
chống những thói quen lạc hậu, phải loại trừ chủ nghĩa cá nhân. Tuy nhiên, Người lưu ý:
“ Đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân không phải là “giày xéo lên lợi ích cá nhân””.
c. Tu dưỡng đạo đức suốt đời
Theo Hồ Chí Minh, tu dưỡng đạo đức như một cuộc cách mạng trường kỳ, gian khổ,
phải tiến hành kiên trì, thường xuyên, liên tục. Một nền đạo đức mới chỉ có thể được xây
dựng trên cơ sở tự giác tu dưỡng đạo đức mỗi người.
Tu dưỡng đạo đức là đòi hỏi mỗi người phải tự giác rèn luyện thông qua hoạt động
thực tiễn, qua công việc, trong các mối quan hệ của mình, phải nhìn thẳng vào mình,
không tự lừa dối, huyễn hoặc; phải thấy rõ cái hay, cái tốt, cái thiện của mình để phát huy
và thấy rõ cái dở, cái xấu, cái ác của mình để khắc phục.
Người đòi hỏi mọi người phải thường xuyên được giáo dục và tự giáo dục về mặt đạo
đức. Người chỉ rõ: “Muốn cải tạo thế giới và cải tạo xã hội thì trước hết phải tự cải tạo
bản thân chúng ta”. Từ thực tiễn, Người tổng kết sâu sắc: “Đạo đức cách mạng không
phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và
củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”.

14
CHƯƠNG II: LIÊN HỆ VỚI QUÁ TRÌNH TU DƯỠNG ĐẠO ĐỨC
CỦA SINH VIÊN ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI HIỆN NAY
2.1. Thực trạng quá trình tu dưỡng đạo đức của sinh viên Đại học Thương mại
Trong giai đoạn hiện nay, cùng với xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng giao lưu
về văn hóa thì việc tu dưỡng đạo đức của sinh viên cũng chịu nhiều tác động to lớn. Cũng
từ đó, ý thức đạo đức của sinh viên Việt nam nói chung và sinh viên Đại học Thương mại
nói riêng có những thay đổi cả tích cực lẫn tiêu cực.
2.1.1. Tích cực
 Sinh viên trường ĐHTM luôn có tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, lòng tin
vào Đảng, vào mục tiêu và đường lối đúng đắn của Đảng.
Khi tình hình dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, sinh viên ĐHTM luôn nghiêm túc
thực hiện các chỉ thị của Chính phủ đề ra. Các bạn còn tích cực, chủ động tham gia công
tác hỗ trợ phòng chống dịch tại địa phương, khai thác tối đa các phương tiện truyền thông
: Facebook, Tik tok truyền đi những thông điệp tích cực, giúp mọi người giữ vững tinh
thần vượt qua đại dịch. Sinh viên ĐHTM cũng đạt nhiều giải cao trong cuộc thi về tìm
hiểu về tư tưởng Hồ Chí Minh, về lịch sử, văn hóa đất nước.
Rất nhiều bạn sinh viên với thành tích học tập, rèn luyện, hoạt động Đoàn đội xuất
sắc, đủ tiêu chuẩn kết nạp vào Đảng. Việc sinh viên nỗ lực, phấn đấu trở thành Đảng viên
là tín hiệu đáng mừng, cho thấy các bạn rất quan tâm đến vấn đề chính trị đất nước. Điều
này thể hiện ở việc sinh viên thường xuyên theo dõi, cập nhật tin tức thời sự, hoạt động,
sự kiện của nhà trường, kế hoạch đào tạo các năm học...Các cuộc thi Nhà trường phát
động “ Sinh viên 5 tốt” với “Học tập tốt – Đạo đức tốt – Thể lực tốt – Tình nguyện tốt –
Hội nhập tốt” luôn nhận được sự quan tâm rất lớn từ đông đảo sinh viên, trở thành phong
trào học tập các bạn cố gắng theo đuổi và chinh phục.
 Noi theo Bác về lòng yêu thương con người, sống tình nghĩa, sinh viên ĐHTM hết
lòng giúp đỡ những hoàn cảnh khó khăn bằng những thấu hiểu, sẻ chia.
Truyền thống này thể hiện ở hoạt động tình nguyện tích cực, đầy ý nghĩa của các bạn.
Có nhiều câu lạc bộ do Trường, khoa lãnh đạo với những hoạt động tình nguyện năng nổ,
tích cực, thu hút sự tham gia đông đảo của các bạn sinh viên, giúp ích cho nhiều cá nhân
có hoàn cảnh khó khăn, cơ nhỡ. Tiêu biểu trong đó phải kể đến câu lạc bộ tình nguyện
trực thuộc đoàn trường Đại học Thương Mại “TTX – TMU Tuổi trẻ xanh”. Trải qua hơn
15
10 năm xây dựng và phát triển, câu lạc bộ đã có nhiều chương trình, hoạt động và phong
trào ý nghĩa. Mới đây nhất, chương trình tình nguyện “Đông Ấm 2023” đã thu hút sự
tham gia, đóng góp của nhiều giảng viên, tình nguyện viên CLB, sinh viên trường trong
Lễ phát động “Gói Tết - Đan Tình” : gói bánh chưng tặng người vô gia cư ở đường phố
Hà Nội và chuyến đi “Mang nắng về xóm Xô” với số tiền quyên góp 15.860.000 đồng,
1500 bộ quần áo, gần 50kg sách vở cũ.
Trường còn có “Đội Máu Thương Mại”. Trải qua hơn 20 năm phát triển, Đội đã và
đang hoạt động với nhiệm vụ và sứ mệnh cao cả : tổ chức, vận động hiến máu nhân đạo
khu vực Mai Dịch, Cầu Giấy. Trong suốt hành trình phát triển, Đội luôn lan tỏa hành
động và chương trình với ý nghĩa tích cực đến sinh viên, tiêu biểu là chương trình hiến
máu “Điều ước cho em”. Năm 2020, chương trình đã thu về 1155 đơn vị máu, giúp đỡ
3000 người cần máu. Năm 2021, chương trình thu hút 500 tình nguyện viên, thu về 1100
đơn vị máu.
 Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cao tính tự giác trong học tập, sinh viên ĐHTM cũng nỗ
lực học tập, rèn luyện để mở rộng vốn hiểu biết, nâng cao kết quả học tập, đạt
nhiều thành tích vượt trội.
Ở các tiết học giảng đường tương tác với giáo viên, sinh viên ĐHTM năng nổ phát
biểu ý kiến, trao đổi với thầy cô, bạn bè. Trong quá trình học tập hay ở các buổi thảo luận
chuyên đề, các bạn luôn có ý thức tự giác tổ chức, sắp xếp phân công công việc, nâng cao
kỹ năng mềm : làm việc nhóm, thuyết trình. Các nhóm chủ động, hăng hái đưa ra câu hỏi
phản biện, nhận xét, đóng góp, bổ sung đề tài để buổi thảo luận diễn ra hiệu quả.
Sinh viên trường còn nhiều lần góp mặt trong các cuộc thi lớn như Young Marketers
Dentsu Redder, Unilever Future Leaders Program, P&G CEO Challenge, Vietnam Young
Logistics Talents...
Mỗi năm, hàng trăm sinh viên đạt được học bổng từ nhà trường và học bổng du học.
Các cuộc thi chuyên ngành do khoa, nhà trường tổ chức luôn được đông đảo sinh viên
hưởng ứng: Cuộc thi “Tài năng trẻ Logistics TMU”, “Kinh doanh quốc tế thời kỳ hội
nhập”,  hay TAC TMU Accounting - Auditing - Challenge. Sinh viên trường còn nhiều
lần góp mặt trong các cuộc thi lớn như Young Marketers Dentsu Redder, Unilever Future
Leaders Program, P&G CEO Challenge, Vietnam Young Logistics Talents…

16
Bên cạnh đó, hoạt động nghiên cứu khoa học cho sinh viên được nhà trưởng tổ chức
thường niên, quan tâm phát triển khuyến khích, luôn thu hút đông đảo số lượng sinh viên
tham gia. Theo số liệu thống kê, lượng đề tài nghiên cứu mỗi năm đều tăng lên đáng kể,
riêng năm 2020, nhà trưởng đã khen thưởng nhiều đề tài nghiên cứu cấp Trường và một
đề tài đạt giải thưởng cấp Bộ.
Sinh viên ĐHTM còn gây ấn tượng với nhà tuyển dụng nhờ khả năng ngoại ngữ tốt,
sự chăm chỉ, biết lắng nghe, học hỏi và đặc biệt là thành thạo những kỹ năng mềm. Ngoài
kiến thức chuyên ngành, sinh viên ĐHTM cũng nổi trội trong các hoạt động ngoại khóa,
các chứng chỉ tin học, ngoại ngữ, thiết kế,..
 Thực hiện tấm gương đạo đức cần, kiệm, liêm, chính, sinh viên ĐHTM luôn là
những tấm gương cần cù, chăm chỉ trong học tập và cuộc sống
Có rất nhiều sinh viên đã học hỏi nhiều kỹ năng mới, chủ động tìm kiếm việc làm để
có thể tự chủ tài chính, giảm bớt gánh nặng cho gia đình, một phần để thoát ly khỏi sách
vở, trở nên dạn dĩ hơn, có kinh nghiệm hơn trong mọi việc. Hầu hết các bạn cũng học
được cách quản lý chi tiêu sao cho phù hợp nhất với hoàn cảnh, không đua đòi, không rơi
vào các tệ nạn, cũng giữ vững tinh thần trong sạch, vững mạnh theo tấm gương của Bác.
 Với tấm gương xây dựng tinh thần quốc tế thủy chung, trong sáng, sinh viên
ĐHTM luôn có thái độ cư xử đúng mực với bạn bè quốc tế, đặc biệt là những du
học sinh đang theo học tại trường.
Các bạn luôn sẵn sàng giúp đỡ, không phân biệt màu da, không phân biệt chủng tộc,
đoàn kết, tương trợ lẫn nhau để tạo môi trường học tập hiệu quả. Bên cạnh đó, sinh viên
ĐHTM cũng luôn tìm cơ hội để hợp tác quốc tế thông qua những cuộc thi, những dự án
học bổng du học, ngày càng chứng minh được những truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
Như vậy, được tiếp thu tư tưởng Hồ Chí Minh, hiểu thế nào là tình yêu nước, thương
người, sống có tình nghĩa, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, tinh thần quốc tế trong
sáng, vậy nên phần lớn sinh viên Đại học Thương mại vẫn giữ được lối sống tình nghĩa,
trong sạch, lành mạnh, khiêm tốn, luôn cần cù và sáng tạo trong học tập. Họ sống có bản
lĩnh, có chí lập thân, lập nghiệp, năng động, nhạy bén, dám đối mặt với những khó khăn
thách thức, dám chịu trách nhiệm, không ỷ lại, chây lười; luôn gắn bó với nhân dân, luôn
đồng hành cùng sự phát triển của dân tộc. 

17
2.1.2. Hạn chế
Bên cạnh những mặt tích cực, vẫn còn tồn tại những mặt tiêu cực trong lối sống đạo
đức của học sinh, sinh viên hiện nay.
Còn một bộ phận sinh viên đang mải mê theo đuổi những giá trị vật chất thấp kém,
tầm thường mà quên đi trách nhiệm, nghĩa vụ lớn lao của mình đối với Tổ quốc, với non
sông đất nước. Thói quen đua đòi, hưởng thụ, chạy theo những thói hư tật xấu, những tệ
nạn xã hội và cả “những tấm gương xấu”; sa vào lối sống ảo, cuồng thần tượng; sống
thiếu lý tưởng, không có niềm tin, không có sự định hướng một cách đúng đắn. Đây vẫn
còn là hiện tượng tồn tại ở một bộ phận sinh viên Đại học Thương mại nói riêng và sinh
viên Việt Nam nói chung.
- Nhiều bạn sinh viên chưa có ý thức tu dưỡng đạo đức, tư tưởng “cần, kiệm, liêm,
chính, chí công vô tư” vẫn chưa được thực hiện ở nhiều bạn. Tình trạng lười học, thường
xuyên nghỉ học, ngủ trong giờ học, trốn học, đến muộn về sớm vẫn còn diễn ra khá
nhiều. Thời gian dành cho việc tự học, hay nghiên cứu tài liên quan còn hạn chế. Nhiều
bạn sinh viên không nỗ lực trong học tập, chỉ học mang tính chất đối phó. Các bạn có suy
nghĩ, “thi rồi học”, thậm chí nhiều bạn còn không học. Thay vào đó, sử dụng “phao” dưới
nhiều hình thức khác nhau. Về tiết kiệm, cũng có những bạn chưa có ý thức đóng cửa khi
ra vào phòng bật điều hòa,... gây lãng phí cho nhà trường.
- Trong quá trình lên lớp, một bộ phận sinh viên thờ ơ với bài giảng của thầy cô,
không chuẩn bị bài hoặc chưa chú ý vào bài giảng. Nhiều bạn còn có thái độ không đúng
mực với giảng viên.
- Có những sinh viên chưa có ý chí và nghị lực tinh thần. Nhiều sinh viên không
xác định được ngành nghề mơ ước, chọn theo trào lưu dẫn đến kết quả học tập không
cao. Hoặc có những bạn lựa chọn làm trái ngành để có thu nhập cao mà không thật sự
đam mê hay hiểu biết.
- Nhiều bạn sinh viên tiếp thu văn hóa nước ngoài một cách sai lầm. Các bạn du
nhập phim ảnh, sách báo văn hóa nước ngoài không phù hợp mà quên đi truyền thống tốt
đẹp của dân tộc. Đi ngược lại với quan điểm “Hòa nhập nhưng không hòa tan”.
- Tư tưởng của một bộ phận sinh viên còn lệch lạc. Dưới sự tác động ồ ạt của nền
kinh tế thị trường, dường như giới trẻ ngày nay luôn nhìn sự vật dưới con mắt của người

18
tư bản. Họ còn nghi ngờ vào chế độ xã hội chủ nghĩa. Nhiều sinh viên đã đánh mất niềm
tin vào chủ nghĩa xã hội.
- Vẫn còn một bộ phận sinh viên không có chí hướng rõ ràng, chưa hiểu biết đầy
đủ truyền thống cách mạng của Đảng, của dân tộc, ít quan tâm đến tình hình của đất
nước, quốc tế. Một bộ phận sinh viên “nhạt Đảng, phai Đoàn, xa chính trị”, không có ý
thức vươn lên trong học tập và rèn luyện, có những sinh viên giảm sút niềm tin, thiếu
niềm tin, bản lĩnh non kém, thậm chí bị các thế lực thù địch lôi kéo, kích động tham gia
vào các hoạt động vi phạm pháp luật.
- Nét tiêu cực trong lối sống của sinh viên còn thể hiện trong việc nhìn nhận một
cách sai lầm về giá trị cuộc sống. Đó là hiện tượng sùng bái giá trị vật chất. Nhiều bạn
lấy đồng tiền làm thước đo giá trị trong cuộc sống, xem thường giá trị tinh thần. Không ít
sinh viên đã sử dụng đồng tiền gây ra nhiều chuyện sai trái. Lối sống hưởng thụ dẫn đến
nhiều vấn đề tiêu cực khác trong sinh viên. Tệ nạn xã hội như trộm cắp, nghiện hút ma
túy,…
- Một bộ phận sinh viên có lối sống buông thả, thực dụng, không phù hợp với tác
phong, hình ảnh sinh viên. Tiêu biểu là chủ nghĩa cá nhân có xu hướng tăng trong giới trẻ
ngày nay. Nhiều bạn chỉ quan tâm tới những lợi ích cá nhân trước mắt mà quên mất lợi
ích tập thể, thậm chí chà đạp lên lợi ích của người khác. Vì đồng tiền, vì lợi ích cá nhân,
một số thanh niên còn bất chấp tất cả: luật pháp, gia đình, bạn bè… Một số khác sống
không động chạm đến ai, nhưng cũng không quan tâm đến ai, chỉ cần biết đến mình. Số
này chỉ quan tâm đến việc học tập chuyên môn; tập trung vào việc đi học, sau đó, đi làm
thêm, ít quan tâm tới các vấn đề xã hội, chính trị; ít tham gia các phong trào, các hoạt
động xã hội.
- Lối sống suy thoái đạo đức của sinh viên vẫn còn tồn tại. Thể hiện ở việc không
chấp hành quy định của pháp luật về giao thông (Ví dụ nhiều sinh viên khi tham gia giao
thông còn chưa ý thức về việc đội mũ bảo hiểm, còn lạng lách, đánh võng. vượt đèn đỏ
làm ảnh hưởng tới tính mạng của chính sinh viên, ảnh hưởng tới hình ảnh trường Đại học
Thương mại); hay là việc lên xe bus còn chưa có ý thức nhường chỗ cho người già, trẻ
nhỏ,...
2.1.3. Nguyên nhân của những biểu hiện tiêu cực
 Nhận thức của sinh viên

19
Các bạn chưa nhận thức rõ hậu quả về hành vi bản thân mình gây ra, chưa phân biệt
rõ điều đúng để hành động mà còn làm theo cảm tính, cảm hứng. Một phần do cuộc sống
sinh viên gặp gỡ được nhiều bạn bè nhiều tỉnh thành phố nên bị lôi kéo hay đua đòi thể
hiện bản thân với mọi người, bạn bè cùng trang lứa và hiện tượng câu like trên các trang
mạng xã hội, theo phong trào “ bằng bạn bằng bè” minh chứng cho sự thể hiện đó. Do lên
đại học không có sự ràng buộc từ gia đình nên sinh viên có cơ hội ăn chơi thả ga, sống vô
kỷ luật và tiếp xúc với những môi trường chưa lành mạnh nên đạo đức của sinh viên ngày
một đi xuống.
 Yếu tố gia đình
Giáo dục gia đình là một môi trường giáo dục quan trọng bậc nhất đối với sự hình
thành, phát triển nhân cách và định hướng lối sống của thanh niên. Có những gia đình
khá sung tác nhưng do bố mẹ mải làm ăn, lo kiếm tiền hoặc có những gia đình có hoàn
cảnh kinh tế quá khó khăn nên bố mẹ không thể nuôi dạy và quan tâm đến con cái , đặc
biệt lại là sinh viên đại học vừa khó kiểm soát vừa xa bố mẹ.
Cách giáo dục gia đình không đúng cũng gây ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển
nhân cách, định hướng lối sống của sinh viên, khiến cho sinh viên rơi vào tình trạng sa
vào tệ nạn xã hội, đạo đức đi xuống.
 Yếu tố xã hội
Khi nền kinh tế phát triển công nghệ 4.0 thì dẫn đến các trang mạng xã hội ngày
được mở rộng và đa dạng hơn. Hiện tại số đông sinh viên đều tiếp xúc với các trang
mạng xã hội có xen lẫn nhiều yếu tố tiêu cực như : Facebook, Tiktok… Tác động tiêu cực
lớn nhất mà Internet và các phương tiện truyền thông hiện đại gây ra là dẫn dắt họ vào
thế giới ảo. Một bộ phận sinh viên trở nên nghiện ngập với những trò chơi game , tiểu
thuyết hoặc các mạng xã hội không lành mạnh. Nhiều sinh viên tiếp cận các trang mạng
xã hội với những thông tin tràn lan, thiếu giáo dục, thiếu đạo đức và áp dụng theo đó dẫn
đến kéo theo hành vi ngày một nghiêm trọng và gây xôn xao giới truyền thông như đú
trend Tiktok hay Facebook…
 Yếu tố nhà trường và giáo dục học đường
Nhà trường và giáo dục học đường là một trong những yếu tố tác động nhất đối với
sự phát triển nhân cách và định hướng lối sống của sinh viên. Hiện tại thì giáo dục đạo
đức còn mang tính hình thức, nặng lý thuyết, chưa sát với tình hình thực tiễn của sinh

20
viên hiện nay. Nội dung giáo dục còn nghèo nàn, chủ yếu được lồng ghép vào các môn
học lý luận chính trị ở các trường đại học, với hình thức chưa đa dạng. Hơn nữa, sự phối
hợp giữa giáo dục nhà trường, gia đình và xã hội trong công tác giáo dục đạo đức, lối
sống cho sinh viên còn lỏng lẻo. Một bộ phận của hiện tượng tha hóa, biến chất, vi phạm,
đạo đức nghề nghiệp của bộ phận giảng viên, làm vẩn đục môi trường giáo dục nhà
trường.
2.2. Giải pháp thúc đẩy quá trình tu dưỡng đạo đức của sinh viên Đại học Thương
mại
2.2.1. Đối với các cấp lãnh đạo và nhà trường
Một là, thường xuyên chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng, lối sống trong sạch, lành
mạnh cho sinh viên: Chú trọng giáo dục làm cho thanh niên nhận thức đúng các giá trị
chân, thiện, mỹ, những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, từ đó hình thành lối sống
trong sạch, lành mạnh, những hành vi đạo đức trong sáng phù hợp với các giá trị truyền
thống tốt đẹp của dân tộc và thời đại.
Hai là, tạo môi trường giáo dục lành mạnh, thân thiện, nhân văn. Môi trường giáo
dục là một trong những yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến việc giáo dục hành vi đạo đức của
sinh viên. Mỗi thầy cô giáo là một tấm gương về lòng yêu nghề, trách nhiệm, nhiệt huyết,
say mê nghiên cứu và có thái độ quan tâm đến sinh viên, đồng nghiệp và cộng đồng; khơi
dậy tinh thần, ý thức, lòng hăng say học tập, nghiên cứu của sinh viên; đồng thời định
hướng, tạo điều kiện thuận lợi cho sinh viên tự tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, duy trì và
tiếp nối các truyền thống, các giá trị văn hóa, tiếp thu liên tục và có chọn lọc các giá trị
văn hóa mới.
Ba là, xây dựng, điều chỉnh chương trình đào tạo, giáo trình chi tiết, để một số môn
học có sự lồng ghép, tích hợp nội dung giáo dục đạo đức, lối sống cho sinh viên. Nhà
trường cần lồng ghép nội dung giáo dục đạo đức lối sống vào một số môn học phù hợp.
Mặt khác, cần đa dạng hóa các hình thức, phương pháp dạy học, kích thích học sinh lĩnh
hội kiến thức chuyên môn, cung cấp cho sinh viên những nội dung giáo dục đạo đức, lối
sống.
Bốn là, phát huy hết vai trò của tổ chức Công đoàn do nhà trường tổ chức trong việc
rèn luyện giáo dục đạo đức, kỹ năng sống cho sinh viên. Tổ chức các hoạt động văn
nghệ, thể thao, hoạt động tình nguyện và các cuộc thi khác dưới nhiều hình thức, thu hút

21
sinh viên tham gia, giúp sinh viên hiểu biết sâu sắc về đường lối, chính sách của Đảng và
Nhà nước, tiếp thu kiến thức mới, trau dồi lý tưởng sống, hình thành và nâng cao trình độ
cần thiết, kỹ năng sống cho bản thân mình.
2.2.2. Đối với bản thân sinh viên
Với quan điểm đạo đức là gốc của người cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi
trọng việc giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho đoàn viên, thanh niên. Người
thường xuyên động viên tuổi trẻ tu dưỡng đạo đức, không ngừng học tập vươn lên để
xứng đáng là người chủ tương lai của nước nhà. Để nâng cao chất lượng, hiệu quả việc tu
dưỡng đạo đức trong giai đoạn hiện nay, sinh viên trường Đại học Thương Mại cần tập
trung thực hiện tốt một số vấn đề chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, xác định rõ những nội dung tu dưỡng, rèn luyện đạo đức trong tình hình
hiện nay.
Trong mỗi giai đoạn cách mạng, việc tu dưỡng đạo đức đều có những yêu cầu cụ thể
khác nhau. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, nội hàm đạo đức căn bản trong xã hội mới – xã
hội chủ nghĩa chính là đạo đức cách mạng. Các chuẩn mực đạo đức có mối quan hệ biện
chứng, tác động lẫn nhau trong suốt quá trình rèn luyện của mỗi thanh niên Việt Nam nói
chung và sinh viên Đại học Thương Mại nói riêng, yêu cầu khách quan đòi hỏi mọi thanh
niên phải tu dưỡng, rèn luyện toàn diện các chuẩn mực đạo đức cách mạng, không được
coi nhẹ chuẩn mực nào.
Thứ hai, tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cần được tiến hành thường xuyên, liên tục,
suốt đời
Trong tình hình hiện nay, do tác động của toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế và mặt trái
của kinh tế thị trường, còn một bộ phận sinh viên đang mải mê theo đuổi những giá trị
vật chất tầm thường mà quên đi trách nhiệm, nghĩa vụ lớn lao của mình đối với Tổ quốc,
chạy theo thói quen đua đòi, hưởng thụ, những thói hư tật xấu, sống thiếu lý tưởng. Vì
vậy, việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức theo tư tưởng Hồ Chí Minh là hết sức cần thiết và
quan trọng, đòi hỏi sinh viên luôn phải đấu tranh, rèn luyện thường xuyên và liên tục.
Mặt khác, đạo đức cách mạng không phải là cái có sẵn, mà là kết quả của sự đấu
tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày của mỗi con người. Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn:
“Đường đời là một chiếc thang không có nấc chót; học tập là một quyển vở không có
trang cuối cùng”. Nghĩa là mỗi sinh viên phải tự giác rèn luyện, không ngừng học tập

22
nâng cao trình độ, gương mẫu xung phong trong mọi công việc, bao gồm cả việc tu
dưỡng đạo đức. Có như vậy, việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của sinh viên theo tư
tưởng, tấm gương đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh mới đạt được mục tiêu đề ra.
Thứ ba, gắn việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức với thực tiễn trong hoạt động học tập,
lao động, công tác, trong các mối quan hệ của bản thân
Việc tự tu dưỡng, rèn luyện đạo đức đòi hỏi sinh viên phải biết rèn luyện mình trong
thực tiễn xã hội bởi thực tiễn xã hội rất phong phú, là nơi kiểm nghiệm quan điểm, lý
luận và mọi hiện tượng, sự vật trong cuộc sống; là nơi con người được thử thách và rèn
luyện về nhiều mặt. Thực tiễn tu dưỡng đạo đức của sinh viên là thực tiễn trong học tập,
lao động, công tác và được thể hiện trong ba mối quan hệ đối với mình, đối với việc và
đối với người.

23
KẾT LUẬN
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một tấm gương sáng về đạo đức, chúng ta cần luôn phát
huy tinh thần học tập tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi
mới đất nước do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng, bên cạnh việc xây dựng những
phẩm chất đạo đức tốt đẹp. Trung với nước, hiếu với dân, thương người, cần kiệm liêm
chính, chí công vô tư, tinh thần quốc tế trong sáng là những đức tính cao đẹp được nêu
trong di sản của Người, chúng ta còn phải đấu tranh quyết liệt chống các tệ nạn xã hội
nảy sinh trong nền kinh tế thị trường đang làm phương hại đến nền đạo đức. Những sai
lầm trong quá khứ khiến chúng ta nhận thức được hậu quả khi xa rời tư tưởng của Bác.
Với tư cách là những chủ nhân tương lai nước nhà, thế hệ trẻ nói chung và sinh viên Đại
học Thương Mại nói riêng luôn phấn đấu cố gắng rèn luyện đạo đức và học tập chăm chỉ
để trở thành người có ích cho xã hội, cống hiến hết mình cho nước nhà thêm văn minh,
tươi đẹp, đưa những hình ảnh tươi sáng nhất, đẹp đẽ nhất của chủ tịch Hồ Chí Minh và
công dân Việt Nam vươn tầm thế giới.

24
ĐỀ CƯƠNG ĐỀ TÀI PHỤ: PHÂN TÍCH CÁC THỜI KỲ HÌNH
THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH.
CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÝ THUYẾT
1. Quá trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh
1.1. Thời kỳ trước năm 1911: Hình thành tư tưởng yêu nước và chí hướng tìm đường
cứu nước mới
Trong thời kỳ này, Hồ Chí Minh đã tiếp thu truyền thống tốt đẹp của dân tộc, quê
hương, gia đình để hình thành nên tư tưởng yêu nước và tìm đường cứu nước.
Nguyễn Tất Thành - Hồ Chí Minh sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh nước mất, nhà
tan. Xuất thân trong một gia đình nhà nho yêu nước từ thuở nhỏ, Hồ Chí Minh đã tiếp thu
truyền thống chống ngoại xâm của dân tộc, nền văn hiến của nước nhà và những tinh hoa
văn hóa phương Đông, Người lại được hưởng nền giáo huấn yêu nước, thương nòi của
gia đình, truyền thống đấu tranh bất khuất của đất Lam Hồng. Cụ Nguyễn Sinh Sắc - thân
sinh của Người thường dạy các con: “Đừng lấy phong cách nhà quan làm phong cách nhà
ta”. Tinh thần yêu nước, thương dân và nhân cách của cụ có ảnh hưởng lớn đến nhân
cách, tư tưởng của Hồ Chí Minh thuở niên thiếu.
Đất nước, quê hương, gia đình và nhà trường đã hình thành nên ở người thanh niên
Nguyễn Tất Thành một nhân cách giàu lòng yêu nước, nhân ái, thương người, có hoài
bão cứu nước và thấu hiểu được sức mạnh ý chí độc lập tự cường của dân tộc. Vốn có tư
chất thông minh, linh khiếu chính trị sắc sảo, với ý chí lớn tìm đường cứu nước, cứu dân.
Điểm đặc biệt của tuổi trẻ Hồ Chí Minh là suy ngẫm sâu sắc về Tổ Quốc, thời cuộc. Tuy
rất khâm phục tinh thần yêu nước của các vị tiền bối cách mạng nổi tiếng như Phan Bội
Châu, Phan Châu Trinh, Hoàng Hoa Thám… nhưng Người sáng suốt phê phán, không
tán thành, không đi theo khuynh hướng cứu nước của các vị đó. Hồ Chí Minh muốn tìm
hiểu những gì ẩn giấu sau sức mạnh của kẻ thù và học hỏi kinh nghiệm cách mạng trên
thế giới. Người nói: “Vào trạc tuổi 13, lần đầu tiên tôi nghe những tiếng Pháp “tự do,
bình đẳng, bác ái”. Thế là tôi muốn làm quen với nền văn minh Pháp, tìm xem những gì
ẩn giấu đằng sau những từ mĩ miều ấy. Vì thế tôi nảy ra ý muốn sang xem “Mẫu quốc” ra
sao và tôi tới Pari để học hỏi”. Hiểu rõ tình cảnh nước nhà bị giặc ngoại xâm, Hồ Chí
Minh đã sớm có tư tưởng yêu nước và thể hiện rõ tư tưởng yêu nước trong hành động.
Hồ Chí Minh đã tham gia phong trào chống thuế ở Trung Kỳ năm 1908; là thầy giáo ở
25
Trường Dục Thanh, Phan Thiết. Ngày 5/6/1911, Hồ Chí Minh đi ra nước ngoài tìm
đường cứu nước, cứu dân.
1.2. Thời kỳ 1911 - 1920: Hình thành tư tưởng cứu nước, giải phóng dân tộc Việt
Nam theo con đường cách mạng vô sản
Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng
vô sản được hình thành từng bước trong quá trình Hồ Chí Minh tìm mục tiêu và con
đường cứu nước.
Trước hết, Người đã xác định đúng bản chất, thủ đoạn của chủ nghĩa thực dân và tình
cảnh nhân dân các nước thuộc địa. Tháng 7-1911, Hồ Chí Minh đặt chân lên đất Pháp.
Từ 1911-1917, từ Pháp, Người đến nhiều nước trên thế giới ở châu Á, châu Phi, châu Mỹ
Latinh và các nước đế quốc như Mỹ, Anh để nghiên cứu và tìm lời giải đáp cho câu hỏi
lúc ra đi. Qua cuộc hành trình này đã giúp Người tìm ra mọi cội nguồn những khổ đau
của nhân loại là các nước đế quốc “chính quốc”, ở Người hình thành một nhận thức mới:
Nhân dân lao động các nước đều bị bóc lột có thể là bạn của nhau; các chủ nghĩa đế quốc,
bọn thực dân là kẻ bóc lột, là kẻ thù của nhân dân lao động. Năm 1919, Người gia nhập
Đảng Xã hội của giai cấp công nhân Pháp bởi theo Người, đây là tổ chức theo đuổi lý
tưởng cao quý của Đại Cách mạng Pháp: Tự do, bình đẳng, bác ái.
Bước nhận thức mới về quyền tự do, dân chủ của nhân dân trong tư tưởng Hồ Chí
Minh diễn ra qua hoạt động Người thay mặt những người Việt Nam yêu nước ở Pháp, lấy
tên là Nguyễn Ái Quốc, gửi Yêu sách của nhân dân An Nam đến hội nghị Vécxây nhằm
đòi lại quyền tự do, dân chủ cho nhân dân Việt Nam. Sau đó, nhờ nhận thức rút ra từ thực
tiễn gần 10 năm lăn lộn tìm đường cứu nước nên khi đọc Sơ thảo lần thứ nhất những luận
cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin (7-1920), Hồ Chí Minh tìm thấy
những lời giải đáp đầy thuyết phục cho những câu hỏi của mình. Người viết: “Luận
cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui
mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói
trước quần chúng đông đảo: “Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho
chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta”. Đến đây, Hồ Chí Minh khẳng định con
đường cứu nước của mình: giải phóng dân tộc bằng con đường cách mạng vô sản, gắn
giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp vô sản.

26
1.3. Thời kỳ 1920 - 1930: Hình thành những nội dung cơ bản tư tưởng về cách mạng
Việt Nam
Trong giai đoạn này Nguyễn Ái Quốc hoạt động rất phong phú, tích cực truyền bá
chủ nghĩa Mác- Lênin về nước, chuẩn bị về mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức cho sự ra
đời của Đảng Cộng Sản Việt Nam. Hoạt động thực tiễn và lý luận phong phú trên địa bàn
Pháp như: tích cực hoạt động trong ban nghiên cứu thuộc địa của Đảng xã hội Pháp, các
bài báo tố cáo chủ nghĩa thực dân trong Người cùng khổ tờ Báo “Hội Hợp tác Người
Cùng Khổ” nhằm truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam (từ 1921-1923); Tại
Liên-Xô, dự đại hội Quốc tế Nông dân, dự đại hội V Quốc tế cộng sản (1923-1924);
Trung Quốc: Người về Quảng Châu, tổ chức Việt Nam thanh niên cách mạng, mở lớp
huấn luyện cán bộ; Thái Lan (1928-1929). Các tác phẩm của Nguyễn Ái Quốc như “Bản
án chế độ thực dân Pháp”(1925); “Đường Cách Mệnh” (1927); “Chánh cương vắn tắt,
Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt” (1930) và nhiều bài viết khác của Người trong
giai đoạn này là sự phát triển và tiếp tục hoàn thiện tư tưởng cách mạng về giải phóng
dân tộc. Chỉ ra bản chất của CNTB là “ăn cướp”, “giết người”; là kẻ thù chung của các
dân tộc thuộc địa, của giai cấp công nhân và nhân dân lao động thế giới. Cách mạng giải
phóng dân tộc trong thời đại mới phải đi theo con đường cách mạng vô sản và là một bô
phận của cách mạng vô• sản thế giới.
Như vậy, ngay từ khi Đảng ra đời, Hồ Chí Minh và Đảng ta đã giải quyết đúng đắn
mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, phân tích đúng đắn đặc điểm của xã hội, sắp xếp
đúng vị trí của từng giai cấp, tầng lớp và cá nhân trong lực lượng cách mạng, tạo điều
kiện cho Đảng vừa ra đời đã nắm trọn quyền lãnh đạo cách mạng. Với cột mốc lịch sử
ngày 3-2-1930, tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách mạng Việt Nam đã hình thành
về cơ bản.
1.4. Thời kỳ 1930 - 1941: Vượt qua thử thách, giữ vững đường lối, phương pháp cách
mạng Việt Nam đúng đắn, sáng tạo
Vào giai đoạn này, Quốc tế cộng sản bị chi phối bởi quan điểm “tả khuynh” đã chỉ
trích và phê phán đường lối của Nguyễn Ái Quốc đã vạch ra trong Hội nghị hợp nhất
Đảng (2/1930). Mâu thuẫn giữa Quốc tế cộng sản và Đường lối của Nguyễn Ái Quốc,
Quốc tế cộng sản chỉ trích phê phán đường lối của Nguyễn Ái Quốc trong Chánh cương
vắn tắt và Sách lược vắn tắt đã phạm phải những sai lầm nguy hiểm “Chỉ lo đến việc

27
phản đế, mà quên mất lợi ích giai cấp đấu tranh”. Hội nghị trung ương tháng 10/1930 (tổ
chức tại Hồng Kông) của Đảng ta theo chỉ đạo của Quốc tế cộng sản cũng đã ra Án nghị
quyết, thủ tiêu Chính cương, Sách lược vắn tắt do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo, đổi tên
Đảng là Đảng cộng sản Đông Dương. Trong thời gian từ 6/1931 đến năm 1933, Hồ Chí
Minh đã 2 lần bị thực dân Anh bắt giữ tại Hồng Kông. Họ lấy cớ là Người tuyên truyền
cho cộng sản, âm mưu lật đổ chính phủ Anh. Trong hoàn cảnh đó, Nguyễn Ái Quốc vẫn
bình tĩnh nhưng kiên quyết giữ vững quan điểm của mình. Đại hội VII của Quốc tế Cộng
sản (1935) đã có sự chuyển hướng chiến lược và sách lược. Năm 1936 đề ra “Chính sách
mới” phê phán những biểu hiện “tả khuynh” cô độc, bè phái trước đây. Trên thực tế, từ
đây Đảng đã trở lại với Chính cương, Sách lược vắn tắt của Hồ Chí Minh. Ngày
28/1/1941, Nguyễn Ái Quốc về nước sau 30 năm bôn ba nước ngoài. Cách mạng Việt
Nam từ đây bước vào giai đoạn mới, những quan điểm và đường lối đúng đắn, sáng tạo
theo tư tưởng Hồ Chí Minh có ý nghĩa quyết định chiều hướng phát triển của cách mạng
giải phóng dân tộc ở nước ta, dẫn đến thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
1.5. Thời kỳ 1941 – 1969: Tư tưởng Hồ Chí Minh tiếp tục phát triển, soi đường cho sự
nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta
Trong thời kỳ này, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối của Đảng cơ bản là thống
nhất.
Ngày 19 - 5 - 1941, Hồ Chí Minh sáng lập Mặt trận Việt Minh, ngày 22 - 12 - 1944,
sáng lập Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, tiền thân của Quân đội nhân dân Việt
Nam Ngày 18 - 8 - 1945, Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi Tổng khởi nghĩa giành chính
quyền. Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công lật đổ chế độ phong kiến hơn ngàn
năm, lật đổ ách thống trị của Pháp hơn 80 năm và giành lại độc lập dân tộc từ tay phát xít
Nhật.
Sau năm 1945 tư tưởng Hồ Chí Minh từng bước được phát triển, hoàn thiện cho phù
hợp với tình hình cách mạng Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh được cụ thể hóa và phát
triển thông qua chủ trương "kháng chiến, kiến quốc" (1945-1946); Cuộc kháng chiến
toàn dân, toàn diện, lâu dài, tự lực cánh sinh (1946 -1954); Tiến hành đồng thời hai chiến
lược cách mạng khác nhau ở hai miền để thực hiện một mục tiêu chung giành độc lập cho
dân tộc và thống nhất nước nhà (1954-1969). Sau khi giành được chính quyền Đảng và
nhân dân ta phải tiến hành hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, vừa xây dựng

28
CNXH ở Miền Bắc, vừa đấu tranh giải phóng Miền Nam. Đây là thời kỳ tư tưởng Hồ Chí
Minh được bổ sung, phát triển và hoàn thiện trên một loạt những vấn đề cơ bản sau:
- Về đường lối chiến tranh nhân dân “toàn dân, toàn diện, trường kỳ, tự lực cánh
sinh”.
- Về xây dựng CNXH ở một nước vốn là một nước thuộc địa nửa phong kiến, quá
độ lên CNXH không trải qua chế độ TBCN, trong điều kiện đất nước bị chia cắt và có
chiến tranh.
- Về xây dựng Đảng với tư cách Đảng cầm quyền. Về xây dựng nhà nước kiểu
mới của dân, do dân, vì dân. Về củng cố và tăng cường sự đoàn kết trong phong trào
cộng sản quốc tế và nhân dân các nước đấu tranh cho hòa bình, độc lập, dân chủ và tiến
bộ xã hội.
Trước khi qua đời, Hồ Chí Minh đã để lại “Di Chúc” thiêng liêng. Di chúc nói lên
tình sâu nghĩa nặng của Người đối với dân, đối với nước, đồng thời vạch ra những định
hướng mang tính chất cương lĩnh cho sự phát triển của đất nước và dân tộc sau khi kháng
chiến thắng lợi. Tư tưởng Hồ Chí Minh thực sự là nguồn trí tuệ, nguồn động lực to lớn
soi sáng cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc, đổi mới và phát triển đất nước với
mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội, công bằng, dân chủ văn minh”. Quá trình hình
thành và phát triển của tư tưởng Hồ Chí Minh cũng là quá trình hình thành và phát triển
tư duy lý luận về cách mạng Việt Nam, vận dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác -
Lênin trong việc giải quyết những vấn đề thực tiễn Việt Nam.

29
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. https://hoatieu.vn/tai-lieu/sinh-vien-hoc-tap-va-lam-theo-tu-tuong-tam-guong-dao-
duc-ho-chi-minh-122499
2. Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh trường Đại học Thương Mại
3. https://www.studocu.com/vn/document/dai-hoc-giao-thong-van-tai/tai-lieu-tham-
khao/van-dung-tu-tuong-ho-chi-minh-ve-dao-duc-trong-su-nghiep-xay-dung-dao-
duc-loi-song-moi-trong-hoc-sinh/25483981

30

You might also like