You are on page 1of 30

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP HCM


KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
✡✡

MÔN HỌC: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

TIỂU LUẬN CUỐI KỲ

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ DÂN


TỘC VÀ VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM ĐÓ TRONG
CÔNG CUÔC ĐỔI MỚI HIỆN NAY
GVHD: GVC-TS.Thái Ngọc Tăng
SVTH: MSSV:
Ngô Diệp Quang Huy 20110650
Bùi Sơn Hoàng 18157012
Lê Anh Huy 20144402
Nguyễn Trung Hiếu 20144390
Lớp thứ 4 – Tiết 5-6
LLCT120314_21_1_09

TP.Hồ Chí Minh, Tháng 12 năm 2021


ĐIỂM SỐ

TIÊU CHÍ NỘI DUNG BỐ CỤC TRÌNH BÀY TỔNG

ĐIỂM

NHẬN XÉT
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………

Ký tên

TS. Thái Ngọc Tăng


BẢNG PHÂN CÔNG NHIỆM VỤ

THỨ TỰ NHIỆM VỤ THỰC HIỆN KẾT QUẢ KÝ TÊN

1 Phần mở đầu, Kết luận, Ngô Diệp Quang Huy Hoàn thành tốt Huy
chỉnh sửa tiểu luận

2 Chương 1: Nguồn gốc hình Bùi Sơn Hoàng Hoàn thành tốt Hoàng
thành tư tưởng Hồ Chí Minh
về vấn đề dân tộc

3 Chương 2: Tư tưởng Hồ Chí Lê Anh Huy Hoàn thành tốt Huy


Minh về vấn đề dân tộc

4 Chương 3: Vận dụng những Nguyễn Trung Hiếu Hoàn thành tốt Hiếu
quan điểm đó trong công
cuộc đổi mới hiện nay.
MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1

1. Lý do chọn đề tài....................................................................................................... 1

2. Mục đích nhiệm vụ nghiên cứu đề tài..................................................................... 2

3. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu đề tài .................................................. 2

1.1. Cơ sở lý luận ....................................................................................................... 2

1.2. Phương pháp nghiên cứu .................................................................................. 2

4. Kết cấu đề tài ............................................................................................................ 3

CHƯƠNG 1:NGUỒN GỐC HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ


VẤN ĐỀ DÂN TỘC .......................................................................................................... 4

1. Chủ nghĩa Mac -Lê Nin - nguồn gốc lý luận hình thành tư tưởng Hồ Chí
Minh về vấn đề dân tộc ............................................................................................ 4

2. Hoạt động thực tiễn – cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề
dân tộc........................................................................................................................ 6

CHƯƠNG 2: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC ........................... 8

1. Vấn đề dân tộc thuộc địa ......................................................................................... 8

1.1. Thực chất của vấn đề dân tộc thuộc địa .......................................................... 8

1.2. Độc lập dân tộc – nội dung cốt lõi của vấn đề dân tộc thuộc địa ................. 10

1.3. Chủ nghĩa dân tộc – Một động lực lớn của đất nước ................................... 11

2 Mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp ........................................... 12

2.1. Vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp có quan hệ chặt chẽ với nhau ................ 12

2.2. Giải phóng dân tộc là vấn đề trên hết, trước hết độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội .................................................................................. 12

2.3. Giải phóng dân tộc tạo tiền đề để giải phóng giai cấp .................................. 12

2.4. Giữ vững độc lập của dân tộc mình, đồng thời tôn trọng độc lập của
các dân tộc khác ............................................................................................... 14

CHƯƠNG 3: VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM ĐÓ TRONG CÔNG CUỘC ĐỔI .............. 15
1. Quan điểm vận dụng của Đảng ta về vấn đề dân tộc trong công cuộc đổi
mới đất nước ............................................................................................................. 15

1.1. Khơi dậy sức mạnh chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc, nguồn
động lực mạnh mẽ để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ........................................ 15

1.2. Chăm lo xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, giải quyết tốt mối quan hệ
giữa các dân tộc anh em trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam .................. 15

1.3. Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh nhận thức và giải quyết vấn đề dân
tộc trên quan điểm giai cấp ............................................................................... 16

2. Những thành tựu đạt và hạn chế của Đảng khi vận dụng những quan điểm
đó trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay ...................................................... 18

2.1. Thành tựu của Đảng khi vận dụng những quan điểm đó trong công
cuộc đổi mới đất nước hiện nay ........................................................................ 19

2.2. Những hạn chế của Đảng khi vận dụng những quan điểm đó trong
công cuộc đổi mới đất nước hiện nay. ................................................................ 22

KẾT LUẬN ........................................................................................................................ 24

TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................................ 25


PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Trong tất cả các quan hệ xã hội phong phú và phức tạp giữa người với người,
quan hệ giai cấp và quan hệ dân tộc có tác động mạnh mẽ và sâu sắc đến sự định hướng
cuộc sống của mỗi con người ở thời đại hiện nay. Ở mọi dân tộc, quốc gia trên thế giới,
nhất là những dân tộc, quốc gia đã từng bị chủ nghĩa đế quốc, thực dân xâm lược, áp
bức trên cơ sở duy trì chế độ bóc lột ở bên trong, ý thức giải phóng dân tộc của nhân
dân là động lực to lớn và khi nó kết hợp với ý thức giải phóng giai cấp của những người
lao động nó trở thành nhân tố quyết định đối với sự phát triển và tiến bộ của đất nước.
Vấn đề dân tộc và giai cấp được coi là cơ sở quan trọng nhất trong hoạch định và thực
hiện chiến lược phát triển ở mỗi dân tộc và mỗi quốc gia.

Thế giới ngày nay đang có những biến đổi nhanh chóng và phức tạp, tác động
mạnh mẽ đến xu hướng phát triển của nhân loại và con đường phát triển của mỗi quốc
gia dân tộc. Những biến đổi đó đã làm cho mối quan hệ giữa các dân tộc lại càng phức
tạp. Đây cũng là vấn đề thời sự cấp bách, đòi hỏi phải được nhận thức và giải quyết
đúng đắn trong cuộc đấu tranh tư tưởng hiện nay.

Hiện nay, nước ta đang tiếp tục công cuộc đổi mới, thực hiện công nghiệp hóa,
hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa, mở rộng quan hệ quốc tế, hội nhập với
khu vực với thế giới. Sự nghiệp đổi mới đòi hỏi phải huy động sức mạnh to lớn của khối
đại đoàn kết dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản. Trong bối cảnh quốc tế có
những diễn biến phức tạp, các thế lực thù địch đang thực hiện chiến lược “diễn biến hòa
bình” chống phá sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta, nhằm phủ nhận vai trò lãnh đạo
của giai cấp công nhân, phủ nhận chủ nghĩa xã hội, gây chia rẽ, mất đoàn kết giữa các
dân tộc. Đối với chúng ta, hai nhiệm vụ chiến lược hiện nay phải được giải quyết đầy
đủ và đúng đắn đó là xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa,
bảo vệ độc lập chủ quyền dân tộc gắn liền với việc xây dựng thành công chủ nghĩa xã
hội. Đó cũng chính là giải quyết tốt mối quan hệ dân tộc với giai cấp, dân tộc Việt Nam
với cộng đồng thế giới đang đặt ra hiện nay. Vì vậy nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí minh
về vấn đề dân tộc có ý nghĩa hết sức to lớn cả về lý luận và thực tiễn trong sự nghiệp
đổi mới ở nước ta hiện nay.
1
2. Mục đích nhiệm vụ nghiên cứu đề tài

Mục đích

Đề tài làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc qua đó thấy được sự
vận dụng tư tưởng đó trong công cuộc đổi mới hiện nay.

Nhiệm vụ

Để đạt được những mục đích nêu trên, tiểu luận cần thực hiện một số nhiệm vụ
cụ thể như sau:

- Trình bày nguồn gốc lý luận và thực tiễn hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về
vấn đề dân tộc.

- Trình bày và phân tích nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc.

- Rút ra những kinh nghiệm từ thực tiễn lãnh đạo thực hiện vận dụng tư tưởng
Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc trong công cuộc đổi mới hiện nay.

3. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu đề tài

1.1. Cơ sở lý luận

Tiểu luận được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác –
Lênin kết hợp với tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc kết hợp với vấn đề đất
nước, chủ trương lãnh đạo của Nhà nước.
1.2. Phương pháp nghiên cứu

Tiểu luận đã áp dụng hai phương pháp nghiên cứu chính đó là phương pháp luận
của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác- Lênin
và các nguyên tắc phương pháp luận của Hồ Chí Minh như : tính Đảng, tính khoa học,
lý luận gắn liền với thực tiễn, quan điểm lịch sử cụ thể, tính toàn diện, tính kế thừa và
phát triển.

Phương pháp cụ thể: vận dụng phương pháp lịch sử và phương pháp lôgic,
phương pháp phân tích – tổng hợp lý thuyết, phương pháp đối chiếu, bên cạnh đó
nhóm chúng em còn sử dụng phương pháp phân tích – tổng kết kinh nghiệm đối với
việc nghiên cứu thực tiễn và ứng dụng.
2
4. Kết cấu đề tài

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài kết cấu 3
chương :

Chương 1: Nguồn gốc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc

Chương 2: Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc

Chương 3: Vận dụng những quan điểm đó trong công cuộc đổi mới hiện nay.

3
CHƯƠNG 1:NGUỒN GỐC HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC

1. Chủ nghĩa Mac -Lê Nin - nguồn gốc lý luận hình thành tư tưởng Hồ Chí
Minh về vấn đề dân tộc

Dân tộc là một vấn đề rộng lớn được C.Mác và Ph.Ăngghen đặc biệt chú ý
trong quá trình xây dựng học thuyết của mình. Hai ông đã nêu ra các quan điểm cơ bản
có tính chất phương pháp luận để nhận thức và giải quyết những vấn đề về nguồn gốc,
bản chất của vấn đề dân tộc, những quan hệ cơ bản của dân tộc. Một trong những mục
đích nghiên cứu vấn đề dân tộc của các ông là trả lời câu hỏi: Giai cấp công nhân có
thái độ như thế nào đối với dân tộc? Xử lý như thế nào trong mối quan hệ dân tộc với
giai cấp? Như thế các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác đã xem xét vấn đề dân tộc trong
mối liên hệ chặt chẽ với triển vọng của cách mạng vô sản ở Châu Âu.[1,tr6]

C. Mác và Ph.Ăngghen cũng đã đặc biệt nhấn mạnh đến vai trò độc lập dân tộc
trong cuộc đấu tranh giai cấp. C. Mác và Ph.Ăngghen đã chứng minh rằng, quá trình ra
đời và thay đổi của các hình thức cộng đồng người trong lịch sử, xét cho đến cùng đều
có nhân tố kinh tế. Mỗi hình thức cộng đồng người nói chung đều tương ứng với một
phương thức sản xuất nhất định. Trong Hệ tư tưởng Đức C. Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ
rõ: “Không phải chỉ riêng những quan hệ dân tộc này với dân tộc khác mà toàn bộ kết
cấu bên trong của bản thân dân tộc đó đều phụ thuộc vào trình độ phát triển của sản
xuất và sự giao tiếp bên trong và bên ngoài dân tộc ấy”[2,tr30]. Khi nghiên cứu về sự
hình thành dân tộc tư sản, C. Mác và Ph.Ăngghen đã đi đến kết luận: “Dân tộc là một
sản vật và hình thức tất nhiên của thời đại tư sản trong quá trình phát triển xã
hội”[3,tr44].

Kế thừa tư tưởng của C. Mác và Ph.Ăngghen, khi nghiên cứu về dân tộc V.I
Lênin làm rõ thêm nội dung khái niệm dân tộc và sự hình thành dân tộc, nó trở thành
một hệ thống lý luận toàn diện, sâu sắc về vấn đề dân tộc, làm cơ sở cho cương lĩnh,
đường lối, chính sách của các Đảng cộng sản kiểu mới về vấn đề dân tộc.

Theo quan điểm của V.I Lênin, dân tộc là sản phẩm của quá trình phát triển lâu
dài của lịch sử. Trước dân tộc là những hình thức cộng đồng tiền dân tộc như thị tộc,
4
bộ tộc, bộ lạc. V.I. Lênin đấu tranh kiên quyết chống lại các biến tướng của chủ nghĩa
duy tâm, xem dân tộc dường như phát sinh từ mảnh đất trống rỗng, không phải là kết
quả của quá trình phát triển liên tục của lực lượng sản xuất, của sự phát triển các hình
thức tộc người. V.I. Lênin cũng đã nêu ra cương lĩnh về quyền bình đẳng, quyền tự
quyết dân tộc và đấu tranh không mệt mỏi cho quyền bình đẳng và quyền tự quyết đó
trên cả hai phương diện lý luận và thực tiễn..

Khi bàn về sự phát triển của vấn đề dân tộc, V.I. Lênin đã đề cập hai. hướng
phát triển của vấn đề dân tộc trong điều kiện của chủ nghĩa tư bản:

.Xu hướng thứ nhất, ở những quốc gia, khu vực tư bản chủ nghĩa gồm nhiều
cộng đồng dân cư có nguồn gốc tộc người làm ăn, sinh sống. Đến một thời kỳ nào đó,
sự trưởng thành của ý thức dân tộc, sự thức tỉnh đầy đủ về quyền sống của mình mà
các cộng đồng dân cư đó muốn tách khỏi nhau để thành lập các dân tộc độc lập. Bởi vì
họ hiểu rằng, chỉ trong cộng đồng dân tộc độc lập họ mới có quyền quyết định vận
mệnh của mình mà cao nhất là quyền tự do lựa chọn chế độ chính trị và con đường
phát triển của dân tộc mình.

Xu hướng thứ hai, các dân tộc trong từng quốc gia, thậm chí các dân tộc ở
nhiều quốc gia muốn liên hiệp lại với nhau. Chính sự phát triển của lực lượng sản xuất,
của khoa học và công nghệ, của giao lưu kinh tế và văn hóa trong xã hội tư bản đã làm
xuất hiện nhu cầu xóa bỏ hàng rào ngăn cách giữa các dân tộc, thúc đẩy các dân tộc
xích lại gần nhau

Xu hướng thứ nhất chiếm ưu thế trong thời kỳ chủ nghĩa tư bản mới phát triển,
còn xu hướng thứ hai là đặc trưng của chủ nghĩa tư bản già cỗi sắp chuyển sang xã hội
xã hội chủ nghĩa; Cả hai xu hướng đều phát triển trong điều kiện đối kháng giai cấp
gay gắt. Tuy nhiên, chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa dân tộc tư sản không thể giải quyết
được vấn đề dân tộc mà chỉ làm cho mối xung đột dân tộc ngày càng tăng lên. Chỉ có
cách mạng vô sản và chủ nghĩa xã hội, trên cơ sở thủ tiêu ách áp bức giai cấp và áp
bức dân tộc, mới tạo điều kiện để thực hiện sự bình đẳng dân tộc và xây dựng tình hữu
nghị giữa các dân tộc, làm cho các dân tộc ngày càng xích lại gần nhau. Từ đó

5
V.I.Lênin yêu cầu các Đảng Cộng sản phải đấu tranh chống mọi biểu hiện của chủ
nghĩa dân tộc tư sản và chủ nghĩa vô sản, giành thắng lợi cho chủ nghĩa quốc tế vô sản.

Như vậy dân tộc và sự phát triển của dân tộc không chỉ chịu sự chi phối của quy
luật kinh tế - xã hội mà còn chịu sự chi phối của quy luật phát triển tộc người. Bởi vì,
quy luật kinh tế - xã hội giữ vai trò quyết định nhất, song nếu chưa có sự chín muồi
của nhân tố tộc người thì dân tộc cũng chưa thể xuất hiện. Vì vậy, có thể nói dân tộc là
sự thống nhất biện chứng giữa các nhân tố kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và tộc
người[1,tr7].

2. Hoạt động thực tiễn – cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề
dân tộc.

Trong cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của Hồ Chí Minh, việc sáng lập Đảng
cộng sản Việt Nam, xác lập đường lối, mục tiêu, chiến lược, sách lược cho cách mạng
Việt Nam là một dấu mốc trong quá trình phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là quá
trình nhận thức của Người từ thấp đến cao, từ hành trang tư tưởng trước khi ra đi tìm
đường cứu nước đến nhận thức lý luận để vận dụng vào cách mạng Việt Nam. Trong
hệ thống tư tưởng đó có quá trình hình thành quan điểm về dân tộc, mối quan hệ dân
tộc với giai cấp và con đường giải phóng dân tộc.

Trước hết, phải khẳng định là do nội dung tư tưởng chiến lược về vấn đề dân
tộc và vấn đề thuộc địa mà Lênin đã nêu ra. Đó là quyền được độc lập của các dân tộc
thuộc địa; là quyền tự quyết dân tộc nói chung phải bao gồm cả quyền tự quyết của các
dân tộc thuộc địa.Luận cương của Lê nin đã chỉ rõ, những người cách mạng ở các
nước thuộc địa phải đoàn kết chặt chẽ với nhân dân ở các nước chính quốc, không để
những tư tưởng quốc gia dân tộc hẹp hòi mê hoặc; còn những người cách mạng ở
chính quốc phải tích cực ủng hộ cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân ở các
nước thuộc địa; những nước cách mạng vô sản thành công phải giúp đỡ nhân dân các
nước thuộc địa làm cách mạng và phải coi đây là nhiệm vụ chung của cách mạng vô
sản quốc tế.[1,tr 12]

Với những nội dung cơ bản từ Luận cương của Lênin, Hồ Chí Minh đã tìm
được lời giải đáp ngắn gọn, sáng tỏ những nội dung chính yếu về vấn đề dân tộc, cách
6
mạng giải phóng dân tộc và những biện pháp cơ bản nhằm đưa sự nghiệp cách mạng
đến thắng lợi. Thông thường, từ sự giác ngộ ý thức giai cấp công nhân mới đi tới giác
ngộ chủ nghĩa Mác – Lênin, nhưng ở Hồ Chí Minh thì điểm xuất phát lại từ thức về
việc giải phóng dân tộc mình. Ngay cả khi đã đi đến chủ nghĩa Mác – Lênin, Người
vẫn coi vấn đề giải phóng dân tộc là vấn đề cấp bách nhất.

Quá trình nhận thức về dân tộc, mối quan hệ giữa dân tộc với giai cấp, về con
đường giải phóng dân tộc trên lập trường vô sản đã được từng bước thể hiện và ngày
càng hoàn thiện, từ Bản án chế độ thực dân Pháp, Đường Cách mệnh đến Chính cương
vắn tắt, điều lệ vắn tắt…đã thể hiện đầy đủ điều đó. Người xác định, cách mạng giải
phóng dân tộc nhưng phải theo con đường cách mạng vô sản, cách mạng Tháng Mười
Nga.[5,tr 6]

Như vậy, từ tinh thần yêu nước đã hình thành ở Hồ Chí Minh ý thức giai cấp
của giai cấp vô sản. Từ sự đồng cảm của người dân nô lệ bị chủ nghĩa thực dân áp bức,
bóc lột, ở Hồ Chí Minh đã hình thành tình cảm quốc tế vô sản. Đó cũng là bước
chuyển biến căn bản trong tình cảm và ý thức của Hồ Chí Minh. Đó cũng là nền tảng
cực kỳ quan trọng để người thanh niên Việt Nam yêu nước Nguyễn Tất Thành tiếp
nhận chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng cách mạng và khoa học nhất của thời đại.

7
CHƯƠNG 2: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC

1. Vấn đề dân tộc thuộc địa

1.1. Thực chất của vấn đề dân tộc thuộc địa

Vấn đề dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh không phải là vấn đề dân tộc nói
chung mà là vấn đề dân tộc thuộc địa. Vấn đề dân tộc thuộc địa thực chất là vấn đề đấu
tranh giải phóng của các dân tộc thuộc địa nhằm thủ tiêu sự thống trị của nước ngoài,
giành độc lập dân tộc, xóa bỏ áp bức, bóc lột thực dân, thực hiện quyền dân tộc tự
quyết, thành lập nhà nước dân tộc độc lập.

Trước khi chủ nghĩa tư bản phương Tây đưa đại bác đến gõ cửa các quốc gia
phương Đông, thì những quốc gia này vẫn còn đang chìm nặng trong bóng tối của chế
độ phong kiến ở giai đoạn suy vong, với cấu trúc xã hội gồm hai giai cấp: Địa chủ
phong kiến và nông dân. Dưới tác động của những chương trình khai thác thuộc địa,
các giai cấp này ở Việt Nam ít nhiều có sự biến đổi, những giai cấp mới lần lượt ra
đời: Công nhân, tư sản, tiểu tư sản. Tất cả các giai cấp đó đều nằm dưới ách thống trị
của chủ nghĩa tư bản thực dân.

Hồ Chí Minh chỉ rõ sự đối kháng giữa các dân tộc bị áp bức với chủ nghĩa đế
quốc thực dân là mâu thuẫn chủ yếu ở thuộc địa và là một mâu thuẫn không điều hòa
được. Không chỉ quần chúng lao động (công nhân và nông dân), mà cả các giai cấp và
tầng lớp trên trong xã hội (tiểu tư sản, tư sản và địa chủ) đều phải chịu nỗi nhục của
người dân mất nước, của một dân tộc mất độc lập tự do. Ngay giai cấp tư sản Việt
Nam cũng khác với giai cấp tư sản phương Tây, mặc dù vẫn là giai cấp bóc lột nhưng
không phải là giai cấp thống trị. Họ không phải là đối tượng cách mạng, mà trái lại, có
thể trở thành lực lượng của cách mạng giải phóng dân tộc[1,tr16].

Trong nhiều tác phẩm như Tâm địa thực dân, Bình đẳng, Vực thẳm thuộc địa,
Công cuộc khai hóa giết người..., Hồ Chí Minh tập trung tố cáo chủ nghĩa thực dân,
vạch trần cái gọi là “khai hóa văn minh” của chúng. Người viết: “Để che đậy sự xấu xa
của chế độ bóc lột giết người, chủ nghĩa tư bản thực dân luôn luôn điểm trang cho cái
huy chương mục nát của nó bằng những châm ngôn lý tưởng: Bác ái, Bình đẳng, v.v.”.

8
“Nếu lối hành hình theo kiểu Linsơ của những bọn người Mỹ hèn hạ đối với những
người da đen là một hành động vô nhân đạo, thì tôi không còn biết gọi việc những
người Âu nhân danh đi khai hóa mà giết hàng loạt người dân châu Phi là cái gì
nữa”[4,tr43]. Trong những bài có tiêu đề Đông Dương và nhiều bài khác, Người lên án
mạnh mẽ chế độ cai trị hà khắc, sự bóc lột tàn bạo của thực dân Pháp ở Đông Dương
trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục. Người chỉ rõ sự đối kháng giữa
các dân tộc bị áp bức với chủ nghĩa đế quốc thực dân là mâu thuẫn chủ yếu ở thuộc
địa, đó là mâu thuẫn không thể điều hòa được. Sự áp bức, thống trị dân tộc càng nặng
nề, thì phản ứng dân tộc sẽ càng quyết liệt về tính chất, đa dạng về nội dung và phong
phú về hình thức. Nghiên cứu tình hình Đông Dương, Hồ Chí Minh nhận thấy: “Đằng
sau sự phục tùng tiêu cực, người Đông Dương giấu một cái gì đang sôi sục, đang gào
thét và sẽ bùng nổ một cách ghê gớm, khi thời cơ đến”[4,199]. Trong tác phẩm Bản án
chế độ thực dân Pháp, Nguyễn Ái Quốc lên án mạnh mẽ tội ác của chủ nghĩa thực dân
đã tước bỏ tất cả quyền con người và quyền dân tộc ở các thuộc địa.

Hồ Chí Minh sinh ra trong cảnh đất nước bị thực dân Pháp xâm lược và đô hộ,
giai cấp phong kiến từng bước nhượng bộ, đầu hàng, làm tay sai cho thực dân Pháp,
các cuộc đấu tranh chống Pháp lần lượt thất bại, cách mạng Việt Nam rơi vào tình thế
“dường như trong đêm tối không có đường ra”. Năm 1911, Người rời Tổ quốc sang
phương Tây tìm đường cứu nước. Khác với các nhà yêu nước trước đó ra nước ngoài
tìm kiếm sự giúp đỡ, học tập, “cầu viện”, hoặc đào tạo cán bộ để chỉ đạo, chuẩn bị lực
lượng, phát động phong trào đấu tranh trong nước, Hồ Chí Minh quyết định sang
Pháp.

Những nhận định ban đầu của Người về nước Pháp đã được thực tiễn chứng
minh là đúng đắn. Đặc biệt, với bước ngoặt tư tưởng khi tiếp xúc với “Luận cương của
Lênin về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa”, có thể nói, Hồ Chí Minh đã tìm ra được
chìa khóa cho con đường cách mạng Việt Nam. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, cách
mạng Việt Nam là một bộ phận không thể tách rời của cách mạng thế giới; giải quyết
vấn đề dân tộc và thuộc địa là một bộ phận của cách mạng thế giới: “Vận mệnh của
giai cấp vô sản thế giới và đặc biệt là vận mệnh của giai cấp vô sản ở các nước đi xâm
lược thuộc địa gắn chặt với vận mệnh của giai cấp bị áp bức ở các thuộc địa”[4,tr121]
9
Người nhận thấy ở Việt Nam có hai mâu thuẫn cơ bản cần phải giải quyết: Một
là, mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với bọn đế quốc cướp nước; Hai là, mâu thuẫn
giữa đông đảo quần chúng nhân dân, chủ yếu là nông dân, với giai cấp địa chủ phong
kiến. Mâu thuẫn cơ bản ở Việt Nam cần tập trung giải quyết là mâu thuẫn giữa dân tộc
Việt Nam với bọn đế quốc cướp nước và tay sai của chúng.

Con đường giải phóng dân tộc Việt Nam được Hồ Chí Minh khẳng định rõ:
“Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách
mạng vô sản”[4,tr322]. Giải phóng dân tộc theo con đường Cách mạng Tháng Mười,
theo con đường cách mạng vô sản, đó là tư tưởng chỉ đạo mang tính nguyên tắc, được
thể hiện xuyên suốt trong các văn kiện Đảng cũng như chỉ đạo thực tiễn của Chủ tịch
Hồ Chí Minh.

1.2. Độc lập dân tộc – nội dung cốt lõi của vấn đề dân tộc thuộc địa

Vấn đề dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh có nội dung cốt lõi là vấn đề độc
lập dân tộc. Người tiếp cận vấn đề dân tộc từ những tư tưởng từ hai bản tuyên ngôn
của Pháp và Mỹ rồi đúc kết thành những hệ thống luận điểm về độc lập dân tộc.

Hồ Chí Minh tiếp cận quyền dân tộc từ quyền con người được thiết lập từ giá trị
cách mạng thế giới mang lại. Hồ Chí Minh tiếp cận quyền con người hoàn toàn khác
với các học giả tư sản và những nhà tư tưởng hay triết học của nhân loại. Cách tiếp cận
của Người hoàn toàn mới mẻ và sâu sắc. Người xuất phát từ đặc điểm của thời đại và
con người hiện thực để xem xét và giải quyết vấn đề con người. Với cách xem xét đó
thì quyền con người ở Việt Nam chỉ có thể được giải quyết thông qua một cuộc cách
mạng hiện thực. Nhận thức về quyền con người của Hồ Chí Minh là sự kế thừa những
giá trị tư tưởng trong hai bản Tuyên ngôn Độc lập của cách mạng Mỹ năm 1776 và
Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của cách mạng pháp năm 1791.[1,tr16]

Trong Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ khẳng định: “Tất cả mọi người sinh ra có
quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong
những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Từ
lý luận về quyền con người mà hai cuộc cách mạng Pháp và Mỹ xác lập, trở thành giá

10
trị phổ biến, khi lý luận xâm nhập vào thực tiễn, cụ thể là thực tiễn của cách mạng Việt
Nam đã hình thành một khái niệm đó là quyền dân tộc.

Hồ Chí Minh nâng cao quyền con người lên thành quyền dân tộc là hợp với lẽ
tự nhiên, vì quyền con người nằm trong quyền dân tộc, vi phạm quyền dân tộc điều đó
cũng có nghĩa là vi phạm quyền con người. Điều này nó trái với chân lý đã được
khẳng định trong Tuyên ngôn của cách mạng Mỹ và cách mạng Pháp.

Hồ Chí Minh luôn giương cao ngọn cờ đấu tranh vì độc lập dân tộc, song người
cũng là hiện thân của khát vọng hoà bình. Hoà bình chân chính trong nền độc lập dân
tộc để nhân dân xây dựng cuộc sống ấm no hạnh phúc cũng là quyền cơ bản của dân
tộc. Hoà bình không thể tách rời độc lập dân tộc, và muốn có hoà bình thật sự thì phải
có độc lập thật sự. Tinh thần “chúng ta muốn hoà bình” đã dẫn dắt nhân dân ta chiến
đấu và chiến thắng mọi thế lực xâm lược ngoại bang. Chân lý có giá trị cho mọi thời
đại: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Độc lập dân tộc phải gắn liền với sự thống
nhất toàn vẹn lãnh thổ quốc gia.[1,tr16]

Khi đế quốc Pháp một lần nữa trở lại xâm lược nước ta. Để bảo vệ độc lập và
chủ quyền thiêng liêng của dân tộc, Hồ Chí Minh đã ra Lời kêu gọi vang dậy núi sông:
"Không! Chúng ta thà hi sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định
không chịu làm nô lệ"[4,tr532]

1.3. Chủ nghĩa dân tộc – Một động lực lớn của đất nước

Theo Hồ Chí Minh, do kinh tế còn lạc hậu, chưa phát triển, nên sự phân hóa
giai cấp ở Đông Dương chưa triệt để, vì thế cuộc đấu tranh giai cấp không diễn ra
giống như ở phương Tây. Các giai cấp vẫn có sự tương đồng lớn: dù là địa chủ hay
nông dân, họ đều chịu chung số phận là người nô lệ mất nước. Từ sự phân tích đó,
Người kiến nghị về Cương lĩnh hành động của Quốc tế cộng sản là: "Phát động chủ
nghĩa dân tộc bản xứ nhân danh Quốc tế cộng sản... Khi chủ nghĩa dân tộc của họ
thắng lợi... nhất định chủ nghĩa dân tộc ấy sẽ biến thành chủ nghĩa quốc tế"[1,tr17].

Như vậy, xuất phát từ sự phân tích quan hệ giai cấp trong xã hội thuộc địa, từ
truyền thống dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh đã đánh giá cao sức mạnh của chủ nghĩa

11
dân tộc mà những người cộng sản phải nắm lấy và phát huy. Người cho đó là một
chính sách mang tính hiện thực tuyệt vời. Chủ nghĩa dân tộc bản xứ nhân danh Quốc tế
cộng sản mà Hồ Chí Minh đề cập ở đây là chủ nghĩa dân tộc chân chính, chứ không
phải là chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi.

2 Mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp

2.1. Vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp có quan hệ chặt chẽ với nhau

Hồ Chí Minh rất coi trọng vấn đề dân tộc, đề cao sức mạnh của chủ nghĩa yêu
nước, nhưng người luôn đứng trên quan điểm giai cấp để nhận thức và giải quyết vấn
đề dân tộc.

Sự kết hợp nhuần nhuyễn vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc của Hồ Chí Minh
thể hiện: khẳng định vai trò lịch sử của giai cấp công nhân và quyền lãnh đạo duy nhất
của Đảng Cộng Sản trong quá trình cách mạng Việt Nam.

Đảng chủ trương đại đoàn kết dân tộc dựa trên nền tảng liên minh công nông,
nông dân và tầng lớp trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Đảng chủ trương sử dụng bạo lực cách mạng của quần chúng để chống lại bạo
lực phản cách mạng của kẻ thù. Gắn kết mục tiêu độc lập dân tộc với CNXH.

2.2. Giải phóng dân tộc là vấn đề trên hết, trước hết độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội

Khác với con đường cứu nước của ông cha ta, gắn độc lập dân tộc với chủ
nghĩa phong kiến hoặc chủ nghĩa tư bản, con đường cứu nước của Hồ Chí Minh là độc
lập dân tộc với CNXH.

Tư tưởng Hồ Chí Minh vừa phản ánh quy luật khách quan của sự nghiệp giải
phóng dân tộc trong thời đại chủ nghĩa đế quốc, phản ánh mối quan hệ khăng khít giữa
mục tiêu giải phóng dân tộc với mục tiêu giải phóng giai cấp và giải phóng con
người.[1,tr18]

2.3. Giải phóng dân tộc tạo tiền đề để giải phóng giai cấp

12
Hồ Chí Minh giải quyết vấn đề dân tộc theo quan điểm giai cấp, nhưng đồng thời
đặt vấn đề giai cấp trong vấn đề dân tộc. Giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của chủ
nghĩa thực dân là điều kiện để giải phóng giai cấp. Vì thế lợi ích của giai cấp phải phục
tùng lợi ích của dân tộc. Hồ Chí Minh đã khẳng định: quyền tự do, độc lập là quyền bất
khả xâm phạm của các dân tộc, “dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và
quyền tự do”. Là một chiến sĩ quốc tế chân chính, Hồ Chí Minh không chỉ đấu tranh
cho dân tộc mình mà còn đấu tranh cho độc lập của tất cả các dân tộc bị áp bức. Ở Hồ
Chí Minh chủ nghĩa yêu nước chân chính luôn luôn thống nhất với chủ nghĩa quốc tế
trong sáng.

Như chúng ta đều biết, Hồ Chí Minh đã đi từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ
nghĩa Mác - Lênin. Từ đó, Người đã phát huy cao độ chủ nghĩa yêu nước truyền thống
Việt Nam, trong sự thống nhất với chủ nghĩa quốc tế vô sản. Bởi vậy, trong tư tưởng
Hồ Chí Minh, đúng như Ph.Ăng-Ghen đã nói: Những tư tưởng dân tộc chân chính
đồng thời cũng là những tư tưởng quốc tế chân chính. Sự phát triển tư tưởng Hồ Chí
Minh đã chỉ đạo sự phát triển của thực tiễn cách mạng Việt Nam, trong sự thúc đẩy lẫn
nhau giữa dân tộc và giai cấp, ý thức giác ngộ về cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc là
tiền đề quyết định nhất, cũng là động lực chủ yếu để Nguyễn Ái Quốc đến với chủ
nghĩa Mác - Lênin và tiếp thu quan điểm mác-xít về giai cấp. Đó chính là nhân tố đảm
bảo tính khoa học và cách mạng cho sự phát triển tinh thần dân tộc đúng đắn ở người
chiến sĩ cộng sản Nguyễn Ái Quốc.[1,tr18]

Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự kết hợp, gắn bó hữu cơ giữa hai quá trình đấu
tranh cách mạng: giải phóng dân tộc và cách mạng vô sản không phải chỉ là chứng
minh cho sự đúng đắn của chủ nghĩa Mác - Lênin, mà còn là sự phát triển sáng tạo và
có giá trị định hướng rất cơ bản. Qua thực tiễn đấu tranh và lãnh đạo cách mạng Việt
Nam, luôn bám sát đặc điểm thực tiễn Việt Nam và tham khảo kinh nghiệm các nước
khác, Hồ Chí Minh đã có những giải pháp đúng đắn, sáng tạo, đáp ứng đòi hỏi của lịch
sử, góp phần làm phong phú thêm kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin; đó
cũng chính là nguồn gốc sức mạnh của cách mạng nước ta trong suốt bảy thập kỷ qua.

13
2.4. Giữ vững độc lập của dân tộc mình, đồng thời tôn trọng độc lập của các
dân tộc khác

Theo Hồ Chí Minh, độc lập tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của
các dân tộc. Là một chiến sĩ quốc tế chân chính, Hồ Chí Minh không chỉ đấu tranh cho
độc lập của dân tộc mình mà còn đấu tranh cho độc lập của tất cả các dân tộc bị áp bức
trên toàn thế giới.

Năm 1914, khi Chiến tranh thế giới thứ nhất vừa nổ ra, Hồ Chí Minh đã đem
toàn bộ số tiền dành dụm được từ đồng lương ít ỏi của mình ủng hộ quỹ kháng chiến
của người Anh. Theo Người, chúng ta phải tranh đấu cho tự do, độc lập của các dân
tộc khác như là tranh đấu cho dân tộc ta vậy.

Nêu cao tinh thần dân tộc tự quyết, nhưng Hồ Chí Minh không quên nghĩa vụ
quốc tế trong việc ủng hộ các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc trên thế giới. Người
nhiệt liệt ủng hộ cuộc kháng chiến chống Nhật của nhân dân Trung Quốc, cuộc kháng
chiến chống Pháp của nhân dân Lào và Campuchia, đề ra khẩu hiệu "giúp bạn là tự
giúp mình", và chủ trương phải bằng thắng lợi của cách mạng mỗi nước mà đóng góp
vào thắng lợi chung của cách mạng thế giới.[1,tr18]

14
CHƯƠNG 3: VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM ĐÓ TRONG CÔNG CUỘC ĐỔI

MỚI HIỆN NAY

1. Quan điểm vận dụng của Đảng ta về vấn đề dân tộc trong công cuộc đổi
mới đất nước

1.1. Khơi dậy sức mạnh chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc, nguồn
động lực mạnh mẽ để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc

Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự kết hợp nhuần nhuyễn trí tuệ thiên tài của lý luận
Mác - Lênin với truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tinh hoa văn hoá nhân loại được vận
dụng và phát triển sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể của cách mạng Việt Nam, để hoạch
định đường lối và phương pháp cách mạng đúng đắn trong từng giai đoạn, từng thời kỳ
và từng thời điểm cụ thể. Nhờ có dự báo thiên tài, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng chỉ dẫn
bước đi để dân tộc ta vượt qua mọi hiểm nguy, thử thách, giành thắng lợi từng bước và
hướng tới tương lai.

Trong lịch sử cách mạng Việt Nam, quá trình trưởng thành, chiến thắng của
Đảng đó khẳng định: khi tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh được thấm nhuần và vận
dụng đúng đắn lúc đó chúng ta có đường lối đúng, cách mạng giành thắng lợi; lúc nào
tư tưởng của Người không được quán triệt sâu sắc và vận dụng sáng tạo thời thời điểm
đó bộ tham mưu, cán bộ, đảng viên có sai lầm, cách mạng gặp khó khăn. Đó là bài học
lịch sử sâu sắc trong đấu tranh cách mạng ở Việt Nam. Khi Người còn sống, quân dân
ta trọn niềm tin: "Bác bảo đi, là đi, Bác bảo thắng, là thắng". Toàn Đảng, toàn dân,
toàn quân đó tiến lên dưới lá cờ quyết chiến, quyết thắng của Người, và đó lập nên
những kỳ tích có tầm vóc thời đại: thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, chiến thắng
Điện Biên Phủ, Chiến dịch Hồ Chí Minh đại thắng...

Quán triệt sâu sắc điều đó để trong giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh, cần khơi
dậy niềm tin và tình cảm sâu sắc của nhân dân ta, Đảng ta, các lực lượng vũ trang ta
đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh; nguyện trung thành học tập và vận dụng tư tưởng của
Người vào giải quyết các nhiệm vụ cụ thể của cách mạng; tỉnh táo và kiên quyết đấu
tranh không khoan nhượng với các quan điểm phản động sai trái, bảo vệ và phát triển

15
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, giữ gìn và phát huy những truyền
thống tốt đẹp của dân tộc, của cách mạng; phát huy ý nghĩa của tư tưởng Hồ Chí Minh
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.[5,tr1]

1.2. Chăm lo xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, Đoàn kết hữu nghị và hợp
tác với các dân tộc trên thế giới

Lòng yêu nước và ý thức cộng đồng, đó là truyền thống quý báu, là sức mạnh
vô địch của nhân dân Việt Nam. Anh hùng dân tộc của những cuộc khởi nghĩa, dựng
cờ dấy binh chống áp bức, bóc lột, chống thù trong giặc ngoài gồm cả người Kinh và
người các dân tộc thiểu số. Dù miền xuôi hay miền ngược, ai cũng chứa chan bầu máu
nóng trách nhiệm với Tổ tiên và vì tương lai con cháu.

Các chủ trương, chính sách lớn phát triển kinh tế - xã hội, các chương trình mục
tiêu quốc gia, chính sách hỗ trợ ưu tiên không chỉ là khởi nguồn động lực cho các
thành tựu phát triển mà còn là cơ sở để củng cố lòng tin của đồng bào các dân tộc thiểu
số đối với Đảng và Nhà nước, tăng cường đoàn kết trong đại gia đình các dân tộc Việt
Nam. Mặc dù vậy, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số còn rất nhiều vấn đề bức xúc
mà các cấp, các ngành và mỗi người phải chăm lo giải quyết. Để phát huy sức mạnh
đại đoàn kết các dân tộc anh em, để thực hiện các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tương
trợ, giúp đỡ nhau, thu hẹp dần khoảng cách giữa miền núi và miền xuôi, thực hiện
công bằng xã hội, cần tiếp tục có các chủ trương, chính sách và chương trình kinh tế -
xã hội cụ thể, phù hợp từng vùng dân tộc, miền núi, vùng sâu, vùng xa, tạo cho đồng
bào dân tộc thiểu số phát triển nhanh hơn.

Thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa là sự nghiệp vô cùng vẻ vang, song
cũng đầy khó khăn, thử thách. Động lực thúc đẩy mạnh mẽ của đất nước ta ngày nay là
sức mạnh đại đoàn kết toàn dân. Mỗi người Việt Nam thiết tha yêu Tổ quốc, lao động
sáng tạo, đem trí tuệ, tài năng, công sức xây dựng đất nước giàu mạnh cho thế hệ hôm
nay và con cháu mai sau, xóa nỗi nhục nghèo nàn, lạc hậu, đưa đất nước tiến lên hàng
những nước tiên tiến trên thế giới. Chỉ có như vậy mới giữ được độc lập dân tộc, mang
lại quyền lợi lâu dài cho mỗi dân tộc thiểu số và cho cả dân tộc Việt Nam. Độc lập, tự
do và tư tưởng cách mạng vĩ đại của Hồ Chí Minh là chìa khóa để mở đường hội tụ
16
thắng lợi của chiến lược: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công,
đại thành công”.

Thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh, trong thời kỳ lịch sử mới, Đảng ta tiếp tục
giương cao ngọn cờ đại đoàn kết, ra sức phấn đấu để tăng cường và mở rộng khối đại
đoàn kết toàn dân, lấy liên minh giai cấp công nhân với giai cấp công nhân, trí thức
làm nền tảng; lấy mục tiêu độc lập, thống nhất, tiến lên dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng dân chủ văn minh làm điểm tương đồng, đồng thời chấp nhận những điểm
khác nhau không trái với lợi ích chung của dân tộc…Chủ trương đó của Đảng đã thực
sự đi vào cuộc sống, được các tầng lớp nhân dân, các dân tộc, các tôn giáo, dù sống ở
trong nước hay định cư ở nước ngoài đồng tình ủng hộ và đã thu được những kết quả
tốt đẹp. Khối đại đoàn kết được tăng cường và mở rộng hơn một bước, đã huy động
được sức người , sức của của đồng bào ở trong nước và kiều bào ở nước ngoài đóng
góp vào thành tựu của công cuộc đổi mới.[5,tr2]

Về đoàn kết quốc tế, Đảng ta luôn phát huy chủ nghĩa quốc tế trong sáng, cao
cả, thủy chung, làm hết sức mình để góp phần quan trọng xây dựng tình đoàn kết giữa
các đảng cộng sản và công nhân, giữ gìn và củng cố sự đoàn kết trong phong trào cộng
sản và công nhân quốc tế; đồng thời, tăng cường xây dựng và phát triển các quan hệ
quốc tế trong tình hình mới, coi đó là một trong những yếu tố quan trọng đảm bảo cho
thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Cùng với quá
trình đổi mới đất nước, Đảng ta đã đề ra và thực hiện nhất quán đường lối, chính sách
đối ngoại “độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế.
Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế,
phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”. Nước ta đã chủ động và tích cực hội nhập
vào nền kinh tế quốc tế trong bối cảnh thế giới có nhiều biến động phức tạp, khó
lường, các quan hệ chính trị - kinh tế đan xen.

Hòa bình, hợp tác và phát triển tiếp tục là xu thế lớn của thời đại, nhưng ở một
số nơi, xung đột cục bộ, tranh chấp lãnh thổ, tài nguyên vẫn xảy ra; một số khu vực
trên thế giới, khủng bố, ly khai có chiều hướng gia tăng... Đặc biệt, cuộc khủng hoảng
tài chính toàn cầu hiện nay đã đẩy nền kinh tế thế giới vào thời kỳ khó khăn nhất kể từ

17
đại suy thoái năm 1929 - 1933, làm cho các nước đều phải hợp tác để đối phó. Cục
diện thế giới tiếp tục có những chuyển biến quan trọng với xu thế “đa cực” ngày càng
rõ nét hơn. Sự tập hợp lực lượng quốc tế diễn ra phức tạp trong khuôn khổ “vừa hợp
tác, vừa đấu tranh”; các nước đang phát triển có vai trò ngày càng tăng trong xử lý
những mối quan hệ quốc tế. Xu thế tự lực, tự cường, chống áp đặt cường quyền được
thúc đẩy ở nhiều quốc gia, dân tộc. Vị thế của khu vực châu Á - Thái Bình Dương trên
“bàn cờ” chiến lược quốc tế ngày càng được coi trọng.[5,tr3]

Hiện nay, khi những điều kiện quốc tế có sự thay đổi khá nhiều so với bốn
mươi năm trước, thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh quốc sẽ mở ra khả năng rộng lớn
để vận dụng, thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ đối ngoại mà Đại hội X của Đảng đề
ra. Vì vậy, trong thời kỳ mới, Đảng và Nhà nước ta cần tiếp tục đẩy mạnh việc mở
rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa Việt Nam với các nước, các dân tộc, các tổ
chức quốc tế, trên tinh thần giữ vững độc lập, tự chủ, bình đẳng, kết hợp giữa lợi ích
quốc gia với lợi ích quốc tế, cùng nhau thực hiện những mục tiêu lớn của thời đại là
hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội, giữ vững môi trường hòa bình, ổn
định trên thế giới để tạo sự phát triển bền vững.

1.3. Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh nhận thức và giải quyết vấn đề dân
tộc trên quan điểm giai cấp

Hồ Chí Minh rất coi trọng vấn đề dân tộc, đề cao sức mạnh của chủ nghĩa yêu
nước, nhưng Người cũng luôn đứng vững trên quan điểm giai cấp để giải quyết vấn đề
dân tộc. Quan điểm kết hợp nhuần nhuyễn giai cấp và dân tộc của Hồ Chí MInh đã chỉ
ra rõ:

Luôn luôn khẳng định vai trò lịch sử của giai cấp công nhân, vai trò lảnh đạo
của Đảng cộng sản – Đảng của giai cấp công nhân trong quá trình cách mạng Việt
Nam từ giải phóng dân tộc đi tới chủ nghĩa xã hội.

Chủ trương đoàn kết dân tộc rộng rãi nhưng phải dựa trên nền tảng liên minh
công nông và tầng lớp trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng.

18
Đối với nước ta, con đường phát triển đảm bảo cho dân tộc thoát khỏi vĩnh viễn
áp bức dân tộc, tránh đi vào chế độ xã hội trong đó giai cấp này áp bức bóc lột giai cấp
khác, tiến tới xã hội giàu mạnh, công bằng dân chủ, văn minh chỉ có thể là con đường
độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, con đường mà Hồ Chí Minh đã vạch ra.
Con đường phát triển đó cho phép kết hợp hài hòa lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp
của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Sẽ không thể có chủ nghĩa xã hội nếu
không bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc. Ngược lại, độc lập dân tộc không thể được
củng cố vững chắc nếu không tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đây không chỉ là nguyên tắc
căn bản mà còn là thước đo bản lĩnh chính trị, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
Đảng; là nhu cầu chân chính và khát vọng cháy bỏng của giai cấp công nhân, nhân dân
lao động và của cả dân tộc trên con đường phát triển dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng
sản. Đây cũng chính là mảnh đất phát triển của giai cấp công nhân, là lý do tồn tại của
Đảng và là con đường sinh tồn và phát triển của dân tộc Việt Nam[5,tr3].

Nhận thức đúng đắn vấn đề trên, sau hơn hai mươi năm đổi mới với tinh thần
độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, chúng ta đã thu được những thành tựu
hết sức to lớn. Độc lập chủ quyền quốc gia được giữ vững, vị thế của dân tộc ta trên
trường quốc tế được nâng cao, chủ nghĩa xã hội được định hướng rõ ràng, thành tựu
mà chủ nghĩa xã hội đạt được về mọi mặt ngày càng to lớn. Lợi ích dân tộc và lợi ích
giai cấp công nhân, nhân dân lao động luôn thống nhất, gắn bó với nhau. Đó là con
đường duy nhất đúng đắn bảo đảm cho sự phát triển dân tộc ta trong thời đại mới.

2. Những thành tựu đạt và hạn chế của Đảng khi vận dụng những quan điểm đó
trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay

2.1. Thành tựu của Đảng khi vận dụng những quan điểm đó trong công
cuộc đổi mới đất nước hiện nay

2.1.1. Tạo được một số chuyển biến tích cực về mặt xã hội

Đời sống vật chất của phần lớn nhân dân được cải thiện. Nhiều nhà ở và đường
giao thông được nâng cấp và xây dựng mới ở cả nông thôn và thành thị.

19
Trình độ dân trí và mức hưởng thụ văn hóa của nhân dân được nâng lên. Sự
nghiệp giáo dục, đào tạo, chăm sóc sức khỏe, các hoạt động văn hóa, nghệ thuật, thể
dục thể thao, thông tin đại chúng, công tác kế hoạch hóa gia đình và nhiều hoạt động
xã hội khác có những mặt phát triển và tiến bộ. Người lao động được giải phóng khỏi
ràng buộc của nhiều cơ chế không hợp lý, phát huy được quyền làm chủ và tính năng
động sáng tạo, chủ động hơn trong tìm việc làm, tăng thu nhập, tham gia các sinh hoạt
chung của cộng đồng xã hội[6,tr1]

Chủ trương đền ơn đáp nghĩa đối với người có công với nước được toàn dân
hưởng ứng, phong trào xóa đói, giảm nghèo và các hoạt động từ thiện ngày càng mở
rộng, đang trở thành một nét đẹp mới trong xã hội ta. Lòng tin của nhân dân vào chế
độ và tiền đồ của đất nước, và Đảng và Nhà nước được nâng lên.

2.1.2. Giữ vững ổn định chính trị, củng cố quốc phòng, an ninh

Hiện nay, cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam vẫn
đang tiếp diễn. Đảng ta khẳng định: “Trong giai đoạn đổi mới, phải giữ vững mục tiêu
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”. Trong bất kỳ tình huống nào cũng phải thực hiện
thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ
vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.Chiến tranh lạnh trên thế giới kết thúc,
hoà bình, hợp tác phát triển là xu thế chung, nhưng cuộc đấu tranh dân tộc và giai cấp
vẫn diễn biến phức tạp, gay gắt. Nguy cơ xung đột vũ trang và chiến tranh cục bộ vẫn
chưa bị loại trừ; mâu thuẫn dân tộc, sắc tộc, tôn giáo, tranh chấp lãnh thổ nổ ra ở nhiều
nơi và gây mất ổn định nhiều khu vực.[6,tr2]

Đảng đã định rõ phương hướng, nhiệm vụ và quan điểm chỉ đạo sự nghiệp bảo
vệ Tổ quốc trong tình hình mới, tiếp tục thực hiện có kết quả việc điều chỉnh chiến
lược quốc phòng, an ninh. Các nhu cầu củng cố quốc phòng, an ninh, cải thiện đời
sống lực lượng vũ trang được đáp ứng tốt hơn. Chất lượng và sức chiến đấu của quân
đội và công an được nâng lên. Thế trận quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân được
củng cố. Công tác bảo vệ an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội được tăng cường.

2.1.3. Thực hiện có kết quả một số đổi mới quan trọng về hệ thống chính
trị
20
Trên cơ sở Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội, chúng ta đã từng bước cụ thể hóa đường lối đổi mới trên các lĩnh vực, củng cố
Đảng và chính trị, tư tưởng, tổ chức, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng trong xã
hội; đã ban hành Hiến pháp mới năm 1992, sửa đổi, bổ sung và ban hành mới nhiều
văn bản pháp luật quan trọng, tiến hành cải cách một bước nền hành chính Nhà những,
tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam. Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị, xã hội từng bước đổi mới nội dung và
phương thức hoạt động, đạt hiệu quả thiết thực hơn. Quyền làm chủ của nhân dân trên
các lĩnh vực kinh tế, xã hội, chính trị, tư tưởng, văn hóa được phát huy. Các tầng lớp
nhân dân, đồng bào các dân tộc đoàn kết, gắn bó trong sự nghiệp dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, văn minh.

Vấn đề độc lập dân tộc trong thời đại mới không chỉ dừng lại ở vấn đề toàn vẹn
lãnh thổ mà con là độc lập hoàn toàn và triệt để trong mọi mặt của đời sống. Muốn có
một nền độc lập dân tộc tuyệt đối việc trước hết phải xác định rõ độc lập dân tộc là
không phụ thuộc vào một cá nhân, một tập thể, một tổ chức, một quốc gia nào khác.

Dựa trên trên cơ sở toàn cầu hóa, khu vực hóa, xác định kinh tế là thành phần
thiết yếu khách quan làm giàu cho đất nước, từ đây đưa ra các định hướng hợp lí với
nguồn lực của đất nước. Tăng cường hội nhập để phát triển đất nước đi đôi với làm
giàu bản sắc dân tộc.[6,tr4]

Thành tựu trên lĩnh vực đối ngoại là một nhân tố quan trọng góp phần giữ vững
hòa bình, phá thế bị bao vây, cấm vận, cải thiện và nâng cao vị thế của nước ta trên thế
giới, tạo môi trường thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Đó cũng là
sự đóng góp tích cực của nhân ta vào sự nghiệp chung của nhân dân thế giới vì hòa
bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.

Đặc biệt, năm 2020, nước ta cùng lúc đảm nhận 3 trọng trách: Ủy viên không
Thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, Chủ tịch ASEAN và Chủ tịch AIPA.
Trong bối cảnh vô cùng khó khăn của đại dịch Covid-19 và những thiệt hại nặng nề do
thiên tai bão lũ... song Việt Nam đã hoàn thành tốt cả ba trọng trách, góp phần nâng
cao uy tín, vị thế Việt Nam trong khu vực và trên thế giới.
21
Độc lập dân tộc gắn bó chặt chẽ với chủ nghĩa xã hội phải được thể hiện trong
suốt quá trình cách mạng trên mọi lĩnh vực của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

2.2. Những hạn chế của Đảng khi vận dụng những quan điểm đó trong
công cuộc đổi mới đất nước hiện nay.

2.2.1. Hạn chế

Đảng ta đã vận dụng rất đúng đắn các tư tưởng Hồ Chí Minh vào công cuộc xây
dựng đất nước. Một đất nước toàn vẹn lãnh thổ và ấm no cho nhân dân, song song việc
đó con rất nhiều hạn chế mà Đảng và Nhà nước ta chưa khắc phục được: Kinh tế vĩ mô
bất ổn. Lạm phát vẫn có nguy cơ tăng trở lại. So với hiệu quả sản xuất kinh doanh, lãi
suất tín dụng vẫn ở mức cao. Doanh nghiệp còn nhiều khó khăn vướng mắc trong việc
thu vốn. Thị trường bất động sản đình trệ. Hiệu quả kinh tế và sức cạnh tranh chưa
được cải thiện mạnh mẽ.

Đời sống của người dân, nhất là vùng sâu, vùng xa con rất nhiều khó khăn.
Công nghệ chưa đáp ứng yêu cầu tăng năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh kinh tế.
Dịch vụ y tế không đầy đủ và kém. Hoạt động văn hóa, thông tin, thể dục, thể thao con
nhiều hạn chế. Công tác quản lý tài nguyên và môi trường còn nhiều bất cập. An ninh
trật tự xã hội còn nhiều bức xúc. Sự chia rẽ dân tộc vẫn diễn ra trên các bản làng vùng
cao, việc không giải quyết các vấn đề một cách triệt để đã tạo nên cơ hội để kẻ gian lợi
dụng sự thiếu hiểu biết và khó khăn của các dân tộc thiểu số mà gây chia rẽ dân tộc.
Kẻ xấu vẫn âm thầm tiếp cận bà con vùng cao, con chính quyền ta thì chưa có chính
sách tốt để tiếp cận với bà con nơi đây.

Những người miệng nói yêu nước nhưng vì lợi ích cá nhân, "lợi ích nhóm" mà
tham nhũng, lãng phí, làm tổn hại đến lợi ích của đất nước, làm nghèo, suy yếu đất
nước. Ðây là "giặc nội xâm", là những "khối u" trên cơ thể đất nước cần phải cắt bỏ. Ở
đâu cũng vậy, tham nhũng, lợi ích nhóm xuất hiện ở mọi nơi. Tại vùng cao, nơi đáng
lẽ phải tập trung ngân sách để phát triển và đưa các anh em dân tộc thiểu số đến gần
hơn với đồng bằng nhưng không. Qua bao năm, cơ sở hạ tầng vẫn chưa thay đổi nhiều,
đời sống của các dân tộc thiểu số cũng không cải thiện. Mà nhìn vào đó ta chỉ thấy

22
hoàng loạt tượng đài từ trục đến nghìn tỷ đồng, nằm bê bết, nhơ nhếch, trơ trọi trên các
vùng núi hoang vu.

Công tác xóa đói giảm nghèo chưa thực hiện triệt để, chưa tạo được động lực
cho người dân thoát nghèo và tự thoát nghèo, tâm lý ỷ lại trông chờ vào chính sách của
nhà nước Doanh nghiệp gian lận trong khâu xử lý chất thải môi trường, ảnh hưởng xấu
tới sức khỏe người dân. Vẫn còn trẻ em lang thang, người vô gia cư, người già neo đơn
chưa được trợ giúp kịp thời[6,tr9].

2.2.2. Bài học và giải pháp

Đảng và nhà nước ta xác định dù trong bất kỳ tình huống nào cũng phải giữ
vững định hướng xã hội chủ nghĩa, kiên quyết phòng và chống nguy cơ chệch hướng
xã hội chủ nghĩa.Do nhu cầu phát triển đất nước ngày một mạnh mẽ nên đòi hỏi toàn
Đảng toàn dân ta phải có cái nhìn và nhận thức về xã hội chủ nghĩa vừa tổng thể, vừa
chi tiết. Do vậy, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa theo tư tưởng Hồ Chí Minh,
trước hết cần làm sáng tỏ các vấn đề cơ bản sau:

Làm rõ và cụ thể hóa mục tiêu của đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa là
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Sức hấp dẫn của chủ nghĩa
xã hội, trước hết là ở mục tiêu mang đậm bản chất nhân văn này.

Làm rõ các động lực phát triển của chủ nghĩa xã hội, trong đó động lực con
người với nhu cầu và lợi ích của họ giữ vị trí trung tâm. Mặt khác việc phát hiện động
lực, có chính sách phát huy và kết hợp các động lực phát triển sẽ làm cho chủ nghĩa xã
hội sinh động, năng động và mang tính thực tiễn

Xác định rõ bước đi và cách làm chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Xác định rõ bản chất đặc trưng và mô hình cấu trúc của chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam[6,tr10].

23
KẾT LUẬN

Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc vừa mang tính khoa học đúng đắn, vừa
có tính chất cách mạng, mang đậm tính nhân văn sâu sắc, thể hiện sự kết hợp nhuần
nhuyễn giữa dân tộc và giai cấp, chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế trong sáng,
độc lập dân tộc cho mình đồng thời độc lập cho tất cả các dân tộc.

Độc lập là tài sản thiêng liêng vô giá của cả dân tộc, là cái phải giữ cho dù mất
tất cả, “hy sinh tất cả”. Muốn thực hiện tốt tinh thần bất hủ ấy của Hồ Chí Minh, ngày
nay đường lối của Đảng và Nhà nước ta phải thể hiện rõ sự quan tâm, không ngừng
chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân. Tiếp thu và phát huy tinh hoa của
dân tộc với truyền thống “lấy dân làm gốc”, sinh thời Hồ Chí Minh đã không ngừng
giáo dục cán bộ, đảng viên phải luôn luôn có tinh thần “vì dân phục vụ”. Người nói:
“Gốc có vững cây mới bền, Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân” Chăm lo và không
ngừng nâng cao đời sống cho nhân dân là cách thiết thực nhất để bảo vệ độc lập dân
tộc, vì theo Người, dân như nước, chở thuyền cũng là nước mà lật thuyền cũng là nước.

Thấm nhuần tư tưởng của người về vấn đề dân tộc, ta càng phải phát huy chủ
nghĩa dân tộc chân chính, tinh thần tích cực chủ động, sáng tạo và tự lực tự cường của
mọi người dân Việt Nam để góp phần xây dựng và bảo vệ tổ quốc, bảo vệ nền độc lập
dân tộc. Người Việt Nam vốn có truyền thống yêu nước, tinh thần đoàn kết cộng đồng,
ý chí tự chủ kiên cường, sáng tạo, bất khuất, không chịu làm nô lệ, không cam phận
nghèo hèn. Những phẩm chất tốt đẹp ấy đã được phát huy cao độ trong hai cuộc kháng
chiến thần thánh của dân tộc, đưa đến thắng lợi vĩ đại Điện Biên và Đại thắng mùa xuân
1975, giải phóng Miền Nam thống nhất đất nước, đưa cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã
hội. Ngày nay, truyền thống quí báu ấy, chủ nghĩa dân tộc chân chính cần được tiếp tục
khơi dậy mạnh mẽ, biến nó thành một nguồn nội lực đưa đất nước vượt qua mọi khó
khăn thách thức, vững bước tiến lên cùng bè bạn khắp năm châu.

24
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Giáo dục và đào tạo, Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh, NXB Chính
trị quốc gia năm 2010.

2. GS. Nguyễn Đức Bình,C. Mác và Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, Tập 3, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.

3. Nguyễn Ngọc Long (1996), Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ dân tộc
và giai cấp,Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

4. Hồ Chí Minh ,Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2002..

5. Viện Hàn Lâm Khoa Học Xã Hội Việt Nam, Những cốt lõi trong tư tưởng
Hồ Chí Minh,https://www.vass.gov.vn/nghien-cuu-khoa-hoc-xa-hoi-va-nhan-van/Ve-
nhung-cot-loi-trong-tu-tuong-Ho-Chi-Minh-156

6. Báo Chính Phủ, Toàn văn Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII của Đảng http://baochinhphu.vn/Tin-noi-bat/Toan-van-Nghi-quyet-Dai-hoi-dai-
bieu-toan-quoc-lan-thu-XIII-cua-Dang/424239.vgp

25

You might also like