You are on page 1of 31

KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

BỘ MÔN PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG

------

TIỂU LUẬN CUỐI KỲ

TỘI PHẠM CƯỚP TÀI SẢN THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

MÃ MÔN HỌC: GELA220405_22_1_11

THỰC HIỆN: NHÓM 02

LỚP: THỨ 3 TIẾT 10 – 13

GVHD: TH.S VÕ THỊ MỸ HƯƠNG

Tp. Hồ Chí Minh, tháng 11 năm 2022


DANH SÁCH THÀNH VIÊN THAM GIA VIẾT TIỂU LUẬN

HỌC KÌ I NĂM HỌC 2022 – 2023

(Lớp T3 tiết 10 – 13)

Tên đề tài: Tội phạm cướp tài sản theo Luật hình sự Việt Nam. Lý luận và thực tiễn

STT Họ và tên MSSV Tỉ lệ hoàn thành


1 Trần Lê Gia Hân 21132057 100%
2 Nguyễn Việt Thục Đoan 21131170 100%
3 Nguyễn Trần Yến Bình 21116151 100%

Ghi chú:

 Tỷ lệ % = 100%: Mức độ phần trăm của từng sinh viên tham gia.
 Trưởng nhóm: Trần Lê Gia Hân SĐT: 0836 315 170

Nhận xét của giáo viên:

…………………………………………………………………………………………...
…………………………………………………………………………………………...

…………………………………………………………………………………………...

…………………………………………………………………………………………...

…………………………………………………………………………………………...

…………………………………………………………………………………………...

Ký tên

Võ Thị Mỹ Hương
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU............................................................................................................1

1. Lý do chọn đề tài:..................................................................................................1

2. Mục đích nghiên cứu:............................................................................................1

3. Đối tượng nghiên cứu:..........................................................................................2

4. Phương pháp nghiên cứu:......................................................................................2

5. Bố cục – Kết cấu đề tài:........................................................................................2

PHẦN NỘI DUNG........................................................................................................3

CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỘI CƯỚP TÀI SẢN THEO


PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM..........................................................................3

1.1. Lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam về tội cướp tài sản:....................................3

1.2. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội cướp tài sản:...................................5

1.3. So sánh tội cướp tài sản và một số tội khác:....................................................10

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG TỘI CƯỚP TÀI SẢN TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY
.......................................................................................................................................13

2.1. Thực trạng tội cướp tài sản tại Việt Nam hiện nay:............................................13

2.2. Một số vụ án về tội cướp tài sản:........................................................................14

2.3. Nguyên nhân:......................................................................................................20

CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG QUY ĐỊNH VỀ
TỘI CƯỚP TÀI SẢN..................................................................................................22

3.1. Sự cần thiết của việc nâng cao hiệu quả áp dụng quy định về về tội cướp tài sản:
....................................................................................................................................22

3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng quy định về tội cướp tài sản:............23

PHẦN KẾT LUẬN......................................................................................................25

TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................................................26


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:

Trong quá trình hình thành và phát triển của xã hội, xung đột lợi ích về vật chất
luôn là một trong những xung đột chính. Đối với nước ta, quyền sở hữu vật chất
hay tài sản của mỗi công dân được quy định rõ trong Hiến pháp và các văn bản quy
phạm pháp luật như Luật Hình sự, Luật Dân sự,... Tất cả mọi cá nhân, tổ chức trên
toàn lãnh thổ Việt Nam đều có nghĩa vụ tôn trọng quyền sở hữu của chủ tài sản
không phân biệt giai cấp, tôn giáo, quốc tịch, màu da,... Khi xã hội ngày càng phát
triển, sự phân hóa giàu nghèo ngày càng tăng, tâm lý muốn được hưởng thụ mà
không chịu lao động hay do sự tác động của nhiều loại tệ nạn khác nhau như cờ
bạc, ma túy, vay tín dụng đen,... đã khiến cho một bộ phận người dân không còn
tỉnh táo trước những cám dỗ từ tài sản của người khác, dẫn đến tình trạng cướp tài
sản đang diễn ra với một tần suất khá dày đặc trong xã hội hiện đại. Điều này đã vi
phạm nghiêm trọng đến quyền sở hữu hợp pháp tài sản (bao gồm: quyền chiếm
hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt) của chủ sở hữu tài sản đó. Với vai trò là
nền tảng kinh tế - xã hội việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu tài
sản trước tệ nạn cướp tài sản đang ngày một gia tăng hiện nay đã trở thành mối
quan tâm hàng đầu của không chỉ hệ thống pháp luật nói chung và toàn hệ thống
chính trị Việt Nam nói riêng mà còn là nỗi băn khoăn, trăn trở của mọi người trên
mảnh đất này. Vì vậy, việc nghiên cứu cơ sở lý luận về Tội cướp tài sản, thực tiễn
của loại tội phạm này nhằm xác định những tồn tại, nguyên nhân, hạn chế của nó là
cần thiết để đưa ra những giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế còn tồn đọng
của loại tội phạm này trông các Bộ luật hình sự, Bộ luật dân sự và cả trong đời
sống xã hội. Vì thế, nhóm chúng em xin lựa chọn đề tài: “Tội phạm cướp tài sản
theo Luật Hình sự Việt Nam. Lý luận và thực tiễn” làm đề tài tiểu luận cuối kỳ
môn Pháp luật đại cương.

2. Mục đích nghiên cứu:


Trên cơ sở nghiên cứu những quy định của pháp luật hình sự cũng như những
vấn đề thực tế có liên quan, tình hình, nguyên nhân và điều kiện của tội cướp tài
sản. Qua đó, thấy được những bất cập, hạn chế còn tồn tại để từ đó đưa ra giải pháp
nhằm góp phần nâng cao hiệu quả của cuộc đấu tranh phòng ngừa tội phạm này.

3. Đối tượng nghiên cứu:


 Tội cướp tài sản trong Bộ luật hình sự Việt Nam.
 Thực trạng của tội cướp tài sản tại Việt Nam và giải pháp nâng cao hiệu quả
việc áp dụng quy định về loại tội phạm này.
4. Phương pháp nghiên cứu:
 Tra cứu Internet, tổng hợp và chọn lọc lại thông tin, phân tích, nghiên cứu và từ
đó đưa ra nhận xét, đánh giá.
 Vận dụng quan điểm toàn diện và hệ thống, kết hợp khái quát và mô tả, phân
tích và tổng hợp, các phương pháp liên ngành khoa học xã hội và nhân văn.
5. Bố cục – Kết cấu đề tài:

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục của tài liệu tham khảo, nội dung tiểu
luận bao gồm 3 chương:

Chương 1: Những vấn đề lý luận về tội cướp tài sản theo pháp luật hình sự Việt
Nam

Chương 2: Thực trạng tội cướp tài sản tại Việt Nam hiện nay

Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng quy định về tội cướp tài sản
PHẦN NỘI DUNG

CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỘI CƯỚP TÀI SẢN


THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam về tội cướp tài sản:

Ngày 27/11/2015, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam khóa
XIII tại kỳ họp thứ 9, đã thông qua Bộ luật Hình sự (sau đây gọi tắt là Bộ luật Hình
sự 2015) Bộ luật Hình sự 2015 ra đời thay thế cho Bộ luật Hình sự 1999. Bộ luật
Hình sự 2015 ra đời đã thể chế hóa được quan điểm đổi mới của Đảng và Nhà
nước ta. Bộ luật Hình sự 2015 vẫn tiếp tục kế thừa và phát huy những gì mà Bộ
luật Hình sự 1999 đã quy định trong thời gian vừa qua. Vẫn giữ nguyên hai phần
chính là phần chung và phần tội phạm. Tuy nhiên, Bộ luật Hình sự 2015 vẫn có
những điểm mới hơn so với Bộ luật Hình sự 1999 như quy định thêm trách nhiệm
hình sự của pháp nhân, phạm vi trách nhiệm của pháp nhân, đã giảm bớt hình phạt
tử hình đối với 7 tội danh trong đó có tội cướp tài sản,...

Điều 168 quy định:

1. Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác
làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm
chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến
15 năm:
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn
thương cơ thể từ 11% đến 30%;
d) Sử dụng vũ khí, phương tiện hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác;
e) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;
f) Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già
yếu hoặc người không có khả năng tự vệ;
g) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
h) Tái phạm nguy hiểm.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến
20 năm:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn
thương cơ thể từ 31% đến 60%;
c) Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 18 năm đến
20 năm hoặc tù chung thân:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người mà tỷ lệ tổn
thương cơ thể 61% trở lên hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 31% trở
lên;
c) Làm chết người;
d) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.
5. Người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
6. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000
đồng, phạt quản chế, cấm cư trú từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần
hoặc toàn bộ tài sản.
Điều 168 Bộ luật Hình sự quy định 5 khung hình phạt đối với người phạm tội
cướp tài sản như sau:
 Khoản 1 (Tội phạm rất nghiêm trọng): có mức hình phạt tù từ 03 năm đến
10 năm đối với người phạm tội không có tình tiết tăng nặng định khung hình
phạt.
 Khoản 2 (Tội phạm rất nghiêm trọng): có mức hình phạt tù từ 07 năm đến
15 năm.
 Khoản 3 (Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng): Có mức hình phạt tù từ 12 năm
đến 20 năm đối với người phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau:
Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng; Gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn
thương cơ thể từ 31% đến 60%; Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh. Trong đó: Lợi
dụng thiên tai, dịch bệnh là trường hợp người phạm tội lợi dụng vào hoàn
cảnh thiên tai, dịch bệnh để thực hiện hành vi phạm tội cướp tài sản. Tình
tiết này được áp dụng không phụ thuộc vào phạm vi, mức độ của thiên tai,
dịch bệnh hoặc tính chất, mức độ của những khó khăn khác của xã hội trong
tình trạng thiên tai, dịch bệnh.
 Khoản 4 (Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng): có mức hình phạt tù từ 18 năm
đến 20 năm hoặc tù chung thân áp dụng đối với người phạm tội thuộc một
trong các trường hợp sau: Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ 500 triệu đồng trở
lên; Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người mà tỷ lệ
tổn thương cơ thể 61% trở lên hoặc gây thương tích hoặc tổn hại cho sức
khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 31% trở
lên; Làm chết người; Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.
 Về trách nhiệm hình sự của hành vi chuẩn bị phạm tội cướp tài sản, thì tại
khoản 5 Điều 168 Bộ luật Hình sự quy định người chuẩn bị phạm tội này,
thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. Theo quy định tại khoản 1 Điều 14 Bộ
luật Hình sự, thì chuẩn bị phạm tội cướp tài sản là tìm kiếm, sửa soạn công
cụ, phương tiện hoặc tạo ra những điều kiện khác để thực hiện tội phạm
hoặc thành lập, tham gia nhóm tội phạm.
 Hình phạt bổ sung được quy định tại khoản 6 Điều 168 Bộ luật Hình sự là
người phạm tội cướp còn có thể bị phạt tiền từ 10 triệu đồng đến 100 triệu
đồng, phạt quản chế, cấm cư trú từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một
phần hoặc toàn bộ tài sản.
1.2. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội cướp tài sản:
 Khái niệm của tội cướp tài sản:

Bộ Luật hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành trên cơ sở
nhận thức khoa học về tính giai cấp của pháp luật, trong đó có luật pháp Hình sự, về vị
trí, vai trò của các biện pháp và phương thức mà xã hội ta có thể sử dụng để đấu tranh
chống tội phạm. Trải qua các thời kỳ lịch sử khác nhau, pháp luật hình sự của Nhà
nước không ngừng thay đổi về nội dung và hình thức, về số lượng và chất lượng để
phù hợp với tình hình thực tế của xã hội hiện tại. Điều đó nói lên rằng Bộ luật Hình sự
của nước ta ngày càng hoàn thiện, nó là cơ sở để sử dụng trong đấu tranh và phòng
ngừa tội phạm. Việc nhận thức đúng đắn về tội phạm nói chung và tội phạm cụ thể nói
riêng sẽ là nền tảng và rất có ý nghĩa đối với quá trình hình thành và đưa ra các biện
pháp, giải pháp đấu tranh phòng ngừa các loại tội phạm.

Trong Bộ luật Hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1999
được sửa đổi, bổ sung năm 2009, tội cướp tài sản là một trong những tội phạm cụ thể
được quy định tại Điều 133 (thuộc Chương XVI về các tội xâm phạm sở hữu). Khi đề
cập đến tội phạm cướp tài sản xã hội chủ nghĩa (theo Điều 129 và Điều 151 Bộ luật
Hình sự năm 1985) thành tội cướp tài sản cho có tính chất khái quát hơn, tạo điều kiện
thuận lợi cho công tác đấu tranh, chống tội phạm của các cơ quan chức năng. Đây là
một bước đột phá mới trong công tác xây dựng pháp luật hình sự ở nước ta.

Tội cướp tài sản luôn được các nhà lập pháp xác định là một trong những tội
phạm nguy hiểm. Tính nguy hiểm của nó thể hiện ở chỗ nó không chỉ xâm hại đến
quyền sở hữu tài sản mà còn xâm phạm quyền nhân thân, quyền được bảo vệ về tính
mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người. Đặc biệt hành vi cướp tài sản
luôn để lại tâm lý hoang mang, lo lắng trong đời sống xã hội.

Theo Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam của trường Đại học Luật Hà Nội (Nhà
xuất bản Công an nhân nhân dân, năm 2006) thì xác định: “Tội cướp tài sản là dùng vũ
lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công
lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản.”

Điểm nổi bật của tội cướp tài sản là người phạm tội dùng vũ lực hay đe dọa
dùng vũ lực hay có hành vi khác làm người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể
chống cự được để chiếm đoạt tài sản mà người bị tấn công biết là mình bị lấy mất tài
sản. Trong đó hành vi “dùng vũ lực” là hành vi tác động vào cơ thể của nạn nhân như:
đấm, đá, bóp cổ, trói… nhưng phải nhằm mục đích là chiếm đoạt tài sản. Đối với hành
vi “đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc là hành vi của người cướp tài sản đã sử dụng lời
nói hoặc cử chỉ hay hành động đe dọa xâm phạm ngay đến tính mạng, sức khỏe và làm
tê liệt ngay ý chí chống cự, phản kháng của người có tài sản”. Theo đó, đặc điểm của
hành vi “đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc” là đe dọa dùng ngay lập tức, tại chỗ sức
mạnh vật chất nếu người có tài sản không chịu khuất phục nhằm làm tê liệt ý chí
chống cự của họ để lấy tài sản. Đặc điểm này vừa chỉ sự khẩn trương, nhanh chóng có
thể xảy ra chớp nhoáng về mặt thời gian, vừa chỉ sự mãnh liệt của sự đe dọa có thể xảy
ra ngay lập tức nếu người bị đe dọa có biểu hiện chống cự. Trước sự đe dọa này của
người phạm tội, người bị đe dọa sợ hãi và tin rằng sẽ bị nguy hại đến sức khỏe hoặc
tính mạng nếu chống cự lại và không thể kêu cứu.

Từ những vấn đề nêu trên, có thể hiểu Tội cướp tài sản trong phạm vi luận văn này
như sau:

Tội cướp tài sản là dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi
khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể tự vệ được nhằm chiếm
đoạt tài sản.

Tội cướp tài sản được quy định tại Điều 133 Bộ luật Hình sự năm 1999 được cấu
thành 5 khoản. Khoản 1 là cấu thành cơ bản có khung hình phạt tù từ ba năm đến mười
năm; Khoản 2 có khung hình phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm; Khoản 3 có
khung hình phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm; Khoản 4 có khung phạt tù từ
mười tám năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình; Khoản 5 người phạm tội
còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, tịch thu một phần
hoặc toàn bộ tài sản, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ một năm đến năm năm.

 Các dấu hiệu pháp lý của tội cướp tài sản:


Khách thể của tội cướp tài sản:
Tội cướp tài sản xâm phạm đến hai mối quan hệ xã hội được pháp luật
bảo vệ đó là: quan hệ về nhân thân và quan hệ sở hữu tài sản. Trong đó quan hệ
sở hữu tài sản là quan hệ bị xâm phạm trực tiếp.
Trong tội cướp tài sản, người phạm tội vì đạt được mục đích mà sử dụng
vũ lực, đe dọa sử dụng vũ lực khiến người bị hại không thể chống cự, ngoài ra
còn có thể gây thương tích, tổn hại sức khỏe, tính mạng của người mà đối tượng
nhắm tới, đây là xâm phạm quan hệ nhân thân. Và mục đích chính của người
phạm tội này là để chiếm đoạt tài sản của người bị hại một cách bất hợp pháp,
cho nên đây là xâm phạm trực tiếp đến quan hệ tài sản.
Mặt khách quan của tội phạm:
Về hành vi: Đối với tội cướp tài sản, người phạm tội có một trong những hành
vi sau đây:
 Hành vi dùng vũ lực: Hành vi sử dụng vũ lực là hành vi người phạm tội sử
dụng sức mạnh thể chất hoặc sử dụng các loại vũ khí tấn công trực tiếp vào
người sở hữu tài sản, ép buộc họ phải giao nộp tài sản cho người phạm tội.
Sức mạnh thể chất có thể hiểu là sức mạnh của chính bản thân người phạm
tội, như là thực hiện đánh đấm, bóp cổ, hạ gục người bị hại… Vũ khí sử
dụng có thể là gậy gộc, gạch đá, dao, súng hoặc các loại phương tiện phạm
tội khác tác động trực tiếp vào thân thể nạn nhân. Hành vi này khiến nạn
nhân không thể chống cự, tê liệt, mất khả năng chống cự, từ đó người phạm
tội có thể chiếm đoạt tài sản của nạn nhân.
 Hành vi đe dọa sử dụng vũ lực ngay tức khắc: Nếu hành vi dùng vũ lực là đã
thực hiện tác động vào thân thể của người sở hữu tài sản, thì hành vi đe dọa
sử dụng vũ lực là việc người phạm tội cũng sử dụng sức mạnh thể chất, hoặc
sử dụng vũ khí khiến cho người sở hữu tài sản hiểu rằng nếu không giao tài
sản người phạm tội sẽ sử dụng vũ lực ngay sau đó, khiến họ không còn ý chí
kháng cự và phải giao nộp tài sản cho người phạm tội.
 Những hành vi khác không phải là vũ lực nhưng khiến cho nạn nhân không
thể kháng cự hoặc không dám kháng cự: Các hành vi khác ở đây có thể
được hiểu là người phạm tội không trực tiếp sử dụng sức mạnh thể chất hay
vũ khí để tác động đến người bị hại nữa mà sử dụng các thủ đoạn tinh vi
hơn, như là dùng thái độ, lời nói, hoặc các công cụ như vũ khí giả, thuốc gây
mê… tác động đến tinh thần và thể chất của nạn nhân, khiến họ không thể
kháng cự để chiếm đoạt tài sản.

Về mục đích: Mục đích của tội cướp tài sản là để chiếm đoạt tài sản của người
bị hại.
Về hậu quả: Hậu quả của tội cướp tài sản là tài sản bị của người sở hữu bị
chiếm đoạt. Ngoài ra còn có thể xảy ra thiệt hại về sức khỏe, thân thể, tính
mạng của nạn nhân.

Cả ba hành vi trên dù được thực hiện thế nào đều dẫn đến kết quả là người bị
tấn công “lâm vào tình trạng không thể chống cự được” mới cấu thành tội phạm này.
Đây là tội phạm có cấu thành tội phạm hình thức. Vì thế, tội phạm được xem là hoàn
thành khi người phạm tội có một trong những hành vi vừa phân tích trên và làm cho
nạn nhân “lâm vào tình trạng không thể chống cự được”, nhằm chiếm đoạt tài sản, bất
kể người phạm tội có chiếm được tài sản hay chưa.

Đây là tội phạm có cấu thành tội phạm hình thức nên khi người phạm tội thực
hiện một trong các hành vi nói trên khiến cho nạn nhân lâm vào tình trạng không thể
chống cự được với mục đích chiếm đoạt tài sản thì tội phạm coi như đã hoàn thành.

Hậu quả của tội cướp tài sản có thể chỉ là thiệt hại nhân thân (tính mạng, sức
khỏe, danh dự, nhân phẩm) hoặc thiệt hại về sở hữu (tài sản). Trường hợp cả hai quan
hệ đều bị xâm hại thì chúng ta cần chú ý để xác định liệu có xảy trường hợp phạm
nhiều tội hay không. Cần xem xét các trường hợp sau:

 Nếu người phạm tội dùng mọi hành vi và mong muốn nạn nhân chết hoặc để
mặc nạn nhân chết nhằm chiếm đoạt tài sản hoặc sau khi cướp tài sản, bị
đuổi bắt, người phạm tội đã giết người thì phải định hai tội: cướp tài sản và
giết người.
 Nếu có hậu quả thương tích xảy ra (tỷ lệ thương tật từ 11% trở lên), người
phạm tội chỉ bị truy cứu về tội cướp tài sản với tình tiết tăng nặng “gây
thương tích” (khoản 2, 3 hoặc khoản 4 Điều 168 Bộ luật Hình sự 2015 là tùy
vào tỉ lệ thương tật).
 Nếu có xảy ra hậu quả về danh dự, nhân phẩm xảy ra mà hành vi xâm hại đó
không liên quan đến việc khống chế khả năng chống cự của nạn nhân thì
người phạm tội còn bị truy cứu thêm các tội phạm tương ứng với hành vi
xâm hại danh dự, nhân phẩm đó.
Người phạm tội cướp tài sản có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự dù có hậu
quả xảy ra hay không. Tức là chỉ cần có hành vi nhưng chưa chiếm đoạt được tài sản
thì vẫn phải chịu trách nhiệm. Ngoài ra giá trị tài sản ít hay nhiều cũng không làm ảnh
hưởng đến việc truy cứu trách nhiệm hình sự mà đây sẽ là một trong những yếu tố để
định khung hình phạt.

Mặt chủ quan của tội cướp tài sản:

Tội cướp tài sản được thực hiện bởi lỗi cố ý trực tiếp.

Người phạm tội dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có bất ký
hành vi nào khác là nhằm chiếm đoạt tài sản. Mục đích vụ lợi (nhằm chiếm đoạt tài
sản) là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm này. Nếu có hành vi mà không có mục đích
“chiếm đoạt tài sản” phải có trước hoặc đồng thời với hành vi dùng vũ lực, đe dọa
dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có bất kỳ hành vi nào khác thì mới cấu thành tội cướp
tài sản. Nếu ý định chiếm đoạt tài sản có sau các hành vi này thì không thể có tội cướp
tài sản dù sau đó phạm tội có chiếm đoạt tài sản.

Chủ thể của tội cướp tài sản:

Chủ thể của tội cướp tài sản là chủ thể thường. Bất kỳ người nào từ đủ 14 tuổi
trở lên và có năng lực trách nhiệm hình sự đều có thể trở thành chủ thể của tội cướp tài
sản.

1.3. So sánh tội cướp tài sản và một số tội khác:

Tội “Cướp tài sản” và tội “Cướp giật tài sản”

Điều 171. Tội “Cướp giật tài sản”.

“Người nào cướp giật tài sản của người khác.”

Giống nhau:

- Chủ thể tội phạm: Người từ đủ 14 tuổi đến 16 tuổi phải chịu trách nhiệm về hai
tội phạm này.
- Đều có mục đích chiếm đoạt tài sản.
- Định lượng tài sản chiếm đoạt không phải là yếu tố định tội mà chỉ là yếu tố
định khung hình phạt.

Khác nhau:

Hành vi phạm tội: Tội “Cướp tài sản” sử dụng hành vi “Dùng vũ lực, đe dọa vũ lực
ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng
không thể chống cự được”, còn tội cướp giật tài sản người phạm tội không sử dụng vũ
lực (tuy một số trường hợp có sử dụng sức mạnh như đạp, xô cho bị hại ngã để cướp),
đe dọa vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào
tình trạng không thể chống cự được như trong tội “Cướp tài sản” mà chỉ dựa vào sự
nhanh nhẹn của bản thân và sự sơ hở của người bị hại, hay trường hợp người bị hại
không đủ khả năng bảo vệ tài sản.

 Như vậy, tính công khai của tội phạm là yếu tố cơ bản để phân biệt hai tội danh
này trên thực tế.

Chuyển hóa tội phạm: Trường hợp người phạm tội sau khi đã cướp giật được tài sản
nhưng sau đó bị hại hoặc người khác giành, giật lại được tài sản và người phạm tội
dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công
lâm vào tình trạng không thể chống cự được để giành lại tài sản thì có sự chuyển hóa
từ tội “Cướp giật tài sản” sang tội “Cướp tài sản”.

Tội “cướp tài sản” và “tội trộm cắp tài sản”.

Điều 173. Tội “Trộm cắp tài sản”:

“Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới
50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp
sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến
03 năm.”

Khác nhau:

- Trong tội “Cướp tài sản” người phạm tội dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay
tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng
không thể chống cự được.
- Trong tội “Trộm cắp tài sản” thì người phạm tội thực hiện một cách lén lút.
 Như vậy, trong tội “Cướp tài sản” tính công khai của người phạm tội rõ ràng
hơn so với tội “Trộm cắp tài sản”.

Ngoài ra trong tội “Trộm cắp tài sản” định lượng giá trị tài sản chiếm đoạt được quy
định trong cấu thành cơ bản còn đối với tội “Cướp tài sản” thì không quy định.

Chuyển hóa tội phạm: Cũng giống như hành vi chuyển hóa trong tội “Cướp giật tài
sản”, trường hợp người phạm tội sau khi đã trộm cắp được tài sản nhưng sau đó bị hại
hoặc người khác giành, giật lại được tài sản và người phạm tội dùng vũ lực hoặc đe
dọa dùng vũ lực hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng
không thể chống cự được để giành lại tài sản thì có sự chuyển hóa từ tội “Trộm cắp tài
sản” sang tội “Cướp tài sản”.

Tội “Cướp tài sản” và tội “Công nhiên chiếm đoạt tài sản”.

Điều 172. Tội “Công nhiên chiếm đoạt tài sản”

“Người nào công nhiên chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng
đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng”.

Khác nhau:

- Nếu trong tội “Cướp tài sản” người phạm tội dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực
ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình
trạng không thể chống cự được mới chiếm đoạt được thì trong tội “Công nhiên
chiếm đoạt tài sản” người phạm tội không cần dùng thủ đoạn nào cũng vẫn
chiếm đoạt được tài sản.
- Chủ thể tội phạm này là người từ đủ 16 tuổi trở lên còn đối với tội “Cướp tài
sản” thì chủ thể người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi.
- Cũng giống như tội “Trộm cắp tài sản” thì tội này tài sản chiếm đoạt có giá trị
để định khung hình phạt.

Tội “Cướp tài sản” và tội “Cưỡng đoạt tài sản”.

Điều 170. Tội “Cưỡng đoạt tài sản”


“Người nào đe dọa sẽ dùng vũ lực hoặc có thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người
khác nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm”

Cả hai tội phạm này đều có hành vi đe dọa dùng vũ lực song thời điểm đe dọa vũ lực
là khác nhau, nếu tội cướp tài sản là ngay tức khắc bị hại phải giao tài sản ngay mà
không có thời gian để ngăn chặn còn thời điểm đe dọa dùng vũ lực đối với tội cưỡng
đoạt tài sản là hình thành trong tương lai và không có khả năng xảy ra bị hại vẫn có
thời gian để dùng các biện pháp ngăn chặn hành vi phạm tội xảy ra.

- Giải pháp:

Thứ nhất: Hoàn thiện quy định về định lượng tài sản chiếm đoạt trong tội “Cướp tài
sản”, đồng thời cần sớm ban hành hệ thống văn bản hướng dẫn thi hành về các tội xâm
phạm sở hữu bởi đây là nhóm tội xảy ra thường xuyên.

Thứ hai: Điểm cơ bản để phân biệt các tội danh trên là tính công khai trong hành vi
phạm tội, ở mỗi tội phạm mức độ công khai khác nhau như tội “Cướp giật tài sản” với
tội “Cướp tài sản” thì tính công khai đối với tội cướp giật là rõ ràng hơn. Tuy nhiên,
cần sớm có văn bản hướng dẫn thi hành về dấu hiệu định tội đối với các tội phạm
mang tính chiếm đoạt tài sản để trong thực tiễn thi hành tránh để xảy ra sai sót.

Việc ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành sẽ góp phần nâng cao hiệu quả giải
quyết các vụ án chiếm đoạt tài sản trong thực tiễn.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG TỘI CƯỚP TÀI SẢN TẠI VIỆT NAM
HIỆN NAY
2.1. Thực trạng tội cướp tài sản tại Việt Nam hiện nay:
Thông tin về tình hình tội phạm những tháng đầu năm tại Hội thảo khoa học
công tác phòng ngừa tội phạm trong giai đoạn hiện nay cho biết, trong 10 tháng đầu
năm 2021, toàn quốc xảy ra 34.638 vụ phạm tội về trật tự xã hội, giảm 11,23% so cùng
kỳ năm 2020 và giảm 17,16% so với cùng kỳ năm 2019. Trong đó tội cướp tài sản đã
giảm 17,24%. Nhóm tội phạm xâm phạm sở hữu (cướp, cướp giật, cưỡng đoạt, lừa
đảo, trộm cắp) chiếm tỷ lệ cao (49,67%), trong đó, tội phạm lừa đảo, chiếm đoạt tài
sản tăng 4,51%, nhất là lừa đảo qua Internet, mạng xã hội, nhiều vụ lên đến hàng trăm
tỷ đồng.

Trong tổng số 33.198 vụ xâm phạm sở hữu thì tội phạm trộm cắp tài sản chiếm
tỷ lệ cao nhất trong cơ cấu của tội phạm xâm phạm sở hữu với 24.360 vụ chiếm
73,38%, tiếp đến là cướp giật tài sản 3.154 vụ chiếm 9,50%, lừa đảo chiếm đoạt tài sản
xảy ra 1.744 vụ chiếm 5,25%, xảy ra 1.528 cướp tài sản chiếm 4,60%, hủy hoại hoặc
cố ý làm hư hỏng tài sản xảy ra 1.057 chiếm 3,05%, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài
sản xảy ra 832 vụ chiếm 2,51%, cưỡng đoạt tài sản xảy ra 544 vụ chiếm 1,64%, bắt
cóc nhằm chiếm đoạt tài sản xảy ra 24 vụ chiếm 0,07%. Qua nghiên cứu cho thấy, số
vụ xâm phạm sở hữu tập trung chủ yếu ở các thành phố lớn, nơi tập trung nhiều khu
công nghiệp, dịch vụ như thành phố Hồ Chí Minh (5.044 vụ), Hà Nội (3.580 vụ),
Đồng Nai (1.203 vụ), Bình Dương (775 vụ), Đà Nẵng (390 vụ)…

Lực lượng Cảnh sát nhân dân đã điều tra, khám phá 21.941 vụ xâm phạm sở
hữu với 30.081 đối tượng, đạt 60,09% và 93,52% tổng số đối tượng; thu hồi tài sản trị
giá 132.366, 963 triệu đồng; khởi tố 18.771 vụ (chiếm 56,54%) với 22.118 đối tượng
(chiếm 68,76%); xử phạt hành chính 564 vụ, 821 đối tượng với số tiền phạt 691,95
triệu đồng. Trong đó, tỉ lệ khám phá án cao nhất đối với án bắt cóc nhằm chiếm đoạt
tài sản đạt 95,8%; tiếp đến là lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản đạt 94,1%, cưỡng
đoạt tài sản xảy ra đạt 89,8%; lừa đảo chiếm đoạt tài sản đạt 81%; hủy hoại hoặc cố ý
làm hư hỏng tài sản đạt 72,1%; cướp tài sản đạt 70,9%; cướp giật tài sản đạt 63,7% và
thấp nhất án trộm cắp tài sản đạt 63,2%. Đặc biệt, lượng Công an cả nước đã triệt phá
2.841 băng nhóm tội phạm xâm phạm sở hữu, trong đó có 195 băng nhóm cướp tài
sản, 01 băng nhóm bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, 99 băng nhóm cưỡng đoạt tài sản,
443 băng nhóm cướp giật tài sản, 1.939 băng nhóm trộm cắp tài sản, 99 băng nhóm lừa
đảo chiếm đoạt tài sản, 27 băng nhóm lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, 38 băng
nhóm hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản.

Trong năm qua tội phạm xâm phạm sở hữu do các băng nhóm tội phạm gây ra
diễn biến rất phức tạp và tại nhiều nơi, tác động tiêu cực đến tâm lý, đời sống của
người dân, gây thiệt hại cả về người và tài sản, gây mất an ninh trật tự tại các địa
phương. Thời gian gần đây, đối tượng phạm tội sử dụng hung khí, công cụ hỗ trợ, vũ
khí nóng gây án ngày càng gia tăng và sẵn sàng chống trả lại lực lượng truy bắt khi bị
phát hiện, chạy trốn, các đối tượng có xu hướng chuyển dần từ sự trốn tránh, né tránh
sang sẵn sàng đối đầu với lực lượng thi hành công vụ và người dân khi bị truy bắt.

2.2. Một số vụ án về tội cướp tài sản:


Ví dụ 1: Vụ án cướp tài sản ngày 04/08/2020 trên địa bàn tỉnh Kon Tum.

Nội dung vụ án:

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án
được tóm tắt như sau:

Khoảng 20 giờ 30 phút ngày 30/01/2020 bị cáo cùng A TT đi từ huyện Sa Thầy


sang ĐăkTô để thăm người quen, khi đi đến thôn 5, xã Diên Bình thì bị một số thanh
niên tại đây ném đá nên bị cáo và A TT quay xe chạy về hướng Sa Thầy. Khi đi đến
đoạn đường thôn 4, xã Diên Bình thì gặp xe mô tô BKS 82T1 - 2007 do Tống Ngọc
Duy TH và Đặng Mỹ G điều khiển đi cùng chiều. Bị cáo nghi đó là những thanh niên
ném đá mình nên bảo A TT chặn xe để đánh trả thù. A TT đã đi sát lại, ép xe vào lề
đường, dùng chân đạp vào xe mô tô của G và TH . Bị cáo đẩy người ngồi sau làm xe
ngã xuống đường, dùng tay đấm vào mặt, vào người cháu TH . Sau khi TH và G bỏ xe
chạy, bị cáo đã chiếm đoạt xe mô tô 82T1 - 2007 chạy về nhà tại xã Hơ Moong, huyện
Sa Thầy để cất dấu. Sáng ngày hôm sau khi bị cáo đang tháo biển số xe để tránh bị
phát hiện thì bị công an bắt giữ.
Cáo trạng số 13/CT - VKS ngày 30/6/2020 Viện kiểm sát nhân dân huyện
ĐăkTô truy tố bị cáo A T về tội “Cướp tài sản” theo điểm e khoản 2 điều 168 Bộ luật
hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm soát vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề
nghị Hội đồng xét xử áp dụng: Điểm e khoản 2 điều 168, điểm h, s khoản 1 khoản 2
điều 51; điều 54; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt
bị cáo từ 3 đến 4 năm tù.

Lời nói sau cùng: Bị cáo biết việc làm của bị cáo là vi phạm pháp luật xin Hội
đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Quyết định toà án xét sử:

 Căn cứ điểm e khoản 2 điều 168; Các điểm h, s khoản 1, khoản 2 điều 51;
khoản 1 điều 54; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.
- Tuyên bố bị cáo A T phạm tội “Cướp tài sản”.
- Xử phạt bị cáo A T 4 (bốn) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị tạm
giữ, tạm giam (03/2/2020).

Áp dụng khoản 2 điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Điểm a, khoản 1
điều 47 Bộ luật hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 chiếc kéo có đặc điểm đúng như biên bản
giao nhận vật chứng giữa Cơ quan điều tra Công an huyện ĐăkTô và Chi cục thi hành
án Dân sự huyện ĐăkTô lập ngày 07/07/2020.

Áp dụng khoản 2 điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Điều 6, điểm a
khoản 1 điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về
mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo
A T phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Ví dụ 2: Vụ án ngày 27/04/2022 về tội cướp tài sản tại Hà Nội.

Nội dung vụ án:

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án
được tóm tắt như sau:
Qua mạng xã hội Facebook, Nguyễn Thị Y có quen biết Đỗ Quyết T và thường
nhắn tin, gọi điện qua ứng dụng Facebook với nhau. Y kể cho T về việc chồng của Y
là anh Lê Quang T1 (đã ly thân) đã lấy trộm của Y số tiền 10.000.000 đồng (là tiền Y
để dành để sinh con vì Y đang mang thai) và nhờ T có biết T1 ở đâu thì thông báo cho
Y để đến đòi tiền. Ngày 09/5/2021, Y gọi điện thoại cho T nói T1 đang ở khu vực bến
xe MĐ, Y đang đi xe khách xuống gặp T1 để nói chuyện tiền bạc, Y nhờ T đi cùng để
đòi tiền, T đồng ý. Khoảng 17 giờ 30 phút cùng ngày, T đến khu vực bến xe MĐ đón
Y, trên đường đi gặp T1, Y nói với T khi đòi nợ T1 thì chưa cần đánh vội mà để Y xử
lý trước. Do nghĩ việc đòi nợ T1 sẽ xảy ra đánh nhau nên T bảo Y để “gọi thêm
người”, Y đồng ý. T gọi điện cho Lê Văn Đ rủ Đ đi cùng để giải quyết công việc, Đ
đồng ý và hỏi T: “Có cần mang theo đồ (hung khí) không”, T trả lời: “Không cần” và
hẹn gặp Đ tại khu vực quán Karaoke 5 Sao trên đường TVB, phường PC, NTL, Hà
Nội. Khoảng 18 giờ 30 phút cùng ngày, T và Y đến địa điểm trên thì gặp Đ. Tại đây, Y
nói chuyện với Đ về việc T1 lấy tiền của Y, Đ hiểu ý Y là chờ T1 đến để đòi tiền.
Khoảng 19 giờ 30 phút cùng ngày, anh T1 đi taxi đến khu vực trước cửa quán Karaoke
5 sao thấy Y đang đứng trước cửa nhà X, XP Garden, PC, NTL, Hà Nội nên gọi Y đến
gần xe taxi nói chuyện. Trong lúc đang nói chuyện, anh T1 định bỏ đi thì Y giật cửa xe
ô tô, hai bên giằng co, Y mất đà nên bị ngã ngồi ra đường, Lê Văn Đ thấy vậy nên đi
xe máy lên chặn đầu xe taxi rồi mở cửa sau bên trái dùng chân đạp anh T1 01 cái vào
hông làm anh T1 ngã sang phía cửa bên, Đỗ Quyết T thấy vậy cũng chạy ra chặn cửa
xe sau đó T túm cổ áo rồi cùng Đ lôi anh T1 ra khỏi xe taxi đưa lên vỉa hè. Lúc này Y,
T1, T ngồi xổm còn Đ thì đứng cạnh anh T1, Y bắt anh T1 trả 10.000.000 đồng nhưng
anh T1 chỉ nhận lấy 5.000.000 đồng. Đ thấy vậy dùng đầu gối phải lên gối một cái
trúng vào mặt anh T1 nên anh T1 xin đừng đánh vì sống mũi anh làm giả. Y tiếp tục
bắt anh T1 trả tiền nhưng anh T1 nói không có tiền: Đ quát yêu cầu anh T1 bỏ hết đồ
trên người ra ngoài, Y kiểm tra thấy có 650.000 đồng và 01 điện thoại di động Iphone
5S. Do thấy có đông người qua lại nên Đ yêu cầu tất cả về khu vực bãi đất trống gần
cổng trường Vietinbank trong KĐT Vigracera tổ X XP, NTL, Hà Nội để giải quyết.
Tại đây, Đ bắt anh T1 bỏ hết đồ đạc trong người ra và nói: “Giờ thế nào”, anh T1 nói
giờ chỉ còn 650.000 đồng và điện thoại, Y bắt anh T1 phải trả ngay số tiền 10.000.000
đồng, do sợ bị đánh nên anh T1 phải nhận và nói chỉ có 650.000 đồng, Y bắt anh T1
đưa số tiền này và phải đi bán chiếc điện thoại di động Iphone 5S đang sử dụng để lấy
tiền đưa cho Y, vì sợ bị đánh nên anh T1 đồng ý. Sau đó Đ đi về công ty, còn T chở
anh T1 và Y đi đến cửa hàng điện thoại di động L Mobi tại địa chỉ số X đường PC,
PC, NTL, Hà Nội do anh Lương Văn L, sinh năm 1996; NKTT: thôn TL, xã HĐ,
huyện HH, Thanh Hóa làm chủ bán được 800.000 đồng. Sau khi bán được điện thoại
thì Đ gọi điện đến cho T hỏi và bảo đưa anh T1 về khu vực bãi đất trống tại TDP số X,
PC, NTL, T chờ anh T1 và Y về bãi đất trống thì thấy Đ điều khiển xe ô tô cẩu tự hành
ra đến nơi và dừng lại. Do Y đã lấy của anh T1 tổng cộng 1.450.000 đồng, làm tròn
thành 1.500.000 đồng nên Y bắt anh T1 phải viết giấy nợ số tiền còn lại là 8.500.000
đồng. Y bảo Đ lấy giấy bút, Đ lên xe ô tô xé 02 tờ giấy trắng (loại giấy tập học sinh)
và cầm cây bút bi xuống đưa cho anh T1, Y và T đã đọc nội dung cho anh T1 viết. Vì
sợ bị đánh nên anh T1 đồng ý viết giấy nợ Y số tiền 8.500.000 đồng và hẹn trả làm 02
lần. Lần 1 vào ngày 11/5 trả 3.500.000 đồng; Lần 2 vào ngày 18/5 trả số tiền còn lại
5.000.000 đồng. Đ cầm điện thoại soi đèn cho anh T1 viết 02 tờ giấy có nội dung
giống nhau, anh T1 cầm 01 bản, 01 bản Y cầm sau đó đưa cho T cất giữ và nhờ Đ
đứng ra thu hộ tiền nợ của anh T1. Sau đó, T và Y chở anh T1 đến ngã tư Canh, tại đây
Y đưa lại cho T1 100.000 đồng để anh T1 bắt xe ôm về, còn T tiếp tục chở Y về KM,
PD, BTL để Y bắt xe về quê. Trưa ngày 11/5/2021, anh T1 hẹn gặp Đ để trả tiền
nhưng do bận việc nên Đ đã nhờ chị Lê Thị L, sinh năm 1991, trú tại: QY, QL, Nghệ
An là người làm cùng công ty đến gặp anh T1 tại chung cư Vigracera, tổ X, phường
XP, Nam Từ Liêm để nhận tiền hộ. Chị L đã đến gặp và nhận từ anh T1 1.000.000
đồng (chị Lộc không biết tiền gì). Sau khi giao tiền cho chị Lộc, anh T1 đã đến Công
an phường Phương Canh trình báo sự việc. Đến chiều tối cùng ngày, khi biết cơ quan
Công an mời Đ lên làm việc thì chị L đã đến Công an phường Phương Canh giao nộp
lại số tiền đã nhận của anh T1.

Đối với anh Lê Quang T1, tại Cơ quan điều tra, ban đầu anh T1 khai nhận chỉ
lấy số tiền 1.300.000 đồng của Y để mua đồ ăn, T1 không lấy số tiền 10.000.000 đồng
của Y và từ chối giám định thương tích. Quá trình điều tra sau đó, Cơ quan điều tra đã
nhiều lần triệu tập đến làm việc để làm rõ các nội dung liên quan đến vụ án và yêu cầu
về dân sự nhưng anh T1 không đến làm việc. Xác minh tại địa phương và gia đình, xác
định từ tháng 4/2021 đến nay anh T1 không về nhà, gia đình và địa phương không rõ
nơi T1 cư trú và làm việc nên Cơ quan điều tra đã ra thông báo tìm người bị hại nhưng
chưa tìm được T1.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 269/2021/HS-ST ngày 08/11/2021 của Tòa án


Tòa án nhân dân quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội đã áp dụng khoản 1 Điều 168;
điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm b khoản 1 Điều 51 (áp dụng đối với bị cáo
Nguyễn Thị Y), Điều 38, Điều 47, Điều 48 và Điều 58 của Bộ luật Hình sự; Tuyên bố
các bị cáo Nguyễn Thị Y, Đỗ Quyết T và Lê Văn Đ phạm tội “Cướp tài sản”. Xử phạt
bị cáo Nguyễn Thị Y 36 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị
cáo đi thi hành án. Xử phạt bị cáo Đỗ Quyết T 36 tháng tù, thời hạn chấp hành hình
phạt tù tính từ ngày 12/5/2021. Xử phạt bị cáo Lê Văn Đ 36 tháng tù, thời hạn chấp
hành hình phạt tù tính từ ngày 12/5/2021.

Ngoài ra bản án hình sự sơ thẩm còn quyết định về các biện pháp tư pháp, xử lý
vật chứng, án phí và quyền kháng cáo.

Ngày 23/11/2021, bị cáo Nguyễn Thị Y có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình
phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm: Bị cáo đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội, thể
hiện thái độ ăn năn hối cải và công nhận bản án của Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử là
đúng người, đúng tội, không oan. Bị cáo giữ nguyên kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt
với lý do bị cáo đang nuôi con nhỏ, gia đình bị cáo khó khăn.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội phát biểu quan điểm giải
quyết vụ án: về tố tụng, các cơ quan và người tiến hành tố tụng cấp sơ thẩm đã thực
hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Sau khi xét xử sơ thẩm, trong thời
hạn luật định bị cáo Nguyễn Thị Y có đơn kháng cáo là hợp lệ đề nghị Hội đồng xét
xử phúc thẩm căn cứ các Điều 331; 332; 333 Bộ luật tố tụng hình sự chấp nhận kháng
cáo của bị cáo về hình thức. Về nội dung kháng cáo của bị cáo: Sau khi phân tích nội
dung vụ án, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo, thấy
rằng việc truy tố, xét xử của cấp sơ thẩm đối với bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng
pháp luật. Xét thấy mức án của bị cáo là phù hợp nên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng
điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự không chấp nhận kháng
cáo về nội dung, giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm.

Quyết định tòa án xét xử:

1. Về tội danh, điều luật áp dụng và hình phạt:


- Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; điểm c khoản1 Điều 357 của Bộ luật Tố
tụng hình sự, chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thị Y, sửa quyết định
của bản án sơ thẩm về hình phạt, cụ thể:
- Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Thị Y phạm tội “Cướp tài sản”;
- Áp dụng khoản 1 Điều 168; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 3
Điều 54; Điều 38, Điều 47, Điều 48, Điều 58 của Bộ luật Hình sự; Xử phạt
bị cáo Nguyễn Thị Y 24 (Hai mươi bốn) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình
phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án.
2. Về án phí:
- Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội
về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa
án.
- Bị cáo Nguyễn Thị Y không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Ví dụ 3: Vụ án cướp tài sản của học sinh huyện Bình Tân, tỉnh Vĩnh Long.

Nội dung vụ án:

Chiều ngày 09/5/2022, Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long đã kết thúc phiên tòa
xét xử phúc thẩm vụ án "Cướp tài sản" theo đơn kháng cáo của 2 bị cáo Trần Thành
Dinh, sinh năm 2006, ngụ xã Tân Lược, huyện Bình Tân và Nguyễn Hữu Nhân, sinh
năm 2004, ngụ xã Tân Hưng, huyện Bình Tân. Vụ án đã được Tòa án nhân huyện Bình
Tân xét xử sơ thẩm vào tháng 12/2021.

Theo cáo trạng, trong vòng khoảng thời gian từ tháng 3/2021 đến tháng 4/2021,
4 cáo đã nhiều lần chặn đường một em học sinh của trường Trung học sơ sở trên địa
bàn huyện Bình Tân đe dọa, cướp tổng cộng số tiền 14 triệu đồng chia nhau tiêu xài.
Vụ việc diễn ra trong thời gian dài nhưng vì sợ bị đánh nên em học sinh này không
dám cho gia đình biết. Để có tiền "nộp" cho các bị cáo, em học sinh này đã đập ống
heo và lấy trộm tiền của mẹ nuôi. Đến cuối tháng 4/2021 gia đình em học sinh đã phát
hiện sự việc nên đến Công an huyện Bình Tân trình báo. Cơ quan điều tra chứng minh
Hải, Khang, Dinh và Nhân đã 6 lần cướp của em học sinh tổng cộng 14 triệu đồng.

Quyết định toàn án xét xử:

Bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Bình Tân, tỉnh Vĩnh Long đã tuyên
phạt các bị cáo Nguyễn Chí Hải 5 năm tù, Nguyễn Hữu Nhân 4 năm tù, Nguyễn Minh
Khang và Trần Thành Dinh mỗi bị cáo 3 năm 6 tháng tù cùng về tội "Cướp tài sản".

Sau bản án sơ thẩm, 2 bị cáo Trần Thành Dinh và Nguyễn Hữu Nhân đã làm
đơn kháng cáo. Tại phiên xử phúc thẩm, các bị cáo giữ nguyên kháng cáo.

Hội đồng xét xử phúc thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long đã tuyên
Nguyễn Hữu Nhân mức án 3 năm 6 tháng tù giảm 6 tháng so với mức án sơ thẩm; bị
cáo Trần Thành Dinh y án sơ thẩm 3 năm 6 tháng tù cùng “Tội cướp tài sản”.

2.3. Nguyên nhân:

Nguyên nhân và điều kiện của tội cướp tài sản là dấu hiệu, đặc điểm, cơ bản nhất.
Mỗi tội phạm xảy ra thường xuyên không phải là do một nguyên nhân mà là một kết
quả tập hợp hàng loạt các tình huống tác động đến con người cụ thể.

Nguyên nhân chủ quan: do tác động xấu của mặt trái nền kinh tế thị trường đến tư
tưởng và tâm lý của người phạm tội. Một bộ phận thanh niên đã đến tuổi lao động
nhưng không tìm được việc làm hoặc công việc không ổn định dẫn đến chơi bời lêu
lõng sa vào các tệ nạn xã hội như nghiện hút, cờ bạc, mại dâm. Để có tiền đáp ứng nhu
cầu cá nhân dấn thân vào con đường phạm tội. Đa số những người phạm tội đều có
trình độ văn hóa thấp, có nhận thức kém và thiếu hiểu biết biết về pháp luật nên bị các
đối tượng xấu lôi kéo vào con đường phạm tội.

Nguyên nhân khách quan: do đại đa số phần đông những vụ cướp là do thanh, thiếu
niên thực hiện nên có những nguyên nhân trực tiếp ảnh hưởng tới.

Thứ nhất, là do ảnh hưởng từ gia đình vì đây là môi trường gần rủi và bao bọc,
dạy dỗ các em.
Thứ hai, từ phía nhà trường hiện nay trong nhiều nhà trường vẫn chưa chú ý
việc giáo dục, tuyên truyền, cho học sinh, sinh viên những kiến thức pháp luật.

Thứ ba, quần chúng nhân dân chưa thực sự phát huy được vai trò của mình
cũng như tham gia vào công tác đấu tranh và phòng ngừa tội phạm.

Thứ tư, ảnh hưởng từ phía xã hội, trong quá trình phát triển nền kinh tế đất
nước.
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG QUY ĐỊNH
VỀ TỘI CƯỚP TÀI SẢN
3.1. Sự cần thiết của việc nâng cao hiệu quả áp dụng quy định về về tội cướp tài
sản:
Về phương diện chính trị- xã hội: Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng đã
ban hành Nghị quyết về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045, trong đó có Chiến
lược cải cách tư pháp. Chiến lược này có ý hết sức quan trọng đối với sự phát triển của
đất nước ta, của chế độ ta trong giai đoạn mới, nhất là đối với hệ thống bộ máy nhà
nước, gồm cả hệ thống Tòa án nhân dân. Đối với lĩnh vực tư pháp, văn kiện Đại hội
xác định mục tiêu xây dựng nền tư pháp chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm
minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Theo đó, chủ tịch nước
Nguyễn Xuân phúc cũng đã yêu cầu Tòa án cần xác định rõ những nội dung trọng tâm,
trọng điểm; có chương trình, kế hoạch, lộ trình cải cách phù hợp theo hai phương diện
sau: Tiếp tục thực hiện một số nhiệm vụ hết sức đúng đắn đã được Nghị quyết số 49-
NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm
2020 đề ra nhưng chưa được triển khai thực hiện hoặc đã triển khai nhưng chưa có đáp
ứng được yêu cầu đề ra. Đề xuất những giải pháp cải cách mới trong giai đoạn từ nay
đến năm 2030, định hướng đến năm 2045 phù hợp với tình hình thực tiễn của đất nước
và xu thế phát triển chung của thế giới. Trong đó tập trung vào các giải pháp cải cách
về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân; Đổi mới, hoàn thiện thủ tục tố tụng tư
pháp chuyên nghiệp, hiệu quả; Xây dựng chế độ xét xử độc lập, công khai, minh bạch;
Nâng cao chất lượng cán bộ, đặc biệt là chức danh tư pháp, có chế độ chính sách phù
hợp dành cho cán bộ Tòa án; Tăng cường cơ sở vật chất, bảo đảm nguồn lực để xây
dựng Tòa án chính quy, hiện đại, hoạt động hiệu quả, trong đó chú trọng xây dựng,
phát triển Tòa án điện tử ngang tầm với trình độ phát triển chung của thế giới.Về
phương diện lập pháp hình sự: Công tác xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật liên
quan đến hoạt động tư pháp có nhiều tiến bộ. Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về tội
cướp tài sản là một trong những bước khắc phục hết những hạn chế trong việc định tội
danh và quyết định hình phạt với tội cướp tài sản ở từng địa phương, tỉnh thành. Từ đó
nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác định tội và quyết định hình phạt có ý nghĩa
về phương diện lập pháp hình sự. Xây dựng được nền tư pháp độc lập, chuyên nghiệp,
hiện đại, nghiêm minh. Tòa án có đủ thẩm quyền và năng lực để xử lý các vi phạm về
tội cướp tài sản. Xây dựng một Tòa án trong sạch, liêm chính, vững về chính trị, giỏi
về nghiệp vụ, nâng cao tổ chức của bộ máy, nâng cao chất lượng uy tín của Tòa án
trong việc định tội danh thực sự phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm của các
hành vi phạm tội.Việc đánh giá đúng và chính xác quá trình cải cách tư pháp ở nước ta
khi triển khai thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị có ý nghĩa rất lớn
về mặt lý luận và thực tiễn để khẳng định được những kết quả đạt được và rút ra
những bài học kinh nghiệm để phát huy, đồng thời cũng chỉ ra những nguyên nhân,
hạn chế để tìm cách khắc phục.

3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng quy định về tội cướp tài sản:
 Tăng cường những biện pháp quản lý trật tự xã hội:

Một trong những điều kiện cho sự tồn tại, xuất hiện và phát triển của tội phạm
cướp là do công tác quản lý xã hội còn nhiều lỏng lẻo. Vì vậy, cơ quan quản lý và tổ
chức cần phối hợp, liên kết chặt chẽ, nghiêm túc, tăng cường các biện pháp xử lý để
bịt kín những sơ hở, thiếu sót, hạn chế tối đa điều kiện để tội phạm xảy ra. Đặc biệt,
việc quản lý các khu vực dễ xảy ra cướp tài sản, quản lý việc mua bán, lưu thông vũ
khí nguy hiểm, cần tăng mức phạt và phạt tù đối với kẻ trộm cắp sẽ được tiết chế hơn,
từ đó giảm tội phạm sở hữu tài sản.

Nâng cao chất lượng chuyên môn của đội ngũ cán bộ tư pháp, thường xuyên đào
tạo, huấn luyện đội ngũ cán bộ tư pháp, xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác pháp
chế có đủ năng lực và trình độ. Đề xuất các công trình nghiên cứu khoa học về luật
hình sự, dự đoán các tội phạm có thể xảy ra trong thời gian sắp tới, có biện pháp phòng
ngừa hữu hiệu, công khai, giáo dục ý thức pháp luật. Thực hiện xét xử lưu động nhằm
nâng cao hiệu quả giáo dục pháp luật, răn đe và phòng ngừa tội phạm. Tăng cường
quản lý các cơ quan điều tra, kiên quyết điều tra, trừng trị các hành vi vi phạm pháp
luật và tội phạm, ngăn chặn và xử lý kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật và tội
phạm, bảo đảm tính đúng đắn của pháp luật.
 Nâng cao hiệu quả phối hợp của các lực lượng chức năng trong việc phòng,
chống tội phạm cướp tài sản:

Các lực lượng nghiệp vụ đóng một vai trò quan trọng trong lĩnh vực phòng chống
tội phạm vi phạm và cần phải hoạt động một cách thích hợp và chuyên nghiệp. Trên
thực tế, có những trường hợp có người từ địa phương khác đến và ở cả năm mà công
an địa phương vẫn không biết, cho đến khi người đó đánh nhau, hoặc ăn cắp, phạm tội.
Sự tồn tại này đang xảy ra rất phổ biến, nhất là khu vực ngoại thành và đông dân cư.
Hơn thế nữa,việc lợi dụng hạn chế này trong đại dịch phức tạp Covid-19, rất nhiều các
mặt hàng phức tạp, những kẻ lừa đảo đến để che giấu hành vi trộm cắp. Do đó, lực
lượng ngành an ninh nên tổ chức từng đơn vị, phân công trách nhiệm từng cấp, phân
cấp rõ ràng cho từng cấp, thường là thường xuyên kiểm tra, đánh giá chất lượng, hiệu
quả công việc, khen thưởng, phê bình rõ ràng. Điều này sẽ giúp nâng cao trách nhiệm
giải trình và hiệu quả phối hợp giữa các bộ phận tránh gây chia rẽ, mất đoàn kết và xây
dựng khối đoàn kết thống nhất để đẩy lùi sự gia tăng của tội phạm.

Nâng cao trách nhiệm phối hợp đồng bộ, đấu tranh và phòng ngừa để kéo giảm
triệt để tội cướp tài sản nói riêng và tội phạm nói chung. Quá trình điều tra, các điều
tra viên nên tạo điều kiện thuận lợi để nâng cao trình độ chuyên môn của bản thân.
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận về công tác khám nghiệm hiện trường, chúng ta cần
phải: Phải nhanh chóng thành lập lượng khám nghiệm hiện trường chuyên trách tại
viện khoa học hình sự và tại Công an tỉnh, thành trong cả nước. Viện khoa học hình sự
cần thường xuyên mở các lớp tập huấn về công tác khám nghiệm hiện trường cho lực
lượng khám nghiệm hiện trường cấp tỉnh, thành phố.

 Giải quyết việc làm, nâng cao cơ sở vật chất, tinh thần cho người dân và cán
bộ:

Cướp tài sản là một trong những hiện tượng xã hội đầy tiêu cực, nó ảnh hưởng tới
hình ảnh văn minh của thành phố. Sự phát triển của nó phụ thuộc vào điều kiện kinh
tế- xã hội của từng thời kỳ, luôn là mặt tiêu cực của toàn xã hội. Vì vậy, việc khắc
phục, đẩy lùi tệ nạn là nhiệm vụ của toàn xã hội, việc không quan tâm đến một xã hội
thì tội phạm này còn có thể phát triển? Vì thế, để làm tốt điều này, cốt lõi là phải tạo ra
sự công bằng trong xã hội, lấy con người làm trong tâm, không ngừng đáp ứng, thỏa
mãn, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, tạo một lối sống lành mạnh, tốt đẹp hơn
cho mỗi người dân. Đặc biệt ở trong giai đoạn vẫn đang diễn ra dịch bệnh Covid như
hiện nay (tuy đã giảm sự lây lan), chính phủ cần phải có những chương trình hỗ trợ
phúc lợi cho người dân, cải thiện chính sách bảo hiểm , thất nghiệp và tạo thêm điều
kiện việc làm để vực dậy nền kinh tế của quốc gia.

 Tuyên truyền cho người dân ý thức bảo vệ tài sản cá nhân, thường xuyên nâng
cao ý thức tự vệ, phòng vệ, phòng chống tội phạm trong người dân:

Mỗi người dân cần phải tự giác trong việc bảo quản tài sản sẽ góp phần bóp chặt
việc phạm tội của bọn tội phạm, đồng thời giúp cho công tác phòng chống tội phạm
của các lực lượng nghiệp vụ, cơ quan quản lý địa phương, thành phố được giảm thiểu.
Việc giám sát các hoạt động của người có hộ khẩu từ địa phương khác đến cư trú, làm
việc trên địa bàn của mình là một việc làm hết sức quan trọng và cần thiết để làm giảm
thiệu số lượng tội phạm phát sinh. Để được như thế, thì mỗi người dân cũng phải cần
phối hợp với công an địa phương, cũng như việc công an địa phương cần thường
xuyên thông báo với người dân về tình hình trật tự an ninh, trình hình cướp tài sản ở
nơi cư trú của mình để người dân cảnh giác và tự bảo quản tài sản cá nhân, đề giáo sự
an toàn của chính mình đối với các đối tượng lạ mặt, nguy hiểm. Đặc biệt là những đối
tượng có thể ở trong tầm ngắm của các tội phạm như là trẻ em, phụ nữ không có sức
chống cự thì nên có độ cẩn trọng, cảnh giác cao hơn.

Ở tại nơi cư ngụ của mình khi thuê công nhân, người làm cần nắm rõ thông tin cá
nhân của đối phương có xác nhận của UBND phường, xã; không nhận những người có
lai lịch không rõ ràng, có nghi vấn về việc phạm tội. Không để trẻ em mở cửa cho
người lạ khi ở nhà một mình, nghe tiếng động lạ để phòng ngừa việc có người lạ đột
nhập vào để khống chế, cướp tài sản. Phải khóa cửa cẩn thận khi ra khỏi nhà hoặc
trước khi đi ngủ, không để tài sản có giá trị tại nơi không an toàn.

Hạn chế việc đeo trang sức đắt tiền , nếu có thì phải mặc áo dài tay và khăn choàng
cổ,... khi lưu thông trên đường hoặc đến những nơi đông người để phòng ngừa cướp.
Không nên đi một mình vào những nơi vắng vẻ, không có bóng người và nên có một
số biện pháp phòng thân, tự vệ để tránh tội phạm có thể gây ra thương tích cho chính
bản thân mình. Khi vụ việc xảy ra cần phải giữ bình tĩnh, nhanh chóng cầu cứu những
người dân xung quanh để có sự hỗ trợ, cố gắng ghi nhớ những đặc điểm dễ nhận dạng
của đối tượng phạm tội để có thể cung cấp thông tin chính xã cho công an khi trình
báo vụ việc.

PHẦN KẾT LUẬN


Sau khi nghiên cứu các cơ sở lí luận, những vụ án thực tiễn về tội cướp tài sản,
nhóm chúng em có những kết luận chung sau đây:

Căn cứ theo điều 168 Bộ luật Hình sự 2015 thì tội cướp tài sản là: “Dùng vũ lực
hay đe dọa dùng vũ lực hay có hành vi khác làm người bị tấn công lâm vào tình trạng
không thể chống cự được để chiếm đoạt tài sản mà người bị tấn công biết là mình bị
lấy mất tài sản”. Người cướp tài sản xâm phạm đồng thời đến hai khách thể: quan hệ
về nhân than và quan hệ sở hữu tài sản. Trong trường hợp này, lỗi của người phạm tội
là lỗi cố ý, biết tài sản của người khác nhưng vẫn muốn biến chúng thành của riêng
mình. Đồng thời, bất kì ai có năng lực chịu trách nhiệm hình sự đều phải chịu hình
phạt vi phạm theo quy định của pháp luật.

Thông qua các vụ án thực tiễn có liên quan, chúng ta nhận thấy cướp tài sản là tội
gây nguy hiểm cho toàn xã hội. Vì vậy, chúng ta cần ra sức tuyên truyền cũng như
nâng cao ý thức của mỗi cá nhân để có thể ngăn chặn loại tội phạm này. Ngoài ra, nhà
nước nên có những chính sách để bảo vệ trật tự an toàn xã hội.

Đồng thời, qua những đánh giá, nhận xét về thực trạng của tội cướp tài sản, ta cần
có những kiến thức, biện pháp đề phòng, chống nạn trộm cướp, giúp bảo vệ chho
chính bản than mình và tài sản cá nhân.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tra cứu pháp luật (29/06/2022). Bình luận Tội cướp tài sản Điều 168 Bộ luật
hình sự 2015 sửa đổi 2017. Truy cập tại:
https://www.tracuuphapluat.info/2019/12/binh-luan-toi-cuop-tai-san-dieu-168-
bo-luat-hinh-su.html
2. Luật sư Việt Nam (25/09/2021). Thực trạng cải cách tư pháp ở nước ta thời
gian qua và những vấn đề đặt ra. Truy cập tại: https://lsvn.vn/thuc-trang-cai-
cach-tu-phap-o-nuoc-ta-thoi-gian-qua-va-nhung-van-de-dat-ra1632586508.html
3. Tạp chí toà án (28/03/2022). Cải cách tư pháp là xu hướng tất yếu hiện nay.
Truy cập tại: https://tapchitoaan.vn/cai-cach-tu-phap-la-xu-huong-tat-yeu-hien-
nay6062.html
4. Đảng cộng sản Việt Nam (11/01/2022). Tiếp tục đẩy mạnh cải cách tư pháp
nhằm đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới. Truy cập tại:
https://dangcongsan.vn/thoi-su/tiep-tuc-day-manh-cai-cach-tu-phap-nham-dap-
ung-yeu-cau-trong-tinh-hinh-moi-601813.html
5. Thư viện pháp luật (27/04/2022). Bản án về tội cướp tài sản số 379/2022/HS-
PT. Truy cập tại: https://thuvienphapluat.vn/banan/ban-an/ban-an-ve-toi-cuop-
tai-san-so-3792022hspt-238850
6. Thư viện pháp luật (10/2022). Bản án 10/2020/HS-ST ngày 04/08/2020 về tội
cướp tài sản. Truy cập tại: https://thuvienphapluat.vn/banan/ban-an/ban-an-
102020hsst-ngay-04082020-ve-toi-cuop-tai-san 191326?
fbclid=IwAR0tpgV07G
D0phlmygDYS2cQfz1UkxHR333Vl3KxQunUEOHSo_VEzcMxLA

You might also like