You are on page 1of 36

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT

TP. HỒ CHÍ MINH

KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ


MÔN PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG
Tiểu luận cuối kỳ
***

THỰC TRẠNG TỘI THAM Ô TẠI VIỆT NAM

MÃ SỐ LỚP HP:GELA220405_22_1_04CLC
GVHD: ThS.NGUYỄN THỊ TUYẾT NGA
THỰC HIỆN: NHÓM 18
HỌC KỲ: 1 – NĂM HỌC: 2022 - 2023
Tp. Thủ Đức, tháng 12, năm 2022
DANH SÁCH THÀNH VIÊN THAM GIA VIẾT TIỂU LUẬN
HỌC KỲ I NĂM HỌC 2022 - 2023
Nhóm: 18 (Lớp: GELA220405_22_1_04CLC)
Tên đề tài: Thực trạng tội tham ô tại Việt Nam

STT HỌ VÀ TÊN SINH VIÊN MSSV % HOÀN THÀNH

1 Trần Phương Vy 21116139 100%

2 Nguyễn Minh Tâm 21116111 100%

3 Dương Thiên Phú 21116104 100%

4 Phan Quốc Huy 21116351 100%

5 Thái Thị Cẩm Duyên 21116056 100%

Ghi chú:
- Tỷ lệ % = 100%: Mức độ phần trăm của từng sinh viên tham gia.
- Trưởng nhóm:Trần Phương Vy SĐT: 0846659428

Điểm số: ………………………………………………………………………….


Nhận xét của giáo viên:
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….

TP. Thủ Đức, ngày 02 tháng 12 năm 2022


Ký xác nhận của giảng viên
MỤC LỤC
A. LỜI CẢM ƠN ...................................................................................................... I
B. LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................ I
C. PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................ II
Tính cấp thiết của đề tài ..................................................................................... ii
Tình hình nghiên cứu......................................................................................... iii
Phạm vi nghiên cứu............................................................................................ iii
Nhiệm vụ nghiên cứu ......................................................................................... iv
Phương pháp nghiên cứu .................................................................................. iv
Bố cục của đề tài ...................................................................................................v
D. NỘI DUNG ..........................................................................................................1
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TỘI THAM Ô TÀI SẢN ...................1
1.1. Khái niệm tội tham ô tài sản ............................................................................1
1.1.1. Định nghĩa tham ô tài sản .............................................................................1
1.1.2. Đặc điểm của tội tham ô tài sản ....................................................................1
1.2. Cấu thành tội tham ô tài sản. ...........................................................................3
1.3. Trách nhiệm hình sự. ........................................................................................4
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG THAM Ô TÀI SẢN TẠI VIỆT NAM ................8
2.1. Thực trạng .........................................................................................................8
2.2. Phân tích vụ án tham ô tài sản trên thực tế .................................................10
2.3. Kiến nghị giải pháp .........................................................................................19
E. KẾT LUẬN ........................................................................................................27
F. TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................................28
A. LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên,chúng em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Ban giám hiệu
trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật TPHCM nhất là khoa công nghệ hóa học – thực
phẩm đã cho chúng em được học môn học này, để được hiểu thêm nhìều kiến thức
hơn về các công đoạn chế biến sản xuất trà-cà phê-chocolate, những loại thức uống
mà chúng ta thường sử dụng trong đời sống hằng ngày. Và đặc biệt là giảng viên bộ
môn trực tiếp giảng dạy môn hóa học thực phẩm – Thầy Nguyễn Tiến Lực đã giảng
dạy nhiệt tình, tận tâm truyền đạt cho chúng em những kiến thức sâu rộng bổ ích
trong môn học suốt thời gian học tập vừa qua, giúp chúng em có đủ kiến thức để vận
dụng vào bài tiểu luận này. Đây chắc chắn sẽ là những kiến thức vô cùng quý báu,
là hành trang để chúng em dễ dàng tiếp thu thêm những môn học về chuyên ngành
sau này.
Tuy nhiên, do vốn kiến thức còn hạn hẹp và khả năng tiếp thu còn hạn chế.
Do vậy, trong quá trình thực hiện bài tiểu luận sẽ khó có thể tránh khỏi những sơ sót.
Nhóm em rất mong được cô đóng góp thêm ý kiến để có thể hoàn chỉnh hơn những
chỗ kiến thức còn thiếu sót và chưa chính xác khi chúng em thực hiện bài tiểu luận.
Chúng em xin chân thành cảm ơn!
B. LỜI CAM ĐOAN
Chúng em xin cam đoan, đây là bài tiểu luận do nhóm tự nghiên cứu trong
thời gian qua, không sao chép của bất kì công trình nghiên cứu nào. Các kết quả
nghiên cứu được được thực hiện một cách trung thực, có thông tin trích dẫn nguồn
gốc rõ ràng. Chúng em xin chịu trách nhiệm nếu có sự gian dối nào trong bài báo
cáo.

i
C. PHẦN MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài
Ngay từ khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập, Chủ tịch
Hồ Chí Minh và Đảng ta đã đề ra chủ trương cũng như đặt vấn đề xây dựng một
bộ máy nhà nước thật trong sạch, hùng mạnh của dân, do dân, vì dân. Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã có rất nhiều bài viết, bài nói chỉ ra rõ nguyên nhân, bản chất và
có những phân tích về tác hại của tội tham ô, quan lại, phung phí. Người đã từng
nhận xét rằng tham ô là một hành động xấu xa nhất của con người. Nhân dân,
những người lao động đã phải làm lụng vất vã, đánh đổi cả mồ hôi, nước mắt để
góp phần xây dựng của công – của Nhà nước và vì tập thể. Của công ấy là nền
tảng vật chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, là nguồn gốc chủ yếu để chăm lo cũng
như nâng cao chất lượng của sống của dân ta. Điều đó gây tác động xấu đến sự
nghiệp xây dựng nước nhà, có hại đến công việc cải thiện đời sống của nhân dân,
và rất có hại đến đạo đức cách mạng.
Chính vì lẽ đó, tham ô tài sản là hành vi nguy hiểm cho xã hội nên hành vi
này luôn bị luật hình sự Việt Nam coi là tội phạm. Trước khi BLHS năm 1999 có
hiệu lực, luật hình sự Việt Nam chỉ quy định tội tham ô tài sản xã hội chủ nghĩa.
Khi xây dựng BLHS năm 1999, cơ cấu của nền kinh tế đã có sự thay đổi. Lúc này,
người có chức vụ, quyền hạn không chỉ quản lý tài sản thuộc sở hữu XHCN mà
cũng có thể quản lý cả tài sản của công dân khác cũng như tài sản khó xác định
thuộc sở hữu nào. Do vậy, hành vi tham ô có thể xảy ra đối với tất cả các loại tài
sản. Đó là lý do mà BLHS năm 1999 đã quy định tội tham ô tài sản. Đồng thời
BLHS xếp tội này vào Chương “Các tội phạm chức vụ” (nhóm các tội tham
nhũng) mà không xếp vào Chương “Các tội xâm phạm sở hữu”. Việc xếp này
nhằm nhấn mạnh đặc trưng nguy hiểm cho xã hội của tội này là sự lợi dụng chức
vụ quyền hạn, là tính tham nhũng của hành vi. Tình hình tội phạm tham ô ở nước
ta hiện nay đang diễn ra cả ở chiều rộng, lẫn chiều sâu và sức công phá của nó
không phải chỉ dừng lại ở lĩnh vực kinh tế mà cả chính trị, xã hội. Trong khi đó,

ii
BLHS năm 1999 đã có hiệu lực pháp luật gần 10 năm, nhiều quy định của BLHS
không còn phù hợp nhưng chưa được giải thích hướng dẫn cụ thể. Chính vì vậy,
việc nghiên cứu đề tài khoa học “Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam
- một số vấn đề lý luận và thực tiễn” là một yêu cầu khách quan và bức thiết nhằm
lý giải một cách khoa học những vấn đề đang đặt ra trong thực tiễn.
Tình hình nghiên cứu
Trong những năm qua, đã có khá nhiều công trình nghiên cứu về tội phạm
tham ô tài sản. Loại tội phạm này được đề cập, phân tích trong một số giáo trình
và sách tham khảo như: Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm),
Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2003 của tập thể tác giả do TSKH. Lê Cảm chủ
biên; Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam (tập II) của tập thể tác giả do PGS.TS
Nguyễn Ngọc Hoà chủ biên, Nxb Công an nhân dân, 2006… Hoặc được đề cập
trong một số bài viết trên các Tạp chí chuyên ngành như: “Bàn về chủ thể của tội
tham ô tài sản” của tác giả Trương Thị Hằng đăng trong Tạp chí Kiểm Sát số
6/2006; “Việc xác định tội tham ô tài sản trong cơ chế thị trường” của tác giả Đinh
Khắc Tiến đăng trong Tạp chí Kiểm sát số 6/2006; “Những vấn đề lý luận & thực
tiễn về tội tham ô tài sản trong cơ chế thị trường”. của tác giả Đinh Văn Quế đăng
trong Tạp chí Kiểm sát số 22/2006; Luận văn thạc sĩ “Tội tham ô tài sản xã hội
chủ nghĩa và đấu tranh phòng, chống tội tham ô tài sản xã hội chủ nghĩa” của tác
giả Nguyễn Văn Tiến và “Tội tham ô tài sản trong bộ luật hình sự Việt Nam -
Những vấn đề lý luận và thực tiễn” của tác giả Trần Quang Sơn
Phạm vi nghiên cứu
Mục đích của Luận văn nhằm phân tích, so sánh, nhận xét, đánh giá những
bước phát triển của quy định pháp luật hình sự về tội tham ô tài sản từ năm 1945
đến nay; những hạn chế, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng pháp luật. Qua đó,
đề xuất một số kiến nghị nâng cao hiệu quả pháp luật quy định loại tội phạm này.
Do vậy, phạm vi nghiên cứu của luận văn sẽ xem xét và giải quyết các vấn đề cụ
thể sau đây:
1. Khái quát sự hình thành và phát triển của Luật hình sự Việt Nam quy
định về tội tham ô tài sản; trong đó tập trung nghiên cứu, phân tích quy định của

iii
Bộ luật hình sự 1999 ở khía cạnh trách nhiệm hình sự và hậu quả pháp lý của tội
phạm này.
2. Phân tích thực tiễn vận dụng pháp luật trong điều tra, truy tố, xét xử tội
tham ô tài sản từ năm 2002 đến 2007.
3. Phân tích những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng pháp luật
hình sự về tội tham ô tài sản và đề cập đến một số tồn tại trong quy định pháp luật
về quản lý tài sản nhà nước ở phạm vi cổ phần hoá doanh nghiệp.
4. Trên cơ sở đó, luận văn đưa ra những đề xuất kiến nghị nhằm hoàn thiện
quy phạm pháp luật hình sự về tội tham ô tài sản và quy định quản lý tài sản nhà
nước trong quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Với phạm vi nghiên cứu nêu trên, luận văn tập trung giải quyết những
nhiệm vụ chính như sau:
- Phân tích, đánh giá sự hình thành và phát triển của Luật hình sự nhà nước
Việt Nam quy định về Tội tham ô tài sản giai đoạn 1945 đến 1985;
- Tập trung phân tích quy định của Luật Hình sự Việt Nam về tội tham ô
tài sản trong Bộ luật Hình sự 1999 ở hai khía cạnh: Trách nhiệm hình sự và hậu
quả pháp lý của tội tham ô tài sản;
- Phân tích thực tiễn vận dụng pháp luật hình sự về tội tham ô tài sản trong
điều tra, truy tố, xét xử từ năm 2002 – 2007
- Những tồn tại trong vận dụng quy định của pháp luật hình sự về tội tham
ô tài sản trong điều tra, truy tố, xét xử từ năm 2002 – 2007.
- Đề xuất một số kiến nghị sửa đổi, bổ sung quy phạm pháp luật về tội tham
ô tài sản như: Kiến nghị sửa đổi cấu trúc của điều luật 278 BLHS; Kiến nghị ban
hành văn bản hướng dẫn áp dụng Điều 278 Chương XXI Bộ luật hình sự năm
1999; Kiến nghị nâng cao hiệu quả quy định của pháp luật về quản lý tài sản nhà
nước.
Phương pháp nghiên cứu
Để có thể hoàn thành được những mục tiêu đã đề ra, trên cơ sở phép duy
vật biện chứng, duy vật lịch sử, tiểu luận đã sử dụng một số phương pháp để

iv
nghiên cứu như sau: So sánh đối chiếu, phân tích từ tài liệu, nghiên cứu về lịch
sử, phương pháp tổng hợp để đưa ra những đánh giá về vấn đề lý luận và thực tiễn
của tội tham ô trong các công trình nghiên cứu của các nhà nghiên cứu khoa học.
Ngoài ra, việc nghiên cứu đề tài còn dựa vào số liệu trong những bài báo
cáo của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Ban Nội chính
trung ương tổng kết công tác ngành trong 5 năm (2002 – 2007), trong thực tiễn
xét xử và thông tin trên mạng Internet để đưa ra những phân tích, đánh giá và tổng
hợp các vấn đề thực tiễn xung quan tội Tham ô tài sản.
Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, Đề tài gồm
2 chương với kết cấu như sau:
Chương 1: Khái quát chung về tội tham ô tài sản
Chương 2: Thực trạng tội tham ô tài sản tại Việt Nam.

v
D. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TỘI THAM Ô TÀI SẢN

1.1. Khái niệm tội tham ô tài sản


1.1.1. Định nghĩa tham ô tài sản
Tội tham ô tài sản được định nghĩa khác nhau như: “Tội tham ô tài sản là
tội do người có chức vụ,quyền hạn thực hiện, là tội phạm thuộc nhóm tội tham
nhũng nên khách thể của tội phạm phải là những hoạt động đúng đắn của cơ quan,
tổ chức còn quan hệ sở hữu chỉ là đối tượng tác động của tội phạm (thông qua
quan hệ sở hữu mà xâm phạm đến hoạt động của cơ quan, tổ chức)” hoặc “Tội
tham ô tài sản là hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản mà mình
có trách nhiệm quản lý.” hoặc tội tham ô tài sản “là hành vi lợi dụng chức vụ
quyền hạn chiếm đoạt tài sản mà mình có trách nhiệm quản lý trong những trường
hợp luật định”.
1.1.2. Đặc điểm của tội tham ô tài sản
Theo BLHS hiện nay thì tội tham ô tài sản có những đặc điểm sau
Thứ nhất, tội tham ô tài sản là hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm phạm
hoạt động đúng đắn và sở hữu của cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội
Hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức là những hoạt động theo chức
năng, nhiệm vụ do pháp luật hoặc điều lệ quy định. Khi tội tham ô tài sản xâm
phạm đến các hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức thì chức năng, nhiệm vụ
và mục đích đã đề ra của các cơ quan, tổ chức này sẽ không đạt được. Điều đó
làm ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện đường lối của Đảng, chính sách của Nhà
nước, gây ảnh hưởng về an ninh, trật tự xã hội...Đồng thời, người phạm tội tham
ô tài sản còn xâm phạm đến sở hữu thông qua hành vi chiếm đoạt tài sản do mình
quản lý. Thông qua quan hệ hành vi chuyển dịch bất hợp pháp tài sản từ chủ sở
hữu là cơ quan, tổ chức thành tài sản của mình hoặc của người khác mà mình quan
tâm đã làm cho chủ sở hữu mất đi quyền sở hữu.
Thứ hai, tội tham ô được thực hiện cho người có chức vụ, quyền hạn trong
quản lý tài sản

1
Chủ thể của tội tham ô tài sản phải đảm bảo các dấu hiệu chung của tội
phạm là: có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi luật định. Ngoài ra, người
thực hiện hành vi tham ô tài sản còn có đặc điểm, đặc trưng là người có chức vụ,
quyền hạn và có trách nhiệm quản lý tài sản, nếu họ không có trách nhiệm quản
lý tài sản thì không thể là chủ thể của tội tham ô tài sản được. Đây là điều kiện
cần và đủ để một người có thể trở thành chủ thể của tội tham ô tài sản và cũng là
dấu hiệu để phân biệt với một số tội phạm khác.
Thứ ba, tội tham ô là hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài
sản
Đây là trường hợp người phạm tội có chức vụ, quyền hạn đã làm trái với
nhiệm vụ được giao như: làm không đúng, không đầy đủ, không kịp thời, trái với
quy định của Nhà nước hoặc Điều lệ, Quy chế của cơ quan, tổ chức. Và nếu không
có chức vụ, quyền hạn thì họ khó có thể thực hiện việc chiếm đoạt tài sản. Hành
vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn khi chiếm đoạt tài sản có thể thực hiện bằng nhiều
thủ đoạn: lập chứng từ giả, sửa chữa, tẩy xóa sổ sách, giấy tờ, tài liệu... Nếu hành
vi chiếm đoạt tài sản do người có chức vụ, quyền hạn thực hiện không liên quan
gì đến chức vụ, quyền hạn của họ thì dù họ có chức vụ, quyền hạn cũng không bị
coi là người phạm tội tham ô tài sản.
Thứ tư, tội tham ô tài sản là loại tội cố ý (trực tiếp)
Người phạm tội tham ô tài sản thấy trước rằng hành vi lợi dụng chức vụ,
quyền hạn và hành vi chiếm đoạt tài sản của cơ quan, tổ chức sẽ gây ra thiệt hại
cho các quan hệ xã hội và thấy trước hậu quả của các hành vi này nhưng vẫn mong
muốn hậu quả của các hành vi này xảy ra.
Thứ năm, về tính trải pháp luật hình sự của tội tham ô tài sản.
Một hành vi tham ô tài sản chỉ có thể được xử lý hình sự khi hành vi đó trái
pháp luật hình sự. Điều này không chỉ được quy định tại Điều 8 BLHS 1999 mà
tại Điều 2 BLHS 1999 đã quy định “Chỉ người nào phạm một tội tà dược BLHS
quy định mới phải chịu TNHS...

2
1.2. Cấu thành tội tham ô tài sản.
Tham ô tài sản có thể được hiểu là hành vi của người có chức vụ, quyền
hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình để chiếm đoạt tài sản mà mình có
trách nhiệm quản lý.
Tội tham ô tài sản được quy định tại Điều 353 Bộ luật hình sự năm 2015.
Theo đó, các yếu tố cấu thành tội tham ô tài sản như sau:
- Chủ thể: Chủ thể của tội tham ô chiếm đoạt tài sản là người có chức vụ,
quyền hạn, đồng thời phải là người có trách nhiệm quản lý đối với tài sản chiếm
đoạt. Người có chức vụ là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng hoặc do
một hình thức khác, có hưởng lương hoặc không hưởng lương, được giao thực
hiện một công vụ nhất định và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện công
vụ. Người có trách nhiệm quản lý tài sản, tức là có trách nhiệm đối với tài sản
được Nhà nước giao quản lý.
- Khách thể: Hành vi phạm tội đã xâm phạm đến hoạt động đúng đắn của
cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức kinh tế của
Nhà nước và xâm phạm quyền sở hữu tài sản của cơ quan tổ chức nêu trên
- Mặt chủ quan: Người phạm tội thực hiện tội phạm với lỗi cố ý.
- Mặt khách quan:
+Hành vi thuộc mặt khách quan của tội tham ô tài sản được thể hiện ở hành
vi của người có chức vụ, quyền hạn lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài
sản mà mình có trách nhiệm quản lý.
+Lợi dụng chức vụ, quyền hạn là sử dụng chức vụ, quyền hạn được giao
như một phương tiện để biến tài sản của người khác (cơ quan, tổ chức hoặc của
công dân do mình trực tiếp hoặc gián tiếp quản lý) thành tài sản của mình hoặc
của người khác.
+Để che giấu hành vi chiếm đoạt tài sản người phạm tội có thể sử dụng thủ
đoạn khác nhau như: sửa chữa sổ sách, chứng từ, cố tình ghi chép sai, lập chứng
từ giả, tạo hiện trường giả, tiêu huỷ hoá đơn, chứng từ, đốt kho,… Các thủ đoạn
này có thể được thực hiện trước, trong hoặc sau khi chiếm đoạt tài sản. Thủ đoạn

3
phạm tội không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm mà chỉ có ý
nghĩa khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội.
+Tài sản bị chiếm đoạt phải là tài sản mà người phạm tội có trách nhiệm
quản lý (trực tiếp hoặc gián tiếp).
Tội tham ô tài sản là tội phạm có cấu thành vật chất. Tội phạm được coi là
hoàn thành kể từ thời điểm kẻ phạm tội chiếm đoạt được tài sản. Thời điểm tài
sản bị chiếm đoạt được xác định căn cứ vào đối tượng bị chiếm đoạt và chức năng,
nhiệm vụ của người quản lý tài sản tùy từng trường hợp cụ thể: từ lúc tài sản bị
đưa ra khỏi nơi cất giữ, từ lúc cất giấu tài sản ở nơi kín đáo để sau đó đưa ra ngoài,
hoặc không xuất trình được chứng từ hoá đơn hợp lệ khi vận chuyển hoặc từ khi
nhận được tài sản từ người khác chuyển giao trái phép,…
1.3. Trách nhiệm hình sự.
Điều 353 Bộ luật Hình sự quy định 05 Khung hình phạt đối với người phạm
tội như sau:
– Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản mà mình có
trách nhiệm quản lý trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng hoặc
dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt
tù từ 02 năm đến 07 năm:
a) Đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm;
b) Đã bị kết án về một trong các tội quy định tại Mục 1 Chương này, chưa
được xóa án tích mà còn vi phạm.
– Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm
đến 15 năm:
a) Có tổ chức.
Cũng tương tự như các trường hợp phạm tội có tổ chức khác, tham ô tài sản
có tổ chức là trường hợp có sự cấu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện
tội phạm này, trong đó có người tổ chức, người thực hành, người xúi giục, người
giúp sức. Tuy nhiên, không phải vụ án tham ô tài sản có tổ chức nào cũng có đủ
những người đồng phạm trên. Phạm tội tham ô tài sản có tổ chức có những đặc
điểm riêng như: Người thực hành trong vụ án tham ô tài sản có tổ chức phải là

4
người có chức vụ, quyền hạn trực tiếp thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản như:
Thủ quỹ lấy tiền trong két; kế toán viết phiếu thu, chi khống, sửa chữa sổ sách
hoặc xác nhận các phiếu thu, chi khống để hợp thức hoá việc chiếm đoạt tài sản.
Trong những năm gần đây, tham ô tài sản có tổ chức với quy lớn thường được tổ
chức rất chặt chẽ và kèm theo hành vi tham ô tài sản là hành vi cố ý làm trái quy
định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng, đưa và nhận hối
lộ: vụ Nhà máy dệt Nam Định, vụ nước khoáng Kim Bôi, vụ Hà Văn Thắm
(nguyên Chủ tịch Hội đồng quản trị Ngân hàng Đại Dương - Ocean Bank),...
b) Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm.
Dùng thủ đoạn xảo quyệt khi thực hiện hành vi tham ô tài sản là trường hợp
người phạm tội có những mánh khoé, cách thức thâm hiểm làm cho cơ quan, tổ
chức, người quản lý tài sản và những người khác khó lường trước để đề phòng
như: Thủ quỹ, kế toán sửa chữa sổ sách để chiếm đoạt tài sản bằng các hoá chất
rất khó phát hiện hoặc sau khi đã chiếm đoạt được tài sản người phạm tội tạo hiện
trường giả như phá khoá cửa tạo vụ trộm cắp giả, giả vờ bị cướp, bị cướp giật, bị
trộm cắp... để che giấu hành vi tham ô tài sản của mình.
c) Phạm tội 02 lần trở lên.
Tham ô tài sản 02 lần trở lên là trường hợp có từ 02 lần tham ô tài sản trở
lên, mỗi lần tham ô tài sản đều đã cấu thành tội phạm và nay bị đưa ra xét xử cùng
một lúc, không phụ thuộc vào khoảng cách thời gian từ lần phạm tội trước đến lần
phạm tội sau. Tuy nhiên, chỉ coi là phạm tội 02 lần trở lên nếu tất cả những lần
phạm tội đó chua bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Nếu trong các lần phạm tội đó,
chỉ có 01 lần phạm tội tham ô tài sản, còn các lần khác chỉ là vi phạm kỷ luật hoặc
đã bị xét xử hoặc đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự: Theo điều 27, Bộ
luật Hình sự năm 2015.
d) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000
đồng.
Cũng tương tự như các trường hợp phạm tội khác, nếu tài sản bị chiếm đoạt
không phải là tiền mà là tài sản thì giá trị tài sản được xác định căn cứ vào giá thị
trường vào thời điểm phạm tội, vì trách nhiệm hình sự là trách nhiệm của một

5
người khi thực hiện hành vi phạm tội. Trong trường hợp các cơ quan tiến hành tố
tụng không tự mình xác định được giá trị tài sản thì phải trưng cầu giám định
(định giá).
đ) Chiếm đoạt tiền, tài sản dùng vào mục đích xóa đói, giảm nghèo; tiền,
phụ cấp, trợ cấp, ưu đãi đối với người có công với cách mạng; các loại quỹ dự
phòng hoặc các loại tiền, tài sản trợ cấp, quyên góp cho những vùng bị thiên tai,
dịch bệnh hoặc các vùng kinh tế đặc biệt khó khăn.
e) Gây thiệt hại về tài sản từ 1.000.000.000 đồng đến dưới 3.000.000.000
đồng.
g) Ảnh hưởng xấu đến đời sống của cán bộ, công chức, viên chức và người
lao động trong cơ quan, tổ chức.
– Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 15 năm
đến 20 năm:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000
đồng.
Cũng tương tự như các trường hợp phạm tội khác, nếu tài sản bị chiếm đoạt
không phải là tiền mà là tài sản thì giá trị tài sản được xác định căn cứ vào giá thị
trường vào thời điểm phạm tội, vì trách nhiệm hình sự là trách nhiệm của một
người khi thực hiện hành vi phạm tội. Trong trường hợp các cơ quan tiến hành tố
tụng không tự mình xác định được giá trị tài sản thì phải trưng cầu giám định
(định giá).
b) Gây thiệt hại về tài sản từ 3.000.000.000 đồng đến dưới 5.000.000.000
đồng.
c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
Tham ô tài sản gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội là
trường hợp hành vi tham ô tài sản gây phẫn nộ, bất bình trong nhân dân, dẫn đến
gây rối, biểu tình; bị các thế lực thù địch lợi dụng tiến hành hoạt động nhằm lật
đổ chính quyền nhân dân, phá hoại việc thực hiện các chính sách kinh tế-xã hội,
chính sách đoàn kết, tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, phá rối an ninh,...

6
d) Dẫn đến doanh nghiệp hoặc tổ chức khác bị phá sản hoặc ngừng hoạt
động.
– Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù 20 năm,
tù chung thân hoặc tử hình:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 1.000.000.000 đồng trở lên.
Cũng tương tự như các trường hợp phạm tội khác, nếu tài sản bị chiếm đoạt
không phải là tiền mà là tài sản thì giá trị tài sản được xác định căn cứ vào giá thị
trường vào thời điểm phạm tội, vì trách nhiệm hình sự là trách nhiệm của một
người khi thực hiện hành vi phạm tội. Trong trường hợp các cơ quan tiến hành tố
tụng không tự mình xác định được giá trị tài sản thì phải trưng cầu giám định
(định giá).
b) Gây thiệt hại về tài sản 5.000.000.000 đồng trở lên.
Nếu người phạm tội có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1
Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, không có tình tiết tăng nặng, thì Tòa án
có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp
dụng nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật (từ 15 năm
tù đến dưới 20 năm tù). Nếu người phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ
án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể thì Tòa án có thể quyết định một
hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng không
bắt buộc phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật (dưới 15 năm
tù). Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 52 Bộ luật
Hình sự năm 2015, không có tình tiết giảm nhẹ thì có thể bị phạt đến tử hình.
– Khung hình phạt bổ sung: Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức
vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm, có thể bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến
100.000.000 đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

7
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG THAM Ô TÀI SẢN TẠI VIỆT NAM

2.1. Thực trạng


Vấn đề tham ô tài sản ở Việt Nam ta luôn là một trong những vấn đề luôn
được quan tâm, hằng năm có rất nhiều vụ án lớn nhỏ liên quan đến tham ô tài sản
xảy ra, nhiều vụ đại án về kinh tế, tham nhũng được phát hiện, điều tra và đưa ra
xét xử, hàng loạt các cán bộ chủ chốt, nguyên lãnh đạo cấp cao vi phạm bị xử lý
hình sự với những bản án nghiêm khắc. Bên dưới đây, chính là phần nội dung
thực trạng về vấn đề tham ô tài sản ở nước ta trong những năm vừa qua.
Tham nhũng là một trong những nguy cơ đe dọa sự tồn vong của Đảng và
chế độ. “Mỗi khi người dân, doanh nghiệp đi xin giấy chứng nhận quyền sở hữu
nhà, đất, đi khám bệnh, xin cho con đi học, hoặc chuyển trường, xin vốn đầu tư,
dự án xây dựng… đều phải có “lót tay”, “bôi trơn” thì mọi việc mới nhanh chóng.”
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng gọi dạng tham nhũng này là “tham nhũng vặt”,
gây bức xúc, khó chịu cho mọi người và toàn xã hội. Nhiều vụ tham nhũng lớn,
có tổ chức, nhiều người tham gia, có sự cấu kết của nhiều doanh nghiệp và cán bộ
nhà nước thoái hóa, biến chất như: Vụ án Epco - Minh Phụng từ những năm 80
của thế kỷ trước, với 77 bị can và 2 án tử hình; vụ án tại Tập đoàn Vinashin, với
Phạm Thanh Bình cùng 8 đồng phạm; vụ án tham ô và cố ý làm trái tại Tổng Công
ty Hàng hải Việt Nam (Vinalines), Dương Chí Dũng và Mai Văn Phúc bị tử hình,
8 bị can khác chịu hình phạt từ 4 đến 22 năm tù. Không phải đến bây giờ mới có
tham nhũng. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, vụ án của Trần Dụ Châu,
nguyên Giám đốc Nha Quân nhu - Bộ Quốc phòng bị xử ngày 5-9-1950 tại thị xã
Thái Nguyên, can tội “biển thủ công quỹ, nhận hối lộ, phá hoại công cuộc kháng
chiến”, bị tuyên án tử hình, tịch thu 3/4 tài sản, tịch thu tang vật hối lộ.
Đặc biệt là từ năm 2016, sau Đại hội XII của Đảng, Tổng Bí thư Nguyễn
Phú Trọng, Trưởng Ban Chỉ đạo phòng chống tham nhũng (PCTN) Trung ương
đã phát động một chiến dịch PCTN rộng rãi, toàn diện, quyết liệt với phương
châm: “Bất kể người đó là ai, ở cương vị nào, không có vùng cấm, không có ngoại

8
lệ trong đấu tranh và xử lý tham nhũng”. Từ đó công tác PCTN đã đạt được những
kết quả rất tích cực, nhiều vụ án tham nhũng từ Trung ương đến địa phương đều
được xét xử nghiêm minh, kể cả các Ủy viên BCH Trung ương và Ủy viên Bộ
Chính trị. Kết quả là:“Trong 5 năm, toàn Đảng đã xử lý kỷ luật gần 1.400 tổ chức
đảng và hơn 74.000 đảng viên ở các cấp. Trong số bị kỷ luật, có 82 tỉnh ủy viên
và tương đương; hơn 1.500 huyện ủy viên và tương đương; gần 3.000 đảng viên
bị kỷ luật bằng hình thức cách chức; hơn 8.700 bị khai trừ ra khỏi Đảng và hơn
4.300 cán bộ, đảng viên phải xử lý bằng pháp luật. Thiếu tướng Nguyễn Văn Tín,
Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân cho biết: Từ năm 2013 đến 2020, cả nước
đã có hơn 1.900 vụ án tham nhũng bị điều tra, xét xử; 131.000 đảng viên, trong
đó có hơn 110 cán bộ thuộc diện Trung ương quản lý (có 27 Ủy viên Trung ương
Đảng, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, 4 Ủy viên Bộ Chính trị, 30 sĩ quan cấp
tướng thuộc lực lượng vũ trang) đã bị xử lý kỷ luật. Riêng 6 tháng đầu năm 2021,
liên quan đến tham nhũng đã có 266 vụ/646 bị can bị khởi tố, 250 vụ với 643 bị
can bị truy tố. Ban Chỉ đạo PCTN Trung ương đã kiểm tra xử lý kỷ luật 12 tổ chức
đảng và 20 đảng viên thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý (trong đó có 3
ủy viên, nguyên Ủy viên Trung ương, 2 thứ trưởng, 1 nguyên chủ tịch tỉnh, 1
nguyên phó bí thư tỉnh ủy, 13 sỹ quan cấp tướng trong lượng vũ trang). Gần đây
nhất Bộ Công an đã khởi tố vụ đẩy giá kít xét nghiệm Covid-19 của Công ty Cổ
phần Việt Á, liên quan đến nhiều quan chức, nhiều bộ, ngành như lãnh đạo Bộ
Khoa học và công nghệ, Bộ Y tế, Học viện Quân y và cán bộ Trung tâm Kiểm
soát bệnh tật (CDC) của nhiều tỉnh, thành trong cả nước. Hai Ủy viên BCH Trung
ương đã bị khai trừ ra khỏi Đảng, bị bắt tạm giam để điều tra. Ngay trong ngành
Lương y như từ mẫu có vụ án tại Bệnh viện Bạch Mai và Bệnh viện Tim Hà Nội,
lãnh đạo bệnh viện đã câu kết với công ty tư nhân để nâng giá thiết bị y tế hưởng
lợi bất chính.
Năm 2021, đây là năm Nhà nước ta quyết liệt thực hiện công tác chống
tham nhũng, dưới sự sát sao của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham
nhũng, các vụ án, vụ việc thuộc diện Ban Chỉ đạo theo dõi, chỉ đạo đã nhanh

9
chóng hoàn tất quá trình điều tra, truy tố để đưa ra xét xử, đem lại lòng tin cho
nhân dân cả nước. Năm 2021 gồm nhiều vụ đại án sau:
Nguyên Bộ trưởng Công thương lĩnh án 11 năm tù vì vi phạm quy định về
quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước gây thất thoát, lãng phí; vi phạm các quy định
về quản lý đất đai. Đây là vụ án xảy ra tại Bộ Công Thương và Tổng Công ty Bia-
Rượu-Nước giải khát Sài Gòn (Sabeco) liên quan đến dự án 2-4-6 Hai Bà Trưng,
Quận 1, Thành Phố Hồ Chí Minh. Sabeco được giao khu đất tại số 2-4-6 Hai Bà
Trưng (diện tích 6.080m2) dùng sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp và nộp tiền
thuê đất hằng năm. Thua lỗ hơn 500 tỷ đồng tại Dự án Ethanol Phú Thọ: Bị cáo
trong vụ án Vi phạm quy định về đầu tư công trình xây dựng gây hậu quả nghiêm
trọng xảy ra tại dự án Nhà máy nhiên liệu sinh học Phú Thọ (Ethanol Phú Thọ),
khiến dự án bị dừng thi công giữa chừng dù chưa có bất cứ hạng mục nào hoàn
thành, gây thiệt hại hơn 534 tỷ đồng cho Công ty cổ phần Hoá dầu và Nhiên liệu
sinh học dầu khí (PVB).
Thật thoát hơn 830 tỷ đồng tại dự án Gang Thép: Đây là một trong những
vụ đại án kinh tế có số tiền thiệt hại lớn, năm 2021, 19 bị cáo trong vụ án "Vi
phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước gây thất thoát, lãng phí”,
“Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng”, xảy ra tại Công ty cổ phần Gang
thép Thái Nguyên (TISCO) đã được đưa ra xét xử nghiêm minh. Trong năm 2021,
hàng loạt các vụ án vi phạm về đấu thầu trong lĩnh vực y tế đã được phát hiện điều
tra truy tố như vụ việc xảy ra ở Bệnh viện Bạch Mai, Bệnh viện Tim Hà Nội. Đặc
biệt là vụ việc bắt giam Thứ trưởng Y tế Trương Quốc Cường về tội Thiếu trách
nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng. Chưa dừng lại ở đó, những ngày cuối năm 2021,
dư luận xã hội tiếp tục xôn xao khi Cơ quan điều tra của Bộ Công an tiếp tục
phanh phui vụ án “thổi giá” Kit xét nghiệm Covid-19.1
2.2. Phân tích vụ án tham ô tài sản trên thực tế
Như chúng ta đã biết, tham ô tài sản là hành vi chiếm đoạt tài sản của cơ
quan, tổ chức, hoặc công dân của người có chức vụ, quyền hạn thành tài sản riêng

1
Lê Tú, “Nhìn lại những đại án của năm 2021”,2021, NXB Thời sự VOV,
https://special.nhandan.vn/daian2021/index.html

10
của mình. Vậy cụ thể khái niệm này được hiểu như thế nào, như thế nào mới gọi
là phạm tội tham ô tài sản, chúng ta sẽ cùng phân tích một vụ án tham ô tài sản
trên thực tế, để kết luận như thế nào là phạm tội chiếm đoạt tài sản, bên cạnh đó
cũng biết được nguyên nhân, mức độ nghiêm trọng cũng như là ảnh hưởng của nó
đối với đời sống, kinh tế. Đầu tiên, chúng ta sẽ tìm hiểu về vụ án của Trần Đình
A, về tội tham ô tài sản theo quy định tại Điều 353 Bộ luật Hình sự (BLHS) năm
2015.
Thứ nhất, về chủ thể của tội phạm: Căn cứ quy định tại Điều 353 BLHS
năm 2015, có thể thấy, chủ thể của tội phạm tham ô tài sản là chủ thể đặc biệt, cụ
thể phải là người có chức vụ, quyền hạn và có trách nhiệm quản lý tài sản. Khoản
2 Điều 352 BLHS năm 2015 quy định: “Người có chức vụ là người do bổ nhiệm,
do bầu cử, do hợp đồng hoặc do một hình thức khác, có hưởng lương hoặc không
hưởng lương, được giao thực hiện một nhiệm vụ nhất định và có quyền hạn nhất
định trong khi thực hiện công vụ, nhiệm vụ”. Người do bổ nhiệm, do bầu cử được
xác định là cán bộ, công chức được quy định tại Điều 4 Luật Cán bộ, công chức
năm 2008. Ngoài những cán bộ, công chức ra thì người có chức vụ còn là những
người do hợp đồng hoặc do một hình thức khác. Những người này tuy không phải
là cán bộ, công chức, họ chỉ được các cơ quan trong và ngoài khu vực nhà nước,
tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội ký hợp đồng làm một công việc nhất
định thường xuyên hay theo thời vụ hoặc trong một khoảng thời gian nhất định.
Những người này cũng được coi là người có chức vụ, quyền hạn. Về trách nhiệm
quản lý tài sản, trách nhiệm này có được do có chức vụ hoặc do đảm nhiệm những
chức trách công tác nhất định, trách nhiệm quản lý tài sản cần được phân biệt rõ
ràng với trách nhiệm bảo vệ đơn thuần của người làm công việc bảo vệ tại các cơ
quan, tổ chức.Trong vụ việc này, Trần Đình A ký hợp đồng lao động không xác
định thời hạn với Tổng Công ty Bưu chính viễn thông B. Trần Đình A có chức
danh là nhân viên bán hàng điểm bán và được phân công làm việc tại Chi nhánh
Bưu chính huyện X. A thông qua hợp đồng đã được Tổng Công ty Bưu chính viễn
thông B giao cho nhiệm vụ và quyền hạn trong việc phát triển, chăm sóc điểm
bán, bán sim, thẻ cào điện thoại và chuyển tiền bankplus cho các điểm bán trong

11
khu vực quản lý. Khi nhận được tiền bán hàng A có trách nhiệm quản lý số tiền
trên và chậm nhất đến 10 giờ sáng ngày hôm sau A phải nộp lại số tiền trên vào
tài khoản của công ty. A được đảm nhiệm công việc có tính độc lập đó là công
việc tạo ra cho người được giao mối quan hệ cũng như trách nhiệm với khối lượng
tài sản nhất định trong khoảng thời gian nhất định. Dựa theo dữ liệu của vụ việc
và sự phân tích trên, có thể xác định Trần Đình A thỏa mãn dấu hiệu chủ thể đặc
biệt của tội tham ô tài sản.
Thứ hai, về khách thể của tội phạm: Khách thể của tội phạm tham ô tài sản
là những quan hệ xã hội liên quan đến hoạt động bình thường, đúng đắn của các
cơ quan, tổ chức trong nhà nước và của cả các doanh nghiệp, tổ chức ngoài nhà
nước; do người có chức vụ, quyền hạn làm trái các nguyên tắc, chính sách, chức
trách, chế độ quản lý tài sản thuộc lĩnh vực công tác mà mình phụ trách và qua đó
chiếm đoạt tài sản. Tài sản này bao gồm tài sản của nhà nước giao cho các cơ
quan, tổ chức trong nhà nước hoặc là tài sản của các doanh nghiệp, tổ chức ngoài
nhà nước.Hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức là những hoạt động theo chức
năng, nhiệm vụ do pháp luật hoặc điều lệ quy định, những hoạt động này nhằm
thực hiện chức năng và mục đích đã đề ra. Ví dụ, theo quy định của pháp luật thì
cán bộ, công chức không được lợi dụng chức vụ, quyền hạn để trục lợi, nhưng
trong cơ quan nào đó có cán bộ đã tham ô tài sản, nhận hối lộ,... là đã xâm phạm
đến hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức đó. Trong vụ việc này, A đã lợi dụng
quyền hạn trong việc quản lý tài sản (tiền bán sim, thẻ cào điện thoại) nhằm chiếm
đoạt tài sản của Tổng Công ty Bưu chính viễn thông B, tức là đã xâm phạm đến
hoat động đúng đắn của Tổng Công ty Bưu chính viễn thông B.
Thứ ba, về mặt khách quan của tội phạm: Hành vi khách quan trong tội
tham ô tài sản là hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn để chiếm đoạt tài sản mà
mình có trách nhiệm quản lý. Hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn được hiểu là
việc sử dụng quyền năng về chức vụ, quyền hạn để làm không đúng, làm sai chức
trách, làm trái các nguyên tắc, chính sách, chế độ, thể lệ quản lý tài sản thuộc lĩnh
vực công tác do mình phụ trách, quản lý để chiếm đoạt tài sản. Làm không đúng,
không làm sai điều nói trên có thể là trong giới hạn được phép nhưng có liên quan

12
đến cương vị công tác hoặc cũng có thể dùng uy quyền, chức vụ để tác động đến
cấp dưới hoặc người khác. Còn chiếm đoạt tài sản là hành vi dịch chuyển bất hợp
pháp tài sản chung của cơ quan, tổ chức thành tài sản cá nhân. Hành vi chiếm đoạt
tài sản thể hiện mục đích tư lợi, đây là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm
tham ô tài sản. Tội phạm được coi là hoàn thành kể từ thời điểm người phạm tội
chiếm đoạt được tài sản.Trong vụ việc này, A được Tổng Công ty cung cấp 01
user và được sử dụng vào mục đích bán hàng hóa cho các điểm bán và chuyển
tiền dịch vụ cho các điểm bán. Trong khoảng tháng 03/2022, Trần Đình A nhiều
lần chuyển tiền dịch vụ cho các điểm bán trên địa bàn huyện X, tuy nhiên sau khi
thu tiền các đại lý bán hàng về, A đã không nạp vào tài khoản chuyên thu của
Tổng công ty mà tiêu xài cá nhân. Tính đến 16/3/2022, A đã chiếm đoạt số tiền
của Tổng công ty bưu chính viễn thông B với số tiền 100 triệu đồng. A đã lợi
dụng quyền hạn được giao quản lý tài sản mà không làm đúng chức trách, nhiệm
vụ mà Tổng Công ty Bưu chính viễn thông B giao nhằm mục đích chiếm đoạt tài
sản.
Thứ tư, về mặt chủ quan của tội phạm: Đối tượng phạm tội tham ô tài sản
thực hiện tội phạm với lỗi cố ý trực tiếp, tức là người phạm tội nhận thức rõ được
việc lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của các cơ quan, tổ chức,
doanh nghiệp trong và ngoài nhà nước mà mình có trách nhiệm quản lý là hành
vi nguy hiểm cho xã hội, trái quy định về quản lý tài sản, làm mất đi sự đúng đắn
trong quản lý tài sản của cơ quan, tổ chức; thấy trước được sự thiệt hại về tài sản
và những hậu quả khác nhưng vẫn thực hiện và mong muốn hậu quả xảy ra với
mục đích chiếm đoạt được tài sản. Về lý trí, A nhận thức rõ hành vi chiếm đoạt
số tiền dịch vụ của Tổng Công ty Bưu chính viễn thông B sẽ gây thiệt hại về tài
sản cho Tổng công ty, thấy trước được hậu quả của hành vi chiếm đoạt. Về ý chí,
A mong muốn hậu quả phát sinh, mong chiếm được số tiền dịch vụ nhằm mục
đích tiêu xài cá nhân. Mặc dù vụ việc không nêu rõ Tổng Công ty Bưu chính viễn
thông B là cơ quan tổ chức của nhà nước hay ngoài khu vực nhà nước, nhưng dù
Tổng Công ty Bưu chính viễn thông B là cơ quan tổ chức của nhà nước hay ngoài
khu vực của nhà nước thì hành vi của A vẫn đủ yếu tố cấu thành tội phạm tham ô

13
tài sản bởi điểm mới về tội phạm tham nhũng theo quy định của BLHS năm 2015
là mở rộng phạm vi chủ thể của tội phạm tham nhũng (trong đó có tội phạm tham
ô tài sản) ra khu vực tư (khu vực ngoài nhà nước). Cụ thể là mở rộng chủ thể thực
hiện tội phạm không chỉ là người có chức vụ trong khi thực hiện “công vụ” (đội
ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong hệ thống các cơ quan nhà nước), mà còn
là người có chức vụ trong khi thực hiện “nhiệm vụ” tại các doanh nghiệp, tổ chức
ngoài nhà nước. Và khoản 6 Điều 353 BLHS năm 2015 cũng quy định rõ: “Người
có chức vụ, quyền hạn trong các doanh nghiệp, tổ chức ngoài Nhà nước mà tham
ô tài sản, thì bị xử lý theo quy định tại Điều này”. Trên cơ sở những phân tích nêu
trên, có thể thấy, việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với Trần Đình A về tội
danh “Tham ô tài sản” theo quy định tại Điều 353 BLHS năm 2015 là hoàn toàn
phù hợp trên cả phương diện lý luận và thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm.
Các tác giả Nguyễn Mạnh Cường (Tòa án quân sự Quân khu 7); Đinh Thị Thuỳ
(Toà án nhân dân huyện Chư Pưh, Gia Lai); Võ Minh Tuấn (Tòa án quân sự Khu
vực 1 Quân khu 5); Nguyễn Thanh Huyền (Tòa án quân sự khu vực Quân khu 7);
Dương Văn Hưng (Tòa án quân sự Quân chủng Hải quân); Đoàn Phước Hòa (Tòa
án quân sự khu vực Quân khu 7)... có cùng quan điểm cho rằng Trần Đình A phạm
tội Tham ô tài sản.2
Vụ án thứ hai: Nguyên Bộ trưởng Công thương lĩnh án 11 năm tù vì vi
phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước gây thất thoát, lãng phí; vi
phạm các quy định về quản lý đất đai. Đây là vụ án xảy ra tại Bộ Công Thương
và Tổng Công ty Bia-Rượu-Nước giải khát Sài Gòn (Sabeco) liên quan đến dự án
2-4-6 Hai Bà Trưng, Quận 1, Thành Phố Hồ Chí Minh. Sabeco được giao khu đất
tại số 2-4-6 Hai Bà Trưng (diện tích 6.080m2) dùng sản xuất kinh doanh phi nông
nghiệp và nộp tiền thuê đất hằng năm. Nhưng nguyên Bộ trưởng Công thương Vũ
Huy Hoàng cùng các đồng phạm đã có ý kiến chỉ đạo về việc Sabeco góp vốn
bằng quyền sử dụng khu đất 2-4-6 Hai Bà Trưng và tiền của Sabeco để thành lập
liên doanh Sabeco Pearl đầu tư thực hiện dự án "Xây dựng khách sạn sáu sao,

2
Ths.Lại Sơn Tùng, “Trần Đình A phạm tội tham ô tài sản”,20-04-2022, TAND tỉnh Gia Lai xét xử vụ án hình sự
https://tapchitoaan.vn/tran-dinh-a-pham-toi-tham-o-tai-san6206.html

14
trung tâm thương mại, trung tâm hội nghị, hội thảo và văn phòng cho thuê" tại
khu đất trên. Sau khi Sabeco thực hiện xong các thủ tục pháp lý đầu tư, trong đó
có việc bổ sung chức năng officetel (mô hình kết hợp văn phòng cho thuê với
khách sạn) và căn hộ ở cho dự án, Bộ Công thương chỉ đạo công ty này thoái toàn
bộ vốn góp. Các hành vi trên dẫn tới hậu quả quyền quản lý, sử dụng khu đất 2-
4-6 Hai Bà Trưng bị chuyển từ doanh nghiệp nhà nước sang tư nhân trái pháp
luật, gây thất thoát hàng nghìn tỷ đồng của nhà nước.35 bị cáo lĩnh án tù vì làm
đường cáo tốc kém chất lượng: là một vụ án vi phạm quy định về đầu tư công
trình xây dựng gây hậu quả nghiêm trọng xảy ra tại dự án đường cao tốc Đà Nẵng-
Quãng Ngãi (dự án đường cao tốc Đà Nẵng-Quảng Ngãi do VEC làm chủ đầu tư
có tổng chiều dài toàn tuyến hơn 139 km. Giai đoạn 1 của dự án dài 65 km, từ
thành phố Đà Nẵng đến thành phố Tam Kỳ (tỉnh Quảng Nam)). Đầu tháng
12/2021, 35 bị cáo đã bị tuyên án bởi Toà án nhân nhân thành phố Hà Nội, cụ thể:
Nguyễn Mạnh Hùng, nguyên Phó Tổng Giám đốc Tổng công ty Đầu tư phát triển
đường cao tốc Việt Nam (VEC) 7 năm tù; Lê Quang Hào, nguyên Phó Tổng Giám
đốc VEC 6 năm tù; Hoàng Việt Hưng (Nguyên Giám đốc Ban quản lý dự án
đường cao tốc) 8 năm 6 tháng tù cùng về tội vi phạm quy định về đầu tư công
trình xây dựng gây hậu quả nghiêm trọng. 32 bị cáo khác trong vụ án chịu mức
án từ 24 tháng tù treo đến 5 năm 6 tháng tù giam cùng về tội danh nêu trên. Về
trách nhiệm dân sự, toà buộc các nhà thầu thi công liên đới bồi thường 811 tỷ
đồng cho VEC. Hai bị cáo Nguyễn Mạnh Hùng và Lê Quang Hào được phân công
phụ trách dự án nhưng không thực hiện đúng nhiệm vụ được giáo đồng thời còn
xảy ra nhiều sai phạm nghiệm trọng trong quá trình nghiệm thu cơ sở, gây thiệt
hại một số tiền lớn còn nhà thầu và đơn vị tư vấn giám sát đã không đảm bảo đúng
yêu cầu kỹ thuật của dự án nên phải chịu trách nhiệm liên đới. Do vậy, chỉ trong
năm đầu tiên khai thác sử dụng, đoạn đường thuộc gia đoạn 1 xuất hiện 380 điểm
hư hỏng trên mặt đường bê-tông nhựa, ảnh hưởng nghiệm trọng đến việc vận hành
khai thác, an toàn khi tham gia giao thông và gây bức xúc dư luận.3

3
Lê Tú, “Nhìn lại những đại án của năm 2021”,2021, NXB Thời sự VOV.
https://special.nhandan.vn/daian2021/index.html

15
Vụ án thứ ba: Thua lỗ hơn 500 tỷ đồng tại Dự án Ethanol Phú Thọ, bị cáo
trong vụ án Vi phạm quy định về đầu tư công trình xây dựng gây hậu quả nghiêm
trọng xảy ra tại dự án Nhà máy nhiên liệu sinh học Phú Thọ (Ethanol Phú Thọ),
khiến dự án bị dừng thi công giữa chừng dù chưa có bất cứ hạng mục nào hoàn
thành, gây thiệt hại hơn 534 tỷ đồng cho Công ty cổ phần Hoá dầu và Nhiên liệu
sinh học dầu khí (PVB). Bị cáo Đinh La Thăng với vai trò là người đứng đầu
PVN, Trưởng Ban Chỉ đạo dự án nhiên liệu sinh học bị phạt 30 năm tù do biết rõ
PVC không đủ năng lực, kinh nghiệm, thậm chí tình hình tài chính đang thua lỗ
nhưng vẫn dùng ảnh hưởng của bản thân chỉ định thầu cho công ty này, bị cáo
còn chủ chì các cuộc họp, chỉ đạo, gây sức ép lên các bị cáo khác hoàn tất hồ sơ
chỉ định thầu cho liên danh của PVC. Đối với bị cáo Trịnh Xuân Thanh với vai
trò đứng đầu PVC bị tuyên án 10 năm tù về tội vi phạm quy định về đầu tư công
trình xây dựng gây hậu quả nghiêm trọng và 8 năm tù về tội lợi dụng chức vụ,
quyền hạn trong thi hành công vụ, tổng hợp các bản án trước đó, hình phạt chung
của bị cáo Trịnh Xuân Thanh là tù chung thân, do bị cáo biết rõ liên danh của
công ty mình không đủ năng lực nhưng vẫn tiếp tục nhận sự chỉ đạo của bị cáo
Thăng dẫn tới những sai phạm nghiêm trọng.4
Vụ án thứ tư: Thổi giá các bộ kit xét nghiệm Covid-19: Trong năm 2021,
hàng loạt các vụ án vi phạm về đấu thầu trong lĩnh vực y tế đã được phát hiện điều
tra truy tố như vụ việc xảy ra ở Bệnh viện Bạch Mai, Bệnh viện Tim Hà Nội. Đặc
biệt là vụ việc bắt giam Thứ trưởng Y tế Trương Quốc Cường về tội Thiếu trách
nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng. Chưa dừng lại ở đó, những ngày cuối năm 2021,
dư luận xã hội tiếp tục xôn xao khi Cơ quan điều tra của Bộ Công an tiếp tục
phanh phui vụ án “thổi giá” Kit xét nghiệm Covid-19. Theo đó, Công ty Việt Á
do Phan Quốc Việt thành lập, giữ chức Chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Tổng
Giám đốc, người đại diện pháp luật. Tháng 4/2020, Công ty Việt Á được Bộ Y tế
cấp phép đăng ký lưu hành cho sản phẩm Kit xét nghiệm Covid-19. Đến nay,
Công ty Việt Á đã cung ứng Kit xét nghiệm Covid cho Trung tâm kiểm soát bệnh

4
Lê Tú, “Nhìn lại những đại án của năm 2021”,2021, NXB Thời sự VOV.
https://special.nhandan.vn/daian2021/index.html

16
tật và các cơ sở y tế khác của 62 tỉnh, thành phố trên cả nước với doanh thu gần
4.000 tỷ đồng. Kết quả điều tra bước đầu, Phan Quốc Việt và các đối tượng là
lãnh đạo chủ chốt Công ty Việt Á khai nhận: Quá trình kinh doanh và tiêu thụ Kit
xét nghiệm Covid-19 do Công ty Việt Á sản xuất, lợi dụng tính cấp bách về nhu
cầu test Covid-19 của các địa phương trên cả nước, sản phẩm Kit test Covid-19
thuộc danh mục được áp dụng hình thức Chỉ định thầu rút gọn nên Phan Quốc
Việt đã chủ động cung ứng thiết bị, vật tư, sinh phẩm y tế trước cho các Bệnh
viện, CDC các tỉnh, thành phố sử dụng.Sau đó, thông đồng với lãnh đạo các đơn
vị này hợp thức hồ sơ Chỉ định thầu bằng cách Công ty Việt Á sử dụng các pháp
nhân trong hệ thống (Công ty liên danh, Công ty con) lập hồ sơ chào hàng sản
phẩm, xác nhận khống các báo giá... để hoàn thiện hồ sơ, ký hợp đồng, thanh
quyết toán cho Công ty Việt Á theo giá do Công ty Việt Á đưa ra, cao hơn nhiều
so với giá thành sản xuất.Đồng thời, để được giao cung ứng trước thiết bị, vật tư
y tế, tiêu thụ với số lượng lớn, tăng doanh thu lợi nhuận và được tạo điều kiện
trong việc hoàn thiện hồ sơ, thanh quyết toán theo giá do Công ty Việt Á đề nghị,
Phan Quốc Việt còn thỏa thuận, thống nhất, chi cho cán bộ, lãnh đạo các đơn vị
mua hàng với số tiền rất lớn. Để thu lợi nhuận bất chính và chi tiền ngoài hợp
đồng, Phan Quốc Việt và các đối tượng của Công ty Việt Á đã nâng khống giá
thiết bị, chi phí nguyên vật liệu đầu vào đưa vào thuyết minh cơ cấu giá xác định
giá bán là 470.000 đồng/Kít; thỏa thuận và chi tiền % hợp đồng cho lãnh đạo Bệnh
viện, CDC các tỉnh, thành phố trong quá trình cung cấp sản phẩm.Đến nay, bước
đầu Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an đã làm rõ sai phạm trong việc Công ty
Việt Á bán Kit xét nghiệm Covid-19 cho CDC Hải Dương thông qua 05 hợp đồng
với tổng giá trị 151 tỷ đồng, Phan Quốc Việt đã chi tiền % ngoài hợp đồng cho
Phạm Duy Tuyến, Giám đốc CDC Hải Dương số tiền gần 30 tỷ đồng. Các cơ quan
đã mở rộng điều tra, làm rõ bản chất hành vi chiếm đoạt, tham nhũng, khởi tố
thêm nhiều bị can, trong đó có cả cán bộ cấp cao, cả đương chức và nghỉ hưu, sĩ
quan cấp tướng trong lực lượng vũ trang (có 10 cán bộ thuộc diện Bộ Chính trị,
Ban Bí thư quản lý); khởi tố mới nhiều vụ án lớn, nghiêm trọng, phức tạp như:
Các vụ án xảy ra trong lĩnh vực y tế; vụ án xảy ra tại một số đơn vị thuộc Bộ tư

17
lệnh Cảnh sát biển, Bộ đội biên phòng; các vụ án vi phạm quy định quản lý đất
đai, quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước xảy ra tại Bình Dương, Khánh Hòa, Thành
phố Hồ Chí Minh... Đã khởi tố, điều tra nhiều vụ án tiêu cực xảy ra trong lĩnh vực
giáo dục, lợi dụng dịch Covid-19 để trục lợi và sai phạm trong lực lượng chống
tham nhũng.5
Ngày 20/9/2021, Tòa án nhân dân huyện Hữu Lũng mở phiên tòa xét xử
công khai vụ án hình sự về các tội “Tham ô tài sản”, “Thiếu trách nhiệm gây hậu
quả nghiêm trọng”, “Thiếu trách nhiệm gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước”
và “Vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng” đối với các bị cáo
Vy Thị H, Lý Văn D, Đào Văn T. Vụ án thu hút sự quan tâm và đông đảo người
dân đến dự. Theo Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lạng Sơn: Từ năm
2016 đến năm 2019, tại UBND xã Hòa Lạc, huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn:Bị
cáo Vy Thị H, nguyên là Công chức Tài chính - Kế toán UBND xã Hòa Lạc đã
lập chứng từ chi khống, chi vượt định mức chi theo quy định để rút tiền ngân sách
Nhà nước. Ngoài ra, H còn thực hiện hành vi chiếm đoạt tiền ngân sách Nhà nước
của UBND xã Hòa Lạc và tiền quỹ nhân dân đóng góp. Bị cáo Đào Văn T, Bí thư
Đoàn xã được Lý Văn D, Chủ tịch UBND xã Hòa Lạc giao nhiệm vụ Thủ quỹ của
UBND xã; quá trình thực hiện nhiệm vụ, T đã thiếu trách nhiệm trong quản lý
tiền ngân sách Nhà nước gây thất thoát số tiền lớn.Bị cáo Lý Văn D, Chủ tịch
UBND xã Hòa Lạc, trong quá trình thực hiện nhiệm vụ đã thiếu trách nhiệm,
không kiểm tra hồ sơ tài liệu, chứng từ rút tiền, để cho Kế toán lập khống chứng
từ rút tiền ngân sách Nhà nước, buông lỏng trong quản lý tài chính của UBND xã
Hòa Lạc, dẫn đến thất thoát số tiền gồm tiền ngân sách Nhà nước, tiền quỹ nhân
dân đóng góp.Tại phiên tòa, các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của
mình. Trên cơ sở đề nghị của đại diện Viện kiểm sát, căn cứ vào tài liệu trong hồ
sơ vụ án, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử đã tuyên phạt bị cáo
Vy Thị H 04 năm tù về tội “Vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm
trọng” quy định tại Điểm d Khoản 2 Điều 221 Bộ luật Hình sự và 08 năm tù về

5
Lê Tú, “Nhìn lại những đại án của năm 2021”,2021, NXB Thời sự VOV
https://special.nhandan.vn/daian2021/index.html

18
tội “Tham ô tài sản” quy định tại Điểm c Khoản 2 Điều 360 Bộ luật Hình sự; bị
cáo Lý Văn D 04 năm tù về tội “Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng”
quy định tại Điểm d Khoản 2 Điều 353 Bộ luật Hình sự và Đào Văn T 18 tháng
tù về tội “Thiếu trách nhiệm gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước” quy định tại
Khoản 2 Điều 179 Bộ luật Hình sự. Ngoài ra, bị cáo Vy Thị H còn phải hoàn trả
lại cho ngân sách số tiền là 169.116.441 đồng; bị cáo Đào Văn T còn phải bồi
thường cho ngân sách Nhà nước số tiền 743.075.884 đồng.6
2.3. Kiến nghị giải pháp
Thời gian qua, tình hình tội phạm tham ô, tham nhũng vẫn diễn biến phức
tạp, không những vậy còn có xu hướng tăng về quy mô, tính chất mức độ nghiêm
trọng, gây thiệt hại nghiêm trọng cho nền kinh tế, tài sản nước nhà và nhân dân,
làm xói mòn lòng tin của nhân dân vào Đảng. Có thể khẳng định, phòng chống
tham nhũng là một lĩnh vực công tác luôn thu hút được sự quan tâm đặc biệt của
xã hội, thể hiện sự tin tưởng của Nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng. Thời gian
qua, công tác phòng chống tham nhũng trên phạm vi cả nước đạt được những kết
quả khá tích cực, để lại dấu ấn tốt, lan tỏa mạnh mẽ trong đời sống xã hội như lời
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từng khẳng định: "Công tác phòng chống tham
nhũng lãng phí, tiêu cực đã trở thành phong trào, xu thế, được nhân dân đồng tình,
đánh giá cao". Để công cuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng hiệu quả, các
cấp ủy, tổ chức Đảng, người đứng đầu cấp ủy, chính quyền địa phương của tỉnh
cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt, mạnh mẽ, đồng bộ với quyết tâm cao,
trong đó tập trung vào các nội dung cơ bản:
Một là, cần chú trọng công tác tuyên truyền về phòng chống tham nhũng
gắn với thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị về đẩy
mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và Nghị
quyết Trung ương 4 (khóa XII) Về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn
chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện
"tự diễn biến", "tự chuyển hóa". Gắn công tác phòng chống tham nhũng với thực

6
Hoàng Kỳ Anh ,Viện KSND huyện Hữu Lũng, “Xét xử vụ án tham ô tại huyện Hữu Lũng”, 21-10-2021, Tổng
biên tập. https://huulung.langson.gov.vn/xet-xu-vu-tham-o-tai-san-tai-huyen-huu-lung

19
hành tiết kiệm, chống lãng phí, gắn phòng chống tham nhũng với xây dựng và
chỉnh đốn Đảng; chấn chỉnh, đấu tranh, loại bỏ tư tưởng lo ngại việc đẩy mạnh
phòng chống tham nhũng của một số cán bộ, công chức, nhất là cán bộ lãnh đạo,
quản lý các cấp.
Hai là, xây dựng và ban hành bộ quy tắc ứng xử của cán bộ, đảng viên trong
công việc và trách nhiệm giải trình trước cơ quan có trách nhiệm về những vấn đề
liên quan theo quyền hạn, chức trách, nhiệm vụ được giao. Có cơ chế phù hợp
khen thưởng, bảo vệ người tố cáo tham nhũng, lãng phí đúng. Tạo điều kiện, cơ
chế đãi ngộ xứng đáng cho đội ngũ chuyên trách làm công tác phòng chống tham
nhũng. Nâng cao mức sống cho đội ngũ cán bộ, công chức thực thi chức trách,
nhiệm vụ được giao, từ đó chấp hành tốt "bốn không"(không muốn tham nhũng,
không thể tham nhũng, không dám tham nhũng và không cần tham nhũng) trong
phòng chống tham nhũng.
Ba là, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát kỷ luật Đảng; quản lý chặt
chẽ cán bộ, đảng viên, công chức; siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong Đảng và bộ
máy Nhà nước. Nhiệm vụ này phải được tiến hành thường xuyên, toàn diện, công
khai, dân chủ, thận trọng, chặt chẽ. Kiểm tra toàn diện công tác cán bộ, chú trọng
kiểm tra, giám sát cán bộ có biểu hiện tham nhũng, dư luận xã hội phản ánh, tố
cáo; cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp. Đặc biệt, cần phát huy hiệu quả hơn nữa
vai trò của Nhân dân, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức thành viên và báo chí trong
đấu tranh phòng chống tham nhũng.
Bốn là, thực hiện cải cách hành chính quyết liệt hơn, chú trọng rà soát, đơn
giản hóa, công khai thủ tục hành chính, mở rộng các lĩnh vực cung cấp dịch vụ
công trực tuyến; công khai, minh bạch, tạo điều kiện cho người dân, doanh nghiệp
tiếp cận thông tin và giám sát việc thực thi công vụ của cán bộ, công chức, viên
chức; xây dựng kế hoạch và thực hiện việc chuyển đổi vị trí công tác hàng năm,
điều chuyển vị trí công tác đối với cán bộ, công chức, viên chức không hoàn thành
nhiệm vụ, mức độ hài lòng của người dân không cao, uy tín giảm sút. Thực hiện
nghiêm túc, đầy đủ việc kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền

20
hạn và phòng chống tham nhũng trong doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài Nhà
nước theo đúng quy định của Luật phòng chống tham nhũng năm 2018.
Năm là, đưa nội dung phòng chống tham nhũng và kiểm tra, rà soát các
cuộc thanh tra kinh tế - xã hội, việc thực hiện các kiến nghị của cơ quan Thanh
tra, Kiểm toán Nhà nước vào chương trình kiểm tra, giám sát hàng năm của cấp
ủy. Trong đó, đặc biệt tăng cường kiểm tra, giám sát, thanh tra các lĩnh vực quản
lý, cho thuê đất công, mua bán, chuyển nhượng tài sản công, quản lý trật tự xây
dựng, xây dựng cơ bản, quản lý, sử dụng tài chính, công tác tổ chức, cán bộ. Chú
trọng kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực trong công tác tổ chức, cán bộ; kiểm
tra, giám sát cán bộ, đảng viên có biểu hiện tham nhũng, nhiều đơn thư phản ánh,
tố cáo tham nhũng; cán bộ có dấu hiệu suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức,
lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ; kiểm tra, thanh tra việc
thực hiện các quy định pháp luật về bảo vệ người tố cáo; kịp thời phát hiện, xử lý
nghiêm những cán bộ, đảng viên sai phạm, siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong Đảng
và bộ máy Nhà nước.
Sáu là, phát hiện, xử lý kịp thời, nghiêm minh các vụ án liên quan đến tham
nhũng nghiêm trọng, phức tạp, dư luận xã hội quan tâm. Tập trung lực lượng, phối
hợp chặt chẽ để giải quyết các vụ việc phát sinh mới với nguyên tắc: "Tích cực,
khẩn trương, làm rõ đến đâu xử lý đến đó", "Không có vùng cấm", "Không có
ngoại lệ". Kiên quyết xử lý nghiêm những người bao che, dung túng, tiếp tay cho
tham nhũng, can thiệp, cản trở việc xử lý hành vi tham nhũng. Ngăn chặn, xử lý
có hiệu quả tình trạng nhũng nhiễu, tiêu cực, gây phiền hà cho người dân, doanh
nghiệp, nhất là "tham nhũng vặt" trong giải quyết công việc.
Bảy là, các cơ quan chức năng tập trung nâng cao chất lượng công tác tiếp
nhận, xử lý tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố; chấp hành nghiêm
quy định của pháp luật trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án, bảo
đảm các hành vi phạm tội phải được phát hiện, xử lý kịp thời. Phối hợp chặt chẽ
trong giải quyết các vụ việc, vụ án kinh tế, tham nhũng; nâng cao hiệu quả thu hồi
tài sản tham nhũng bị chiếm đoạt, thất thoát trong các vụ việc, vụ án kinh tế, tham
nhũng. Chú trọng công tác điều tra, mở rộng án, thu hồi tài sản, không để các đối

21
tượng đối phó, tiêu hủy tài liệu, bỏ trốn, tẩu tán tài sản; không để xảy ra oan, sai,
bỏ lọt tội phạm.
Tám là, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện các
quy định của pháp luật về công vụ, công chức, nhất là việc thực thi công vụ, những
vị trí trực tiếp giải quyết yêu cầu của công dân, tổ chức, doanh nghiệp. Đồng thời,
công bố công khai các kết luận và kết quả kiểm tra, thanh tra có liên quan đến
tham nhũng, lãng phí, tiêu cực của cán bộ, công chức. Cụ thể hóa và tăng cường
kiểm tra nhằm đảm bảo thực hiện nghiêm các quy định của Luật phòng chống
tham nhũng về công khai, minh bạch trong hoạt động của cơ quan, tổ chức trong
hệ thống chính trị ở cơ sở và trong các lĩnh vực, nhất là việc thực hiện các chính
sách an sinh xã hội. Xử lý nghiêm đối với cán bộ, công chức có hành vi tham
nhũng, tiêu cực, sai phạm về chuyên môn.
Bên cạnh đó, cần xây dựng cơ chế phối hợp giữa Thanh tra, Kiểm toán với
Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát trong phát hiện, điều tra, xử lý các vụ án tham
nhũng, đặc biệt là các tội tham ô tài sản, nhận hối lộ. Hiện nay, hoạt động chống
tham nhũng của các cơ quan tư pháp, thanh tra, kiểm toán còn thiếu sự phối hợp
thống nhất. Thậm chí, giữa một số ngành như Công an, Kiểm sát, Thanh tra, Kiểm
toán còn có sự chống chéo lẫn nhau, làm giảm đáng kể hiệu quả công tác chống
tham nhũng. Trong khi các quy định của pháp luật chưa thật sự đồng bộ, chặt chẽ
thì sự phối hợp giữa các cơ quan này là hết sức cần thiết. Ban hành các văn bản
pháp luật, trong đó phân định rõ ràng chức năng, nhiệm vụ của mỗi cơ quan, đồng
thời có cơ chế thống nhất giữa các cơ quan trong việc điều tra, xử lý những vụ
việc tham nhũng.Đẩy mạnh hoạt động phối hợp đấu tranh chống tham nhũng trên
thực tế, tạo một cơ chế phối hợp thống nhất, đảm bảo hoạt động phối hợp đồng
bộ, liên tục và thường xuyên ở tất cả các khâu của công tác đấu tranh chống tham
nhũng, cụ thể:Chỉ đạo tăng cường công tác phối hợp giữa các cơ quan trong việc
trao đổi cung cấp thông tin để chủ động đánh giá thực trạng, dự báo tình hình tội
phạm về tham nhũng để tổ chức điều tra, xác minh làm rõ.Phối hợp nghiên cứu
tài liệu hồ sơ vụ án ngay từ giai đoạn ban đầu, thống nhất nội dung cần điều tra,
tránh trả hồ sơ để điều tra bổ sung, phục vụ tốt công tác xét xử. Sự phối hợp vừa

22
phải trên cơ sở hợp tác, bổ trợ cho nhau, vừa phải bảo đảm tính độc lập theo chức
năng được phân công và yêu cầu kiểm soát lẫn nhau.
Thường xuyên tổng hợp vướng mắc để đánh giá tình hình, giải quyết kịp
thời những vấn đề cấp bách, vướng mắc, khó khăn phát sinh trong quá trình điều
tra, truy tố, xét xử, thi hành án.Xác định đầu mối, giao ban, thành lập Tổ công tác
liên ngành và đặc biệt là cung cấp, trao đổi thông tin, tài liệu về tiến độ, kết quả
điều tra, truy tố, xét xử các vụ án. Đồng thời, xác định những vấn đề trọng tâm,
làm rõ, cụ thể hóa một số nhiệm vụ trong nội dung phối hợp để bảo đảm sự phối
hợp nhịp nhàng, thực hiện tốt nhiệm vụ được giao của các cơ quan. Ngoài ra, việc
theo dõi, đôn đốc thực hiện kết luận, kiến nghị sau thanh tra, kiểm toán cũng như
sau điều tra, truy tố, xét xử các vụ án tham nhũng cũng cần được tăng cường vì
đây là một khâu thực hiện yếu trong thời gian qua.
Không những vậy, chúng ta cần Hợp tác quốc tế trong đấu tranh, xử lý các
vụ án tham nhũng, tham ô, hối lộ có yếu tố nước ngoài (nguồn vốn từ nước ngoài
và người nước ngoài cùng phạm tội). Trong điều kiện đất nước hội nhập quốc
tếngày càng sâu rộng trên nhiều lĩnh vực, trong đó có đấu tranh phòng, chống
tham nhũng, để đấu tranh phòng, chống tội phạm có tính quốc tế đạt hiệu quả cao
thì nhu cầu hợp tác quốc tế trong lĩnh vực này trở thành vấn đề mang tính tất yếu,
phù hợp với xu thế chung của thời đại. Hợp tác quốc tế, giúp các cơ quan tiến
hành tố tụng có thể phát hiện tội phạm về tham nhũng qua các kênh thông tin của
các cơ quan, tổ chức chống tội phạm quốc tế, nhờ đó có thể nhanh chóng khám
phá các tổ chức tội phạm xuyên quốc gia. Hợp tác quốc tế cũng tạo ra cơ chế hợp
tác trong việc phát hiện, điều tra, xét xử các vụ án tham nhũng mang tính quốc tế,
giúp cho các cơ quan tiến hành tố tụng của nước ta tiết kiệm được kinh phí chi
cho hoạt động tố tụng mà còn tạo điều kiện để mở rộng điều tra các vụ án tham
nhũng phức tạp nhằm xử lý triệt để đối với loại tội phạm này. Đồng thời tạo ra cơ
hội cho các cơ quan tư pháp của Việt Nam hoà nhập, học hỏi kinh nghiệm của các
nước khác về công tác điều tra, truy tố, xét xử các vụ án tham nhũng để thực hiện
tốt chức năng, nhiệm vụ của mình. Do vậy, trong thời gian tới, để hợp tác quốc tế

23
trong tố tụng hình sự có hiệu quả, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh phòng,
chống tội phạm, cần thực hiện tốt một số giải pháp sau:
Đẩy mạnh, tăng cường, chủ động hội nhập quốc tế trong lĩnh vực phòng,
chống tham nhũng. Tăng cường tương trợ tư pháp, nhất là tư pháp hình sự để xử
lý hành vi tham nhũng có yếu tố nước ngoài và thu hồi tài sản tham nhũng. Triển
khai đầy đủ, có hiệu quả Kế hoạch thực hiện Công ước và Quy chế phối hợp thực
hiện Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng. Tổ chức nghiên cứu, học
tập, trao đổi để tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của các nước và các tổ chức quốc
tế trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng như nghiên cứu các quy định của
pháp luật về cơ cấu tổ chức, phương thức hoạt động và các biện pháp được áp
dụng trong đấu tranh phòng, chống tội phạm về tham nhũng của các nước. Trên
cơ sở đó tìm ra những bài học kinh nghiệm để vận dụng sửa đổi, bổ sung khung
pháp lý về pháp luật phòng chống tham nhũng của Việt Nam nhằm đảm bảo sự
phù hợp với pháp luật quốc tế, đặc biệt là Công ước của Liên Hợp Quốc về chống
tham nhũng và đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm ở Việt
Nam trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc. Tăng cường hợp tác
quốc tế về phòng, chống tham nhũng, tham gia, ký kết các hiệp định tương trợ tư
pháp song phương trong lĩnh vực hình sự có nội dung thu hồi tài sản tham nhũng
và dẫn độ tội phạm giữa Việt Nam với các nước nhằm tạo cơ sở pháp lý, cơ chế
phối hợp trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng có yếu tố nước ngoài. Khẩn
trương đàm phán, ký kết các Hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự với các nước
có nhiều người Việt Nam sinh sống như Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, Cộng hòa Liên
bang Đức, Cộng hòa Pháp,... đối với những nước mà Nhà nước ta đã ký Hiệp định
tương trợ tư pháp về hình sự, cần nghiên cứu đề xuất để kịp thời sửa đổi, bổ sung
cho phù hợp với tình hình mới ở Việt Nam. Tăng cường hợp tác quốc tế với các
quốc gia thường xuyên phát sinh nhu cầu tương trợ tư pháp nhưng chưa ký kết
Hiệp định để sớm tạo sự đồng thuận chung giữa hai nước; đẩy mạnh trao đổi, cung
cấp thông tin, chứng cứ, tài liệu để phát hiện, xử lý tội phạm về tham nhũng; đồng
thời tăng cường các hoạt động nghiên cứu, trao đổi kinh nghiệm và tương trợ tư
pháp trong phòng, chống tham nhũng trong quá trình triển khai thực hiện nhằm

24
đảm bảo các hoạt động hợp tác quốc tế phù hợp với đường lối chính sách của
Đảng và Nhà nước ta
Nhà nước ta cần đổi mới hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân đối với các
vụ án tham nhũng, tham ô tài sản, nhận hối lộ. Việc đổi mới hoạt động xét xử của
Tòa án nhân dân phải đáp ứng yêu cầu giải quyết vụ án các vụ án nói chung, các
vụ án về tham nhũng nói riêng thấu tình, đạt lý, chính xác, khách quan, kịp thời;
việc thực hiện các quy trình tố tụng vừa phải bảo đảm tính dân chủ, vừa phải bảo
đảm tính pháp chế, thể hiện quyền uy, tôn nghiêm khi phán xét, phân xử, thực sự
là hiện thân của công lý. Mặt khác, việc đổi mới hoạt động của Tòa án nhân dân
phải nhằm nâng cao sự tín nhiệm của nhân dân đối với hoạt động của cơ quan Tòa
án, sự gần gũi, tin yêu của nhân dân đối với Thẩm phán, cán bộ công chức của
ngành Tòa án nhân dân.Trong hoạt động xét xử của Tòa án, nguyên tắc khi xét xử
Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật là một nguyên tắc cơ
bản của hoạt động xét xử. Nguyên tắc này đã được ghi nhận trong Hiến pháp và
được cụ thể hóa trong nhiều quy định của BLTTHS. Tuy nhiên, trong thời gian
qua việc thực hiện nguyên tắc này chưa tốt, việc can thiệp vào hoạt động xét xử
của Thẩm phán và Hội thẩm diễn ra còn phổ biến, thậm chí có nơi nguyên tắc này
còn bị vi phạm nghiêm trọng. Kinh nghiệm chống tham nhũng của các nước cho
thấy rằng không thể chống tham nhũng hiệu quả nếu không có một hệ thống tư
pháp nói chung, hệ thống Tòa án nói riêng độc lập. Do vậy, phải sửa đổi, bổ sung
hoặc hủy bỏ những quy định của pháp luật không còn phù hợp để bảo đảm tính
độc lập của Thẩm phán và Hội thẩm trong hoạt động xét xử. Quán triệt những
người có thẩm quyền như Chánh án, Phó Chánh án, Ủy ban Thẩm phán và các
cấp ủy Đảng trong việc không can thiệp vào hoạt động xét xử của Hội đồng xét
xử. Đảng lãnh đạo bằng việc ban hành đường lối chính sách, giới thiệu nhân sự
vào những vị trí quan trọng chứ không làm thay và không can thiệp cụ thể vào
việc xét xử của Hội đồng xét xử trong từng vụ án cụ thể. Tách bạch hoạt động
quản lý với hoạt động tố tụng, lãnh đạo Tòa án và Tòa án cấp trên không can thiệp
vào hoạt động xét xử của Hội đồng xét xử, đặc biệt là không đánh giá chứng cứ
thay Hội đồng xét xử, không áp đặt mức án khi xét xử, đảm bảo tuyệt đối cho

25
Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Đồng thời, Tòa án các
cấp cần tăng cường sự phối hợp chặt chẽ với Cơ quan điều tra về Viện kiểm sát
để giải quyết dứt điểm các vụ án tham nhũng. Lãnh đạo các Tòa án cần cử Thẩm
phán có kinh nghiệm công tác, có năng lực chuyên môn tham gia tiếp cận hồ sơ
ngay từ giai đoạn điều tra, truy tố để nắm vững các tình tiết khách quan của vụ
án, bảo dảm cho việc xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Triển khai thực
hiện nghiêm túc Nghị quyết số 01/2013/NQ-HĐTP ngày 06/11/2013 của Hội
đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn Điều 60 BLHS về án treo,
nhất là việc áp dụng quy định này đối với các tội phạm về tham nhũng, nhằm bảo
đảm thực hiện đúng và thống nhất. Quá trình xử lý tội phạm về tham nhũng, phải
thực hiện nghiêm túc quy định tại khoản 4 Điều 4 Luật phòng, chống tham nhũng,
theo đó, xử lý nghiêm và không cho hưởng án treo đối với các bị cáo phạm tội
tham nhũng là người đứng đầu cơ quan, tổ chức và người phạm tội tham nhũng
mà không chủ động khai báo, không tích cực hạn chế thiệt hại, không tự giác nộp
lại tài sản… Tăng cường công tác giám đốc, kiểm tra việc xét xử của Tòa án cấp
trên đối với Tòa án cấp dưới, kịp thời phát hiện và khắc phục đối với các sai sót
về chuyên môn, nghiệp vụ trong quá trình giải quyết vụ án, trong đó có việc cho
hưởng án treo không đúng quy định của pháp luật. Đối với Thẩm phán để vụ án
tham nhũng quá thời hạn xét xử hoặc cho bị cáo được hưởng án treo không đúng
quy định của pháp luật, cần được xem xét, đánh giá nguyên nhân, mức độ lỗi,
nhằm xác định rõ trách nhiệm và có biện pháp xử lý nghiêm khắc. Đối với người
đứng đầu cơ quan nếu để vụ án tham nhũng quá thời hạn xét xử theo quy định của
pháp luật thì tùy theo mức độ lỗi để xem xét trách nhiệm và xử lý kỷ luật.

26
E. KẾT LUẬN
Trong Bộ Luật Hình Sự năm 1999, tội tham ô tài sản là tội danh được ghi
nhận ngay ở vị trí đầu tiên trong Chương các tội phạm về chức vụ, cùng với thực
tiễn thời gian qua tội phạm tham ô được phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử luôn
chiếm tỷ lệ cao nhất trong các tội phạm tham nhũng đã chứng tỏ mức độ nghiêm
trọng của loại tội phạm này.
Trên cơ sở đánh giá thực trạng áp dụng theo pháp luật và phân tích ra những
tồn tại, vướng mắc trong quá trình áp dụng quy định về tội tham ô trong điều tra,
truy tố, xét xử giai đoạn 2002-2007, đề tài đã nghiên cứu đề xuất một số kiến nghị
nhằm hoàn thiện pháp luật về tội tham ô tài sản trong Bộ Luật Hình Sự và pháp
luật về quản lý tài sản Nhà nước trong quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp:
Thứ nhất, kiến nghị sửa đổi cấu trúc của điều luật 278 BLHS;
Thứ hai, kiến nghị ban hành văn bản hướng dẫn áp dụng Điều 278 Chương
XXI Bộ luật hình sự năm 1999.
Thứ ba, kiến nghị nâng cao hiệu quả quy định của pháp luật về quản lý tài
sản nhà nước trong phạm vi cổ phần hóa doanh nghiệp.
Những kết quả của luận văn đã thể hiện sự nỗ lực của bản thân cũng như
sự giúp đỡ tận tình của các thầy cô giáo, gia đình và bạn bè, đồng nghiệp. Tuy
nhiên, do điều kiện nghiên cứu và khả năng của bản thân có hạn, chắc chắn luận
văn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót nhất định, tác giả luận văn rất mong được
sự tiếp tục chỉ dẫn của các thầy cô, của bạn bè để luận văn có nội dung hoàn thiện
hơn.

27
F. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hoàng Kỳ Anh, Viện KSND huyện Hữu Lũng, “Xét xử vụ án tham ô tại huyện
Hữu Lũng”, 21-10-2021, Tổng biên tập.
https://huulung.langson.gov.vn/xet-xu-vu-tham-o-tai-san-tai-huyen-huu-lung
2. Luật sư Trần và Liên Danh, “Phân tích tội tham ô tài sản”
https://luatsutran.vn/phan-tich-toi-tham-o-tai-san
3. Lê Xuân Lịch, Nguyên Phó Vụ trưởng, Ban Tổ chức Trung ương, “Thực trạng
và kết quả phòng chống tham nhũng ở Việt Nam”,11-08-2022.
https://www.bqllang.gov.vn/tin-tuc/tin-tong-hop/12523-bai-2-tinh-hinh-tham-
nhung-o-viet-nam.html
4. Ths.Nguyễn Thị Tuyết Nga, Lê Văn Hợp, “Những vấn đề cơ bản của Pháp
luật đại cương”,2020, NXB ĐHQG
5. Lương Tri Thức, “Một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống
tham nhũng” ,23-01-2022.
https://tiengiang.gov.vn/chi-tiet-tin/?/mot-so-giai-phap-nang-cao-hieu-qua-cong-
tac-phong-chong-tham-nhung/36084577
6. Ths.Lại Sơn Tùng, “Trần Đình A phạm tội tham ô tài sản”,20-04-2022, TAND
tỉnh Gia Lai xét xử vụ án hình sự.
https://tapchitoaan.vn/tran-dinh-a-pham-toi-tham-o-tai-san6206.html
7. Lê Minh Toàn, “Pháp luật đại cương”,2010, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
8. Lê Tú, “Nhìn lại những đại án của năm 2021”,2021, NXB Thời sự VOV
https://special.nhandan.vn/daian2021/index.html
9. Đại học Luật Hà Nội, “Lý luận Nhà nước và Pháp luật”, 2005, NXB Tư pháp
10. Bộ giáo dục và Đào tạo, “Giáo trình Pháp luật đại cương”, 2015, NXB Sư
phạm.

28

You might also like