You are on page 1of 26

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN

KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ


-------------------------

TIỂU LUẬN
KINH TẾ CHÍNH TRỊ

Đề tài: LÝ LUẬN GIÁ TRỊ THẶNG DƯ VÀ SỰ VẬN


DỤNG VÀO CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ
CỦA VIỆT NAM

Sinh viên: LÊ HƯƠNG GIANG


Mã số sinh viên: 2156160058
Hà Nội, tháng 1 năm 2022

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN


KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
------------------------

TIỂU LUẬN
KINH TẾ CHÍNH TRỊ

Đề tài: LÝ LUẬN GIÁ TRỊ THẶNG DƯ VÀ SỰ VẬN DỤNG


VÀO CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ CỦA VIỆT NAM

Sinh viên: LÊ HƯƠNG GIANG


Lớp: TRUYỀN THÔNG MARKETING A2
Giáo viên hướng dẫn: TRẦN THỊ NGỌC MINH
Hà Nội, tháng 1 năm 2022
MỤC LỤC

MỞ ĐẦU...............................................................................................................1
1. Lí do chọn đề tài.........................................................................................................................1
2. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu..................................................................................................2
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu..................................................................................................2
4. Phương pháp nghiên cứu...........................................................................................................2
5. Kết cấu đề tài..............................................................................................................................2
NỘI DUNG...........................................................................................................4
Chương 1. Giới thiệu chung về lý luận giá trị thặng dư của C.Mác...................................................4
Chương 2. Nội dung lý luận của Mác về giá trị thặng dư...................................................................5
1. Nguồn gốc của giá trị thặng dư...............................................................................................5
1.1. Công thức chung của tư bản..................................................................................5
1.2. Hàng hoá sức lao động...........................................................................................6
1.3. Sự sản xuất giá trị thặng dư...................................................................................7
1.4. Tư bản bất biến và tư bản khả biến........................................................................8
2. Bản chất của giá trị thặng dư..................................................................................................9
3. Các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư...........................................................................9
3.1. Sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối.........................................................................9
3.2. Sản xuất giá trị thặng dư tương đối.....................................................................10
3.3. Giá trị thặng dư siêu ngạch..................................................................................10
Chương 3. Sự vận dụng lý luận giá trị thặng dư vào chính sách phát triển kinh tế của Việt Nam. 11
Chương 4. Hướng phát triển của lý luận giá trị thặng dư trong bối cảnh mới...............................17
KẾT LUẬN.........................................................................................................20
TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................................21
LÝ LUẬN GIÁ TRỊ THẶNG DƯ CỦA MÁC VÀ SỰ VẬN DỤNG
VÀO CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ CỦA VIỆT NAM
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Kinh tế chính trị Mác - Lênin có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển
của đời sống xã hội. Trong quá trình phát triển đất nước hiện nay, yêu cầu
học tập, nghiên cứu của bộ môn kinh tế chính trị Mác - Lê-nin được chú trọng
hơn, góp phần quan trọng khắc phục tình trạng lý luận kinh tế lạc hậu, chủ
nghĩa giáo điều, lý luận xa rời, chủ nghĩa tách biệt lý thuyết và cuộc sống. Sự
hình thành tư duy kinh tế mới. Trong điều kiện xây dựng và phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, loại hình kinh tế
này luôn gắn với những phạm trù và quy luật kinh tế nhất định. Trong đó có
phạm trù giá trị thặng dư hay nói cách khác là sự tồn tại của giá trị thặng dư
là một nhân tố khách quan tất yếu của Việt Nam khi Việt Nam chuyển sang
nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, hiện nay nước ta đang
thực hiện nền kinh tế thị trường nhiều thành phần định hướng xã hội chủ
nghĩa. Tuy nhiên, ở một mức độ nhất định, thành kiến đối với một số thành
phần kinh tế như khu vực kinh tế tư nhân và các nhà tư bản vẫn tồn tại và coi
các thành phần kinh tế này là chế độ bóc lột. Quan điểm này không chỉ xảy ra
đối với một số cán bộ, đảng viên cao cấp làm công tác quản lý trong bộ máy
nhà nước mà cả những người trực tiếp làm kinh tế tư nhân ở nước ta hiện nay.
Theo lý luận của Mác, vấn đề bóc lột liên quan trực tiếp đến giá trị thặng dư.
Vì vậy, việc nghiên cứu, tìm hiểu chất lượng và lượng giá trị thặng dư sẽ giúp
chúng ta nhận thức đúng đắn về con đường xây dựng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam mà Đảng và Nhà nước ta đã lựa chọn. Tổng hợp những điều đã học, bài
tiểu luận của em sẽ nêu nội dung cơ bản của “giá trị thặng dư”, cũng như một
số ý nghĩa thực tiễn có được khi nghiên cứu vấn đề. Ngoài ra, cũng có một số
ý kiến cho việc vận dụng giá trị thặng dư trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa của nước ta.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu
Với việc nghiên cứu đề tài tiểu luận “Lý luận giá trị thặng dư của Mác và
sự vận dụng vào chính sách phát triển kinh tế của Việt Nam” nhằm đạt
những mục đích sau:
- Đối với cá nhân:
+ Củng cố kiến thức và nâng cao tầm nhìn về môn kinh tế chính trị.
+ Rèn luyện kỹ năng nghiên cứu khoa học dựa trên việc nghiên cứu và
tham khảo nhiều nguồn tài liệu khác nhau.
- Đối với nội dung đề tài:
+ Cung cấp những kiến thức khách quan, cơ bản nhất về giá trị thặng
dư.
+ Nghiên cứu, tìm ra những hướng phát triển mới của lý luận giá trị
thặng dư đối với nền kinh tế nước ta.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: lý luận giá trị thặng dư của C.Mác và sự vận
dụng vào chính sách phát triển kinh tế của Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứu: sự vận dụng lý luận giá trị thặng dư ở nước ta
trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp phân tích nội dung, tổng hợp tài liệu, nghiên cứu, phân tích
tài liệu.
5. Kết cấu đề tài
Tiểu luận gồm phần mở đầu, nội dung, kết luận và danh mục tài liệu tham
khảo. Tên của các chương nội dung cụ thể như sau:
Chương 1: Giới thiệu chung về lý luận giá trị thặng dư của C.Mác
Chương 2: Nội dung lý luận của Mác về giá trị thặng dư
Chương 3: Sự vận dụng lý luận giá trị thặng dư vào chính sách phát triển kinh
tế của Việt Nam
Chương 4: Hướng phát triển của lý luận giá trị thặng dư trong bối cảnh mới
NỘI DUNG

Chương 1. Giới thiệu chung về lý luận giá trị thặng dư của C.Mác
Học thuyết giá trị thặng dư là học thuyết khoa học và cách mạng được ra đời ở
thế kỷ XIX, được coi là hòn “đá tảng” trong Bộ “Tư bản”, C.Mác vạch rõ nguồn
gốc, bản chất của giá trị thặng dư là phần dôi ra ngoài giá trị sức lao động của
người công nhân bị nhà tư bản chiếm. Vì vậy, Người khẳng định: sứ mệnh lịch
sử giai cấp công nhân là tiến hành cuộc đấu tranh giai cấp, xóa bỏ chế độ người
bóc người, xóa bỏ chủ nghĩa tư bản, xây dựng chủ nghĩa cộng sản mà giai đoạn
thấp là chủ nghĩa xã hội. Học thuyết giá trị thặng dư được hình thành trên cơ sở
học thuyết giá trị lao động mà trực tiếp là việc phát hiện ra tính chất hai mặt của
lao động sản xuất hàng hóa gồm: Lao động cụ thể và lao động trừu tượng. Việc
phát hiện ra tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa có ý nghĩa to lớn
về mặt lý luận; nó đem đến cho lý thuyết giá trị lao động một cơ sở khoa học
thực sự. Các nhà kinh tế trước C.Mác thấy được lao động tạo ra giá trị, nhưng
không tách ra được lao động cụ thể hay trừu tượng tạo ra giá trị. Chỉ đến C.Mác
mới cho thấy rõ rằng, chỉ có lao động trừu tượng mới tạo ra giá trị của hàng hóa;
đặc biệt là tìm ra được trên thị trường một loại hàng hóa đặc biệt – hàng hóa sức
lao động – và việc sử dụng hàng hóa sức lao động có thể tạo ra được giá trị lớn
hơn giá trị bản thân nó, chính là chìa khóa để giải quyết mâu thuẫn của công thức
chung của tư bản (T-H-T’). Tất cả thành quả đó, tạo nên cơ sở khoa học vững
chắc giúp C.Mác giải thích được nguồn gốc thực sự và quá trình vận động, biến
đổi của giá trị thặng dư, thành lợi nhuận, lợi tức, địa tô trong sản xuất, lưu thông,
phân phối; giúp phân tích được bản chất của tư bản bất biến và tư bản khả biến…
xây dựng nên học thuyết khoa học về giá trị thặng dư, về tích lũy, về tái sản xuất
và khủng hoảng kinh tế...
Chương 2. Nội dung lý luận của Mác về giá trị thặng dư
1. Nguồn gốc của giá trị thặng dư
1.1. Công thức chung của tư bản
Giá trị thặng dư của C.Mác được trình bày chủ yếu trong tác phẩm “Tư bản”
có nội dung vô cùng rộng lớn bao gồm sự luận giải khoa học sâu sắc về
những điều kiện căn bản để hình thành các quy luật vận động xu hướng phát
triển của nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, trong đó những vấn đề quan
trọng hàng đầu là nguồn gốc và bản chất của giá trị thặng dư. Tiền là sản vật
cuối cùng của lưu thông hàng hoá, đồng thời là hình thái xuất hiện đầu tiên
của tư bản. Tiền trong lưu thông hàng hóa giản đơn vận động theo công thức:
H - T - H. Tiền trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa vận động theo công thức:
T - H - T’.
Điểm giống nhau của hai công thức lưu thông nói trên là đều cấu thành bởi
hai yếu tố hàng và tiền; đều chứa đựng hai hành vi đối lập nhau là mua và
bán; đều biểu hiện quan hệ kinh tế giữa người mua và người bán.
Điểm khác nhau giữa hai công thức đó là: Lưu thông hàng hóa giản đơn bắt
đầu bằng hành vi bán (H - T) và kết thúc bằng hành vi mua (T - H); điểm xuất
phát và điểm kết thúc đều là hàng hóa, tiền chỉ đóng vai trò trung gian, mục
đích là giá trị sử dụng. Ngược lại, lưu thông của tư bản bắt đầu bằng hành vi
mua (T - H) và kết thúc bằng hành vi bán (H - T’); tiền vừa là điểm xuất phát,
vừa là điểm kết thúc, còn hàng hóa đóng vai trò trung gian...Mục đích của lưu
thông tư bản là giá trị, và giá trị lớn hơn. Tư bản vận động theo công thức T-
H-T’, trong đó T’ = T + ∆T; ∆T là số tiền trội hơn được gọi là giá trị thặng dư
và ký hiệu bằng m. Còn số tiền ứng ra ban đầu với mục đích thu được giá trị
thặng dư trở thành tư bản. Như vậy, tiền chỉ biến thành tư bản khi được dùng
để mang lại giá trị thặng dư cho nhà tư bản. Công thức: T – H – T’ với T’ = T
+m
Được gọi là công thức chung của tư bản. Mọi tư bản đều vận động như vậy
nhằm mục đích mang lại giá trị thặng dư. Như vậy, tư bản là tiền tự lớn lên
hay giá trị sinh ra giá trị thặng dư.
Thoạt nhìn, hình như giá trị thặng dư sinh ra trong lưu thông. Nếu mua - bán
ngang giá thì chỉ có sự thay đổi hình thái của giá trị: từ tiền thành hàng hoặc
từ hàng thành tiền. Còn tổng số giá trị trong tay mỗi người tham gia trao đổi
trước sau vẫn không thay đổi. Trong trường hợp trao đổi không ngang giá,
hàng hóa có thể bán cao hơn hoặc thấp hơn giá trị. Nhưng, trong nền kinh tế
hàng hóa, mỗi người sản xuất đều vừa là người bán, vừa là người mua. Cái
lợi mà họ thu được khi bán sẽ bù lại cái thiệt khi mua hoặc ngược lại. Trong
trường hợp có những kẻ chuyên mua rẻ, bán đắt thì tổng giá trị toàn xã hội
cũng không hề tăng lên, bởi vì số giá trị mà những người này thu được chẳng
qua chỉ là sự ăn chặn, đánh cắp số giá trị của người khác mà thôi. Như vậy
lưu thông và bản thân tiền tệ trong lưu thông không hề tạo ra giá trị. Nhưng
nếu người có tiền không tiếp xúc gì với lưu thông, tức là đứng ngoài lưu
thông thì cũng không thể làm cho tiền của mình lớn lên được.
"Vậy là tư bản không thể xuất hiện từ lưu thông và cũng không thể xuất hiện
ở bên ngoài lưu thông. Nó phải xuất hiện trong lưu thông và đồng thời không
phải trong lưu thông". Đó là mâu thuẫn của công thức chung của tư bản.
C.Mác là người đầu tiên phân tích và giải quyết mâu thuẫn đó bằng lý luận về
hàng hóa sức lao động.
1.2. Hàng hoá sức lao động
C.Mác đã tìm ra câu trả lời đó chính là hàng hoá sức lao động. Sức lao động
là toàn bộ năng lực thể chất và tinh thần tồn tại trong cơ thể và được con
người đem ra vận dụng mỗi khi sản xuất một giá trị sử dụng nào đó. Điều
kiện để biến sức lao động thành hàng hoá đó chính là người lao động được tự
do về thân thể và người lao động không có đủ tư liệu sản xuất cần thiết để tự
mình đứng ra tổ chức sản xuất nên muốn sống chỉ còn cách bán sức lao động
cho người khác sử dụng.
Giống như mọi hàng hóa khác, hàng hóa sức lao động cũng có hai thuộc tính:
giá trị và giá trị sử dụng. Giá trị hàng hoá sức lao động cũng do thời gian lao
động xã hội cần thiết để sản xuất ra và tái sản xuất ra sức lao động gồm giá trị
tư liệu sinh hoạt cần thiết để tái sản xuất sức lao động và nuôi con người lao
động, chi phí đào tạo người lao động. Còn giá trị sử dụng hàng hoá sức lao
động là năng lực lao động của con người (thể hiện ra khi tiêu dùng trong quá
trình lao động). Giá trị sử dụng hàng hoá sức lao động là giá trị sử dụng đặc
biệt vì trong quá trình tiêu dùng, giá trị sử dụng không mất đi mà còn có khả
năng tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị sức lao động (giá trị thặng dư).
1.3. Sự sản xuất giá trị thặng dư
Mục đích của nhà tư bản ứng ra một số tiền mua tư liệu sản xuất và sức lao
động là để tạo ra giá trị thặng dư. Quá trình nhà tư bản tiêu dùng hàng hóa
sức lao động và tư liệu sản xuất để sản xuất giá trị thặng dư có hai đặc điểm:
một là, công nhân làm việc dưới sự kiểm soát của nhà tư bản; hai là, sản
phẩm làm ra thuộc sở hữu của nhà tư bản. Ví dụ quá trình sản xuất giá trị
thặng dư: Giả sử sản xuất giá trị thặng dư được thực hiện dưới hình thái sản
xuất cụ thể là sản xuất sợi. Để tiến hành sản xuất sợi, nhà tư bản phải ứng ra
số tiền là 20USD để mua 1 kg bông, 3USD chi phí hao mòn máy móc để kéo
1 kg bông thành sợi, 5USD mua hàng hoá sức lao động để sử dụng trong 1
ngày làm việc 8 giờ. Tổng cộng mất 28USD. Trong quá trình sản xuất sợi,
bằng lao động cụ thể, người công nhân kéo bông thành sợi, theo đó giá trị của
bông và hao mòn máy móc được chuyển vào giá trị của sợi; bằng lao động
trừu tượng người công nhân tạo ra giá trị mới, giả định, trong 4 giờ lao động
công nhân đã chuyển toàn bộ 1 kg bông thành sợi. Giá trị sợi gồm:
Giá trị 1kg bông chuyển vào: 20USD
Hao mòn máy móc: 3USD
Giá trị mới bằng giá trị sức lao động: 5USD
Tổng cộng: 28 USD
Nhà tư bản ứng ra 28USD, bán sợi thu về 28USD. Nếu quá trình lao động
dừng lại tại điểm này thì không có giá trị thặng dư, tiền ứng ra chưa trở thành
tư bản. Do đó, để có giá trị thặng dư thời gian lao động phải vượt quá cái
điểm bù lại giá trị sức lao động. Nhà tư bản mua sức lao động của công nhân
để sử dụng trong 8 giờ chứ không phải 4 giờ. Công nhân phải tiếp tục làm
việc trong 4 giờ nữa, nhà tư bản chỉ phải tốn thêm 20USD để mua 1 kg bông
và 3USD hao mòn máy móc. Quá trình lao động 4 giờ sau diễn ra như quá
trình đầu. Số sợi được tạo ra trong 4 giờ lao động sau cũng có giá trị 28USD.
Tổng cộng, nhà tư bản ứng ra 40USD + 6USD + 5USD = 51USD, trong khi
đó số sợi sản xuất ra có giá trị 56USD. Do đó, nhà tư bản thu được lượng giá
trị thặng dư là 56USD - 51USD = 5USD.
Như vậy, giá trị thặng dư là một bộ phận của giá trị mới dôi ra ngoài giá trị
sức lao động do công nhân làm thuê tạo ra và bị nhà tư bản chiếm không. C.
Mác viết: "Bí quyết của sự tự tăng thêm giá trị của tư bản quy lại là ở chỗ tư
bản chi phối được một số lượng lao động không công nhất định của người
khác". Việc nhà tư bản chiếm đoạt giá trị thặng dư do quá trình sản xuất tư
bản chủ nghĩa tạo ra gọi là bóc lột giá trị thặng dư.
1.4. Tư bản bất biến và tư bản khả biến
Trong quá trình sản xuất, giá trị của tư liệu sản xuất được lao động cụ thể của
người công nhân chuyển vào sản phẩm mới, và lượng giá trị của chúng không
đổi so với trước khi đưa vào sản xuất. Bộ phận tư bản này được gọi là tư bản
bất biến, ký hiệu là c.
Bộ phận tư bản dùng để mua sức lao động thì lại khác. Một mặt, giá trị của nó
biến thành các tư liệu sinh hoạt của người công nhân và biến đi trong tiêu
dùng của công nhân. Mặt khác, trong quá trình sản xuất, bằng lao động trừu
tượng, người công nhân tạo ra giá trị mới không những đủ bù đắp sức lao
động của mình, mà còn có giá trị thặng dư cho nhà tư bản. Do vậy, bộ phận tư
bản dùng để mua sức lao động đã có sự biến đổi về lượng trong quá trình sản
xuất. Bộ phận tư bản này được gọi là tư bản khả biến, ký hiệu là v.
Như vậy, tư bản bất biến là điều kiện cần thiết không thể thiếu được để sản
xuất ra giá trị thặng dư, còn tư bản khả biến có vai trò quyết định ttrong quá
trình đó, vì nó chính là bộ phận tư bản đã lớn lên.
2. Bản chất của giá trị thặng dư
Giá trị thặng dư là kết quả của sự hao phí sức lao động trong sự thống nhất
của quá trình tạo ra và làm tăng giá trị. Nếu giả định xã hội chỉ có hai giai
cấp: giai cấp tư sản và giai cấp công nhân thì giá trị thặng dư mang bản chất
kinh tế - xã hội là quan hệ giai cấp – quan hệ bóc lột. Giá trị thặng dư được
tạo ra bằng lao động sống chứ không phải do máy móc sinh ra.
Thước đo để đo lường giá trị thặng dư về lượng:
m
- Tỉ suất giá trị thặng dư: m’ = v x 100%

t'
m’ = x 100%
t
- Khối lượng giá trị thặng dư: M = m’ . V
3. Các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư
3.1. Sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối
Giá trị thặng dư tuyệt đối là giá trị thặng dư thu được do kéo dài thời gian lao
động vượt quá thời gian lao động tất yếu, trong khi năng suất lao động, giá trị
sức lao động và thời gian lao động tất yếu không thay đổi. Cần hạn chế
phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối. Thời gian lao động không
thể kéo dài vượt quá ngày tự nhiên. Do giới hạn về thể chất và tinh thần của
người lao động, cần có thời gian để tái tạo sức lao động.
3.2. Sản xuất giá trị thặng dư tương đối
Giá trị thặng dư tương đối là giá trị thặng dư thu được do rút ngắn thời gian
lao động tất yếu bằng cách nâng cao năng suất lao động trong ngành sản xuất
ra tư liệu sinh hoạt để hạ thấp giá trị sức lao động, nhờ đó tăng thời gian lao
động thặng dư lên ngay trong điều kiện độ dài ngày lao động, cường độ lao
động vẫn như cũ.
Thí dụ, ngày lao động là 10 giờ, trong đó 5 giờ là lao động tất yếu, 5 giờ là
lao động thặng dư. Nếu giá trị sức lao động giảm đi 1 giờ thì thời gian lao
động tất yếu xuống còn 4 giờ. Do đó, thời gian lao động thặng dư tăng từ 5
giờ lên 6 giờ và m' tăng từ 100% lên 150%.
Để hạ thấp giá trị sức lao động thì phải giảm giá trị các tư liệu sinh hoạt và
dịch vụ cần thiết cho người công nhân. Muốn vậy phải tăng năng suất lao
động xã hội trong các ngành sản xuất tư liệu tiêu dùng và các ngành sản xuất
tư liệu sản xuất để trang bị cho ngành sản xuất ra các tư liệu tiêu dùng.
3.3. Giá trị thặng dư siêu ngạch
Giá trị thặng dư siêu ngạch là phần giá trị thặng dư thu được do áp dụng công
nghệ mới sớm hơn các xí nghiệp khác làm cho giá trị cá biệt của hàng hóa
thấp hơn giá trị thị trường của nó. Như thế nhà tư bản chỉ phải bỏ ra ít chi phí
hơn các nhà tư bản khác mà vẫn bán được với giá như các nhà tư bản khác, từ
đó thu được giá trị thặng dư cao hơn. Khi số đông các xí nghiệp đều đổi mới
kỹ thuật và công nghệ một cách phổ biến thì giá trị thặng dư siêu ngạch của
doanh nghiệp đó sẽ không còn nữa. Giá trị thặng dư siêu ngạch là động lực
mạnh nhất để thúc đẩy các nhà tư bản đổi mới công nghệ để tăng năng suất
lao động cá biệt, đánh bại đối thủ của mình trong cạnh tranh. C.Mác gọi giá
trị thặng dư siêu ngạch là hình thức biến tướng của giá trị thặng dư tương đối.

Chương 3. Sự vận dụng lý luận giá trị thặng dư vào chính sách
phát triển kinh tế của Việt Nam
Học thuyết giá trị thặng dư của Mác ra đời trên cơ sở nghiên cứu phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Học thuyết đó đã vạch trần thực chất bóc lột tư
bản chủ nghĩa cội nguồn đối lập kinh tế giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản,
vũ trang cho giai cấp vô sản lý luận cách mạng sắc bén trong cuộc đấu tranh
chống chủ nghĩa tư bản. Song, ý nghĩa thực tiễn của học thuyết giá trị thặng dư
không dừng ở đó. Ngày nay, từ quan điểm đổi mới về chủ nghĩa xã hội, học
thuyết này còn có ý nghĩa quan trọng trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Việc vận dụng học thuyết giá trị thặng dư là một yêu cầu quan trọng và cần thiết,
có nhiều nội dung cần được nghiên cứu, vận dụng để đảm bảo tính khoa học, phù
hợp với thực tiễn ở Việt Nam.
Đối với quá trình phát triển nền kinh tế quốc dân của nước ta, việc nghiên
cứu sản xuất giá trị thặng dư gợi mở cho các nhà hoạch định chính sách phương
thức làm tăng của cải, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Trong điều kiện điểm xuất
phát của nước ta còn thấp, để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, cần tận dụng triệt để
các nguồn lực, nhất là lao động và sản xuất kinh doanh. Về cơ bản lâu dài, cần
phải coi trọng việc tăng năng suất lao động xã hội, coi đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân là là giải pháp cơ bản để tăng năng suất
lao động xã hội, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Sau ngày đất nước giành được độc lập, Đảng và Nhà nước ta đã nhận định
rằng: con đường duy nhất để đưa nước ta phát triển là đưa nước ta trở thành một
nước có nền kinh tế hiện đại, để làm được điều đó trước hết chúng ta phải tiến
hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá thì mới từng bước đưa nước ta trở thành một
nước công nghiệp hiện đại. Trước thời kỳ đổi mới năm 1986 do vận dụng không
hợp lý những nguyên tắc trong từng thời kỳ khác nhau của đất nước, nên chúng
ta đã gặp rất nhiều khó khăn trong quá trình xây dựng đất nước. Nhưng từ khi
đất nước bước vào thời kỳ đổi mới, bắt đầu từ Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
VI và đến Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII Đảng ta đã có quan điểm: “mở
rộng và tăng cường hợp tác phát triển với các nước, các tổ chức quốc tế cho phép
chúng ta đẩy tới một bước công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
nhằm tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động, đẩy nhanh tốc độ phát triển
kinh tế, từng bước cải thiện đời sống vật chất tinh thần của nhân dân. Công
nghiệp hoá, hiện đại hoá là con đường thoát khỏi tụt hậu xa hơn so với các nước
xung quanh, giữ được ổn định chính trị và xã hội, bảo vệ được độc lập, chủ
quyền và định hướng phát triển xã hội chủ nghĩa”.
Đến Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Đảng ta chỉ rõ: “Đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển nền kinh tế tri thức, phấn đấu
sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”. Và
gần đây, Đảng ta đã ban hành Nghị quyết số 23-NQ/TW, ngày 22/3/2018 về định
hướng xây dựng chính sách phát triển công nghiệp quốc gia đến năm 2030. Đảng
ta xác định: Đến năm 2030, Việt Nam hoàn thành mục tiêu công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại; thuộc
nhóm 3 nước dẫn đầu khu vực ASEAN về công nghiệp, trong đó một số ngành
công nghiệp có sức cạnh tranh quốc tế và tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu.
Tầm nhìn đến năm 2045, Việt Nam trở thành nước công nghiệp phát triển hiện
đại. Vì vậy, trong giai đoạn hiện nay đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
gắn với việc nghiên cứu hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư của C.Mác có
ý nghĩa lý luận và thực tiễn vô cùng to lớn.
Giá trị thặng dư là do lao động không công của công nhân lao động làm
thuê tạo ra, là mục đích, kết quả hoạt động của tư bản, của giai cấp tư sản. Trong
xã hội xã hội chủ nghĩa, việc bóc lột sức lao động không công của người công
nhân không còn nữa, nhưng không có nghĩa là giá trị thặng dư không tồn tại, mà
giá trị thặng dư được sử dụng vào mục đích khác không giống như giai cấp tư
sản, đó là giá trị thặng dư thu được là cơ sở, tiền đề để xây dựng đất nước, xây
dựng chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, vì mục đích phát triển xã hội chủ
nghĩa, vì con người. Không tách ra khỏi xu hướng của xã hội, Việt Nam vận
dụng các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư vào trong công cuộc xây dựng
đất nước, trong đó tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá là một nhiệm vụ hàng
đầu, đây cũng là một quy luật đặc biệt của quá trình phát triển kinh tế mỗi quốc
gia.
Một là, làm rõ hơn bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản ngay trong thành
phần kinh tế tư nhân ở nước ta hiện nay. Qua nghiên cứu lý luận về giá trị thặng
dư, chúng ta phải khẳng định rằng của cải của nhà tư bản là kết quả của quá trình
bóc lột giá trị thặng dư. Có người cho rằng nhà tư bản thu được nhiều lợi nhuận
nhờ quản lý tư bản và lao động khoa học công nghệ. Trên thực tế, trong những
ngày đầu của chủ nghĩa tư bản, nhiều nhà tư bản đồng thời là giám đốc, thậm chí
là cán bộ khoa học kỹ thuật. Các chức năng quản lý và khoa học công nghệ đó
thuộc phạm trù lao động, không thuộc phạm trù tư bản. Nếu nhà tư bản kiểm tra
đồng thời chức năng quản lý và công nghệ, thì thu nhập của nhà tư bản sẽ bao
gồm giá trị mới do quản lý và lao động kỹ thuật tạo ra cộng với giá trị thặng dư
do nhà tư bản nắm giữ, phải trả giá trị đó.
Ở Việt Nam hiện nay thiết chế pháp lý về nguyên tắc phân chia số tiền dôi
ra này không diễn ra như trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa mà phải
phù hợp với tính chất định hướng xã hội chủ nghĩa. Như vậy, ở đây phải chăng
nội hàm của khái niệm “bóc lột” mà Mác đã từng nói về kinh tế tư bản chủ nghĩa
đã bị tha hóa? Và một khi nội hàm của một khái niệm đã bị tha hóa thì nên chăng
là hãy đặt cho khái niệm ấy một tên gọi khác, chẳng hạn như thay cái tên “bóc
lột” bằng tên gọi “hưởng thụ thực lãi”. Hưởng thụ thực lãi từ sự phân chia lãi
theo những nguyên tắc mang tính định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam chứ
không phải là nhận lãi theo kiểu bóc lột trong kinh tế tư bản chủ nghĩa. Trong
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam, nếu ấn định
được nguyên tắc phân chia lại giá trị thặng dư như đã nói ở trên, tức là phân chia
công bằng, đồng thuận từ mọi phía thì cuộc đấu tranh giành giật giá trị thặng dư
tuyệt đối, giá trị thặng dư tương đối và giá trị thặng dư siêu ngạch theo kiểu như
dưới chế độ tư bản chủ nghĩa tất yếu sẽ tự thủ tiêu. Bởi vì số của cải dôi ra do
kéo dài và rút ngắn thời gian lao động cần thiết để hoàn thành từng sản phẩm;
nhờ biết áp dụng kỹ thuật mới, phương pháp tổ chức sản xuất hoàn thiện hơn và
ứng dụng công nghệ tiến bộ... không phải bị nhà tư bản chiếm đoạt hết mà được
phân chia cho mọi thành viên trong cơ sở sản xuất theo tỷ lệ thỏa thuận. Như
vậy, khi quy mô kinh doanh ngày càng lớn, nhà tư bản đã hiện rõ sự bóc lột của
mình đó là có một khoản lợi nhuận lớn nhưng không phải bỏ sức lao động mới
có được mà chỉ cần là người sở hữu tư bản.
Hai là, khai thác di sản của Mác nói về quá trình tổ chức sản xuất và tái
sản xuất tư bản chủ nghĩa với tính cách là một nền sản xuất lớn gắn với quá trình
xã hội hoá sản xuất ngày càng cao nhằm tạo ra khối lượng giá trị thặng dư ngày
càng lớn. Trên cơ sở những gì được coi là tất yếu của quá trình lịch sử tự nhiên,
đặc biệt là về mặt tổ chức - kinh tế, vận dụng vào nền kinh tế nước ta thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội nhằm thúc đẩy nhanh quá trình xã hội hoá theo định
hướng xã hội chủ nghĩa từ một nền sản xuất nhỏ tiến lên sản xuất lớn, hiện đại
sản xuất ra ngày càng nhiều giá trị thặng dư để thực hiện nhiệm vụ trung tâm của
thời kỳ quá độ là công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế nhằm không ngừng
nâng cao đời sống vật chất tinh thần của người lao động.
Tại Hội thảo “Vai trò của doanh nghiệp trong phát triển kinh tế tri thức ở
Việt Nam” (Hà Nội, ngày 31/3/2015) các nhà nghiên cứu đã khẳng định: “Việt
Nam cần ưu tiên phát triển nền kinh tế tri thức như một điều kiện sống còn trong
thế giới đang vận động rất mau lẹ. Kinh tế tri thức còn là điều kiện để Việt Nam
tồn tại, cạnh tranh và thoát khỏi cái rốn nghèo của khu vực vốn đeo đuổi bấy lâu.
Việt Nam chưa có nền kinh tế tri thức hay cụ thể hơn là chỉ một vài doanh
nghiệp, ngành đã và đang đi sâu vào kinh tế tri thức bằng cách đi tắt đón đầu và
ngang bằng với trình độ của thế giới, như: điện tử viễn thông, hóa dược và vật
liệu xây dựng”.
Trong quá trình đổi mới của Việt Nam đã từng bước hình thành tư duy
mới về học thuyết giá trị thă ̣ng dư. Tuy nhiên, cho đến nay, nhiều vấn đề thực
tiễn lớn, căn cốt xuất hiê ̣n nhưng chưa tìm được câu trả lời thỏa đáng về lý
thuyết, như: chưa có sự nghiên cứu bài bản trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin,
lộ trình, bước đi của chủ nghĩa xã hội; về mô hình phát triển bền vững, sáng tạo,
bao trùm; về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và thực hiện hiệu
quả quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Vấn đề vai trò chủ đạo của
kinh tế Nhà nước và phát huy vai trò động lực quan trọng của kinh tế tư nhân
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa… mới chỉ dừng lại ở
mức chủ trương.
Ba là, khai thác những luận điểm của Mác nói về qúa trình sản xuất, thực
hiện, phân phối giá trị thặng dư trong chủ nghĩa tư bản cùng những biện pháp,
thủ đoạn nhằm thu được nhiều giá trị thặng dư của các nhà tư bản nhằm góp
phần vào việc quản lý các thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa trong nền kinh tế
nước ta sao cho vừa có thể khuyến khích phát triển, vừa hướng các thành phần
kinh tế này đi vào quỹ đạo của chủ nghĩa xã hội.
Ở Việt Nam hiện nay hoặc không còn Nhà tư bản tích lũy tư bản bằng
cách bóc lột giá trị thặng dư dựa vào bạo lực hay quyền lực hoặc chỉ còn một số
rất ít (kể cả một số người có nguồn thu bất chính), ít đến mức có thể bỏ qua,
không ảnh hưởng đến việc xây dựng đường lối chính sách chung. Hiện nay Nhà
nước đã có chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần. Điều đó cũng gián
tiếp nói rằng, Nhà nước chấp nhận không xét lại nguồn gốc vốn tích lũy. Trong
bối cảnh đó, có thể cho rằng, “tư bản tư nhân” ở Việt Nam cũng có ít nhiều màu
sắc của “sở hữu của những người sản xuất”. Hơn nữa, hiện nay chúng ta cũng
đang chấp nhận đầu tư trực tiếp của nước ngoài, nghĩa là có chấp nhận sự bóc lột
giá trị thặng dư của tư bản tư nhân nước ngoài. Do vậy, nếu cần phải có một sự
hạn chế nào đó đối với “sở hữu tư bản” của “tư bản tư nhân” trong nước để giảm
bớt khoảng cách giàu nghèo, chúng ta cũng cần phải xét đến sự thiệt thòi về “quy
mô kinh tế” trong tương quan so sánh. Nói riêng, về “tư bản tư nhân” trong các
công ty cổ phần, cần lưu ý là, ngày nay “quyền kiểm soát” có khi còn quan trọng
hơn là “quyền sở hữu”. Vì vậy ở đây cần phải đưa ra một số hạn chế về tỷ lệ cổ
phiếu để chống sự “kiểm soát độc quyền”, chống bất công. Ngoài ra, không nên
xét quy mô tư bản tư nhân theo số lượng công nhân. Như đã nói ở trên, cùng một
quy mô vốn, sử dụng công nhân càng nhiều thì mức độ bóc lột công nhân m’ =
m/v càng thấp, như C. Mác đã nói trong kinh tế tư bản. Tạo thêm công ăn việc
làm cũng luôn là một mục tiêu hàng đầu trong phát triển kinh tế.
Việc quản lý thành phần kinh tế tư nhân, cụ thể là bộ phận kinh tế tư bản
tư nhân nhằm hạn chế việc bóc lột người lao động quá mức như kéo dài thời gian
lao động vượt quá thời gian quy định của luật lao động mà không có sự thống
nhất của người lao động, việc cắt xén tiền công, cắt xén các chế độ của người lao
động. Việc nghiên cứu lý luận giá trị thặng dư sẽ cho chúng ta thấy rằng chúng
ta thừa nhận có sự bóc lột trong khu vực kinh tế tư nhân nhưng việc bóc lột này
không thể như trong chế độ tư bản chủ nghĩa được mà người lao động cần phải
được bảo vệ thông qua hệ thống pháp luật của Việt Nam. Thực tế, chúng ta cần
phát triển kinh tế tư nhân để tạo nhiều việc làm, khai thác các tiềm năng về vốn,
khoa học công nghệ, nhân lực cho phát triển sản xuất kinh doanh nhưng người
lao động vì thế cũng bị bóc lột. Trong hoạt động kinh tế tư bản chủ nghĩa, giá trị
thặng dư tuyệt đối, giá trị thặng dư tương đối và giá trị thặng dư siêu ngạch đều
bị nhà tư bản chiếm đoạt, vì vậy mà luôn luôn có cuộc đấu tranh của công nhân
làm thuê chống lại sự chiếm đoạt đó: Đấu tranh chống kéo dài thời gian làm việc
trong ngày để chống bóc lột giá trị thặng dư tuyệt đối; đấu tranh chống việc nhà
tư bản rút ngắn thời gian lao động cần thiết và tăng tương ứng lao động thặng dư
để chống bóc lột giá trị thặng dư siêu ngạch.
Chương 4. Hướng phát triển của lý luận giá trị thặng dư
trong bối cảnh mới
Để phát huy các nguồn lực trong phát triển kinh tế - xã hội, trong đó,
nguồn nhân lực đóng vai trò chủ thể, đặc biệt yêu cầu của quá trình sản xuất
ngày càng cao gắn với nền kinh tế tri thức và cuộc cách mạng công nghiệp lần
thứ 4 nên phải tập trung phát triển nguồn nhân lực và nhân lực chất lượng cao.
Do đó, cần phải thực hiện một số giải pháp sau:
Một là, thừa nhận, hoàn thiện và phát triển thị trường sức lao động. Sức
lao động là yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất vì vậy trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa việc thừa nhận tính hàng hóa của sức lao
động có lợi cho việc phân bổ hợp lý nguồn nhân lực, thúc đẩy việc nâng cao
năng xuất lao động của cá nhân và xã hội. Trong quá trình thừa nhận, hoàn
thiện và phát triển thị trường sức lao động cần coi sức lao động là hàng hóa
trong tất cả các thành phần kinh tế, mọi khu vực của nền kinh tế quốc dân.
Hiện nay sức lao động mới thực sự là hàng hóa trong khu vực kinh tế tư nhân,
kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài và một số đơn vị sự nghiệp có nguồn thu.
Khu vực hành chính vẫn còn chế độ biên chế, tiền lương thấp chưa phản ánh
đúng bản chất của nó (tiền công là biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hóa
sức lao động) nên dẫn đến hiện tượng tham nhũng, quan liêu hoặc những
người thực sự có năng lực không muốn vào làm việc trong khu vực nhà nước.
Trong quá trình đổi mới thị trường hóa sức lao động cần thực hiện chế độ hợp
đồng làm việc (chế độ sử dụng sức lao động), hình thành các trung tâm trao
đổi mua bán nhân tài. Thực hiện nguyên tắc thị trường trong quan hệ tiền
lương.
Hai là, tư bản khả biến về mặt hiện vật chính là sức lao động, yếu tố
quyết định làm tăng thêm lượng giá trị hàng hóa, tạo ra giá trị thặng. Vì vậy,
tránh nguy cơ tụt hậu và vượt qua bẫy thu nhập trung bình, Việt Nam cần tập
trung chuyển sang mô hình tăng trưởng dựa trên năng suất, chất lượng và
hiệu quả, trong đó trọng tâm là cải thiện năng suất lao động để tăng sức cạnh
tranh của nền kinh tế, đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững trong tương
lai. Để thực hiện được điều đó Việt Nam cần đầu tư vào lĩnh vực giáo dục
đào tạo, thay đổi phương pháp, mục tiêu của quá trình đào tạo nhằm tạo ra
những người lao động có thể lực, trí lực, có phẩm chất nghề nghiệp, năng
động, có năng lực sáng tạo trong sản xuất kinh doanh nhằm nâng cao năng
suất lao động, tăng sức cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam trong bối cảnh
hội nhập quốc tế hiện nay.
Ba là, tư bản bất biến là yếu tố cần thiết trong quá trình sản xuất, là
điều kiện của quá trình làm tăng năng suất lao động vì vậy trong bổi cảnh
hiện nay cần đầu tư nguồn lực để thực hiện các cuộc cách mạng công nghiệp,
cải tiến công cụ lao động theo hướng hiện đại, hiệu quả. Trong nền kinh tế thị
trường hiện nay, khi một số nguồn lực để phát triển kinh tế trở nên khan hiếm
thì việc huy động và sử dụng các nguồn lực cho phát triển như vốn, lao động,
khoa học công nghệ, tài nguyên thiên nhiên, đất đai, phải làm sao mang lại
hiệu quả kinh tế xã hội cao nhất, tránh trường hợp sử dụng không hiệu quả,
gây thất thoát, lãng phí. Sử dụng tiết kiệm và có trách nhiệm với các nguồn
tài nguyên của đất nước phục vụ quá trình phát triển của đất nước. Hiện nay,
nguồn nhân lực trên thị trường lao động của Việt Nam được đánh giá có chất
lượng không cao. Nhận thức được vấn đề này, trong Văn kiện Đại hội XII đã
ghi: “Giáo dục là quốc sách hàng đầu. Phát triển giáo dục và đào tạo nhằm
nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài” và “Phát triển giáo
dục và đào tạo phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế xã hội, xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc, với tiến bộ khoa học công nghệ, yêu cầu phát triển nguồn
nhân lực và thị trường lao động
Bốn là, cần kết hợp hài hòa các lợi ích giữa Nhà nước - doanh nghiệp -
người lao động. Đối với thành phần kinh tế Nhà nước và tập thể dựa trên chế
độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất thì kết quả sản xuất thuộc về Nhà
nước hay tập thể lao động của doanh nghiệp. Vì vậy, việc phân phối giá trị
thặng dư phải làm sao cho vừa tăng thu cho ngân sách nhà nước, vừa tăng thu
nhập của người lao động, lại vừa tăng các quỹ của doanh nghiệp (quỹ tái sản
xuất mở rộng, quỹ phúc lợi, quỹ khen thưởng), càng nhiều lợi nhuận thì lợi
ích của ba thành phần trên càng tăng cao.
Năm là, không ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật. Nhà nước cần
nhanh chóng ban hành các thể chế, hoàn thiện pháp luật để mọi hoạt động đều
được điều chỉnh bằng pháp luật nhằm tạo ra động lực để thu hút các nhà đầu
tư trong và ngoài nước; mặt khác giải quyết việc làm cho người lao động,
đảm bảo quyền lợi ích chính đáng cho người lao động. Do đó, Đảng ta cũng
xác định cần phải “Hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển, trước hết là thể chế
phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Một mặt, yêu
cầu các nhà tư bản phải nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, tôn trọng lợi ích
chính đáng của người công nhân. Mặt khác, nhà nước cần có cơ chế, chính
sách khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân, bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp
của các nhà tư bản, không phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế, thực
thi nhất quán chính sách thuế sao cho nhà đầu tư có thể thu được lợi nhuận
thích đáng thì họ mới mạnh dạn đầu tư, làm ăn lâu dài. Bên cạnh đó, không
ngừng hoàn thiện luật doanh nghiệp, luật đầu tư theo hướng ngày càng hấp
dẫn đối với các nhà đầu tư hơn. Trong xu hướng toàn cầu hóa và hội nhập
quốc tế hiện nay, sự cạnh tranh giữa các nước trong thu hút vốn đầu tư ngày
càng gay gắt. Do đó, Nhà nước cần có chính sách ưu đãi đầu tư nhiều hơn để
thu hút mạnh hơn các nhà đầu tư.

KẾT LUẬN
Nóm tóm lại, lý luận giá trị thặng dư có ý nghĩa to lớn về mặt lịch sử phản
ánh mâu thuẫn cơ bản giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản trong chủ nghĩa
tư bản, vạch rõ tính tất yếu của sự ra đời một xã hội mới thay thế cho chủ
nghĩa tư bản. Ở Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội hiện nay,
học thuyết này có ý nghĩa hiện thực to lớn cho quá trình phát triển kinh tế
hướng đến nền kinh tế tri thức. Cần vận dụng học thuyết một cách thông
minh, sáng tạo nhưng đảm bảo tính khoa học phù hợp với điều kiện thực tiễn
của Việt Nam. Đề tài giúp nâng cao tư duy nhận thức và trình độ lý luận về
học thuyết kinh tế cũng như chủ nghĩa Mác, nó giúp chúng ta hiểu sâu hơn
quy luật kinh tế của chủ nghĩa tư bản là quy luật giá trị thặng dư, nhận thấy
vai trò quan trọng của nó trong phát triển kinh tế. Việt Nam hiện nay đang
phát triển kinh tế thị trường, nền kinh tế mở cửa, vì vậy đã có quy luật giá trị
thặng dư hoạt động. Nhận thức về quy luật trang bị cho các nhà kinh tế những
hiểu biết trong quản lí và sản xuất kinh doanh. Hiểu được quy luật này thì sẽ
nắm được sự vận động của các quy luật khác: quy luật cạnh tranh, quy luật
giá trị.... vì quy luật giá trị thặng dư là quy luật trung tâm. Từ đó các nhà kinh
tế có biện pháp tối ưu hơn, phù hợp quy luật để tạo hiệu quả kinh doanh cao
nhất. Trong xu hướng phát triển kinh tế tri thức hiện nay, học thuyết giá trị
thặng dư của C.Mác vẫn giữ nguyên giá trị, chúng ta cần khai thác học thuyết
giá trị thặng dư với tư cách là một hệ thống lý luận phong phú và sâu sắc về
kinh tế thị trường nhằm vận dụng vào công cuộc xây dựng và phát triển kinh
tế - xã hội trong nền kinh tế tri thức. Học thuyết giá trị thặng dư của C.Mác
luôn là cơ sở lý luận cho sự vận dụng vào quá trình phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.

TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. Giáo trình kinh tế chính trị - Bộ Giáo dục và Đào tạo
2. Hoàng Ngọc Hải – Hồ Thanh Thuỷ, “Học thuyết giá trị thặng dư
vẫn còn nguyên giá trị trong bối cảnh mới”, Tạp chí cộng sản, tháng
5/2020.
3. Trung úy Nguyễn Huyền Trang - Đại úy Vũ Trọng Đại, “Học
thuyết giá trị thặng dư của Marx và sự phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam”, Tạp chí cảnh sát nhân dân,
tháng 4/2018.
4. BT & Mạnh Thắng, "Học thuyết giá trị thặng dư của chủ nghĩa
Mác- Lênin: Những giá trị cốt lõi, những luận điểm đã bị lịch sử vượt
qua, sự bổ sung, phát triển trong bối cảnh mới", Học viện Chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh, tháng 9/2019.
5. ThS. Bùi Thị Huyền, “Vận dụng lý luận giá trị thặng dư của Các
Mác đối với sự phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam”, Trường chính trị tỉnh Phú Thọ, tháng 9/2017.
6. Ths. Nguyễn Thị Anh Khuyên, “Học thuyết giá trị thặng dư và giá
trị của nó trong nền kinh tế tri thức”, Tạp chí công thương, tháng 9/2020.
7. PGS, TS. Trần Trọng Đăng Đàn, “Bóc lột” – “Giá trị thặng dư”,
Báo Sài Gòn giải phóng online, tháng 2/2006.
8. PGS, TS. Nguyễn Tấn Hùng, “Chế độ sở hữu và vấn đề giá trị
thặng dư trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, Tạp
chí Lý luận chính trị, tháng 3/2017.
9. Ths. Vương Mạnh Toàn, “Máy móc hay con người tạo ra giá trị?”,
Báo Thanh Hoá, tháng 12/2021.
10. TS. Vương Thanh Tú, “Thật là sai trái khi phủ nhận Học thuyết
giá trị thặng dư của C.Mác”, Tạp chí Lý luận chính trị, tháng 10/2018.

You might also like