You are on page 1of 20

TRƯỜNG ĐẠI HỌC

SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP. HỒ CHÍ MINH


HCMC University of Technology and Education

TIỂU LUẬN
Môn: Kinh tế chính trị Mác - Lênin

Chủ đề: LÝ LUẬN CỦA KINH TẾ MÁC-LÊNIN VỀ TIỀN CÔNG VÀ


LIÊN HỆ VỚI CHÍNH SÁCH TIỀN LƯƠNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Thành phố Hồ Chí Minh - tháng 7 năm 2022


DANH SÁCH NHÓM THAM GIA VIẾT TIỂU LUẬN

HỌC KÌ III, NĂM HỌC 2021-2022

Nhóm số 01 (Lớp thứ 2,3, tiết 7,9)

Tên đề tài: Lý luận của kinh tế Mác –Lênin về tiền công và liên hệ với chính sách
tiền lương ở Việt Nam hiện nay .

Ghi chú:

- Tỷ lệ % = 100%

- Trưởng nhóm: Nguyễn Đăng Hoàng

Nhận xét của giáo viên:


................................................................................................................................................
................................................................................................................................................
...........................................................................................Ngày … tháng 5 năm 2022
Giáo viên chấm điêm
Mục Lục
A. Phần giới thiệu.......................................................................................................4

1. Nguyên nhân chọn đề tài:.....................................................................................4

2. Mục tiêu tìm hiểu :..............................................................................................5

3. Mục tiêu và phương pháp tìm hiểu:.................................................................5

B. Phần Nội Dung..........................................................................................................2

Chương 1 : Lý luận của Mác – Lênin về tiền công trong chủ nghĩa tư bản.........2

1.1. Hàng hóa sức lao động...........................................................................................2

1.1.1.Sức lao động và hai thứ để sức lao động trở thành hàng hóa...............................2

1.1.2. “Hàng hóa sức lao động” có 2 thuộc tính:..........................................................2

1.2. Tiền lương trong chủ nghĩa tư bản...................................................................3

1.2.1. Bản chất kinh tế của tiền lương...........................................................................3

1.2.2..Hai hình thức trả lương.......................................................................................3

1.2.3.Tiền lương danh nghĩa và tiền lương thực tế.......................................................4

Chương 2: Vận dụng lí luận của học thuyết Mác – Lênin liên hệ với quy định tiền
lương ở nước ta bây giờ............................................................................................4

2.1.Thực trạng cải cách chính sách tiền công ở VN hiện nay:......................................4

2.2. Những hạn chế trong chính sách tiền công ở VN hiện nay....................................7

2.3. Một số phương hướng cơ bản góp phần nâng cao hiệu quả chính sách tiền công ở
Việt Nam hiện nay........................................................................................................9

Liên hệ với Việt Nam..................................................................................................11

C. Kết luận...................................................................................................................14

Tài liệu kham khảo......................................................................................................17


A. Phần giới thiệu

1. Nguyên nhân chọn đề tài:


Trong xã hội-chủ nghĩa tư bản hiện nay, quan hệ được sinh ra giữa công nhân và
chủ sở hữu là quan hệ dựa trên sự bóc lột. Ở đó, tầng lớp-tư bản là người bóc lột, còn tầng
lớp công nhân được xem là tầng lớp chịu sự bóc lột. Để làm hiệu quả mối quan hệ này,
bên đang sử dụng lao động phải buộc bên lao động phải thỏa thuận chính sách tiền lương
(thứ quan trọng nhất có thể nuôi sống bản thân và người thân của họ) khi người lao động
bị tước đoạt tất cả tư liệu trong sản xuất.
Bằng quan sát của mình C.Mác đã phát hiện và mày mò chỉ ra nguồn gốc của bản
tính của đồng tiền lương (tiền công) chủ nghĩa tư bản, và sau đó ta chỉ ra bộ mặt bóc lột
của hệ thống xã hộ chủ nghĩa. Để nắm rõ bản chất và mối liên hệ này giữa lý thuyết và
thực tế tiền lương của chủ nghĩa Marx, chúng em đã chọn đề tài : Lý luận của kinh tế
Marx-lênin về tiền công và liên hệ với chính sách tiền lương ở Việt Nam hiện nay .
Tiểu luận này được chúng em viết ra giúp ta nâng cao được kĩ năng phân tích và kĩ
năng vận dụng lí luận.Nhằm bổ sung nhiều kiến thức lí luận hơn về thực tại về việc tiền
lương ở nước ta thời nay.
2. Mục tiêu tìm hiểu :
Qua bài tiểu luận dưới đây ta làm sáng tỏa hai nhiệm vụ chính:
- Giúp đưa ra những cơ sở lí luận của học thuyết Mác – Lênin về tiền công trong
chủ nghĩa tư bản.
- Đồng thời Vận dụng lí luận của học thuyết Mác – Lênin liên hệ với chính sách tiền
lương (tiền công) ở nước ta hiện nay.

3. Mục tiêu và phương pháp tìm hiểu:


Mục tiêu: các chủ thể tham gia
Phương pháp nghiên cứu:
Tìm nguồn tài liệu từ giáo trình và Internet, chọn lọc những nguồn tin phù hợp,
tổng hợp, phân tích, nghiên cứu và đưa ra các nhận định.
Hiểu được những kiến thức thuộc phạm trù chủ nghĩa Mác – Lênin.
Cùng với việc sử dụng các phương thức cơ bản như: phương thức phân tích tổng hợp, quy
nạp-diễn dịch, điều tra xã hội học và một số phương pháp khác .

B. Phần Nội Dung.

Chương 1 : Lý luận của Marx – Lênin về tiền công trong chủ nghĩa tư bản .
1.1. Hàng hóa sức lao động.
1.1.1.Sức lao động và hai thứ để sức lao động trở thành hàng hóa.
Chúng ta nên biết lao động là tập hợp các khả năng (thể chất và tinh thần) có sẵn
trong mỗi cá nhân và được mỗi cá nhân đó tận dụng đưa vào trong sản xuất.
Có 2 yếu tố để sức lao động có thể trở thành hàng hóa:
Thứ nhất, bên lao động cảm thấy thoải mái về thể chất, điều khiển được sức lao
động của mình và chỉ được bán sức lao động trong một khoảng thời gian nhất định.
Thứ hai, những người sở hữu sức lao động thì phải bị lấy đi tất cả tư liệu sản xuất,
và muốn có được đời sống ổn định, thì họ phải bán đi sức lao động để đổi lấy tiền công
cho bản thân.
1.1.2. “Hàng hóa sức lao động” có 2 thuộc tính.
Giống như đa số hàng hoá khác thì hàng hoá của sức lao động có 2 thuộc tính là:
“giá trị sử dụng” và “giá trị”.
Giá trị của sức lao động hàng hóa: được tính gián tiếp qua giá trị của những phương
tiện sinh hoạt cần thiết trong đời sống hằng ngày để duy trì người lao động và gia đình
của họ.
Giá trị - sức lao động hàng hoá: khác với các hàng hoá thông thường là nó bao gồm
cả “tinh thần” và “tính lịch sử”. Thể hiện qua đơn vị tiền tệ được gọi là “giá cả lao động”
hoặc “tiền lương”.
Khi sản xuất vượt trội thì xu hướng giá trị của hàng hóa và sức lao động cũng phát
triển lên theo, nhu cầu - lao động có qua đào tạo càng tăng thì nhu cầu về tự cung tự cấp
cũng tăng theo năng suất. Giảm đi giá trị của hàng hóa và lao động do năng suất lao động
tăng lên nên giá cả vật liệu và dịch vụ sinh hoạt cũng giảm xuống.
Giá trị sử dụng của sức lao động hàng hóa được biểu hiện trong quá trình sử dụng
sức lao động của người lao động, được gọi bằng quá trình lao động mà người lao động
sản xuất ra hàng hóa và dịch vụ. Quá trình tiêu thụ hàng hoá sức lao động khác với quá
trình tiêu thụ hàng hoá bình thường, vì hàng hoá thông thường bị mất đi sau quá trình giá
trị sử dụng và giá trị. Ngược lại, quá trình sử dụng hàng hóa của sức lao động là quá trình
sản xuất ra 1 số hàng hóa nhất định, cùng lúc đó cũng là quy trình tạo ra giá trị mới, tức là
có tiềm năng hình thành giá trị khác cao hơn giá trị sức lao động.Tính duy nhất của hàng
hoá sức lao động được thể hiện.
1.2. Tiền lương trong chủ nghĩa tư bản.
1.2.1. Bản chất kinh tế của tiền lương.
Bản chất của tiền lương: là tiền của giá trị của sức lao động của hàng hóa, giá cả
của sức lao động của hàng hóa lao động. Tiền lương không được coi như là giá cả của sức
lao động vì:
Thứ nhất, sau khi công nhân sản xuất hàng hoá cho nhà tư bản, nhà tư bản trả lương
cho công nhân.
Thứ hai, tiền lương được nhận theo số giờ đã làm hoặc tính theo lượng sản phẩm
được làm ra. Thứ mà bên tư bản mua của bên công nhân không phải là lao động mà là sức
lao động. Tiền lương không tính là giá trị hay giá cả của lao động mà chỉ là giá trị hay giá
cả của sức lao động hàng hóa.
1.2.2..Hai hình thức trả lương.
Có hai hình thức thanh toán:
Tiền lương dựa trên thời gian: là một dạng tiền lương, số tiền này nhiều hay ít phụ
thuộc vào số giờ làm việc của người lao động. Để xác định đúng mức tiền lương,ở
phương thức thanh toán nà không chỉ phải đo tiền lương ngày mà còn đo cả thời gian làm
việc;cường độ lao động. Tiền lương được hiểu: là giá cả sau một giờ lao động.
Tiền lương dựa trên hàng hóa: Một thể thức tiền lương trong đó số tiền được quy
định bởi số lượng hàng hóa hoặc một bộ phận của hàng hóa mà một công nhân làm ra
hoặc số lượng công việc được thực hiện. Tiền lương của sản phẩm là sự biến đổi của tiền
lương theo thời gian.
1.2.3.Tiền lương danh nghĩa và tiền lương thực tế.
Tiền lương trong danh nghĩa: nghĩa là tiền của bên lao động được nhận từ việc bán
sức lao động của mình cho bên sở hữu lao động.
Tiền lương trong thực tế: nghĩa là tiền lương thể hiện bằng sản lượng sản phẩm và
dịch vụ tiêu thụ mà người lao động mua được với mức lương danh nghĩa.
Các loại quỹ đại chúng luôn mang tính linh hoạt và có một mối quan hệ mật thiết
đến nhau.
Tiền lương danh nghĩa có thể tăng hoặc giảm theo việc thay đổi của cung và cầu hàng hóa
của sức lao động ở trên thị trường. Trong một khoảng thời gian nhất định, nếu tiền lương
danh nghĩa vẫn không đổi thay, nhưng mà giá nguyên vật tư tiêu thụ và dịch vụ nâng lên
thì tiền lương thực tế giảm xuống, và ngược lại. Marx cho rằng khuynh hướng chung của
nền sản xuất tư bản chủ nghĩa không phải là nâng cao tiền lương bình quân, mà là hạ thấp
tiền lương.

Chương 2: Vận dụng lí luận của học thuyết Mác – Lênin liên hệ với quy định tiền
lương ở nước ta bây giờ.
2.1.Thực trạng cải cách chính sách tiền công ở VN hiện nay:
Thực trạng:
Chính sách cải cách tiền lương có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, liên quan mật
thiết đến các chính sách kinh tế-xã hội khác, liên hệ đến cân bằng kinh tế vĩ mô, thị
trường lao động và mức sống của người lao động, hình thành hệ thống chính trị, trong
sáng, hiệu lực, phòng chống tham ô, tham nhũng. Ở VN, quy định tiền công đã trải
qua bốn cuộc cách mạng: năm 1960, 1985, 1993 và 2003 nhưng tồn tại đa số những
bất cập, chưa thỏa mãn được nhu cầu của thực tế đời sống xã hội, chưa bắt kịp sự thay
đổi nhanh của thị trường lao động; Tiền lương của khu vực công không cao, việc điều
chỉnh tiền lương lao động chưa tách rời việc thay đổi chỉnh sửa lương hưu và chỉnh
sửa trợ cấp ưu đãi người có công; thực hiện chế độ phụ cấp lương của đảng. Chính
sách đầu tư phát triển vẫn còn chậm.
Thực hiện phương hướng thay đổi cơ cấu thị trường định hướng XHCN, Đảng
và Nhà nước đã nhiều lần ban hành các văn bản thay đổi, thêm thắt, dần hoàn thành
chính sách tiền lương, cơ cấu chuẩn hóa tiền lương thấp nhất. Khu vực sản xuất doanh
nghiệp thực hiện theo yêu cầu phát triển gắn với sự điều hành bởi Nhà nước thực hiện
quy định chỉ thay đổi tiền lương cơ bản, đưa ra các chính sách và hệ thống mới cho
khu vực nhà nước bước đầu thực hiện danh mục công việc xây dựng làm tiền để để trả
lương ... cụ thể:
Trong lãnh thổ nhà nước: tiền lương được tăng lên, giúp nâng cao mức sống
của người dân lao động, bắt đầu từ 2003 đến nay đã có 11 lần thay đổi mức lương thấp
nhất từ 210.000 VND - 1.300.000 VND / tháng (cải thiện được 519%) nhiều hơn mức
tăng của chỉ số giá tiêu dùng của cùng kỳ là 208,6%. Giảm hệ thống tiền lương, mở
rộng khoảng cách lương. Mức tiền lương; bậc; phụ cấp,... của các chức vụ được quy
định nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc điều động, luân chuyển cán bộ trong hệ
thống chính trị, mức lương trong quân đội được điều chỉnh riêng, để trình bày rõ sự ưu
đãi của nước ta trong việc tăng cấp tiền lương của cán bộ, công chức, viên chức trong
bộ máy nhà nước; xét lên hạng viên chức, nâng ngạch theo nguyên tắc cạnh tranh
ngạch công chức. 5 loại phụ cấp được quy định bao gồm: phụ cấp theo chức vụ quản
lý; theo khu vực; theo điều kiện lao động, công việc và đãi ngộ theo bản chất công
việc; theo giờ làm việc; cơ quan. Đã và đang phân chia quản lý cơ chế thu nhập từ tiền
lương của các cơ quan công lập và ngoài công lập, nâng cao lương của cán bộ, công
chức, viên chức (CBCCVC), góp phần cải thiện hiệu quả các hoạt động của các cơ
quan của nhà nước và chất lượng phục vụ dịch vụ công. Giải pháp đổi mới tạo nguồn
cải cách tiền lương, gồm 4 nguồn, thay vì đảm bảo toàn bộ từ ngân sách Trung ương
như trước năm 2003”.
+ "Chính sách tiền lương của khu vực doanh nghiệp từng bước được thực hiện
gắn với sự điều hành của nước ta. Nhà nước lấy lương thấp nhất vùng làm chuẩn tối
thiểu, hạn chế sự can thiệp của hành chính và quản lý tiền lương để bảo vệ dân lao
động. Cách thức xây dựng lương tối thiểu vùng theo Công thức được thay đổi dựa trên
kết quả thương lượng ba bên, tùy theo điều kiện tài chính của xã hội và khả năng của
các doanh nghiệp, mức lương tối thiểu vùng được điều chỉnh -hoàn thiện mức sống
của người lao động. Doanh nghiệp có quyền quyết định chính sách tiền lương phù hợp
với nguyên tắc chung để đảm bảo thị trường lao động. Lợi ích của người lao động và
người sử dụng lao động, năng lực thương lượng của người dân lao động và năng lực
trao đổi của người dân lao động tổ chức đại diện người dân lao động ở cấp cơ sở còn
nhiều hạn chế. Vai trò của tổ chức công đoàn trong việc đưa ra những định hướng
chính sách đãi ngộ của doanh nghiệp từng bước đang được cải thiện nhằm đảm bảo
tính công khai và trung thực trong quá trình đưa ra chính sách và chế độ đãi ngộ cho
những người dân lao động. Nhà nước sẽ tư vấn và trợ giúp để phát triển năng lực, kết
nối nhu cầu và cung cấp truyền thông cho việc tham vấn lao động và quản lý. Chính
sách đãi ngộ của doanh nghiệp nhà nước đã được cập nhật; việc tách tiền lương của
người quản lý và tiền lương của người lao động có liên quan đến hiệu quả sản xuất,
hoạt động của doanh nghiệp. "
Với các nỗ lực và cố gắng của nguyên một hệ thống chính trị, công cuộc cải
cách chính sách về tiền lương ở nước ta thì ta đã tương đối đạt được nhiều kết quả tích
cực, song vẫn còn khá nhiều hạn chế và bất cập là: tiền lương lãnh thổ công còn thấp,
chưa đáp ứng được tiêu chuẩn. Nhu cầu sống, chế độ đãi ngộ còn phức tạp, chưa phù
hợp với vị trí, chức danh nghề nghiệp, chức danh lãnh đạo, còn mang tính chất bình
quân, cấp bậc, chưa có động lực thực sự để nâng cao chất lượng làm việc của người
lao động. Việc bắt buộc tiền lương được tính dựa trên hệ số nhân với mức tiền lương
thấp nhất không biểu hiện cụ thể được giá trị hiện thực của tiền lương. Có nhiều
trường hợp, người quản lý cấp trên được trả lương thấp hơn người quản lý cấp dưới,
chưa hiện rõ tính phân cấp hành chính trong hoạt động công vụ. Các loại phụ cấp hiện
nay đang quá nhiều, nhất là phụ cấp theo ngành nghề, hệ số nâng bậc lương đã nảy
sinh nhiều bất cập. Mức lương trong hệ thống thấp nhưng vẫn có nhiều trường hợp
còn phát sinh các khoản chi nằm ngoài lương như chi hội nghị tập huấn, xây dựng
công trình, chuyên đề ... chiếm tỉ trọng lớn trong thu nhập của CBCCVC. Việc thay
đổi trong qui trình quản lý và cơ cấu tài chính của các khu công nghiệp và thương
nghiệp chưa đáp ứng được nhu cầu. Kinh phí để thực hiện cuộc cải cách tiền lương cơ
sở vẫn dựa vào NSNN sẽ bảo đảm (khoảng 98%), chủ yếu là ngân sách TW (trung
ương) (khoảng 68%). Việc điều chỉnh giá thành phí dịch vụ công còn chậm trên hầu
hết ở các lĩnh vực. Cải cách tiền lương ở một số nơi là bất hợp lý, nhưng mức lương
cao hơn không được phép. Không có cách thức khen thưởng nào gắn liền với việc làm
các nhiệm vụ. Thông tin, thống kê, báo cáo và hệ thống dữ liệu của nhà nước về các
đối tượng và về tiền lương của lãnh thổ nhà nước còn nhiều hạn chế.

2.2. Những hạn chế trong chính sách tiền công ở VN hiện nay.
Dù vậy chính sách tiền lương đã được sửa đổi liên tục và nhiều lần dù thế vẫn còn
nhiều vấn đề bất cập, hạn chế như sau:
Thứ nhất, chính sách trả lương thấp cho CBCCVC đã được duy trì quá lâu.
Những công cuộc cải cách trước đó đều bị ảnh hưởng bởi nguồn của ngân sách nhà
nước (NSNN) vì thế chính sách tiền lương không cao đối với CBCCVC và liên kết chặt
chẽ với mức lương tối thiểu chung rất thấp (khoảng 65% - 70% mức sống tối thiểu của
người lao động). Hơn nữa, chính sách tiền lương thấp này ngày càng thấp hơn so với
khu vực sản xuất kinh doanh, không có gì đảm bảo cho CBCCVC chủ yếu sống bằng
lương. Đây là một sự thiếu hụt, nghịch lý và mâu thuẫn rất lớn. Theo kết quả nghiên cứu
của Công đoàn Viên chức Việt Nam, thì mức lương cứng của CBCCVC khá thấp, chủ
yếu được trả ở ngạch viên chức và chuyên viên, chiếm khoảng 73% (32% đối với viên
chức và 41% đối với chuyên viên). , so với 24% ở cấp chuyên gia chính và 3% ở cấp
chuyên gia cấp cao.
Thứ hai, liên kết giữa tiền lương tối thiểu-trung bình-tối đa còn chưa thỏa đáng,
dễ nhận thấy là hệ số trung bình cộng trong mối quan hệ tiền lương tối thiểu-trung bình
và tối đa đang vẫn còn quá thấp, không cải thiện được mức sống và sự phát triển của
người lao động. Hệ số tiền lương trả cho viên chức được điều chỉnh bằng hệ số tính theo
mức lương tối thiểu chung; không trả lương theo vị trí làm việc, chức danh nghề nghiệp
và năng suất công việc, mức độ chất lượng công việc. Theo Bộ Nội vụ, mối quan hệ tiền
lương tối thiểu-trung bình và tối đa sẽ mở rộng từ mức hiện tại là 1-2,34-10 lên 1-3,2-15
trong giai đoạn 2016-2020.
Thứ ba, trong khi lương công việc thì thấp nhưng thu nhập ngoài lương cao thì lại
cao, không hạn chế, không trung thực, và không thể kiểm soát. Phần thu nhập nằm
ngoài lương vẫn còn là một dấu hỏi lớn nhưng đa số là do lạm dụng chức vụ quyền hạn,
tham nhũng. Mức lương thấp nhất cho công chức đã được nâng lên 1.050.000 đồng
trong năm nay, nhưng vẫn còn quá thấp cho phí sinh hoạt ngày càng tăng. Dẫn đến
nhưng tiêu cực quy mô ngày càng lớn và tinh vi.
Thứ tư, tiền lương của CBCCVC do nhà nước quy định còn rất thấp nhưng những
quy định liên quan đến vấn dề này ngày càng phức tạp. Đó chính là cái khó khăn trong
những cái khó khăn nhất trong cuộc cải cách đối với chính sách trả lương cho công
chức. Theo Viện Chiến lược và Chính sách Tài chính (Kho bạc), Hiện ngân sách quốc
gia bảo đảm tiền lương và các khoản chi trả lương vẫn ở mức cao và tiếp tục tăng
nhanh. Chi lương và phụ cấp năm 2011 ước tính chiếm 51% chi ngân sách nhà nước và
gần 9,6% GDP. Năm 2010, con số này chỉ là 6,7% GDP. Ngoài ra thì có 21 ngành nghề
được hưởng 16 loại phụ cấp và các ưu đãi khác nhau và ngân sách tiền lương tối thiểu
quốc gia ngày càng mỏng.
Thứ năm, việc thực hiện chính sách xã hội-hóa đối với hoạt động dịch vụ công
chậm, ít phát huy tác dụng, nhất là trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo, và lĩnh vực y tế.
Gây rất nhiều khó khăn cho công tác cải cách tiền lương. Lương công chức cao. Đối với
các tỉnh, thành phố lớn đông dân cư như Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, việc kêu gọi các nhà
đầu tư trong và ngoài nước thực hiện là bình thường, nhưng ở cấp huyện, đặc biệt ở các
huyện trên toàn tỉnh Miền Trung và Hải đảo, việc xã hội hóa còn rất nhiều khó khăn. Đó
là một trong các khó khăn lớn nhất đối với công cuộc cải cách tiền lương, do không có
sự phân biệt rõ ràng giữa chính sách trả lương cho công chức và người làm công tác
công.
Cũng có thể nhận thấy, sự thay đổi chính sách tiền lương đối với các cán bộ công
chức từ năm 2003 đến nay vẫn chưa thể thoát ra khỏi những: lương thấp không đủ sống
nhưng thu nhập ngoài lương lại rất cao. Mỗi khi tăng lương tối thiểu, gánh nặng cho
ngân sách quốc gia sẽ tăng lên. Chính sách đãi ngộ đã được “cải cách” nhưng vẫn còn
chưa tạo ra được động lực đủ nhiều để người làm công ăn lương chứng tỏ được năng lực
và sự cống hiến của mình. Lương ít cùng với những dãi ngộ không tốt với đã và đang
làm cho nguồn nhân tài đất nước rời khu vực của nước nhà để làm việc trong lãnh thổ
khác với mức nhập xứng đáng hơn. Mặt khác, lương “bèo bọt” cũng là một trong những
yếu tố quan trọng dẫn đến những hệ lụy tiêu cực.
Ta có thể thấy những vần đề bất cập và hạn chế về thực trạng tiền lương chủ quan là
do: nhận thức của con người chưa đúng đắn về tính chất của tiền lương, các cuộc sửa đổi
hành chính về tiền lương còn khá chậm chạp, tiền lương không thực sự đáng để đầu tư
cho người dân lao dộng mà đó chỉ là một khoản tiêu dùng cho công nhân, ngân sách trả
tiền công còn hạn hẹp, công tác quản lý thu nhập và tiền công cũng còn nhiều vấn đề cần
phải giải quyết.

2.3. Một số phương hướng cơ bản góp phần nâng cao hiệu quả chính sách tiền công
ở Việt Nam hiện nay
-Về nguyên tắc, việc xây dựng cải cách chế độ đãi ngộ các CBCCVC phải dựa theo
mục tiêu và định hướng của việc cải cách chế độ đãi ngộ các CBCCVC. Trong những lần
sửa đổi vừa rồi, chúng ta đã thực hiện một bài toán ngược, đó là tiến hành cải cách tiền
lương từ chiếc bánh ngân sách quốc gia, để có thể tiến hành cải cách một cách có mục
tiêu. Nhưng mà cách làm này đã không thành công và để lại nhiều vấn đề. Nên, để cái tiến
các cơ chế và cải cách chế độ đãi ngộ viên chức phải đến từ quyết tâm chính trị của các
cấp có quyền lực và dưới sự lãnh đạo của nhà nước và Đảng, nhưng đồng thời phải có
những bước tiến. Sau đây là một số điều trọng yếu nhất:
-Thứ nhất: phải quản lý thật chặt chẽ hạn chế tối đa người hưởng lương trong ngân
sách nhà nước. Tương ứng, trên cơ sở đó phải xây dựng nên nền móng hành chính và
công vụ chuyên môn và hiện đại, với tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp rõ ràng, xác định
được ai được tuyển dụng, ai phải quản lý vị trí nào theo tên nghề nghiệp. Đồng thời, đánh
giá lại đội ngũ CBCCVC tinh giản biên chế, thực hiện cải cách hành chính, nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ, công chức và viên chức. Phải chú trọng việc tuyển chọn để đảm
bảo chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức và ứng dụng sự phát triển hiện đại và công
nghệ thông tin trong toàn hệ thống hành chính.
-Thứ hai: đột biến cơ chế mở cửa, thúc đẩy xã hội hóa ngành dịch vụ nhà nước,
giảm tỉ trọng chi ngân sách nhà nước cho đầu tư cơ sở vật chất, hạn chế tối đa người lao
động hưởng lương từ NSNN. Khu vực này được chia làm 3 loại đơn vị sự nghiệp với 3 cơ
chế khác nhau: (I) Đơn vị sự nghiệp không có nguồn thu, NSNN trả lương và được áp
dụng chính sách trả tiền lương như người lao động, cán bộ, công chức; (II) những đơn vị
cung cấp dịch vụ công có nguồn thu nhưng không đủ kinh phí để tiếp tục duy trì và bản
thân tiền lương do nhà nước hỗ trợ để bù đắp các khoản thiếu. Ngân sách nhà nước hỗ trợ
trả lương cho các CBCCVC đó; (III) những đơn vị cung cấp các dịch vụ công có nguồn
thu bù đắp tất cả các khoản chi hoạt động và tiền lương có thể sử dụng chính sách tiền
công theo cơ cấu của thị trường. Tiêu chuẩn tính phí do nhà nước quy định dựa trên cơ sở
sát theo thị trường và thích hợp với từng loại hình dịch vụ và cơ sở cung cấp dịch vụ (thể
thao, văn hóa, y tế, giáo dục, nghệ thuật, du lịch, khoa học...); chuẩn hóa cơ cấu ủy quyền
và đặt hàng của nhà cung cấp các dịch vụ nhằm tạo động lực cho sự tăng trưởng của các
cơ sở công lập và nằm ngoài công lập, tăng cường các chất lượng dịch vụ công, tạo ra
nguồn trả tiền cho những người dân. Cùng với đó nhà nước phải ban hành nhiều chính
sách nhằm giúp đỡ cho người nghèo, gia đình có công và các dân tộc đồng bào thiểu số.
-Ngoài ra khu vực kinh doanh ngoài nước được phép gia nhập đóng góp các dịch vụ
theo đúng nguyên tắc và hướng dẫn mà nhà nước đã đề ra, khu vực ngoài nhà nước được
khuyến khích và thúc đẩy đóng góp các dịch vụ công không vì lợi ích. Đồng thời xây
dựng mục tiêu và các chương trình phân loại hết các doanh nghiệp của công đóng góp các
dịch vụ công vào 3 yếu tố trên, phải xây dựng qui trình thực hiện quy chế đãi ngộ mới đối
với các đơn vị này. Nghiên cứu để chuyển đổi các cơ sở doanh nghiệp công lập qua lãnh
thổ ngoài công lập (vốn chủ sở hữu của các trường học và của các bệnh viện đã đủ điều
kiện).
-Thứ ba là hiện thực có nghiên cứu việc coi đầu tư tiền công là chính sách đầu tư và
phát triển, thay đổi chi tiêu công và chi tiêu ngân sách nhà nước; Giảm tỉ trọng ngân sách
nhà nước trong tổng thể đầu tư cả xã hội, dành nguồn ngân sách trả lương cho công chức
để bảo đảm tiền lương bình quân của công chức cao hơn mức bình quân của lực lượng lao
động trong lãnh thổ của thị trường (doanh nghiệp).
-Thứ tư là từ từ tách quỹ lương tổng hợp với ngân sách nhà nước và quỹ bảo hiểm
xã hội (BHXH), từng bước hoàn thành nguồn chi trả với chính sách đãi ngộ và hỗ trợ xã
hội cho người có công theo cơ chế tạo quốc gia. Giảm bớt áp lực tăng trưởng, phân bổ
kinh phí từ ngân sách nhà nước cho phù hợp khi bắt đầu cải cách tiền lương công chức.
Cần tách rời BHXH của công nhân, viên chức hưởng lương trong ngân sách nhà nước với
BHXH của người lao động trong lãnh thổ thị trường.
-Thứ năm đó là xây dựng có kế hoạch cải cách cơ chế đãi ngộ công chức theo
hướng tăng dần năng lực học sinh, tránh thay đổi nguồn quá mạnh sẽ tác động xấu đến
kinh tế, quan hệ giữa kinh tế và xã hội. Trong giai đoạn từ 2011 đến 2015, trọng tâm là
tăng mức lương tối thiểu để đảm bảo mức sống của cán bộ công chức (mức trung bình của
mức lương ít nhất thực tế lãnh thổ ở thị trường); giảm bớt biên chế hành chính, thúc đẩy
xã hội-hóa trong lãnh thổ nhà nước. Trong giai đoạn từ 2016 đến 2020, các chương trình
trên sẽ tiếp tục được thực hiện, đồng thời chú trọng mở rộng mối quan hệ tiền lương và
điều chỉnh cơ cấu đầu tư để thúc đẩy tăng trưởng, tách nguồn chi BHXH, trợ giúp xã hội,
khen thưởng người có công...

Liên hệ với Việt Nam


Ở nước ta hiện nay , việc sửa đổi đối với chính sách tiền lương và đối với các chính sách
có liên quan bước đầu từ năm 1992 và bắt đầu vào năm 1993. Cuộc sửa đổi này được xem
là như một cuộc cách mạng đã biến đổi hoàn toàn. Cơ bản: Tính đúng cơ bản và tính đủ
và loại bỏ hoàn toàn bao cấp, bình đẳng trong phân phối chính sách và tiền lương để tạo
cho doanh nghiệp nhà nước (DNNN) và đơn vị của sự nghiệp tự chủ hơn trong thu nhập
tiền lương, hạ thấp mức can thiệp và khắc phục tình trạng phân phối bình đẳng, sắp xếp
hệ thống tiền lương . Những điểu chỉnh trong cơ cấu nền kinh tế ở cuối của những năm
1980, quan trọng là sau cuộc sửa đổi của tiền công 1993, đã tạo ra sự phân biệt rõ hơn về
quỹ tiền lương giữa khu vực hành chính sự nghiệp và khu vực sản xuất. Sản xuất và vận
hành: Quỹ tiền lương là một phần cần thiết của chi tiêu. Tạo giá trị mới là giá cả của sức
lao động sống hiện tại. Quỹ tiền lương của DNNN hoàn toàn tách biệt với NSNN.
-Từ các thay đổi ở trên đã và đang tạo nên mặt bằng tiền công, lương: Mức tiền lương
thấp nhất: Hiện nay thì mức tiền công ít nhất chỉ để được đảm bảo việc rớt giá, việc tăng
nhằm bảo đảm mức lương vừa đủ sống đối với giá trị sức lao động là chủ yếu và giảm dần
từng ngày. Nhưng nếu cơ sở được so sánh ở 2002 thì tiền từ năm 2003 đến năm 2007 thì
tiền lương hiện thực sau 5 năm được tính đã tăng lên 46% (tính theo chỉ số giá trị chung),
hay chiếm 23,71% nhưng chỉ tính theo giá của thực phẩm. Từ 2008 đến 2011, tiền lương
hiện thực sau bốn năm đã nâng lên 9,51% (tính theo chỉ số giá trị chung) hay chiếm -
10,21% (nếu chỉ tính riêng theo giá của sản phẩm). Nói chung thì từ 2003 đến 2011, nếu
lấy năm 2002 làm cơ sở (lương tối thiểu 210.000 đồng trên 1 tháng) thì tiền lương danh
nghĩa đã tăng lên 295,3%, chỉ số giá tiêu dùng chung hiện nay tăng lên 147,4%, chỉ riêng
giá lương thực. chỉ số đã tăng lên 255,81%. Như vậy, sau 9 năm, tiền lương thực tế đã
tăng trung bình 59,91% (theo GPI), tăng trung bình chiếm 5,41% hoặc chiếm 11,11%
(nếu chỉ tính riêng theo giá lương thực) và tăng chiếm 1,22% hàng năm, trong khi nhịp độ
tăng trưởng kinh tế trung bình 9 năm là chiếm gần 7,4% trên 1 năm. Mức thay đổi tăng
trưởng nhanh tiền lương thực tế trung bình cộng hằng năm từ năm 2003 đến năm 2011 chỉ
ngang một phần hai đến một phần bốn mức thay đổi trung bình mỗi năm từ năm 1993 đến
năm 2002, trong khi đó tổng quỹ lương và phụ cấp bình quân mỗi năm tăng xấp xỉ gấp
đôi. Mức lương thấp nhất (bằng giá trị tiền lương tối thiểu chung và cộng phụ cấp khu
vực và phụ cấp đặc thù và phụ cấp danh lam thắng cảnh) là hết sức bất đồng và bất hợp lí:
chi ngân sách, lương thấp nhất đô thị, lương tối thiểu đô thị là ít nhất, trong khi đó lãnh
thổ sản xuất và kinh doanh thì cao nhất.

- Những hạn chế của hệ thống tiền công hiện nay ở nước ta về mối quan hệ giữa tiền
lương trung bình cộng ít nhất và nhiều nhất với mối liên hệ này vừa mang tính hình thức
vừa mang tính bình quân trong hiện thực. Mức lương được thấp nhất chung là mạng lưới
ổn định của xã hội để chống đói nghèo và lợi dụng, là chuẩn mực cho những chính sách
của xã hội và công việc tử tế. Mặc dù dùng nó để so sánh mối quan hệ đãi ngộ giữa
CBCCVC là chưa hợp lí và không phù hợp. Về cấp độ bảng lương: căn cứ xác định được
mức lương chức vụ chưa thống nhất. Thù lao của các Bộ trưởng hoặc lớn hơn, hay số ít
cán bộ ở cấp xã, cán bộ quản lí các cơ quan nhà nước và tính toán mức thù lao của các
chức danh còn lại, bao gồm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Công an và Bộ Mật
vụ. Thư ủy viên được xác định theo cấp bậc, quân hàm và phụ cấp chức vụ. Mức lương
vẫn được quyết định dựa trên bằng cấp hơn là năng lực, hiệu quả công việc, nội dung
hoặc vị trí yêu cầu. Về phụ cấp lương và hệ thống thăng tiến: Hệ thống phụ cấp lương
ngày càng bất hợp lí đã làm đổ vỡ mối quan hệ tiền lương chung. Hệ thống thăng tiến quá
không hoàn hảo và không liên quan gì đến vị trí được yêu cầu hoặc trình độ chuyên môn
của vị trí đó. Các tiêu chuẩn chức danh công chức còn quá nhiều hạn chế và chưa được
chú ý nhiều, điều chỉnh và sửa đổi. Về thể chế nguồn để hiện thức những cải cách về tiền
công và quản lý về tiền công: Thể chế nguồn thực hiện những cải cách về tiền công và
quản lý tiền công đã được ban hành cách đây khoảng 20 năm về đa số thì không khác,
không có thay đổi lớn. Thể chế chung chung là dữ liệu vô căn cứ và được cho là không
thiết yếu, không có phương pháp hiện thức cụ thể hóa và không có giải pháp căn cơ cho
vấn đề.

- Thực trạng về tiền lương người dân lao động ở VN: Thực tế thì lương thấp nhất ở
vùng đang tăng lên tới 2.700.000 đồng đối với vùng 1 và tối thiểu 1.900.000 đồng đối với
vùng 4, đến 2015, lương thấp nhất vùng sẽ còn tăng lên 3.100.000 VND (Quận 1) và
2.200.000 Rupiah (Quận 4), tuy nhiên, theo tìm hiểu thì hiện, với mức lương này, người
dân chỉ có thể đạt 75% của mức sống tối thiểu. Một khi khi tiền lương không còn đủ để lo
cho cuộc sống và sức khỏe chưa được đảm bảo thì người lao động khó có thể hoàn thành
công việc bình thường trong 8 giờ qui định. Qua thời gian sẽ hình thành một tầng lớp
nghèo mới, và sẽ ảnh hưởng nặng đến trật tự an ninh xã hội.
- Mức lương trung bình của một số ngành : Mức lương tối thiểu cho các vị trí trưởng
phòng tại các công ti doanh nghiệp ở VN là khoảng 2 đến 3 triệu đồng trên 1 tháng. Các
vị trí cao hơn như giám đốc nhân sự thì nằm trong khoảng 1000 đến 2000 đô / tháng.
Lương của các nhân viên tiếp thị của các công ti nhỏ cũng chỉ hơn 3.000.000 đồng trên 1
tháng. Đối với những nhân viên có tay nghề, lương cũng được trả bằng hàng ngàn đô la
dựa trên khả năng làm việc. Phó Tổng Giám đốc của công ti Pesi Việt Nam là ông Lê
Trung Thành, là một trong số nhà tiếp thị xuất sắc nhất ở VN và mức lương một tháng
6.000 USD. Một bác sĩ đa khoa lương hơn 10 triệu đồng mỗi tháng.
- Một số giả thuyết nguyên nhân cho tình trạng tiền lương còn hạn chế ở VN là: Chưa
hiểu biết đầy đủ về bản chất hàng hoá và bản chất tiền lương của lao động. Vẫn còn thiếu
quyết tâm. Khi thực hiện cải cách tiền lương thì không có cơ chế tạo nguồn mà chỉ cân
đối ngân sách. Trong quá trình thực hiện chính sách, chưa kết hợp cải cách hành chính với
đổi mới phương thức hoạt động và hình thức đãi ngộ của khu vực sự nghiệp. Sự kết hợp
đồng điệu giữa các bộ, ban, ngành và địa phương với xây dựng và thực thi chủ trương còn
nhiều giới hạn. Công tác trong quản lý tiền lương và thu nhập vẫn còn khiếm khuyết.
- Thực hiện thêm một vài phương pháp tăng lương nhằm cải thiện tinh thần và cuộc
sống của người dân lao động. hạn chế các khó khăn còn có trong chính sách tiền lương và
bảo đảm tính ổn định đời sống của người dân lao động thời nay và cần thực hiện các biện
pháp:

• Thứ nhất: tăng lương danh nghĩa. Người lao động được sử dụng tiền lương danh
nghĩa để trao đổi mua bán và hàng hóa với dịch vụ. Marx đã viết như sau : "Trong quá
trình cải thiện phát triển tư bản chủ nghĩa, tiền lương danh nghĩa có xu hướng tăng
nhanh , nhưng lượng mức tăng của nó thường không theo kịp với sự gia tăng của giá cả
hàng hóa tiêu dùng và dịch vụ". Mặc dù tiền lương danh nghĩa không thể phản ánh đúng
mức sống của người dân lao động, nhưng để nâng cao tiền lương thực tế, trước hết chúng
ta phải nâng cao tiền lương danh nghĩa. Trong một thời kỳ nhất định, nếu tiền lương danh
nghĩa không đổi nhưng giá cả hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng tăng thì tiền lương thực tế sẽ
giảm.
• Thứ hai: Chỉnh sửa cung-cầu để bình ổn giá cả thị trường. Nếu mà cung bằng cầu
thì giá mới hợp lý, người dân tiêu dùng dễ tiếp nhận và người làm sản xuất nhân lên
nhanh chóng.
• Thứ ba: Chống được lạm phát và giữ ổn định giá cả để tiền lương danh nghĩa vẫn
mua được nhiều sản phẩm tiêu dùng. Một khi lạm phát xảy ra, giá cả hàng hóa tiêu dùng
tăng, và nếu tiền lương không tăng thì họ cũng không thể mua được vật tiêu dùng và bảo
đảm sinh kế.
• Thứ tư: Thực hiện các chính sách thuế để thích hợp với lương và khả năng tài chính
của người dân lao động. Thời nay, nhà nước ta đã có các mức thuế rõ ràng đối với các thu
nhập của người dân lao động và miễn giảm thuế. Tức là người nộp thuế bị tai nạn hay
thiên tai có hư hại về tài sản, tính mạng thì được xét miễn, mức độ giảm thiệt hại nhưng
không được vượt quá số thuế phải nộp.

C. Kết luận

Có thể thấy, chính sách tiền lương ở VN đang được cập nhật từng ngày, tuy đã đạt được
những kết quả nhất định nhưng vẫn còn một số tồn tại. Trên thực tế, lý thuyết trên của
Marx là rất chính xác về chủ nghĩa tư bản, mà còn ý nghĩa liên quan đến hiện thực về kinh
tế của thị trường ở nước ta thời nay. Vì vậy, việc nghiên cứu áp dụng học thuyết của Mác
về hàng hoá, lao động và tiền lương là sửa đổi chính sách tiền lương ở nước ta thời nay,
có ý nghĩa to lớn là tạo ra sự đồng điệu của cập nhật chính sách kinh tế - xã hội, để tăng
trưởng đất nước. thực sự là của dân vì dân.
Tài liệu kham khảo

1.https://binhphuoc.gov.vn/vi/news/Thong-tin-chi-dao-dieu-hanh/cai-cach-chinh-sach-
tien-luong-de-nang-cao-doi-song-cho-cbccvc-llvt-va-nguoi-lao-dong-trong-doanh-nghiep-
20536.html
2.https://www.luatquanghuy.edu.vn/blog/bai-tap-luat/nhung-nguyen-ly-co-ban-cua-chu-
nghia-mac-lenin/ly-luan-tien-cong-cua-c-mac-va-su-van-dung-ly-luan-nay-trong-cai-
cach-chinh-sach-tien-cong-tien-luong-o-viet-nam-hien-nay/
#Nhung_han_trong_cai_cach_chinh_sach_tien_cong_o_nuoc_ta_nhung_nam_gan_day_v
a_nguyen_nhan
3.http://www.molisa.gov.vn/Pages/tintuc/chitiet.aspx?tintucID=20947
4.http://123docz.net/document/1948275-ly-luan-ve-tien-cong-va-su-van-dung-ly-luan-
tien-cong-trong-chinh-sach-tien-luong-o-viet-nam-hien-nay.htm
5. https://luanvan1080.com/khai-niem-lam-phat-la-gi.html
6. https://luatminhkhue.vn/lam-phat-la-gi-nguyen-nhan-va-giai-phap-kiem-soat-lam-
phat.aspx
7. https://luatduonggia.vn/luu-thong-tien-te-la-gi-tim-hieu-quy-luat-luu-thong-tien-te/
8. https://vi.wikipedia.org/
9. Giáo trình Kinh Tế Chính Trị Mác-Lenin của Bộ Giáo Dục và Đào Tạo.
10. https://thebank.vn/blog/15598-lam-phat-la-gi-nhung-nguyen-nhan-nao-dan-den-lam-
phat.html#cac-nguyen-nhan-gay-ra-lam-phat

You might also like