You are on page 1of 23

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG

KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ




TIỂU LUẬN KINH TẾ CHÍNH TRỊ

HÀNG HÓA SỨC LAO ĐỘNG VÀ VẤN ĐỀ TIỀN LƯƠNG, CẢI CÁCH
TIỀN LƯƠNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Sinh viên thực hiện: Bùi Thảo Mai


Mã SV: 1914450031
Lớp: TRIE114.5
Giảng viên hướng dẫn: ThS. Đặng Hương Giang

Hà Nội, tháng 7 năm 2020


MỤC LỤC
A.Lời nói đầu ............................................................................................2
B.Nội dung .................................................................................................3
I. Hàng hóa sức lao động...........................................................................3
1. Khái niệm sức lao động........................................................................3
2. Điều kiện để sức lao động trở thành hàng hóa.....................................3
3. Hai thuộc tính của hàng hóa sức lao động...........................................4
a. Giá trị hàng hóa sức lao động............................................................4
b. Gía trị sử dụng hàng hóa sức lao động...............................................5
II. Vấn đề tiền lương...................................................................................5
1. Tiền lương - sự biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hóa sức lao động5
2. Những yêu cầu đối với tiền lương .......................................................7
3. Các yếu tố tác động đến tiền lương......................................................9
4. Chính sách tiền lương ở nước ta .........................................................11
I. Cải cách tiền lương ở Việt Nam hiện nay..............................................12
1. Những kết quả đạt được gần đây..........................................................12
2. Những hạn chế trong chính sách cải cách tiền lương hiện nay............14
3. Nguyên nhân của thực trạng trên.........................................................15
4. Giải pháp trong cải cách tiền lương ....................................................16
C.Kết luận................................................................................................19
D. Danh mục tài liệu tham khảo............................................................20

2
A. LỜI MỞ ĐẦU
Trong cơ chế thị trường hiện nay, tiền lương và giá cả đóng một vai trò
quan trọng trong công cuộc xây dựng XHCN. Tuy nhiên, các vấn đề xung
quanh lương và giá cả thị trường ngày càng phức tạp, lương và giá có mỗi
quan hệ chặt chẽ với nhau. Mỗi khi lương tăng thì giá lại biến động khó
lường, lương và giá như có một cuộc “rượt đuổi” nhưng lương không thể
biến động theo giá. Cho nên Đảng và nhà nước ta cần có những chính sách
mạnh mẽ để hoàn thiện tiền lương.
Mặc dù ở nước ta chính sách tiền lương đã được cải cách. Tuy nhiên,
nhiều vấn đề cốt lõi vẫn chưa được giải quyết một cách thoả đáng. Cho đến
nay, thu nhập của người được hưởng lương tăng, mức sống, tiêu dùng tăng,
về cơ bản không do chính sách tiền lương đem lại mà do tăng thu nhập
ngoài lương, nhờ kinh tế tăng trưởng (tiền lương Nhà nước trả chỉ chiếm
một phần ba, thu nhập khác chiếm tới hai phần ba).
Việc hiểu và vận dụng đúng những nguyên lý về tiền lương của Mác
trong điều kiện nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay có ý nghĩa rất
lớn.Cải cách chính sách tiền lương sẽ ảnh hưởng như thế nào đến lợi ích
của người lao động, và nên tiến hành cải cách như thế nào để đảm bảo
được lợi ích người lao động, đến lợi ích của toàn quốc gia…? Đây là vấn
đề đã thu hút được sự quan tâm của đông đảo mọi người. Xuất phát từ ý
nghĩa lý luận và thực tiễn nêu trên mà em lựa chọn đề tài :“ Hàng hóa sức
lao động và vấn đề tiền lương, cải cách tiền lương ở Việt Nam hiện nay “
Trong quá trình làm bài tiểu luận, em đã nhận được sự gợi ý của TH.S
Đặng Hương Giang. Tuy nhiên do còn giới hạn về kiến thức và thời gian
làm bài nên bài tiểu luận của em không tránh khỏi thiếu sót. Rất mong nhận
được sự góp ý của cô! Em xin chân thành cảm ơn!

3
B. NỘI DUNG
I. HÀNG HÓA SỨC LAO ĐỘNG
1. Khái niệm sức lao động
Theo C.Mác, “Sức lao động, đó là toàn bộ các thể lực và trí lực ở trong
than thể một con người, trong nhân cách sinh động của một con người, thể
lực và trí lực mà con ngời phải làm cho hoạt động để sản xuất ra những vật
có ích”.
Trong bất cứ xã hội nào, sức lao động cũng là điêu kiện cơ bản của sản
xuất. nhưng không phải trong bất kì điều kiện nào sức lao động cũng là
hàng hóa. Thực tiễn lịch sử cho thấy, sức lao động chính của người nô lệ
không phải là hàng hóa, vì bản than người nô lệ thuộc sở hữu của chủ
nô,anh ta không có quyền bán sức lao động của mình. Người thợ thủ công
tự do tuy được tự ý sử dụng sức lao động của mình, nhưng sức lao động
của a ta cũng không phaei hàng hóa, vì anh ta có tư liệu sản xuất để làm ra
sản phẩm nuôi sống mình chứ chưa buộc phải bán sức lao dộng để sống.
2. Điều kiện để sức lao động trở thành hàng hóa
Sức lao động chỉ có thể trở thành hành hóa trong những điều kiện nhất
định sau đây:
+ Thứ nhất, người lao động phải được tự do về than thể, làm chủ được
sức lao động của bản than mình và có quyền bán sức lao động của
mình như một hàng hóa.
+ Thứ hai, người có sức lao động phải bị tước đoạt hết mọi tư liệu sản
xuất, để tồn tại buộc anh ta phải bán sức lao động của mình để sống.
Sự tồn tại đồng thời của hai điều kiện nói trên tất yếu biến sức lao động
trở thành hàng hóa. Sức lao động biến thành hàng hóa là điều kiện quyết
định để tiền biến thành tư bản. tuy nhiên để tiền biến thành tư bản thì lưu
thông hàng hóa và lưu thông tiền tệ phải phát triển đến một giai đoạn nhất
định.

4
Trong các hình thái xã hội trước chủ nghĩa tư bản chỉ có sản phẩm
của lao động mới là hàng hóa. Chie đến khi sản xuất hàng hóa phát triển
đến một mức độ nhất địng nào đó, các hình thái sản xuất cũ( sản xuất nhỏ,
phường hội, phong kiến) bị phá vỡ, thì mới xuất hiện những điều kiện để
cho sức lao động trở thành hàng hóa, chính sự xuất hiện của hàng hóa sức
lao động đã làm cho sản xuất hàng hóa trở nên có tính chất phổ bieến và đã
báo hiệu ch sự ra đời của một thời đại mới trong lịch sử xã hội – thời đại
của chủ ghĩa tư bản.
3. Hai thuộc tính của hàng hóa sức lao động
Cũng giống như mọi hàng hóa khác, hàng hóa sức lao động cũng có
hai thuộc tính: giá trị và giá trị sử dụng.
a. Giá trị hàng hoá sức lao động
Giống như các hàng hoá khác, giá trị hàng hoá sức co động củng do
thời gian lao động xã hội cần thiết để xuất và tái sản xuất sức lao động
quyết định.
Sức lao động chỉ tồn tại như năng lực sông của con người. Như vậy thời
gian lao động xã hội cần thiết để tái sản xuất ra sức lao động sẽ được quy
thành thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra những tư liệu sinh
hoạt nuôi sống bản thân người công nhân và gia đìnhanh ta; hay nói cách
khác, giá trị hàng hoá sức lao động được đo gián tiếp rằng giá trị của những
tư liệu sinh hoạt cần thiết để tái sản xuất ra sức lao động.Là hàng hoá đặc
biệt, giá trị hàng hoá sức lao động khác với hàng hoá thông thường ở chỗ
nó còn bao hàm cả yếu tố tinh thần và lịch sử.
Mặc dù bao hàm cả yếu tố tinh thần và lịch sử nhưng đối với mỗi một
nước nhất định và trong một thời kỳ nhất định, thì quy mô những tư liệu
sinh hoạt cần thiết cho người lao động là một đại lượng nhất định, do đó có

5
thể xác định được lượng giá trị hàng hoá sức lao động do những bộ phận
sau đây hợp thành:
+ Một là, giá trị những tư liệu sinh hoạt về vật chất và tinh thần cần
thiết để tái sản xuất sức lao động, duy trì đời sống của bản thân
người công nhân;
+ Hai là, phí tổn đào tạo người công nhân.
+ Ba là, giá trị những tư liệu sinh hoạt vật chất và tinh thần cần thiết
cho con cái và gia đình người công nhân.
b. Giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động
Giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động thể hiện ra trong quá trình
tiêu dùng sức lao động, tức là quá trình lao động của người công nhân.
Quá trình sử dụng hay tiêu dùng hàng hoá sức động khác với quá trình tiêu
dùng hàng hoá thông thường ở chỗ:
Đối với các hàng hóa thông thường, sau quá trình tiêu dùng hay sử
dụng thì cả giá trị lẫn giá trị sử dụng của nó đều tiêu biến mất theo thời
gian.
Đối với hàng hoá sức lao động, quá trình tiêu dùng chính là quá trình
sản xuất ra một loại hàng hoá nào đó, đồng thời là quá trình tạo ra một giá
trị mới lớn hơn giá của bản thân hàng hoá sức lao động. Phần lớn hơn đó
chính là giá trị thặng dư mà nhà tư bản sẽ chiếm đoạt. Như vậy, giá trị sử
dụng của hàng hoá sức lao động có chất đặc biệt, nó là nguồn gốc sinh ra
giá trị, tức là nó có thể tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị của bản thân nó.
Đây chính là chìa khoá để giải thích mâu thuẫn của công thức chung của tư
bản. Chính đặc tính này đã làm cho sự xuất hiện của hàng hóa sức lao động
trở thành điều kiện để tiền tệ chuyển hóa thành tư bản.
II. VẤN ĐỀ TIỀN LƯƠNG
1. Tiền lương - sự biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hóa sức lao
động

6
Xét trên góc độ cá nhân người lao động, sức lao động là tổng hợp
toàn bộ thể lực và trí tuệ tồn tại trong cơ thể sống của con người mà con
người có thể vận dụng trong quá trình sản xuất. Sức lao động là khả năng
lao động, là yếu tố giữ vai trò quyết định trong quá trình sản xuất. Hiệu quả
lao động phụ thuộc vào nhiều yếu tố vật chất khác, song yếu tố có ý nghĩa
quyết định là sức lao động. Thể lực và trí tuệ của người lao động lại phụ
thuộc vào mức sống, vào chất lượng cuộc sống và những yếu tố đó, suy cho
cùng, lại phụ thuộc vào chính thu nhập của người lao động mà phần cơ bản
trong thu nhập đó là tiền lương.
Xét trên góc độ xã hội, sức lao động trong nền sản xuất xã hội là lực
lượng lao động xã hội - một nguồn lực quan trọng cho phát triển kinh tế.
Chất lượng củalực lượng lao động phụ thuộc vào nhiều chính sách của nhà
nước, như chính sách phân phối, chính sách giáo dục đào tạo và các chính
sách kinh tế - xã hội khác, trong đó chính sách tiền lương giữ vai trò quan
trọng.
C.Mác cho rằng, để sức lao động trở thành hàng hóa cần có hai điều
kiện. Một là, người có sức lao động hoàn toàn tự do về thân thể, có nghĩa là
người đó phải có quyền sở hữu sức lao động của mình và có quyền đem
bán nó như một hàng hóa. Hai là, người có sức lao động nhưng không có tư
liệu sản xuất hoặc của cải, do đó buộc phải bán sức lao động của mình.
Người lao động ở vào các điều kiện trên sẽ đem bán sức lao động
của mình để duy trì cuộc sống. Khi kinh tế hàng hóa phát triển hơn thì điều
kiện thứ hai có những thay đổi nhất định. Đó là không phải chỉ những
người hoàn toàn không có tư liệu sản xuất hoặc của cải mới đem bán sức
lao động của mình, mà cả những người có tư liệu sản xuất hoặc có vốn,
nhưng không đủ khả năng để sản xuất có hiệu quả cũng vẫn đi làm thuê.
Giá trị hàng hóa sức lao động được biểu hiện trên thị trường thông
qua tiền lương. Vì vậy, tiền lương là biểu hiện bằng tiền của giá trị sức lao

7
động, là giá cả của sức lao động mà người sử dụng lao động (nhà nước, chủ
doanh nghiệp) phải trả cho người cung ứng sức lao động, tuân theo các quy
luật của thị trường sức lao động và pháp luật của nhà nước. Do đó, cơ sở
của tiền lương là giá trị sức lao động. Giá trị hàng hóa sức lao động được
quyết định bởi lượng thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất và tái
sản xuất ra sức lao động. Nhưng sức lao động là khả năng lao động gắn liền
với cơ thể sống của con người, vì vậy tái sản xuất ra năng lực đó cũng có
nghĩa là duy trì sự sống, sự hoạt động bình thường của người lao động. Để
thực hiện điều đó đòi hỏi phải có những tư liệu sinh hoạt nhất định. Do đó,
giá trị hàng hóa sức lao động được đo bằng giá trị của những tư liệu sinh
hoạt cần thiết để sản xuất và tái sản xuất ra sức lao động.
Tái sản xuất sức lao động bao gồm hai phương diện: tái sản xuất sức
lao động về mặt chất lượng, có nghĩa là phải bảo đảm phục hồi và nâng cao
thể lực, trí tuệ cho người lao động, và, tái sản xuất sức lao động về mặt số
lượng, có nghĩa là bảo đảm sự sống cho con cái người lao động.
Giá trị hàng hóa sức lao động được hợp thành từ giá trị các tư liệu
sinh hoạt vật chất và tinh thần cần thiết cho bản thân người lao động;
những phí tổn đào tạo người lao động để họ có được trình độ lành nghề
thích hợp; giá trị các tư liệu sinh hoạt vật chất và tinh thần cần thiết cho
con cái người lao động.
2. Những yêu cầu đối với tiền lương
Với tư cách là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị sức lao động, tiền
lương mà người lao động nhận được phải bảo đảm được các yêu cầu sau:
Một là, một bộ phận của tiền lương phải bảo đảm mua được lượng
hàng hóa và dịch vụ cần thiết đáp ứng nhu cầu vật chất, tinh thần để người
lao động sống và hoạt động bình thường trong môi trường sống và lao động
của họ.

8
Hai là, một bộ phận của tiền lương phải bảo đảm trang trải các chi
phí đào tạo để họ có được trình độ lành nghề thích hợp. Bởi vì người lao
động tham gia vào quá trình sản xuất không chỉ dựa vào thể lực mà còn sử
dụng cả trí tuệ nữa. Không những thế, sản xuất ngày càng phát triển, lao
động ngày càng phức tạp nên chi phí đào tạo ngày càng tăng. Những người
lao động làm việc trong các lĩnh vực khác nhau, với trình độ lao động khác
nhau (lao động giản đơn hoặc lao động phức tạp) có phí tổn đào tạo khác
nhau nên mức độ thỏa mãn nhu cầu vật chất và nhu cầu tinh thần để duy trì
sự sống và hoạt động bình thường cũng khác nhau. Vì vậy, mức lương của
những người lao động giản đơn và lao động phức tạp có sự chênh lệch.
Ba là, một bộ phận của tiền lương phải bảo đảm nuôi con cái người
lao động. Bởi vì, tái sản xuất sức lao động không chỉ về chất lượng mà còn
về số lượng. Con cái người lao động chính là lực lượng thay thế và bổ sung
cho thị trường sức lao động. Quy mô một gia đình Việt Nam hiện nay trung
bình có hai con, nên mỗi người lao động phải bảo đảm nuôi được ít nhất
một con.
Giá trị hàng hóa sức lao động còn bao hàm cả yếu tố lịch sử và tinh
thần. Điều đó có nghĩa là những nhu cầu, cũng như quy mô của những nhu
cầu của người lao động tùy thuộc vào điều kiện tự nhiên, tập quán, trình độ
văn minh đã đạt được. Điều này cho thấy, một mặt, giá trị sức lao động của
những người sống ở các vùng khác nhau có sự khác nhau, nên tiền lương
của họ có sự chênh lệch. Mặt khác, sản xuất ngày càng phát triển, khoa học
kỹ thuật ngày càng tiến bộ, trình độ văn minh ngày càng cao, nên nhu cầu
của con người cũng ngày càng tăng về số lượng, chất lượng và chủng loại.
Vì vậy, giá trị sức lao động cũng như tiền lương không phải là cố định mà
xu hướng vận động của chúng ngày càng tăng lên.

9
3. Các yếu tố tác động đến tiền lương
Tiền lương là giá cả của sức lao động, nên một mặt nó dựa trên cơ sở
giá trị sức lao động, mặt khác, cũng tuân thủ theo các quy luật của thị
trường sức lao động. Do đó, tiền lương phụ thuộc vào các yếu tố thị trường
như:
- Quan hệ cung - cầu về sức lao động. Tương quan cung cầu về sức
lao động ở các ngành khác nhau không giống nhau. Nhìn chung, những
ngành sử dụng lao động giản đơn là chủ yếu thường có cung lớn hơn cầu về
sức lao động, vì thế tiền lương ở những ngành này có xu hướng ngày càng
thấp đi. Ngược lại, ở những ngành sử dụng lao động trí tuệ, lao động có
trình độ cao là chính, thường có cung nhỏ hơn cầu về sức lao động, vì thế
tiền lương có xu hướng tăng cao. Tương quan cung - cầu về sức lao động
cũng thay đổi ở các giai đoạn phát triển khác nhau của nền kinh tế. Chẳng
hạn, khi nền kinh tế bị suy thoái, tiền lương cũng có xu hướng giảm, khi
nền kinh tế hưng thịnh, đầu tư mở rộng, cầu về lao động tăng thì tiền lương
cũng có xu hướng tăng. Giữa các vùng khác nhau trong một quốc gia hoặc
giữa các quốc gia khác nhau có điều kiện kinh tế - xã hội khác nhau, tương
quan cung - cầu về sức lao động cũng khác nhau nên tiền lương cũng có sự
chênh lệch.
- Giá cả hàng hóa và dịch vụ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trên thị
trường. Ở đây, cần phân biệt tiền lương danh nghĩa và tiền lương thực tế.
Tiền lương danh nghĩa là tiền lương mà người lao động nhận được dưới
hình thức tiền tệ. Tiền lương thực tế là lượng hàng hóa hay dịch vụ mà
người lao động mua được bằng tiền lương danh nghĩa với mức giá cả hàng
hóa và dịch vụ trên thị trường sau khi đã trừ đi thuế và các khoản trích nộp
khác. Như vậy tiền lương thực tế tỷ lệ nghịch với giá cả hàng hóa và dịch
vụ. Trong điều kiện phát triển bình thường của nền kinh tế, tỷ lệ lạm phát
tự nhiên hằng năm thường ở mức một con số. Do đó, tiền lương danh nghĩa

10
nếu không được điều chỉnh theo tỷ lệ lạm phát thì tiền lương thực tế sẽ
giảm xuống. Vì vậy, để bảo đảm tiền lương thực tế cho người lao động cần
có sự điều chỉnh tiền lương danh nghĩa theo tỷ lệ lạm phát. Đối với người
lao động, lợi ích và mục đích cuối cùng của việc cung ứng sức lao động là
tiền lương thực tế chứ không phải là tiền lương danh nghĩa.
- Các yếu tố chính trị - xã hội, chẳng hạn như sự can thiệp của nhà
nước thông qua chính sách tiền lương; vào sự phát triển và tác động của
các tổ chức công đoàn, tổ chức đảng trong các doanh nghiệp. Tiền lương
không chỉ thuần túy là vấn đề kinh tế, vấn đề lợi ích, mà cao hơn, nó là vấn
đề xã hội, liên quan trực tiếp đến chính sách kinh tế vĩ mô của nhà nước.
Cơ chế điều tiết của thị trường lao động phải được định hướng bằng chính
sách tiền lương của nhà nước, trong đó việc quy định và kiểm soát mức
lương tối thiểu là sự cần thiết tất yếu. Luật hóa mức lương tối thiểu là hình
thức can thiệp của nhà nước vào tiền lương trong điều kiện thị trường sức
lao động luôn có số cung tiềm tàng lớn hơn số cầu, hoặc do sự giảm sút
tiền lương thực tế khi nền kinh tế đang có lạm phát cao để bảo hộ mức
lương thực tế cho người lao động.
Về mức lương tối thiểu cũng có những quan điểm khác nhau. Mức
lương tối thiểu đo lường giá cả loại sức lao động giản đơn trong điều kiện
làm việc bình thường, với một khung giá các tư liệu sinh hoạt hợp lý. Quan
điểm của kinh tế học hiện đại về mức lương tối thiểu lại xuất phát từ quy
luật cung- cầu trên thị trường lao động, từ mối quan hệ giữa khả năng cung
ứng và khả năng sử dụng lao động. Theo quan điểm này, cơ chế thị trường
là tác nhân chủ yếu quy định và điều tiết mức lương. Song trong điều kiện
mức cung lớn hơn mức cầu về lao động, làm cho mức lương trên thị trường
giảm sút không bảo đảm khả năng tái sản xuất sức lao động, thì nhà nước
cần quy định mức lương tối thiểu lớn hơn mức lương trên thị trường lao
động để bảo hộ lợi ích cho người lao động. Hiện nay nhà nước ta cũng vận

11
dụng quan điểm này để quy định mức lương tối thiểu trong khu vực kinh tế
tư nhân.

12
4. Chính sách tiền lương ở nước ta:
Trong những năm qua, công cuộc đổi mới kinh tế của nước ta đạt
được nhiều thành tựu trên mọi lĩnh vực, đặc biệt trong việc nâng cao chất
lượng cuộc sống cho người dân, thể hiện qua chính sách phát triển kinh tế
nhiều thành phần, đầu tư phát triển giáo dục đào tạo, phát triển y tế nâng
cao sức khỏe cho nhân dân... Song thực tế cho thấy, chính sách tiền lương
của nhà nước còn chậm đổi mới so với sự phát triển chung của tình hình
kinh tế - xã hội. Chính sách tiền lương còn nhiều bất hợp lý được thể hiện ở
những điểm sau:
- Về mức lương tối thiểu. Mặc dù đã qua nhiều lần điều chỉnh tăng
mức lương tối thiểu, nhưng cho tới nay, mức lương tối thiểu vẫn quá thấp
không bảo đảm tái sản xuất giản đơn sức lao động của bản thân người lao
động. Nếu so sánh chỉ số lương tối thiểu với hệ nhu cầu cần đạt được (gồm
các yếu tố: ăn, ở, mặc, đi lại, học tập, văn hóa, giao tiếp xã hội, bảo hiểm
xã hội, bảo hiểm y tế và bảo hiểm thất nghiệp), thì chỉ số này rất thấp. Mức
lương tối thiểu hiện nay (1,05 triệu đồng/tháng) chỉ bằng 37,5% nhu cầu tối
thiểu.
- Thời gian và mức độ điều chỉnh tiền lương danh nghĩa. Ở nước ta,
trong những năm gần đây, tỷ lệ lạm phát hằng năm khá cao, vì thế, về
nguyên tắc, để tiền lương thực tế của người lao động không bị giảm cần
phải điều chỉnh tăng mức lương danh nghĩa ít nhất ngang bằng với tỷ lệ
lạm phát. Tuy nhiên, trên thực tế, việc điều chỉnh lương chưa được thực
hiện kịp thời, không theo kịp với đà tăng giá. Tại hội thảo “Thực trạng
chính sách tiền lương và hướng cải cách” do Ủy ban Các vấn đề xã hội
của Quốc hội tổ chức ngày 17-5-2012, nhiều đại biểu cho rằng, việc
tăng lương lâu nay mới chỉ bù đắp được mức tăng chỉ số giá cả, tức là chỉ
bù vào được lạm phát, chứ chưa đáp ứng được mục đích nâng cao chất
lượng cuộc sống. Mức lương tối thiểu quy định trong khu vực nhà nước chỉ

13
đáp ứng được 35% nhu cầu sống tối thiểu, còn lương tối thiểu quy định cho
khu vực doanh nghiệp theo từng vùng chỉ đáp ứng được khoảng 75% nhu
cầu sống tối thiểu.
- Hệ số phụ cấp. Tiền lương có một chức năng cực kỳ quan trọng là
điều tiết quan hệ cung - cầu về sức lao động trong nền kinh tế thị trường.
Hệ số phụ cấp trong chính sách tiền lương ở nước ta hiện nay mới chỉ có
loại phụ cấp tham gia điều tiết cung - cầu sức lao động theo vùng là phụ
cấp khu vực, phụ cấp thu hút, phụ cấp đắt đỏ. Sự chênh lệch mức lương
giữa lao động giản đơn và lao động phức tạp chưa đủ để khuyến khích nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực, thậm chí còn có tình trạng “chảy máu chất
xám”.
- Tỷ lệ tiền lương trong thu nhập. Tiền lương chỉ trở thành động lực
mạnh mẽ thúc đẩy sự hoạt động tích cực của người lao động khi nó chiếm
phần lớn trong thu nhập của họ. Với chính sách tiền lương hiện hành, tiền
lương của cán bộ công nhân, viên chức hiện nay chỉ chiếm phần nhỏ trong
tổng thu nhập của người hưởng lương (khoảng 30%- 50%), làm cho tiền
lương không phản ánh đúng thang giá trị lao động, ảnh hưởng lớn tới quan
hệ tiền lương trên thực tế. Hiện nay, có một tình trạng là, do tiền lương quá
thấp, trong khi quỹ tiền thưởng được Nhà nước quy định, khống chế không
vượt quá 50% quỹ tiền lương thực hiện nên một số đơn vị đã tìm mọi cách
để tăng phần trả ngoài lương, trong đó chủ yếu là tiền thưởng cho người lao
động từ 1 đến hơn 1 lần lương chính thức.
III. Cải cách tiền lương ở Việt Nam hiện nay
1. Những kết quả gần đây đạt được
Trong những năm qua, công cuộc đổi mới kinh tế của nước ta đạt được
nhiều thành tựu trên mọi lĩnh vực, đặc biệt trong việc nâng cao chất lượng
cuộc sống cho người dân, thể hiện qua chính sách phát triển kinh tế nhiều
thành phần, đầu tư phát triển giáo dục đào tạo, phát triển y tế nâng cao sức

14
khỏe cho nhân dân… tiền công của người dân cũng nhiều lần được thay đổi
để phù hợp với nhu cầu cuộc sống. Mới đây gần nhất là mức lương tối
thiểu trong năm 2017.Theo nghị định 153/2016/NĐ-CP ban hành ngày
14/11/2016 và có hiệu lực từ ngày 1/1/2017 thì tiền công tối thiểu theo
vùng được quy định như sau:
Vùng I: 3.750.000 đồng/tháng (tăng 250.000 đồng/tháng so với năm
2016).
Vùng II: 3.320.000 đồng/tháng (tăng 220.000 đồng/tháng so với năm
2016).
Vùng III: 2.900.000 đồng/tháng (tăng 200.000 đồng/tháng so với năm
2016).
Vùng IV: 2.580.000 đồng/tháng (tăng 180.000 đồng/tháng so với năm
2016).
Như vậy, tính bình quân chung 4 Vùng, mức tăng lương tối thiểu vùng
năm 2017 được Hội đồng tiền lương Quốc gia đề xuất là 213.000
đồng/tháng, tức tăng khoảng 7,3% so với năm 2016.
Với việc tăng mức tiền công tối thiểu đã góp phần giúp người lao động
đáp ứng các nhu cầu thiết yếu của mình, giải quyết khó khăn của người làm
công ăn lương cho đời sống, các nhu cầu hàng ngày cuộc sống như : ăn,ở,
con cái, gia đình…Nó cũng đã thể hiện đường lối đúng đắn của nhà nước
trong việc quan tâm đến đời sống nhân dân,lo lắng cho nhân dân. Ngoài ra
không chỉ đáp ứng riêng nhu cầu vật chất mà về tinh thần thì tăng lương
cũng giúp cho tâm trạng người lao động cảm thấy vui hơn, kích thích khả
năng sang tạo, tang gia sản xuất thúc đẩy sản xuất phát triển.
Tăng tiền công tối thiểu cũng cho thấy rằng sự coi trọng hàng hóa sức
lao động của người lao động hơn. Theo thời gian hàng hoá sức lao động
càng có giá trị cao hơn trước,phù hợp với lượng sức lao động mà người lao
động phải bỏ ra.

15
Tiếp đó, tiền công danh nghĩa của CBCCVC có xu hướng tăng do nhiều
lần điều chỉnh mức lương tối thiểu chung trên cơ sở bù trượt giá và tăng
trưởng kinh tế, mở rộng quan hệ tiền lương tối thiểu – trung bình – tối đa,
từng bước tiền tệ hóa các khoản ngoài lương nhằm khắc phục bình quân,
bao cấp và ổn định đời sống của CBCCVC.
Qua những năm gần đây cũng cho thấy quan điểm chủ trương về chính
sách của Đảng là phù hợp với nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội
chủ nghĩa.
2. Những hạn chế trong cải cách chính sách tiền lương hiện nay
Thứ nhất.Mặc dù tiền công nước tăng theo thời gian nhưng nhìn
chung thì vẫn còn chậm, không theo lộ trình. Theo Bộ Nội vụ, từ năm 2003
đến 2012, mức lương tối thiểu chung cho người lao động trong khu vực
hành chính – sự nghiệp đã điều chỉnh 7 lần từ 210.000 đồng/tháng lên
830.000 đồng/tháng, với mức tăng gần 4 lần. Từ ngày 1/5/2012, mức lương
tối thiểu đã được quyết định tăng lên mức 1.050.000 nghìn đồng/tháng. Tuy
nhiên, theo PGS., TS.Trần Văn Thiện, Viện trưởng Viện nghiên cứu phát
triển nguồn nhân lực – Trường Đại học Kinh tế TP.Hồ Chí Minh, mặc dù
đã qua 7 lần điều chỉnh mức lương tối thiểu nhưng nếu tính tới chỉ số lạm
phát và giá cả tiêu dùng thì lương tối thiểu thực tế chỉ tăng hơn 0,05 lần.
Tính ra, trung bình mỗi năm lương tối thiểu thực tế chỉ tăng 0,64%. Với số
tiền công danh nghĩa như vậy thì tiền công thực tế hiện nay cực eo hẹp để
chi trả cho cuộc sống. Đặc biệt mức thuế lên tới 35 % đang khiến một số
người có thu nhập rất cao lo lắng và cảm thấy thiệt thòi khi làm được 10
đồng phải dành đến gần 3 đồng để đóng thuế.
Việc tiền công danh nghĩa thấp như vậy chưa phù hợp với sức lao
động mà người lao động phải bỏ ra trong hàng hóa. Nó quá thấp để đáp ứng
được hết các nhu cầu thiết yếu hằng ngày.

16
Thứ hai, quá trình cải cách tiền công chưa kịp thời với sự biến động
của giá cả thị trường. Người dân vẫn bị ám ảnh bởi việc lương chưa tăng
mà giá đã tăng. Trong những năm qua diễn biến phức tạp hơn so với những
con số thống kê được và tác động xấu đến đời sống của người dân. Làm
cho những người làm công ăn lương nhất là những người có thu nhập thấp
và không có thu nhập khác ngoài lương. Tính chung từ năm 2003 đến năm
2011, nếu lấy gốc so sánh là năm 2002 (mức lương tối thiểu là
210.000đồng/tháng) tiền lương danh nghĩa tăng 295,2%; chỉ số giá cả hàng
hóa tiêu dùng chung tăng147,2%, riêng chỉ số giá lương thực, thực phẩm
tăng 255,8%. Như vậy, tiền lương thực tế sau 9 năm tăng là 59,9% (theo
chỉ số giá chung), bình quân mỗi năm tăng 5,4% hoặc tăng 11,1% (nếu tính
riêng theo giá lương thực, thực phẩm), bình quân mỗi năm tăng 1,2%, trong
khi tốc độ tăng trưởng kinh tế 9 năm bình quân đạt 7,3%/năm. Mức điều
chỉnh tăng tiền lương thực tế bình quân hàng năm từ 2003 đến 2011 chỉ
bằng 1/2 đến 1/4 mức điều chỉnh bình quân hàng năm từ 1993 đến 2002.
Chỉ với việc tăng lương nhưng giá cả thị trường đã tăng lên bao nhiêu
lần. Lúc bắt đầu có đề ấn tăng lương giá cả tăng lên một lần, đến lúc phê
chuẩn đề ấn đó lương tăng thêm một lần nữa và khi quyết định có hiệu lực
thì là lần cưới tăng giá cả lên. Như vậy lương chỉ tăng một lần nhưng giá cả
thì tăng lên ba lần giá thị trường hiện tại. Chính vì vậy mà cho dù lương có
tăng lên nhưng cuộc sống người dân vẫn không tăng lên.
Thứ ba, quá trình tăng lương chưa đồng bộ với các giải pháp khác làm
cho tiền công thực tế của người lao động thấp. Các giải pháp như tăng năng
suất lao động, tăng trình độ đào tạo của lao động hay là các chính sách kinh
tế xã hội như: bảo hiểm xã hội, văn hóa giáo dục, y tế….
Ngoài ra thì còn nhiều hạn chế khác nữa.
3. Nguyên nhân của thực trạng trên

17
Thứ nhất, là do nền kinh tế Việt Nam còn chưa thực sự phát triển, ngân
sách còn eo hẹp chưa đáp ứng được tiền lương. Bộ trưởng Bộ Nội vụ cho
rằng nguyên nhân là do tốc độ tăng trưởng GDP thấp so với chỉ tiêu đề ra;
thu ngân sách nhà nước tăng chậm, trong khi nhu cầu tăng chi đầu tư phát
triển để bảo đảm kinh tế, tăng chi cho quốc phòng an ninh, an sinh xã hội,
cùng với áp lực giảm bội chi nên rất khó bố trí nguồn để cải cách tiền
lương.
Thứ hai là do số lượng cán bộ, công nhân, viên chức của việt nam thì
nhiều, lương không đủ sống mà bộ máy ngày càng phình to. Số người làm
việc hiệu quả thì ít mà hưởng lương thì nhiều nên lương nhà nước khó mà
cải cách nhanh dược
Thứ ba, cấp trình và quyết định chính sách có nhiều cái còn mang
tính chủ quan đơn thuần chưa được dài hạn, đồng bộ. trải qua nhiều lần cải
cách nhưng kinh nghiệm đúc rút vẫn chưa được nhiều để á dụng cho các
lần khác.
Thứ tư, hệ thống pháp luật về tiền công, lao động chưa hoàn thiện còn
nhiều hạn chế bất cập chính sách giữa các ngành còn nhiều bất cập.
Thứ năm, trình độ lao động của người lao động việt nam còn thấp

4. Giải pháp trong cải cách tiền lương hiện nay


a. Đầu tiên, là cần vận dụng sang tạo có hiệu quả lí luận hàng hóa sức lao
động của c.mác vào thực tiễn Việt Nam. Bởi đây là những kinh nghiệm
quý bàu đúng đắn đã được đức rút qua bao nhiêu thời kì, phù hợp với sự
phát triển lịch sử. Có ý nghĩa từ trong lịch sử cho đến hoàn cảnh hiện
nay. Bởi lí luận đó được hình thành và phát triển trên cơ sở kế thừa
những giá trị tư tưởng của nhân loại và tổng kết thực tiễn thời đại . Bao
quát được một cách khái quát các lĩnh vực tri thức nhân loại. Nên vận
dụng tư tưởng này sẽ phù hợp.

18
b. Thứ hai, cần tăng năng suất lao động của sản phẩm lên. Việc điều chỉnh
tăng tiền lương tối thiểu và lương cơ sở cần căn cứ vào tốc độ tăng
trưởng kinh tế hay năng suất lao động và chỉ số giá tiêu dùng (CPI) biến
động tăng lên làm ảnh hưởng đến giá trị thực của tiền lương. Trong đó,
chỉ số CPI trong thời gian qua biến động không lớn. Bởi nguyên tắc
tăng tiền lương là tốc độ tăng năng suất lao động phải nhanh hơn tốc độ
tăng lương bình quân thì mới giữ được chỉ số giá tiêu dùng. Vì vậy,
muốn tăng được thu nhập khi lương tối thiểu tăng chỉ có cách duy nhất
là tăng năng suất lao động. Năng suất lao động tăng thì mới có nguồn để
chi trả cho lao động hoạt động. Đối với các khu vực doanh nghiệp thì
tiền lương cũng chính là một bộ phận của chi phí sản xuất nên nếu tiền
lương tăng thì lợi nhuận giảm và ngược là. Cho nên phải nâng cao hiệu
quả sản xuất khi đó sẽ tạo ra được nguồn để vừa tăng lợi nhuận vừa tăng
được tiền lương. Để thực hiện cần tăng cường công tác xây dựng kế
hoạch lao động, định mức lao động, qũy lương kế hoạch, xác định đơn
giá tiền công trên cơ sở nguyên tắc tăng tiền lương bình quân thấp hoen
tăng tốc độ sức lao động.

c. Thứ ba, nâng cao trình độ tay nghề, tăng cường đào tạo nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực. Tay nghề của công nhân, chất lượng của cán bộ
công chức nhà nước còn hạn chế cho nên tiền công họ nhận được còn
thấp. Chúng ta so sánh với các nước khác như Mỹ, Singapo chẳng hạn
không phải do nước họ là một nước phát triển mà tiền công nhận được
cao mà một phần là do chất lượng nguồn lao động của họ hàng đầu thế
giới. Họ được đào tạo kĩ lưỡng bài bản, đầy đủ chất xám để giải quyết
nhanh gọn công việc. Thì nhà nước và các doanh nghiệp sẵn sàng trả
mức lương cao phù hợp công sức họ và thu hút nguồn nhân lực tốt nhất.
Tương tự như ở Việt Nam chất lượng tăng thì năng suất lao động tăng

19
công sức lao động bỏ ra nhiều thì đòi hỏi số tiền lương trả sẽ tăng phù
hợp với họ.

d. Thứ tư, cần kiềm chế được tình trạng lạm phát hiện nay. Lạm phát là sự
gia tăng mức giá chung của hàng hóa và dịch vụ theo thời gian. Tiền
lương phải được coi là giá cả sức lao động, được hình thành theo quy
luật thị trường, dựa trên cung- cầu về sức lao động, chất lượng, cường
độ lao động và mức độ cạnh tranh việc làm. Thực hiện tốt, phấn đấu rút
ngắn lộ trình điều chỉnh tiền lương và trợ cấp xã hội giai đoạn 2008-
2012 đi đôi với kiểm soát lạm phát để đảm bảo thu nhập thực tế ngày
càng tăng cho người hưởng lương. Với tình trạng lương chưa tăng mà
giá cả tăng nhanh hơn tiền lương hiện nay thì cho dù tiền lương tăng thì
cũng không nhanh bằng giá cả. Giá cả tăng 3 lần sau khi tăng lương thì
tiền lương nhận được không đủ đáp ứng nhu cầu hằng ngày. Cho nên
việc kiềm chế tình trạng lạm phát rất quan trọng giúp cho tiền lương
nhận được ” có giá” hơn. Số tiền nhận được không chỉ mua hàng hóa
hóa mà còn đủ cho các việc cuộc sống như văn hóa, giáo dục, vui
chơi… Việc kiềm chế lạm phát hiện nay đóng vai trò rất quan trọng.

e. Thứ năm, cần tinh giảm bộ máy cán bộ, công chức, viên chức nhà nước.
Vì bộ máy nhà nước việt Nam hiện nay quá cồng kềnh, với số lượng cán
bộ công chức như vậy thì nhà nước phải chi trả một lượng tiền lớn cho
các vị trí. Trong khi năng suất lao động thì không hiệu quả mà phải chi
trả lương cho họ thì tổn thất một lượng lương không hề nhỏ. Nhà nước
cần quản lý chặt và giảm đến mức tối đa đối tượng hưởng lương từ ngân
sách nhà nước. Cần xây dựng một nền hành chính là công vụ chuyên
nghiệp hiện đại trên cơ sở đó xác định rõ vị trí năng suất lao động nhằm

20
trả lương đúng cho người cống hiến. Đồng thời rà soát lại đội ngũ cán
bộ công chức.

21
C. KẾT LUẬN
Qua những phân tích trên cho thấy bên cạnh những thành tựu đạt được
tiền công nước ta vẫn còn nhiều bất cập hạn chế không thể tránh khỏi. Việc
tiền công nước ta còn thấp do nhiều nguyên nhân tuy nhiên chủ yếu do
quan hệ tiền lương và giá cả bất hợp lú hiện nay. Vì vậy Đảng Nhà Nước
và toàn thể nhân dân cần đề ra và áp dụng giải pháp thiết thực giúp tăng
tiền công hiện nay.Đã đến lúc phải có bước đột phá thật sự trong việc tiếp
tục cải cách chính sách tiền lương, không chỉ là ở vấn đề tạo nguồn tài
chính để tăng lương tối thiểu đơn thuần mà cả về vấn đề nghiệp vụ tiền
lương, nghĩa là cải cách cả hệ thống thang bảng lương khắc phục những
hạn chế, bất cập của nó xuất phát từ những đòi hỏi khách quan của cuộc
sống. Cần khẩn trương đưa quan điểm của Đảng tại Hội nghị Ban chấp
hành Trung ương lần thứ 7 (khoá VIII) vào cuộc sống, rằng: “tiền lương
gắn liền với sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, trả lương đúng cho
người lao động chính là thực hiện đầu tư cho phát triển; góp phần quan
trọng làm lành mạnh, trong sạch đội ngũ cán bộ, nâng cao tinh thần trách
nhiệm và hiệu suất công tác” Đại hội lần thứ IX cũng tiếp tục khẳng định:
“Cải cách cơ bản chế độ tiền lương cán bộ, công chức theo hướng tiền tệ
hoá đầy đủ tiền lương; điều chỉnh tiền lương tương ứng với nhịp độ tăng
thu nhập trong xã hội; hệ thống thang bậc lương bảo đảm tương quan hợp
lý, khuyến khích người có tài, người làm việc giỏi”

22
D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Cacmac và Ăngghen toàn tập – tập 23
( Nhà xuất bản: Chính trị quốc gia-sự thật , Năm xuất bản: 1995)
2. Giáo trình Kinh tế chính trị
( Nhà xuất bản: Chính trị quốc gia-sự thật , Năm xuất bản: 1993)
3. Tạp chí cộng sản – Nghiên cứu và trao đổi số 24
4. Viện Khoa học Lao động và Xã hội (2015). Xu hướng lao động và
xã hội Việt Nam: Báo cáo thường niên 2015. NXB Lao động. Hà
Nội.
5. Viện Năng suất Việt Nam (2015). Báo cáo Năng suất Việt Nam
2015(https://drive.google.com/file/d/0B430_6GZ1p_1TkIzZ1BvbE0
xR00/view)

23

You might also like