You are on page 1of 16

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG CƠ SỞ QUẢNG NINH

KHOA KẾ TOÁN - KIỂM TOÁN


===000===

TIỂU LUẬN
MÔN KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC LÊNIN

LÝ LUẬN SẢN XUẤT HÀNG HÓA CỦA C.MÁC VÀ VẬN DỤNG


VÀO PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG VIỆT NAM HIỆN NAY

Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Hằng


Mã SV: 2214818111
Số thứ tự điểm danh: 14
Lớp: Anh 33 - KTKT - K61
Giảng viên hướng dẫn:ThS. Đặng Hương Giang

Quảng Ninh, Tháng 5/2023


MỤC LỤC

MỤC LỤC ...................................................................................................................................2


LỜI MỞ ĐẦU..................................................................................................................................3
NỘI DUNG......................................................................................................................................4
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CỦA C.MÁC VỀ SẢN XUẤT HÀNG HÓA......................................4
1. Sản xuất hàng hóa.................................................................................................................5
1.1 Khái niệm sản xuất hàng hóa................................................................................5

1.2 Điều kiện ra đời của sản xuất hàng hóa................................................................5

2. Hàng hóa...............................................................................................................................5
2.1 Khái niệm của hàng hóa........................................................................................6

2.2 Thuộc tính của hàng hóa.......................................................................................6

2.3 Các quy luật của sản xuất hàng hóa......................................................................7

CHƯƠNG II: VẬN DỤNG LÝ LUẬN SẢN XUẤT HÀNG HÓA CỦA C. MÁC VÀO PHÁT
TRIỂN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY...................................................9
1. Kinh tế thị trường và sự cần thiết phát triển kinh tế thị trường ở VN..................................9
1.1 Khái niệm kinh tế thị trường.................................................................................9

1.2. Đặc điểm chính của kinh tế thị trường...............................................................10

1.3. Tính tất yếu khách quan phát triển kinh tế thị trường ở VN hiện nay...............10

2. Thực tiễn về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam..................11
2.1 Sự biểu hiện của lý luận sản xuất hàng hóa trong phát triển kinh tế thị.............12

trường ở Việt Nam hiện nay.....................................................................................12

2.2 Những biện pháp vận dụng hiệu quả lý luận sản xuất hàng hóa của C. Mác trong
phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay....................................................13

LỜI KẾT THÚC............................................................................................................................15


TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................................................16

2
LỜI MỞ ĐẦU

Với bất kì quốc gia nào, nền kinh tế hàng hóa cũng đóng vai trò chủ đạo chi phối
đáng kể vào nền hoạt động của nền kinh tế quốc dân. Sau hơn 10 năm đổi mới toàn
diện, trước những thử thách gay go, những hoàn cảnh hết sức khó khăn phức tạp
nhưng Đảng và nhân dân Việt Nam không những đã đứng vững được mà còn vươn
lên đạt được những thắng lợi trên nhiều mặt. Có được kết quả đó là nhờ Đảng và
nhà nước ta đã kiên quyết chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp
sang nền kinh tế nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lí
của Nhà nước và định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế hàng hóa phát triển ở trình độ cao. Ở đó
mọi quan hệ sản xuất và trao đổi đều được thông qua thị trường, chịu sự tác động,
điều tiết của các quy luật thị trường. Có thể thấy sản xuất hàng hóa và hàng hóa
đóng một vai trò hết sức quan trọng trong nền kinh tế thị trường, những lý luận sản
xuất hàng hóa của C.Mác đã cho ta thấy được vai trò quan trọng đó của sản xuất
hàng hóa và hàng hóa. Lý luận của C.Mác chỉ ra các phạm trù cơ bản về hàng hóa,
tiền tệ, giá cả, quy luật giá trị, tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa, năng
suất lao động… giúp cho việc nhận thức một cách căn bản cơ sở lý luận của các
mối quan hệ kinh tế trong nền kinh tế thị trường. Chính vì thế, việc nghiên cứu về
lý luận sản xuất hàng hóa của C.Mác và tìm hiểu vai trò cũng như tác động của nó
đến nền kinh tế, đặc biệt là trong thời kì phát triển nền kinh tế thị trường ở nước ta
hiện nay có ý nghĩa vô cùng quan trọng và cần thiết.
Với mong muốn tìm hiểu rõ bản chất, mối quan hệ của lý luận sản xuất hàng hóa
với nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, em quyết định chọn đề tài nghiên cứu: “ Lý
luận sản xuất hàng hóa của C.Mác và vận dụng vào phát triển kinh tế thị trường ở
Việt Nam hiện nay”
Nội dung của bài nghiên cứu bao gồm 2 chương:
- Chương 1: Lý luận của C.Mác về sản xuất hàng hóa.
- Chương 2: Vận dụng lý luận sản xuất hàng hóa của C.Mác vào phát triển kinh
tế thị trường ở Việt Nam hiện nay.
Mong cô đóng góp ý kiến để giúp bài nghiên cứu của em được hoàn thiện hơn.
Em xin cảm ơn !

3
NỘI DUNG

CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CỦA C.MÁC VỀ SẢN XUẤT HÀNG HÓA

1. Sản xuất hàng hóa


1.1 Khái niệm sản xuất hàng hóa
Theo C.Mác, sản xuất hàng hóa là kiểu tổ chức hoạt động kinh tế mà ở đó,
những người sản xuất ra sản phẩm nhằm mục đích trao đồi, mua bán.

1.2 Điều kiện ra đời của sản xuất hàng hóa


Sản xuất hàng hóa không xuất hiện dồng thời với sự xuất hiện của xã hội loài
người. Nền kinh tế hàng hóa có thể hình thành và phát triển khi có các điều kiện:

Một là, phân công lao động xã hội.

Phân công lao động xã hội là sự phân chia lao động trong xã hội thành các
ngành, các lĩnh vực sản xuất khác nhau, tạo ncn sự chuycn môn hóa của những
người sản xuất thành những ngành, nghề khác nhau. Khi đó, mỗi người thực hiện
sản xuất một hoặc một số loại sản phẩm nhất định, nhưng nhu cầu của họ lại yêu
cầu nhiều loại sán phẩm khác nhau. Để thỏa mãn nhu cầu của mình, tất yếu những
người sản xuất phải trao đổi sản phẩm với nhau.

Hai là, sự tách biệt về mặt kinh tế của các chủ thể sản xuất.

Sự tách biệt về mặt kinh tế giữa các chủ thể sản xuất làm cho giữa những người
sản xuất độc lập với nhau, có sự tách biệt về lợi ích. Trong điều kiện đó, người này
muốn tiêu dùng sản phẩm của người khác phải thông qua trao đổi, mua bán, tức là
phải trao đồi dưới hình thức hàng hóa. C.Mác viết: “chỉ có sản phẩm của những lao
động tư nhân độc lập và không phụ thuộc vào nhau mới đối diện với nhau như là
những hàng hóa. Sự tách biệt về mặt kinh tế giữa những người sản xuất là điều
Trong lịch sử, sự tách biệt về mặt kinh tế giữa các chủ thề sản xuất hiện khách
quan dựa trên sự tách biệt về sở hữu. Xã hội loài người càng phát triển, sự tách biệt
về sở hữu càng sâu sắc, hàng hóa được sản xuất ra càng phong phú.

4
Khi còn sự tổn tại của hai diều kiện nêu trên, con người không thể dùng ý chí
chủ quan mà xóa bỏ nền sản xuất hàng hóa được. Việc cố tình xóa bỏ nền sản xuất
hàng hóa, sc làm cho xã hội đi tới chỗ khan hiếm và khủng hoảng. Với ý nghĩa đó,
cần khẳng định, nền sán xuất hàng hóa có ưu thế tích cực vượt trội so với nền sản
xuất tự cấp, tự túc.

2. Hàng hóa
2.1 Khái niệm của hàng hóa
Hàng hóa là sản phẩm của lao động, cỏ thể thỏa mãn nhu cầu nào đỏ của con
người thông qua trao đôi, mua hán. Sản phẩm của lao động là hàng hóa khi nhằm
đưa ra trao đổi, mua bán trên thị trường. Hàng hóa có thể ở dạng vật thề hoặc phi
vật thể.

2.2 Thuộc tính của hàng hóa

Hàng hóa có hai thuộc tính là giá trị sử dụng và giá trị.

- Giá trị sử dụng của hàng hóa

Giá trị sử dụng của hàng hóa là công dụng của sản phẩm, có thế thỏa mãn nhu cầu
nào đó của con người. Nhu cầu đó có thể là nhu cầu vật chất hoặc nhu cầu tinh
thần; có thể là nhu cầu cho tiêu dùng cá nhân, có thể là nhu cầu cho sản xuất. Giá
trị sử dụng chỉ được thực hhiện trong việc sử dụng hay tiêu dùng. Nền sản xuất
càng phát triển, khoa học, công nghệ càng hiện đại, càng giúp cho con người phát
hiện ra nhiều và phong phú hơn các giá trị sử dụng của sản phẩm. Giá trị sử dụng
của hàng hóa là giá trị sử dụng nhằm đáp ứng yêu cầu của người mua. Cho nên,
nếu là người sản xuất, phải chú ý hoàn thiện giá trị sử dụng của hàng hóa do mình
sản xuất ra sao cho ngày càng dáp ứng nhu cầu khắt khe và tinh tế hơn của người
mua.- Giá trị của hàng hóa

Để nhận biết được thuộc tính giá trị, xét trong quan hệ trao đổi. Thí dụ, có một
quan hệ trao đổi như sau: xA = yB. Ở đây, số lượng X đơn vị hàng hóa A, được
trao đổi lấy số lượng y đơn vị hàng hóa B. Tỷ lệ trao đổi giữa các giá trị sử dụng
khác nhau này được gọi là giá trị trao đổi.

Vấn đề đặt ra là: tại sao giữa các hàng hóa có giá trị sừ dụng khác nhau lại trao đổi
được với nhau, với những tỷ lệ nhất định?.

Sở dĩ các hàng hóa trao đồi được với nhau là vì giữa chúng có một điểm chung.
Điểm chung đó không phải là giá trị sử dụng mặc dù giá trị sử dụng là yếu tố cần

5
thiết đề quan hộ trao đồi được diễn ra. Điểm chung đó phải nằm ở trong cả hai
hàng hóa.

Nếu gạt giá trị sừ dụng hay tính có ích của các sản phẩm sang một bên thì giữa
chúng có điểm chung duy nhất: đều là sản phẩm của lao động; một lượng lao động
bằng nhau đẵ hao phí để tạo ra số lượng các giá trị sử dụng trong quan hệ trao đồi
đó.

Trong trường hợp quan hệ trao đổi đang xét, lượng lao động đã hao phí đê tạo ra
X đơn vị hàng hóa A dúng bằng lượng lao động đã hao phí để tạo ra y đơn vị hàng
hóa B. Đó là cơ sở để để các hàng hóa có giá trị sừ dụng khác nhau trao đôi được
với nhau theo tỷ lệ nhất định; một thực thể chung giống nhau là lao động xã hội đã
hao phí để sản xuất ra các hàng hóa có giá trị sử dụng khác nhau. Lao dộng xã hội
đã hao phí đề tạo ra hàng hóa là giá trị hàng hóa.

- Giá trị là lao động xã hội của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa.

Giá trị hàng hóa biểu hiện mối quan hệ kinh tế giữa những người sản xuất, trao
đổi hàng hóa và là phạm trù có tính lịch sử. Khi nào có sản xuất và trao đổi hàng
hóa, khi đó có phạm trù giá trị hàng hóa. Giá trị trao đổi là hình thức biểu hiện ra
bên ngoài của giá trị; giá trị là nội dung, là cơ sở của trao đổi. Khi trao đối người ta
ngầm so sánh lao động đã hao phí ẩn dấu trong hàng hóa với nhau.

Trong thực hiện sản xuất hàng hóa, đề thu được hao phí lao động đã kêt tinh
người sản xuât phải chú ý hoàn thiện giá trị sử dụng đê được thị trường chấp nhận.
Hàng hóa phải được bán đi.

2.3 Các quy luật của sản xuất hàng hóa


2.3.1 Quy luật giá trị
Quy luật giá trị là quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất và lưu thông hàng hóa. Ở
đâu có trao đổi và sản xuất hàng hóa thì ở đó có sự hoạt động của quy luật giá trị.
Quy luật giá trị yêu cầu sản xuất và trao đổi hàng hóa phải dựa trên cơ sở giá trị
của nó, tức là hao phí lao động xã hội cần thiết.liệu sản xuất, mở rộng sản xuất
kinh doanh, thậm chí thuê lao động trở thành ông chủ. Ngược lại, những người sản
xuất hàng hóa nào có mức hao phí lao động cá biệt lớn hơn mức hao phí lao động
xã hội cần thiết, khi bán hàng hóa sẽ rơi vào tình trạng thua lỗ, nghèo đi, thậm chí
có thể phá sản, trở thành lao động làm thuê. Đây cũng chính là một trong những
nguyên nhân làm xuất hiện quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, cơ sở ra đời của chủ
nghĩa tư bản. Như vậy, quy luật giá trị vừa có tác động tích cực, vừa có tác động
tiêu cực. Do đó, đồng thời với việc thúc đẩy sản xuất hàng hóa phát triển, nhà nước

6
cần có những biện pháp để phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của nó, đặc
biệt trong điều kiện phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
2.2.2. Quy luật cạnh tranh
Cạnh tranh là sự ganh đua về kinh tế giữa những chủ thể trong nền sản xuất
hàng hóa nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất, tiêu thụ hoặc
tiêu dùng hàng hóa để từ đó thu được nhiều lợi ích nhất cho mình. Cạnh tranh có
thể diễn ra giữa người sản xuất với người tiêu dùng. Ví dụ: người sản xuất thì
muốn bán được hàng hóa với giá cao, người tiêu dùng lại muốn mua được hàng
hóa với giá rẻ; hoặc giữa người tiêu dùng với người tiêu dùng để mua được hàng
hóa với giá rẻ hơn, chất lượng hơn; hoặc giữa người sản xuất với người sản xuất
nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ hàng hóa, như
điều kiện về vốn, lao động, nguồn nguyên liệu, thị trường, giành nơi đầu tư có lợi...
để thu được nhiều lợi ích nhất cho mình. Trong cuộc cạnh tranh này người ta có
thể dùng nhiều biện pháp khác nhau. Chẳng hạn, để giành giật thị trường tiêu thụ,
họ có thể dùng biện pháp cạnh tranh giá cả như giảm giá cả hàng hóa để đánh bại
đối thủ, hoặc cạnh tranh phi giá cả như dùng thông tin, quảng cáo sản phẩm, quảng
cáo dây chuyền sản xuất... để kích thích người tiêu dùng.
Nội dung của quy luật cạnh tranh là: Trong nền sản xuất hàng hóa, sự cạnh tranh
giữa những người sản xuất hàng hóa, giữa người sản xuất và người tiêu dùng là
một tất yếu khách quan, là yêu cầu thường xuyên đối với những người sản xuất
hàng hóa.
2.2.3 Quy luật cung cầu
Quy luật cung cầu là sự điều chỉnh của thị trường với một mức giá cân bằng và
một lượng giao dịch cân bằng sẽ được xác định. Khi cầu lớn hơn cung thì giá
tăng, cầu nhỏ hơn cung thì giá giảm, cầu bằng cung thì giá về trạng thái công
bằngCó thể nói rằng quy luật cung cầu có tác động lớn đến hoạt động kinh doanh,
hoạt động trao đổi buôn bán hàng hóa và giá cả hàng hóa trên thị trường. Theo đó
thì cân bằng thị trường là một trạng thái được mong muốn bởi trạng thái cân bằng
thị trường là trạng thái ở đó sản lượng giao dịch và giá cả có khả năng tự ổn định,
không phải chịu áp lực thay đổi. Cũng tự đó mà có thể tạo ra sự hài lòng giữa
người mua và người bán, và khi cân bằng thì sản lượng hàng hóa mà người bán sẵn
sàng cung cấp bằng với sản lượng người mua sẵn lòng mua.
Giữa cung, cầu và giá cả có mối quan hệ chặt chẽ với nhau:
- Giá cả = giá trị thì trạng thái cung cầu ở thế cân bằng.
- Giá cả < giá trị trị thì cung ở xu thế giảm, cầu ở xu thế tăng.
- Giá cả > giá trị trị thì cung ở xu thế tăng, cầu ở xu thế giảm.
- Cung > cầu thì giá cả có xu thế giảm.
- Cung < cầu thì giá cả có xu thế tăng.

7
- Cung = cầu thì giá cả ổn định tương đối.
Quy luật cung cầu luôn biến động trên thị trường nên giá cả cũng chịu tác động
và biến động theo. Do vậy mà các cơ quan quản lý luôn phải thực hiện kiểm soát
giá cả một cách ổn định. Tránh tình trạng ép giá thị trường và đảm bảo quyền lợi
của doanh nghiệp cung ứng sản phẩm.
2.3.4 Quy luật lưu thông tiền tệ và lạm phát
Quy luật lưu thông tiền tệ là quy luật quy định lượng tiền cần thiết cho lưu
thông hàng hóa trong một thời kỳ nhất định. Quy luật này được thể hiện như sau:
Lượng tiền cần thiết cho lưu thông hàng hoá trong một thời kỳ nhất định được xác
định bằng tổng giá cả của hàng hóa lưu thông trong thời kỳ đó chia cho tốc độ lưu
thông của đồng tiền
Trong đó:
- Tốc độ lưu thông của đồng tiền chính là số vòng quay trung bình của một đơn
vị tiền tệ.
-Tổng giá cả của mỗi loại hàng hóa bằng giá cả nhân với khối lượng đưa vào
lưu thông của hàng hóa ấy. Tổng giá cả của hàng hóa lưu thông bằng tổng giá cả
của tất cả các loại hàng hóa lưu thông.
Lượng tiền cần thiết cho lưu thông này tính cho một thời kỳ nhất định, cho nên
khi ứng dụng công thức này cần lưu ý một số điểm sau:
- Trong tính tổng giá cả phải loại bỏ những hàng hóa không được đưa ra lưu
thông trong thời kỳ đó như: Hàng hóa dự trữ hay tồn kho không được đem ra bán
hoặc để bán trong thời kỳ sau; hàng hóa bán (mua) chịu đến thời kỳ sau mới cần
thanh toán bằng tiền; hàng hóa dùng để trao đổi trực tiếp với hàng hóa khác; hàng
hóa được mua (bán) bằng hình thức thanh toán không dùng tiền mặt như ký sổ,
chuyển khoản,…
- Phải cộng thêm vào lượng tiền cần thiết cho lưu thông lượng tiền dùng để ứng
trước, để đặt hàng trong thời kỳ này nhưng lại chỉ nhận hàng trong thời kỳ sau và
lượng tiền mua (bán) hàng hoá chịu đã đến kỳ thanh toán.
Khi vàng và bạc được dùng làm tiền thì số lượng tiền vàng hay bạc làm phương
tiện lưu thông được hình thành một cách tự phát. Bởi vì, tiền vàng hay tiền bạc
(hoặc các của cải bằng vàng, bạc) thực hiện được chức năng là phương tiện cất trữ.
Nếu như số lượng tiền vàng hay tiền bạc lớn hơn số lượng tiền cần thiết cho lưu
thông hàng hóa thì việc tích trữ tiền tăng lên và ngược lại. Chẳng hạn, khi sản xuất
giảm sút, số lượng hàng hóa đem ra lưu thông ít đi, do đó số lượng tiền đang trong
lưu thông trở nên lớn hơn số lượng tiền cần thiết cho lưu thông, khi đó việc tích trữ
tiền sẽ tăng lên. Khi phát hành tiền giấy thì tình hình sẽ khác. Tiền giấy chỉ là ký
hiệu của giá trị, thay thế tiền vàng hay bạc trong chức năng làm phương tiện lưu
thông, bản thân tiền giấy không có giá trị thực. Trong chế độ tiền giấy bản vị vàng,
một đồng tiền giấy chỉ là ký hiệu của một lượng vàng nhất định dự trữ trong quỹ
dự trữ của nhà nước hoặc ngân hàng. Về nguyên tắc, bất kỳ lúc nào đồng tiền giấy
8
cũng được đổi sang lượng vàng mà nó ấn định. Trong trường hợp này lượng tiền
cần thiết cho lưu thông cũng tự điều tiết giống như trong chế độ tiền vàng.

CHƯƠNG II: VẬN DỤNG LÝ LUẬN SẢN XUẤT HÀNG HÓA CỦA C.
MÁC VÀO PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM HIỆN
NAY
1. Kinh tế thị trường và sự cần thiết phát triển kinh tế thị trường ở VN
1.1 Khái niệm kinh tế thị trường
Kinh tế thị trường là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ
chế thị trường
1.2. Đặc điểm chính của kinh tế thị trường
Các chủ thể kinh tế có tính tự chủ cao. Mỗi chủ thể kinh tế là một thành phần
của nền kinh tế có quan hệ độc lập với nhau, mỗi chủ thể tự quyết định lấy hoạt
động của mình. Tính phong phú của hàng hóa. Do các chủ thể kinh tế đều tự quyết
định lấy hoạt động của mình nên bất cứ hàng hóa nào có nhu cầu thì sẽ có người
sản xuất. Mà nhu cầu của con người thì vô cùng phong phú, điều này tạo nên sự
phong phú của hàng hóa trong nền kinh tế thị trường.
Cạnh tranh là tất yếu trong kinh tế thị trường. Hàng hóa nào có nhu cầu lớn
thì sẽ có nhiều người sản xuất. Khi có quá nhiều người cùng sản xuất một mặt hàng
thì việc cạnh tranh là tất yếu.
Kinh tế thị trường là một hệ thống kinh tế mở, trong đó có sự giao lưu rộng rãi
không chỉ trong thị trường một nước mà giữa các thị trường với nhau. Giá cả hình
thành ngay trên thị trường. Không một chủ thể kinh tế nào quyết
định được giá cả. Giá của một mặt hàng được quyết định bởi cung và cầu của thị
trường.
Nền kinh tế thị trường có thể tự hoạt động được là nhờ vào sự điều tiết của cơ
chế thị trường. Đó là các quy luật kinh tế khách quan như quy luật giá trị, quy luật
cung cầu, lưu thông tiền tệ, cạnh tranh.. tác động, phối hợp hoạt động của toàn bộ
thị trường thành một hệ thống thống nhất.
1.3. Tính tất yếu khách quan phát triển kinh tế thị trường ở VN hiện nay
Những điều kiện chung để kinh tế hàng hóa xuất hiện vẫn còn tồn tại ở Việt
Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Do đó, sự tồn tại của kinh tế hàng
hóa, kinh tế thị trường ở nước ta là một tất yếu khách quan.
Thứ nhất, phân công lao động xã hội là cơ sở tất yếu của nền sản xuất hàng
hóa vẫn còn tồn tại và ngày càng phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu ở nước
ta hiện nay. Phân công lao động xã hội phát triển thể hiện ở chỗ các ngành nghề ở
nước ta ngày càng đa dạng, phong phú chuyên môn hóa sâu. Tác động của phân
công lao
động:
- Góp phần phá vỡ tính chất tự cung tự cấp của nền kinh tế tự nhiên trước đây
9
và thúc đẩy kinh tế hàng hóa phát triển mạnh mẽ hơn
- Là cơ sở và là động lực để nâng cao năng suất lao động xã hội, nghĩa là làm
cho nền kinh tế ngày càng có nhiều sản phẩm thặng dư dùng để trao đổi, mua
bán. Do đó, làm cho trao đổi mua bán hàng hóa ngày càng phát triển hơn.
Thứ hai, sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế: do tồn tại nhiều hình thức sở
hữu, do đó tồn tại nhiều chủ thể kinh tế độc lập, lợi ích riêng nên quan hệ kinh tế
giữa họ chỉ có thể thực hiện bằng quan hệ hàng hóa – tiền tệ.
Thứ ba, thành phần kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể tuy cùng dựa trên chế
độ công hữu về tư liệu sản xuất nhưng các đơn vị kinh tế vẫn có sự khác biệt nhất
định, có quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh, có lợi ích riêng, mặt khác các đơn
vị kinh tế còn có sự khác nhau về trình độ kỹ thuật – công nghệ, về trình độ quản
lý nên chi phí sản xuất và hiệu quả cũng khác nhau nên quan hệ kinh tế giữa họ
phải thực hiện bằng quan hệ hàng hóa – tiền tệ.
Thứ tư, trong quan hệ kinh tế đối ngoại trong điều kiện phân công lao động quốc
tế, mỗi quốc gia riêng biệt là chủ sở hữu đối với mỗi hàng hóa đưa ra trao đổi trên
thị trường, sự trao đổi này phải trên nguyên tắc ngang giá.
Với bốn lý do trên, kinh tế thị trường ở nước ta là một tồn tại tất yếu. Đại hội
Đảng lần thứ IX khẳng định mô hình nền kinh tế ở nước ta trong thời kỳ quá độ là
nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản
lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Sự lựa chọn đó là xuất phát từ
những lợi ích của việc phát triển kinh tế - xã hội đem lại cho nước ta.

2. Thực tiễn về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam
Về mục tiêu của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: Phát triển lực
lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội, thực hiện dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. “Mục đích của nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa là phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để
xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân
dân”.

Đặc trưng về sở hữu: Trước đổi mới, nền kinh tế nước ta chỉ có một chế độ sở
hữu về tư liệu sản xuất là chế độ công hữu (gồm sở hữu toàn dân và sở hữu tập
thể). Từ khi tiến hành đổi mới đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam thừa nhận trên
thực tế có nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất, bao gồm cả công hữu và tư
hữu.

Đặc trưng về cơ cấu kinh tế: Là nền kinh tế có nhiều thành phần kinh tế, trong
đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, các thành phần kinh tế khác là bộ phận

10
hợp thành của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, kinh tế tư nhân
là một động lực quan trọng của nền kinh tế.

Đặc trưng về phân phối: Thực hiện phân phối theo kết quả lao động, hiệu quả
kinh tế, mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất, dựa trên các
nguyên tắc của cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, từ chỗ coi Nhà nước
là chủ thể quyết định phân phối chuyển dần sang xác định thị trường quyết định
phân phối lần đầu và Nhà nước thực hiện phân phối lại.

Về cơ chế vận hành của nền kinh tế: Kết hợp giữa cơ chế thị trường với vai trò
quản lý, điều hành của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm các mục
tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Tại Hội nghị Trung ương 6 khóa X, tháng 3-2008,
Đảng ta khẳng định, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam là nền kinh tế vừa tuân theo quy luật của thị trường, vừa chịu sự chi phối bởi
các quy luật kinh tế của chủ nghĩa xã hội và các yếu tố bảo đảm tính định hướng xã
hội chủ nghĩa. Đây cũng là nền kinh tế có tổ chức, có kế hoạch, đặt dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và sự quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vừa phát huy những ưu thế của
kinh tế thị trường và kinh tế kế hoạch, vừa loại bỏ những khuyết tật của hai nền
kinh tế đó, nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh.

Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phát huy tính tích cực, chủ
động, sáng tạo của nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội. Nhà nước quản lý
bằng chính sách, pháp luật, chiến lược, quy hoạch; sử dụng cơ chế thị trường để
giải phóng sức sản xuất. Nhà nước ban hành các văn bản quy phạm pháp luật nhằm
định hướng và tạo môi trường pháp lý cho sự phát triển các thành phần kinh tế và
các chủ thể kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
không phải thị trường điều tiết hoàn toàn mà còn có sự điều chỉnh, quản lý của Nhà
nước để đạt các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ, gắn phát
triển kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, khắc phục những bất cập,
khuyết tật của cơ chế thị trường.

Về phương tiện, công cụ, động lực của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, đó là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, thực hiện công
nghiệp hoá, hiện đại hoá. Kinh tế thị trường được Đảng, Nhà nước sử dụng như
một công cụ, phương tiện, một động lực để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cơ chế vận
hành của kinh tế thị trường là một cơ chế mở, bị điều tiết bởi các quy luật kinh tế
cơ bản: giá trị, cạnh tranh, cung cầu nên kinh tế thị trường tạo ra khả năng kết nối
hình thành chuỗi giá trị cho nền sản xuất toàn cầu.

11
2.1 Sự biểu hiện của lý luận sản xuất hàng hóa trong phát triển kinh tế thị
trường ở Việt Nam hiện nay
Nhìn lại trong hơn 30 năm đổi mới có thể thấy, lý luận về mô hình kinh tế đã
được đổi mới liên tục theo thời gian. Nhờ đó, đã tạo ra xung lực mới cho sự phát
triển và đã làm cho nền kinh tế của chúng ta từ nghèo khó từng bước được cải
thiện và khởi sắc đi lên. Cùng với việc vận dụng sáng tạo lý luận sản xuất hàng hóa
của C.Mác trong phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam,
cần quan tâm một số vấn đề sau:
Thứ nhất, quá trình đổi mới nhận thức về kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa diễn ra chậm, nhất là nhận thức về bản chất và nguyên tắc vận hành của
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nên đã tạo ra sự thiếu đồng bộ,
thiếu nhất quán trong quá trình hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường; do vậy những
tiềm lực để phát triển kinh tế còn hạn chế. Mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường
cần phải cải thiện rõ ràng.
Thứ hai, tăng trưởng kinh tế còn chậm, chưa bền vững, lực lượng sản xuất
nhiều số lượng lớn thiếu việc làm , năng suất lao động thấp, khả năng cạnh tranh
quốc tế chưa cao.
Thứ ba, việc phân bổ các nguồn lực lượng cho phát triển chưa đồng đều, lãng
phí, chưa công bằng, chưa đem lại hiệu quả cao; vấn đề phân hóa giàu nghèo, bất
bình đẳng xã hội , tệ nạn xã hội có chiều hướng gia tăng; đời sống vật chất và tinh
thần của một bộ phân dân cư, nhất là nông dân ở nông thôn, vùng quê vùng xa
chậm được cải thiện, ít được hưởng lợi từ thành quả tăng trưởng chung của nền
kinh tế.
Yếu tố vật chất được đề cao, yếu tố tinh thần, đạo đức có lúc, có nơi bị xem
nhẹ. Do vậy, đã xuất hiện những biểu hiện của chủ nghĩa vị kỷ, cá nhân, xem
thường khinh bỉ truyền thống đạo lý, tác động xấu tới đời sống xã hội.
Thứ tư, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam được định
hướng theo đuổi mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”;
huy động sức mạnh của mọi thành phần kinh tế cũng như của toàn xã hội cho tăng
trưởng kinh tế, từng bước nâng cao đời sống cho đại bộ phận nhân dân. Tuy nhiên,
việc thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế không phải bằng mọi giá, nóng vội mà
phải được cân nhắc tính toán cho phù hợp với điều kiện đất nước theo hướng phát
triển nhanh, hiệu quả mà bền vững; gắn mục tiêu tăng trưởng kinh tế với bảo đảm
độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, bảo vệ môi trường... Tăng trưởng kinh tế phải
gắn với tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển nhằm
đảo bảo công bằng về cơ hội phát triển cho mọi thành viên trong cộng đồng được
thụ hưởng lợi ích chính đáng, công bằng từ những kết quả lao động và cống hiến
xã hội của mình và “không một ai bị bỏ lại phía sau ”… Đại hội XIII của Đảng
nhấn mạnh: “Đổi mới mạnh mẽ và có hiệu quả mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền
kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên khoa học và công nghệ, góp
12
phần đổi mới sáng tạo và nguồn nhân lực chất lượng cao. Xây dựng, tập trung hoàn
thiện đồng bộ thế chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN đầy đủ,
hiện đại, hội nhập”. Chất lượng và tổ chức được nâng cao thực hiện hệ thống luật
pháp ngày càng phát triển, cơ chế, chính sách nhằm tạo lập môi trường đầu tư kinh
doanh thuận lợi, lành mạnh, công bằng, thúc đẩy đổi mới sáng tạo; huy động, quản
lý và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển, nhất là đất đai, tài chính;
đẩy mạnh phân cấp, phân quyền hợp lý, hiệu quả, đồng thời tăng cường kiểm tra,
giám sát, kiểm soát quyền lực bằng những biện pháp hữu hiệu”.
2.2 Những biện pháp vận dụng hiệu quả lý luận sản xuất hàng hóa của C. Mác
trong phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay
Hiện nay, trong giai đoạn phát triển kinh tế thị trường, Việt Nam đã thành
công khi áp dụng đúng đắn một số biện pháp được vận dụng hiệu quả từ lý luận
sản xuất hàng hóa của C. Mác. Nhờ đó mà nền kinh tế thị trường của Việt Nam đã
có những bước tiến đáng kể và đầy triển vọng.
Đầu tiên, phải nhắc đến đó là chúng ta đã thực hiện phân công lao động một cách
hiệu quả theo như một trong hai điều kiện tiên quyết là C. Mác đã đề ra. Theo như
C. Mác nhận định phân công lao động xã hội là biểu hiện của sự phát triển của lực
lượng sản xuất xã hội, C. Mác nói: “Trình độ phát triển lực lượng sản xuất của một
dân tộc bộc lộ rõ ràng nhất ở trình độ phát triển của sự phân công lao động”, và
cho rằng “phân công là hình thức cơ bản của nền sản xuất xã hội”, đồng thời cũng
là một hình thức cơ bản của nền sản xuất xã hội. Phân công lao động có tác dụng
mạnh mẽ đối với sản xuất, thúc đẩy kỹ thuật sản xuất phát triển, trước hết là thúc
đẩy sự cải tiến của công cụ sản xuất, nâng cao năng suất lao động. Ngoài ra, phân
công lao động XH góp phần tạo ra thị trường. Mặt khác, thị trường cũng làm cho
phân công lao động XH ngày càng sâu sắc hơn. Thị trường thúc đẩy sản xuất một
số mặt hàng và hạn chế sản xuất một số mặt hàng khác tùy theo không gian và thời
gian. Từ đó có thể kết luận phân công lao động là cơ sở của thị trường thông qua
hàng hóa. Việc phân công lao động hiệu quả có ý nghĩa to lớn với việc phát triển
kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay: Khi nghiên cứu vấn đề phân công lao động
xã hội là cơ sở tiền đề của thị trường sẽ thấy được sự khác biệt nhờ có phân công
lao động xã hội chắc chắn sẽ là bước ngoặt trong lịch sử phát triển ở nước ta giúp
phát triển nhanh chóng lực lượng sản xuất và nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội. Ưu
thế của nó là sẽ giúp ta thấy được sức mạnh của sự phân công lao động xã hội trên
cơ sở phát huy từng thế mạnh của từng cá nhân từng đơn vị từng khu vực trong
việc tạo nên giá trị thặng dư phát triển xã hội. Giúp cho nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần ở Việt Nam phát triển phù hợp lực lượng sản xuất xã hội cũng có nghĩa
là sản phẩm xã hội sẽ ngày càng phong phú đáp ứng với nhu cầu đa dạng của mỗi
người. Ý nghĩa này đã được vận dụng tốt vào nền kinh tế ở nước ta từ sau đổi mới
đến nay. Hiện tại, Việt Nam đã hình thành các vùng kinh tế phát triển các vùng
thâm canh, chuyên môn hóa... (đưa số liệu thống kê về lao động ngành nghề). So
13
sánh với bao cấp, cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu, bao cấp có những đặc
trưng chủ yếu Nhà nước quản lý kinh tế bằng vận mệnh hành chính là chủ yếu,
điều đó thể lệnh từ một trung tâm. Các cơ quan hành chính - kinh tế can thiệp quá
sâu vào hoạt động sản xuất kinh chất đối với các quyết định của mình. Bỏ qua quan
hệ hàng hoá tiền tệ và hiệu quả kinh tế, quản lý nền kinh tế và kế đồ hạch toán kinh
tế chỉ là hình thức. Chế độ bao cấp được thực hiện dưới các hình qua cấp phát vốn
của ngân sách, mà không ràng buộc vật chất đối với người được cấp phát vốn. (số
liệu về thời bao cấp).
Thứ hai, chúng ta đang thực hiện hoạt động thương mại quốc tế rất tích cực,
tức là việc trao đổi hàng hóa và dịch vụ (hàng hóa hữu hình và hàng hóa vô hình)
giữa các quốc gia, tuân theo nguyên tắc trao đổi ngang giá nhằm đưa lại lợi ích cho
các bên. Đối với phần lớn các nước, nó tương đương với một tỷ lệ lớn trong GDP.
Mặc dù thương mại quốc tế đã xuất hiện từ lâu trong lịch sử loài người, tầm quan
trọng kinh tế, xã hội và chính trị của nó mới được để ý đến một cách chi tiết trong
vài thế kỷ gần đây.
Thương mại quốc tế phát triển mạnh cùng với sự phát triển của công nghiệp hoá,
giao thông vận tải, toàn cầu hóa, công ty đa quốc gia và xu hướng thuê nhân lực
bên ngoài. Việt Nam hiện đang là một trong những nước trên thế giới tham gia
xuất khẩu nhiều mặt hàng quan trọng nhất, cả về gạo, cà phê, hạt tiêu, thủy sản và
gần đây là các mặt hàng nhân tạo như giày dép, hàng may mặc và điện tử. Xuất
khẩu quan trọng nhất, cả về các mặt hàng như gạo, cà phê, hạt tiêu, thủy sản và gần
đây là các mặt hàng nhân tạo như giày dép, hàng may mặc và điện tử. Hoạt động
thương mại quốc tế hiện nay của Việt Nam đã áp dụng đúng đắn điều kiện: Sự tách
biệt về mặt kinh tế của các chủ thể sản xuất mà C. Mác đã nêu ra trong lý luận về
sản xuất hàng hóa của mình.

14
LỜI KẾT THÚC

Đất nước ta đã trải qua hơn hai mươi năm trên chặng đường đổi mới dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Chúng ta mới chỉ bắt đầu phát triển một
nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, định hướng xã hội chủ nghĩa và vận động
theo cơ chế thị trường. Việt Nam khi chuyển nền kinh tế từ kế hoạch hóa tập trung
sang kinh tế thị trường đã hội tụ đủ những điều kiện ra đời của sản xuất hàng hóa.
Do đó, nhờ áp dụng lý luận về sản xuất hàng hóa và hàng hóa của C.Mác đã tạo cơ
hội cho sự hình thành và phát triển của nền kinh tế thị trường tại Việt Nam cho đến
ngày nay. Lý luận có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc phát triển kinh tế thị
trường ở Việt Nam hiện nay. Nó giải thích được bản chất của các thuộc tính hàng
hóa, sự phân biệt giữa yếu tố bản chất và hiện tượng liên quan đến trao đổi và mua
bán hàng hóa. Nó cũng là nền tảng để giải thích sự ngang bằng về giá trị trong trao
đổi. Lý luận giúp phân tích đầy đủ về bản chất của tế bào kinh tế trong chủ nghĩa
tư bản, bản chất của nó trong quá trình trao đổi mua bán. Riêng với nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nó là cơ sở lý luận để đòi hỏi đảm
bảo tính cạnh tranh, tính công bằng và hoàn thiện thể chế kinh tế, cải thiện vai trò
quản lý kinh tế của Nhà nước.
Sau một thời gian tìm hiểu, nghiên cứu, em đã hoàn thành bài nghiên cứu với
hy vọng giúp mọi người có một cái nhìn tổng thể về “ Lý luận sản xuất hàng hóa
của C.Mác và vận dụng vào phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay”.
Em xin chân thành cảm ơn !

15
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. PGS.TS Ngô Tuấn Nghĩa (2019).Giáo trình kinh tế chính trị Mác-Lênin (Dành
Cho bậc đại học - không chuyên lý luận chính trị), NXB Bộ giáo dục và đào
tạo,Hà Nội.
2. David Begg, Stanley Fischer, Rudiger Dornbusch, Kinh tế học, Nhà xuất bản
Giáo dục Hà Nội 1992, trang 71, 72, 74.
3. C.Mác-Ph. Ăngghen, Toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, 1993,H.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội toàn quốc lần thứ X, XI, XII,
NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội
5. https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/kinh-te/-/2018/823673/mot-so-
van-de-ly-luan-va-thuc-tien-ve-nen-kinh-te-thi-truong-dinh-huong-xa-hoi-chu-
nghia-o-viet-nam.aspx

16

You might also like